Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 49

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


KHOA ĐỊA LÝ - LỚP DU LỊCH


MÔN VĂN HÓA DU LỊCH

Đề tài:

QUẦN THỂ KIẾN TRÚC CỐ ĐÔ HUẾ

GVHD: ThS. Phạm Thị Thúy Nguyệt


Nhóm thực hiện: G6

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 10/2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

I. Khái quát về di sản ............................................................................................ 2

II. Đặc trưng của di sản .......................................................................................... 15

III. Thực trạng khai thác di sản phục vụ phát triển du lịch ....................................... 21

IV. Giải pháp bảo tồn và phát triển di sản phục vụ phát triển du lịch ....................... 28

V. Đánh giá, nhận xét ............................................................................................. 32

 Tài liệu tham khảo

 Phụ lục
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, diện tích 5.065,3 km2,
dân số 1.150.900 người (2007), phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng,
phía Tây giáp Lào, phía Đông giáp biển. Thành phố Huế là trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa của tỉnh. Về mặt lịch sử Huế chính là cố đô của Việt Nam trong thời kì
phong kiến từ 1802 đến 1945, dưới sự trị vì của 13 vị vua triều Nguyễn và đây cũng
là vùng đất anh hùng ghi dấu nhiều chiến công của cha ông ta trong suốt hai thời kì
kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Huế ngày nay không chỉ nổi tiếng
bởi sông Hương, núi Ngự, bởi con người hiền hòa, nhân hậu mà còn bởi nơi đây có tới
hai di sản được UNESCO công nhận là Di sản thế giới bao gồm Quần thể di tích cố đô
Huế (công nhận vào ngày 11/12/1993) và Nhã nhạc cung đình Huế (công nhận vào
ngày 7/11/2003).

Hình 1: Bản đồ hành chính tỉnh Thừa Thiên Huế


I. Khái quát về di sản

Di sản thế giới là di chỉ hay di tích của một quốc gia như rừng, dãy núi, hồ, sa
mạc, tòa nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố... do các nước có tham gia “Công ước
di sản thế giới” đề cử cho “Chương trình quốc tế di sản thế giới”, được công nhận và
quản lý bởi UNESCO. Chương trình quốc tế di sản thế giới có nhiệm vụ lập danh
mục, đặt tên và bảo tồn những vị trí nổi bật về văn hóa hay đặc điểm tự nhiên cho di
sản chung của nhân loại. Tính đến năm 2011, thế giới có tất cả 936 di sản được liệt kê,
trong đó có 725 di sản về văn hóa, 183 di sản về những khu thiên nhiên và 28 di sản
hỗn hợp. Các di sản trên thuộc 153 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Theo quy định của tổ chức UNESCO thì có 3 loại di sản bao gồm di sản thiên nhiên,
di sản văn hóa và di sản hỗn hợp. Di sản văn hóa bao gồm các di tích và di chỉ:

 Di tích: Các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc và hội họa, các yếu tố hay các
cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở trong hang đá và các công trình sự
kết hợp giữa công trình xây dựng tách biệt hay liên kết lại với nhau mà do kiến
trúc của chúng, do tính đồng nhất hoặc vị trí trong cảnh quan, có giá trị nổi bật
toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, nghệ thuật và khoa học.
 Di chỉ: Các tác phẩm do con người tạo nên hoặc các tác phẩm có sự kết hợp giữa
thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi
bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân chủng
học.

Quy định cũng nói rõ một di tích, một quần thể các công trình xây dựng hoặc một di
chỉ được xem là có giá trị nổi bật toàn cầu khi nó có thể đáp ứng ít nhất một trong 6
tiêu chuẩn dưới đây:

1. Là một kiệt tác về tài năng sáng tạo của con người.
2. Thể hiện một sự giao lưu quan trọng giữa các giá trị của nhân loại, trong một
khoảng thời gian hoặc trong phạm vi một vùng văn hoá của thế giới, về các bước phát
triển trong kiến trúc hoặc công nghệ, nghệ thuật tạo hình, quy hoạch đô thị hoặc thiết
kế cảnh quan.
3. Là một bằng chứng độc đáo hoặc ít nhất cũng là một bằng chứng ngoại hạng về
một truyền thống văn hoá hoặc một nền văn minh đang tồn tại hoặc đã biến mất.
4. Là một ví dụ nổi bật về một kiểu nhà hoặc một quần thể kiến trúc hoặc công
nghệ hoặc một cảnh quan minh hoạ cho một hay nhiều giai đoạn có ý nghĩa trong lịch
sử nhân loại.
5. Là một ví dụ nổi bật về một kiểu định cư truyền thống của con người hoặc một
phương pháp sử dụng đất truyền thống, đại diện cho một nền văn hoá (các nền văn
hoá), nhất là khi nó trở nên dễ bị tổn thương dưới tác động của những biến động
không thể đảo ngược được.
6. Gắn bó trực tiếp hoặc cụ thể với những sự kiện hoặc truyền thống sinh hoạt với
các ý tưởng, hoặc các tín ngưỡng, các tác phẩm văn học nghệ thuật có ý nghĩa nổi bật
toàn cầu.

Vào ngày 11/12/1993 tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới diễn
ra tại Colombia, Quần thể kiến trúc cô đô Huế đã vinh dự được UNESCO công nhận
là Di sản văn hóa thế giới thứ 410 trong danh sách các Di sản thế giới bởi đã đáp ứng
được tiêu chuẩn số 4:

 Tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, những kiệt tác do
bàn tay con người tạo dựng.
 Có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật kiến trúc trong
một kế hoạch phát triển đô thị hay một chương trình làm đẹp cảnh quan tại một
khu vực văn hoá của thế giới.
 Một quần thể kiến trúc tiêu biểu của một thời kỳ lịch sử quan trọng.
 Kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng hay tín
ngưỡng có ảnh hưởng lớn, hay với các danh nhân lịch sử.

Đây thực sự là một vinh dự to lớn bởi lần đầu tiên một di sản của Việt Nam đã
được chọn vào danh mục Di sản thế giới, khẳng định được tầm vóc và giá trị mang
tính toàn cầu của Quần thể di tích cố đô Huế. Trong biên bản họp lần thứ 17 của Uỷ
ban Di sản thế giới cũng có ghi rõ: “Quần thể di tích Huế là kinh đô của nước Việt
Nam thống nhất được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX. Nó kết hợp triết lí Đông phương
và truyền thống Việt Nam. Được hòa quyện vào môi trường thiên nhiên, vẻ đẹp với sự
phong phú đặc biệt của kiến trúc và trang trí ở các tòa nhà là một phản ánh độc đáo
của đế chế Việt Nam ngày xưa vào thời cực thịnh của nó”. Lời nhận định của Uỷ ban
Di sản thế giới không hề sai bởi Quần thể kiến trúc cố đô Huế thực sự là một kiệt tác
của nhân dân lao động phải trải qua biết bao thế hệ mới tạo thành.

Quần thể di tích Cố đô Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương, thuộc thành phố
Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Quần thể này được các vua
nhà Nguyễn cho xây dựng từ khoảng đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX bao gồm
hệ thống thành quách, cung điện, vườn cảnh, cầu, hồ, lăng, tẩm, nhà vườn, chùa
chiền… trên diện tích hơn 520ha, có 10 cửa thông ra bên ngoài. Các di tích này nằm
trong kinh thành và cả ngoài kinh thành.

Kinh thành Huế bao gồm ba vòng thành theo thứ tự từ ngoài vào trong: Phòng
thành, Hoàng thành và Tử cấm thành.
 Phòng thành

Phòng thành là vòng ngoài cùng, được vua Gia Long cho khảo sát vào năm
1803 và được xây dựng, hoàn thành dưới thời vua Minh Mạng (từ 1805 đến 1832).
Phòng thành có chức năng phòng thủ, bảo vệ Hoàng thành và Tử cấm thành ở bên
trong. Phòng thành có hình vuông chu vi 9.950m, diện tích khoảng 5 km2, thành dày
21m, có 24 pháo đài phục vụ cho việc chiến đấu, giết giặc khi đất nước bị xâm lăng.
Do có chức năng phòng thủ nên thiết kế của phòng thành rất đặc biệt có tới 13 cửa: 4
cửa tiền, 2 cửa tả, 2 cửa hữu, 2 cửa hậu, 1 cửa thông với thành Mang Cá, 1 cửa thông
với Đông thủy quan, 1 cửa thông với Tây thủy quan. Việc xây nhiều cửa như vậy sẽ
giúp thoát hiểm nhanh khi thành xảy ra biến. Xung quanh thành còn có một khoảng
đất rộng chừng 10m là phòng lộ, có chức năng giữ chắc móng thành, hào thành rộng
khoảng 50m có tác dụng cản bước quân giặc, thành gai để đi tuần và quan sát địch,
sông hộ thành dài khoảng 11km ngăn địch tấn công bằng đường thủy. Trên mặt tường
thành có các pháo đài, đồn canh, tường bắn…để canh gác, phòng thủ cũng như đối
phó với giặc khi có chiến tranh. Các di tích trong và ngoài phòng thành rất nhiều,
trong thành có thể kể đến như: Kỳ Đài, Trường Quốc Tử Giám, Điện Long An, Bảo
tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, Viện
Cơ Mật - Tam Tòa, Đàn Xã Tắc, Cửu vị thần công…
Phía ngoài Phòng thành còn có các di tích như: Phu Văn Lâu, Tòa Thương Bạc,
Trấn Bình Đài, Nghênh Lương Đình, Đàn Nam Giao, Văn Thánh, Võ Thánh, Hổ
Quyền, Trấn Hải Thành, Điện Voi Ré, Điện Hòn Chén, Chùa Thiên Mụ, Cung An
Định, Lăng tẩm của các vua triều Nguyễn…

o Chùa Thiên Mụ

Chùa Thiên Mụ là di tích nằm ngoài Phòng thành, chùa nằm ở đồi Hà Khê, tả
ngạn sông Hương, thuộc địa phận xã Hương Long. Được cho xây từ năm 1601, tên
chùa Thiên Mụ (bà Tiên trên trời) được xuất phát từ một câu chuyện dân gian. Tương
truyền rằng cứ đêm đêm trên đồi có một cụ bà mặc áo đỏ, quần lục xuất hiện và phán
rằng: “Rồi sẽ có chân chúa đến lập chùa ở đây để tụ khí cho bền Long mạch”. Sau đó,
chúa Nguyễn Hoàng có lần đi qua, nghe được câu chuyện này và đã cho xây dựng
chùa đặt tên là Thiên Mụ Tự.

Từ khi được xây dựng, chùa đã trải qua nhiều lần tu sửa và trùng tu. Năm 1710,
Chúa Nguyễn Phúc Chu cho đúc Đại Hồng Chung (chuông) cao 2,5m, đường kính
1,4m, nặng 3285 kg được xem là một trong những thành tựu đặc sắc của nghệ thuật
đúc đồng Việt Nam thế kỉ XVIII. Ngoài ra, ông còn cho xây dựng một tấm bia cao
2,58m đặt trên lưng rùa bằng cẩm thạch. Trong chùa còn có tháp Phước Duyên cao
21m do vua Thiệu Trị cho xây dựng vào 1844. Điện Đại Hùng nguy nga, tráng lệ là
chính điện trong chùa, có nhiều tượng phật lớn bằng đồng và bức hoành phi bằng gỗ
quý do chúa Nguyễn Phúc Chu đích thân đề tặng năm 1714. Trải qua thời gian chùa bị
hư hỏng nặng và phải tiến hành tu sửa nhiều lần cho đến nay nhưng Chùa Thiên Mụ
vẫn là một trong những điểm hấp dẫn du khách nhất của Huế.

o Văn miếu Huế

Được cho xây dựng từ 4/1808 đến 9/1808 thì hoàn thành, Văn miếu nằm tọa lạc
tại một vị thế rất đẹp: quay về hướng Nam, phía trước là sông Hương, phía sau là làng
mạc, núi đồi, xung quanh có xây tường bao bọc. Quốc Tử Giám được thành lập năm
1821 dưới thời vua Minh Mạng được xem là trường đại học duy nhất của Việt Nam
đặt tại kinh đô Huế thời nhà Nguyễn. Thời Vua Gia Long chỉ mở thi Hương mà không
có thi Hội nên chưa dựng được bia tiến sĩ ở Văn miếu, đến thời vua Minh Mạng mới
tổ chức thi Hội và bắt đầu dựng bia tiến sĩ ở Văn miếu khắc tên những người đã thi đỗ.

Hiện nay, do chiến tranh và thiên nhiên tác động mà ở Văn miếu chỉ còn lại 32
tấm bia lưu danh 293 vị tiến sĩ, đứng trên lưng rùa bằng đá cẩm thạch được dựng đối
diện nhau. Tuy không cao lớn bằng bia ở Văn Miếu Hà Nội nhưng bia ở Văn Miếu
Huế đều đặn và được trang trí khác hơn, chúng là những di tích rất có giá trị về mặt
văn hóa và lịch sử.

o Lăng tẩm của các vua triều Nguyễn

Tại Huế hiện nay có 7 cụm lăng tẩm thờ 9 vị vua: Thiên Thọ lăng (thờ vua Gia Long),
Hiếu lăng (thờ vua Minh Mạng), Xương lăng (thờ vua Thiệu Trị), Khiêm lăng (thờ
vua Tự Đức), Tư lăng (thờ vua Đồng Khánh), An lăng (thờ vua Dục Đức, Thành Thái
và Duy Tân), Ứng lăng (thờ vua Khải Định). Đây là những công trình kiến trúc dùng
để an táng thi hài và tưởng niệm các vị vua. Có những lăng tẩm được xây dựng khi vị
vua đó còn đang tại vị nên dựa vào địa thế, vật liệu xây dựng, kiến trúc của lăng mà
chúng ta có thể biết thêm nhiều điều về thị hiếu, sở thích, tính cách, quan niệm thẩm
mỹ… của vị vua đang nằm trong đó: Lăng vua Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng
giữa núi rừng trùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến
tướng từng trải trăm trận; lăng vua Minh Mạng uy nghi nằm giữa rừng núi hồ ao cho
thấy hình ảnh một chính trị gia có tài và một nhà thơ quy củ, trang nghiêm; lăng vua
Thiệu Trị thâm nghiêm, u uẩn giữ chốn đồng không quạnh quẽ thể hiện tâm sự của
một hồn thơ tài năng trên văn đàn nhưng lại không cai quản được chính sự; lăng vua
Tự Ðức thơ mộng trữ tình, phong cảnh nơi đây gợi cho du khách hình ảnh của một tao
nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩn, yếu ớt... Hầu hết các lăng này đều được xây dựng
rất công phu, tỉ mỉ gồm 2 phần là phần mộ (lăng) và phần thờ cúng, tưởng niệm (tẩm).

Các lăng tẩm này không chỉ mang dấu ấn cá nhân của các vị vua mà còn là biểu
hiện cho sự thịnh suy của triều chính và xã hội lúc bấy giờ. Đây thực sự là những di
sản, kiến trúc văn hóa quý giá còn được lưu lại cho hậu thế ngày nay.

o Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế

Bảo tàng này là nơi trưng bày các đồ vật bằng đồng, sành, sứ và một số đồ
dùng thường ngày của các vua chúa thời Nguyễn. Trước kia, Bảo tàng này nguyên là
Điện Long An nhưng do bị thực dân Pháp xâm chiếm nên điện bị phá hỏng, mãi cho
đến năm 1932 vua Khải Định mới dùng nó làm Bảo tàng Viện Khải Định mà ngày nay
là Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế. Đây cũng là một địa điểm thu hút được nhiều du
khách đến tham quan ở Huế.
 Hoàng thành:

Bên trong Phòng thành là Hoàng thành, là nơi bảo vệ các cung điện của triều
đình, các miếu thờ tổ tiên của triều Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành. Hoàng thành
cùng với Tử cấm thành hợp thành Đại nội. Hoàng thành là bức tường thành kiên cố
hình chữ nhật, hai mặt chính dài 622m, hai mặt bên dài 604m. Hoàng thành có 4 cửa
ra vào: cửa chính là Ngọ Môn nằm ở phía nam chỉ dành cho vua qua lại và đón tiếp
quốc khách, cửa Hiển Nhơn phía đông, cửa Chương Đức phía tây và cửa Hòa Bình
phía bắc. Mỗi cửa đều có một cây cầu gọi là Kim Thủy kiều bắt qua các hào nước.
Đây là một công trình kiến trúc hiếm hoi còn lại gần như nguyên vẹn đến bây giờ.

Các di tích trong Hoàng thành được chia làm nhiều khu:
 Khu đại lễ: gồm các di tích là Ngọ Môn, điện Thái Hòa và sân Đại Triều
 Khu thờ cúng: gồm Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái
Tổ Miếu và Điện Phụng Tiên.
 Khu dành riêng cho Hoàng Thái hậu và Thái Hoàng Thái hậu: Cung
Diên Thọ, Cung Trường Sinh.
 Khu học tập vui chơi cho các Hoàng Tử: Vườn Cơ Hạ, Điên Khâm Văn.
 Khu dành cho vua và hoàng thân quốc thích: Tử Cấm Thành

o Ngọ Môn:

Ngọ Môn là cửa chính ra ngoài Hoàng thành, nằm trước Điện Thái Hòa. Đây là
một công trình kiến trúc đẹp và bề thế bậc nhất của Hoàng thành, dài 58m, rộng
27,5m, cao 17m gồm 3 tầng chính. Tầng dưới cùng hay gọi là phần nền đài được xây
vững chắc bằng gạch và đá (đá ở Thanh Hóa, Quảng Nam, Quảng Ngãi), tầng này có
5 lối đi: lối chính là Ngọ Môn dành cho vua đi; hai bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp
Môn dành cho quan văn, quan võ; hai cánh bên là cửa Tả Dịch Môn và Hữu Dịch
Môn dành cho quân lính, tùy tùng hộ giá vua ra vào Hoàng thành. Hai lầu ở phía trên
được làm bằng gỗ và lợp ngói. Lầu giữa thường để trống chỉ dành cho vua ngự tọa vào
những dịp lễ quan trọng. Lầu trên dành cho Hoàng Thái Hậu, phi tần cung cấm. Hai
chữ “Ngọ Môn” được gắn trên ngách của cửa chính ngày xưa được dác vàng thật, cột,
kèo, cửa… đều được sơn son thếp vàng rực rỡ, ngói để lợp mái lầu ở giữa có màu
vàng dành cho vua chúa, các lầu khác lợp bằng màu xanh.

Ngọ Môn không chỉ là lối ra vào Hoàng Thành mà còn là nơi cho các vua dự
các buổi Khánh tiết để thần dân chiêm bái, tổ chức các lễ xướng danh người thi đỗ
trong các kì thi Hội, thi Đình trước khi đem yết bảng ở Phú Văn Lâu. Suốt thời nhà
Nguyễn chỉ khi nào vua qua lại hoặc tiếp đón sứ thần nước khác thì cửa Ngọ Môn mới
được mở. Do yếu tố thời gian và chiến tranh mà Ngọ Môn đã bị hư hại rất nhiều vì thế
nó cũng được tu sửa rất nhiều lần.

o Điện Thái Hòa và sân Đại Triều


Điện Thái Hòa được xây dựng từ năm 1805 dưới thời Vua Gia Long, năm 1806
Vua Gia Long chính thức tổ chức lễ đăng quang ở đây. Năm 1833 Vua Minh Mạng
cho xây dựng lại theo kiến trúc chung của các cung điện, miếu tẩm ở cung đình Huế
thế kỉ XIX. Mặt bằng kiến trúc của điện khoảng 1.300m2, tòa điện dài 43,3m, rộng
30,3m, điện được xây theo kiểu “trùng thiềm điệp ốc” tức là mái chồng lên nhau, nhà
nối liền nhau. Điện gồm hai nhà ghép lại, nhà trước là tiền điện, nhà sau là chính điện
– là nơi đặt ngai vàng của vua, hai nhà này cùng chung một mặt nền. Đây được xem là
trung tâm quan trọng nhất của kinh thành, là nơi tổ chức các buổi lễ đại triều, vua sẽ
ngồi trên ngai ở gian trung tâm nghe rõ được các quần thần trình tấu, các quần thần
cũng có thể nghe rõ lời vua ban. Ngoài ra, đây còn là nơi tổ chức dịp lễ lớn của triều
đình như lễ lên ngôi, lễ phong tước vị, lễ Vạn Thọ… Mỗi tháng hai lần sẽ có thiết đại
triều ở điện Thái Hòa, lễ thường triều tổ chức ở điện Cần Chánh. Những buổi thiết đại
triều thường tổ chức rất sớm, phải hoàn tất trước khi mặt trời mọc.

Trước điện có sân tên là Đại Triều Nghi, được lát đá, chia làm hai cấp: cấp trên
dành cho quan văn, quan võ, hàng Tam phẩm đến Nhất phẩm, cấp dưới dành cho các
hương lão kì cựu đến chầu triều trong dịp Khánh Tiết (dịp lễ mừng). Ở hai góc sân có
hai con kì lân được đúc bằng đồng, thiếp vàng, để trong hòm kính. Hai con kì lân này
được xem là tượng trưng cho sự thái bình, sự uy nghiêm của triều đình.

o Khu thờ cúng

Đây là khu bao gồm các miếu thờ cúng các vua chúa triều Nguyễn. Trong
Hoàng thành có 5 ngôi miếu thờ:

 Triệu miếu: Thờ Nguyễn Kim - được coi là người mở đầu cho triều đại
nhà Nguyễn. Miếu được xây dựng vào năm 1804 dưới thời Vua Gia Long.
Miếu này nằm ở phía bắc của Thái miếu.
 Thái miếu: Thờ 9 chúa Nguyễn gồm: Chúa Nguyễn Hoàng, Nguyễn
Phúc Nguyên, Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái,
Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Chú, Nguyễn Phúc Khoát và Chúa Nguyễn
Phúc Thuần. Miếu được xây dựng vào 1804 đời Vua Gia Long thứ 3 và đã trải
qua nhiều lần tu bổ. Miếu nằm ở góc Đông Nam, đối xứng với Thế miếu ở phía
Tây Nam.
 Hưng miếu: Thờ song thân của Vua Gia Long (Thế tử Nguyễn Phúc
Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn), được xây dựng vào năm 1821 đời Minh Mạng
thứ 2. Tiếc rằng vào năm 1947 Hưng miếu đã bị đốt cháy, đến năm 1951 mới
được làm lại nhưng vẻ đẹp và giá trị không còn được như xưa nữa. Hiện miếu
nằm phía Tây Nam Hoàng thành.
 Thế miếu: Thờ các vua nhà Nguyễn. Đây được xem là miếu quan trọng
hơn cả trong Hoàng thành. Dưới triều Vua Minh Mạng đã cho đúc 9 cửu đỉnh
bằng đồng đỏ tiêu biểu cho một triều vua, mỗi đỉnh mang một tên: Cao đỉnh
(vua Gia Long), Nhân đỉnh (vua Minh Mạng), Chương đỉnh (vua Thiệu Trị),
Anh đỉnh (vua Tự Đức), Nghị đỉnh (vua Kiến Phúc), Thuần đỉnh (vua Đồng
Khánh), Tuyên đỉnh (vua Khải Định), Dụ đỉnh, Huyền đỉnh. Chín cái đỉnh này
xếp thành một hàng, đỉnh nào cao hơn, nặng hơn thì đặt ngay chính giữa, các
đỉnh này có đều có hình dáng to lớn, vững chắc biểu hiện cho sự bền vững của
các triều đại. Lớn nhất là Cao đỉnh (cao 2,5m, nặng 2.601 kg), nhỏ nhất là
Huyền đỉnh (cao 2,31m, nặng 1.935 kg). Trên thân mỗi đỉnh có trang trí 17 họa
tiết, tạo thành 153 hình về phong cảnh, hoa lá, sản vật và cả cảnh sinh hoạt của
người Việt Nam.

Chín đỉnh này được cho xây dựng trong vòng ba năm từ 1835 – 1837, sử
dụng đến 30 tấn đồng. Đây là một trong những thành tựu xuất sắc nhất đại diện
cho kĩ thuật và nghệ thuật đúc đồng ở Việt Nam ở thế kỉ XIX, được xem là một
bộ bách khoa toàn thư tóm tắt về đất nước và con người Việt Nam. So với các
miếu, điện ở Việt Nam Thế miếu là một công trình đồ sộ và to lớn bật nhất và
cũng là công trình hiếm hoi còn được nguyên vẹn.

o Điện Phụng Tiên

Điện này cũng thờ các vua nhà Nguyễn nhưng chỉ dành cho các bà ở nội
cung lui tới vì họ là phụ nữ không được phép vào Thế miếu. Trong sân điện Phụng
Tiên có trồng một giống vải rất quý, tương truyền là từ Trung Quốc đưa sang lấy
tên là vải Phụng Tiên.

 Tử Cấm Thành

Tử Cấm Thành là nơi làm việc, ăn ở, sinh hoạt của vua và hoàng gia. Đây là
vòng thành nhỏ nhất nằm phía trong cùng của kinh thành Huế. Vòng thành này có
hình chữ nhật, tường gạch bao quanh cao 3,72m, dày 0,72m, dài 324m, rộng 290m.
Tử Cấm Thành có tổng cộng 10 cửa:

 Chính giữa hướng nam: Cửa Đại Cung Môn thông với Hoàng thành ở
mặt trước. Đây là cửa lớn nhất, nguy nga và đồ sộ nhất, được xây dựng năm
1833 dưới thời Vua Minh Mạng thứ 14.
 Hướng bắc: gồm 3 cửa Tường Loan, Nghi Phụng, Văn Phòng.
 Hướng đông: gồm 4 cửa Đông An, Cẩm Uyển, Hưng Khánh, Duyệt Thị.
 Hướng tây: gồm 2 cửa Gia Tường, Tây An.

Trong Tử Cấm thành có khoảng 40 di tích lớn nhỏ nhưng ngày nay hầu như
không còn. Có thể kể đến các di tích như: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc Đồng, Điện Kiến
Trung, Điện Cần Chánh, Điện Càn Thanh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường, Thượng
Thiện…

o Điện Cần Chánh

Được xây dựng vào năm 1804 đời Vua Gia Long thứ ba, sau đó được các đời
vua sau cho tu sửa, sơn son thếp vàng và trang trí thêm nhiều cổ vật. Điện được lợp
bằng ngói màu vàng (ngói Hoàng lưu ly), trong điện thiết kế đơn giản chỉ có ngai vàng
của vua và một cái bàn để trà thuốc. Hai bên điện Cần Chánh có Tả Vu và Hữu Vu là
nơi các quan chờ đợi, sửa sang trang phục trước khi thiết triều. Trước điện Cần Chánh
có hai Vạc đồng kích thước khá lớn được đúc vào năm 1660 và 1662 thời Chúa
Nguyễn Phúc Tần. Mỗi Vạc đồng nặng khoảng 1.515,5kg; có dạng hình trụ, miệng
loe, trên miệng có 4 quai xoắn hình bán nguyệt, dưới đáy là 6 chân quì. Trên mỗi Vạc
đồng có trang trí bằng những họa tiết nổi hình hoa lá, chim muông. Đây được xem là
những di sản quý thuộc loại cổ nhất của nghệ thuật đúc đồng Huế nên có ý nghĩa lớn
cả về mặt nghệ thuật lẫn lịch sử. Đáng tiếc hiện nay điện không còn nữa do chiến
tranh tàn phá vào năm 1947.

o Duyệt Thị Đường

Là nơi vua nghe hát, được xây dựng vào năm 1826 thời vua Minh Mạng. Nhà
hát này có nền hình chữ nhật, mái cong dạng đình chùa, có nhiều cột lim sơn son
chống đỡ. Trên mỗi cột và trần nhà đều trang trí bằng các họa tiết như phong cảnh,
mặt trăng, mặt trời… Kiến trúc bên trong của Duyệt Thị Đường cũng rất đặc sắc: giữa
sàn nhà là một sân khấu hình vuông, hai bên có hai cửa để cho các diễn viên đi lại,
phía sau là một phòng đựng các đạo cụ biểu diễn. Có một đài cao được chia làm hai
bậc: bậc thấp dành cho vua ngồi xem hát, bậc cao dành cho các bà hoàng và cung tần
mỹ nữ. Giữa sân khấu và đài cao này được ngăn bằng một lớp sáo trúc thưa làm cho
người ngồi bên trong nhìn rõ người đang diễn hát ở bên ngoài, nhưng người bên ngoài
thì không thể nhìn thấy được người bên trong. Gần vị trí vua ngồi có đặt vài bộ bàn
ghế dành cho quốc khách của triều đình.

Duyệt Thị Đường được xem là nhà hát cổ xưa nhất còn lại của ngành sân khấu
Việt Nam thể hiện lối kiến trúc hài hòa, mang đậm tính dân tộc, không gian bên trong
yên tĩnh, mát mẻ góp phần làm nên sự thành công cho các buổi biểu diễn thời xưa.

II. Đặc trưng của di sản.

Quần thể kiến trúc cố đô Huế được xem là một công trình kiến trúc đặc sắc của
Việt Nam vào thế kỉ XIX. Đây không chỉ là niềm tự hào của người dân Huế mà còn là
của người dân cả nước. Như đã miêu tả ở trên, quần thể là tập hợp của rất nhiều di tích
cả trong và ngoài thành, được xây dựng vào nhiều đời vua nên có những điểm khác
nhau. Tuy vậy kiến trúc của những di tích này vẫn có những đặc trưng:

1. Mang đậm tính lịch sử, là công trình kiến trúc đại diện cho thời kỳ phong
kiến nhà Nguyễn.

Kinh thành Huế được xây dựng trong một thời gian khá dài từ năm 1803 đến
1832, kéo dài từ thời vua Gia Long đến vua Minh Mạng. Các di tích nằm trong và
ngoài Kinh thành được xây dựng trong suốt thời kì trị vì của các vua chúa nhà Nguyễn
nên có thể nói quần thể di tích Cố đô huế là một công trình mang đậm tính lịch sử, đại
diện cho một thời kì lịch sử của dân tộc. Với mỗi đời vua thì lại có thêm những công
trình mới được xây dựng ghi dấu những sự kiện lịch sử, thể hiện quan niệm về thẩm
mĩ, thị hiếu của từng vua.

Có nhiều di tích được xem như một cuốn sách viết về lịch sử của các triều đại
nhà Nguyễn, cách tổ chức nhà nước, cách vua cai quản đất nước, các phong cảnh, nếp
sinh hoạt của con người đều được thể hiện trên các di tích (ví dụ như Cửu đỉnh). Khu
Quần thể di tích cố đô Huế được xem là nơi lưu giữ rất nhiều giá trị văn hóa mang tính
chất cung đình thời xưa. Đây còn là nơi an nghỉ cuối cùng của các vua triều Nguyễn,
các lăng tẩm ở đây có tổng cộng bảy khu, thờ cúng 9 vị vua, kiến trúc rất đa dạng.
Cũng bởi tính lịch sử mà công trình này luôn được xem là bức tranh thu nhỏ của thời
đại nhà Nguyễn, nhìn vào nó ta có thể hiểu được cả một giai đoạn lịch sử dài của cả
dân tộc.

2. Là sản phẩm kết tinh tài năng và trí tuệ của con người Việt Nam.

Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, công trình xây dựng Kinh Thành Huế có
lẽ là công trình đồ sộ, quy mô nhất với hàng vạn lượt người tham gia thi công, hàng
triệu mét khối đất đá, với một khối lượng công việc khổng lồ đào hào, lấp sông, di
dân, dời mộ, đắp thành... kéo dài từ thời điểm tiến hành khảo sát năm 1803 đến khi
hoàn chỉnh vào năm 1832. Công trình là kết quả lao động và sáng tạo tuyệt vời của
cha ông ta. Khi mà thời đại máy móc, dụng cụ chưa có nhiều, phải vận động sức
người là chính nên việc xây dựng mất rất nhiều thời gian, công sức thậm chí là máu
của không biết bao nhiêu người. Nói vậy để thấy muốn tạo ra một công trình đặc sắc
như vậy không phải là việc đơn giản, nó là kết quả của một quá trình lao động và sáng
tạo không biết mệt mỏi của dân tộc ta. Những thế hệ ngày hôm nay khi đến tham quan
đều rất khâm phục tính sáng tạo và sự tỉ mỉ trong từng chi tiết trang trí nhỏ của những
thợ xây dựng xưa kia để tạo nên một công trình được cả thế giới công nhận như vậy.
Điều đặc biệt là chúng ta đã biết cách tạo ra những kiểu dáng kiến trúc độc đáo, phù
hợp với điều kiện sống. Do là vùng sông nước nên hình ảnh chiếc thuyền ăn sâu vào
tâm thức của người Việt Nam, đó cũng là lí do vì sao nhiều ngôi nhà có mái cong vút
lên hình một chiếc thuyền. Kiến trúc mái cong mô phỏng hình thuyền, nhiều người
cho rằng mái cong này là vay mượn từ kiến trúc Trung Hoa nhưng thật ra là ngược lại.
Ngay từ thời Đông Sơn, lúc mà Việt Nam ta chưa hề có sự giao lưu với văn hóa Trung
Hoa thì đã có kiến trúc kiểu mái cong rồi. So với các ngôi nhà bình thường thì kiến
trúc ở kinh thành Huế làm mái cong cầu kì hơn, độ cong lớn,vút lên như một con
thuyền rẽ sóng lướt tới, tạo dáng vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho
công trình. Ngoài độ cong thì mái còn có một độ dốc lớn giúp thoát nước nhanh, tránh
dột, tránh hư mục mái nhất là trong điều kiện mưa nhiều ở Huế. Đây thực sự là một
sáng tạo của cư dân người Việt và còn sáng tạo hơn khi họ đã biết ứng dụng vào việc
xây dựng một công trình dành cho vua chúa như vậy.
3. Kiến trúc mang đậm tính cung đình, quý tộc, thể hiện rõ tư tưởng độc tôn
chuyên quyền của các vua chúa triều Nguyễn.

Ngày xưa kinh thành Huế do các vua ra lệnh xây dựng và nó cũng là nơi chỉ
dành cho vua chúa và các quan nên kiến trúc của nó mang đậm tính chất cung đình,
quý tộc đồng thời thể hiện rõ tư tưởng độc tôn chuyên quyền của vua. Điều này thể
hiện rất rõ qua lối kiến trúc ba vòng thành Phòng thành, Hoàng thành, Tử cấm thành
lớn ngoài nhỏ trong quy về trung tâm Tử cấm thành cũng như quyền lực tập trung
hoàn toàn vào tay vua, vua là “Thiên tử” có quyền lực tối cao, là người nắm quyền
triều chính “Vua xử thần tử, thần bất tử bất trung”.

Kiến trúc xây luôn tuân theo nguyên tắc “chính ở giữa, phụ hai bên” nên cổng
chính luôn là cổng dành cho vua đi, cung điện có màu vàng là chủ yếu. Theo quan
niệm thì màu vàng chính là màu của người, của trung tâm đất trời, là màu chỉ dành
riêng cho bậc thiên tử. Các trụ cột trong cung cũng được sơn son thếp vàng rực rỡ thể
hiện sự tôn nghiêm cao quý của chốn cung đình. Ngói dùng để lợp là ngói Hoàng lưu
ly, có màu vàng rực rỡ. Kinh thành có ba vòng thành và có sự phân chia rõ rệt khu nào
của vua, khu nào của cung tần mĩ nữ, khu nào dành cho quan lại hay khu nào thì binh
lính được lui tới, bất kì sự đi lại nào không được phép sẽ bị xử rất nặng. Nơi dành cho
vua chúa luôn yên lặng tuyệt đối, không khí rất tôn nghiêm. Kinh thành được bao bọc
bởi Phòng thành rất vững chắc và cấm mọi thường dân vào. Đặc biệt là Tử Cấm
thành, nơi chỉ dành riêng cho vua, Tử Cấm Thành có thể hiểu là Thành cấm màu tím
(Tử: màu tím, theo nghĩa thần thoại) nhưng cũng được hiểu theo nghĩa là Thành cấm
dân thường vào, nếu vào sẽ bị xử tội chết. Trong các ngôi điện, ngai vàng hay chỗ của
vua đều phải cao, ở trung tâm để vua có thể dễ dàng quan sát mọi quan lại của mình,
toàn thể quan lại đều phải hướng về một phía chính là Hoàng thượng.

4. Kế thừa và phát triển nét đặc sắc kiến trúc của các triều đại trước Lý, Trần,
Lê.

Như một lẽ thường là các thành tựu của đời sau đều có sự kế thừa và tiếp thu
các nét đặc sắc của thời đại trước. Kiến trúc của quần thể di tích cố đô Huế cũng đã
chịu ảnh hưởng từ phong cách kiến trúc của nhà Lý, Trần, Lê trước đó. Dù có tiếp thu
nhưng vẫn có sự cách tân, đổi mới và chọn lọc vì thế mà các công trình di tích này vẫn
mang màu sắc kiến trúc thời Nguyễn là chủ yếu. Chúng ta có thể nhận thấy sự kế thừa
cũng như đổi mới đó qua sự bố trí quần thể kiến trúc cung điện, nghệ thuật điêu khắc,
chạm khắc đặc biệt là hình tượng trang trí phổ biến trong các cung điện bấy giờ: Rồng.

Rồng của thời Lý không có sừng, vảy lưng có hình tia lửa nhỏ, đều, xếp dày sát
nhau, thân dài, thon, nhiều uốn khúc. Sang đến thời Trần con Rồng này sừng đa dạng
hơn, vây dài, rộng, thân có phần dài hơn, mập hơn. Đến thời Nguyễn con Rồng này đã
có nhiều cách tân trên cơ sở hình tượng Rồng thời trước. Con Rồng này chỉ có một
kiểu sừng ổn định là sừng thon dài, hơi cong, vây lưng đều, dài, mảnh, dáng uốn lượn
nhưng khá rắn chắc. Ngoài ra còn rất nhiều công trình mà ta dễ dàng nhận ra ảnh
hưởng từ kiến trúc các triều đại trước, tuy vậy nét kiến trúc triều Nguyễn vẫn là nổi
bật nhất.

Ngoài ra, kiến trúc của các di tích trên còn chịu ảnh hưởng của lối kiến trúc
Trung Hoa nhưng đã được Việt Hóa thể hiện trong cách trang trí, lối kiến trúc cổ, cách
sơn màu…

5. Có sự tổng hòa của kiến trúc Đông – Tây.

Không chỉ kế thừa và phát triển các thành tựu về kiến trúc của các triều đại trước,
Quần thể di tích cố đô Huế còn là sự tổng hòa của kiến trúc phương Đông và Phương
Tây, đặc biệt là kiến trúc Pháp. Dễ nhận thấy là vòng ngoài cùng Phòng thành. Phòng
thành ngoài việc được xây dựng theo nguyên tắc địa lý phong thủy phương Đông,
thuyết âm dương ngũ hành của Dịch học thì còn chịu ảnh hưởng của kiến trúc quân sự
Vauban. Vauban là tên một nhà kiến trúc sư người Pháp cuối thế kỉ XVII, đây là kiểu
xây thành rất kiên cố, trên thành sẽ tạo thành những đường dích dắc, gồm hệ thống các
lũy, pháo đài, tường bắn, phản pháo, hào…Đây là một loại thành lũy được áp dụng ở
nhiều địa phương nước Pháp và các nước lân cận. Tường thành được xây kiên cố như
vậy không chỉ thể hiện được uy quyền và sức mạnh của quân đội mà cả sự phồn thịnh,
no đủ của đất nước. Le Rey, một thuyền trưởng người Pháp đã từng đến Huế năm
1819 phải thốt lên: “Kinh Thành Huế thực sự là pháo đài đẹp nhất, đăng đối nhất ở
Đông Dương, thậm chí so với cả pháo đài William ở Calcutta và Saint Georges ở
Madras do người Anh xây dựng”.

Đặc biệt càng về sau khi mà mưu đồ xâm lược nước ta của thực dân Pháp càng
lộ rõ, chiến tranh leo thang thì những công trình di tích xây trong thời này càng thể
hiện yếu tố Tây phương rõ nét. Các công trình di tích do vua Thiệu Trị, Minh Mạng,
Tự Đức cho xây dựng đều đại diện cho tinh thần Đông – Tây dung hợp. Có thể kể đến
ở đây một ví dụ cụ thể là lăng vua Khải Định. Nhìn tổng thể thì lăng nằm ở thế có núi
ở đằng sau, suối nước ở trước, âm dương hòa hợp theo quan niệm phong thủy cổ
truyền nhưng lại có xu hướng đặt cao kiểu phương Tây chứ không theo kiểu thấp
truyền thống. Kiến trúc lăng vẫn chia thành từng khu rõ ràng liên tiếp nhau nhưng lại
không trải theo bề rộng để hòa mình với thiên nhiên như lăng vua Tự Đức, Minh
Mạng mà lại gói trọn trong một khu được nối với nhau bằng một hệ thống bậc tam cấp
gồm hơn trăm bậc thang. Vật liệu xây dựng lăng ngoài gỗ như truyền thống thì còn có
bê tông cốt thép, cột thu lôi, đèn điện…với kĩ thuật xây hiện đại, tạo nên một công
trình kiến trúc rất bề thế. Xét về trang trí nội thất thì có sự kết hợp rất hài hòa giữa
Tam giáo (Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo) và phương Tây. Các vật dụng đại diện cho
văn minh phương Tây như đồng hồ, vợt tennis, rượu sâm banh, kính lúp, hộp đựng
thuốc lá…

6. Được xây dựng theo nguyên tắc địa lí phong thủy của phương Đông và
thuyết Âm Dương – Ngũ Hành của Dịch học, gần gũi với thiên nhiên.

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Ngọc Thêm thì nghề phong thủy bắt nguồn từ
nhu cầu chọn đất để làm nhà, đặt mộ của người dân nông nghiệp sống định cư và kinh
nghiệm lao động phong phú của người nông dân.“Phong” và “thủy” chính là hai yếu
tố quan trọng nhất tạo nên khí hậu cho một công trình bất kì. Phong là gió, động hơn
nên thuộc dương, không có gió thì không tốt nhưng gió nhiều cũng hỏng. Thủy là
nước, tĩnh hơn nên thuộc âm, nước đọng thì không tốt nhưng nước chảy mạnh quá
cũng không được, chỉ có nước chảy từ từ (âm dương điều hòa) mới thuận lợi. Các
kinh đô xưa của nước ta đều xây theo con mắt phong thủy như thành Đại La, thành
Thăng Long và Kinh thành Huế cũng không phải là một ngoại lệ.
Kinh thành Huế nằm ở miền Trung – trung tâm của đất nước, nhìn rộng thì có
biển ở phía trước, núi ở phía sau; nhìn hẹp thì trước có núi Ngự Bình, sông Hương
lững lờ bao quanh. Trên sông Hương có hai cồn đất chầu vào là cồn Dã Viên ở bên
phải được xem là Bạch hổ, cồn Hến ở bên trái lớn hơn là Thanh Long (vật biểu trong
Ngũ hành). Kinh thành Huế đóng vai trò là trung tâm, là minh đường. Vì địa thế có
núi, có sông, âm dương hòa hợp tạo ra một môi trường thiên nhiên trong lành thoáng
mát, tạo điều kiện để xây dựng non sông vững bền. Một ứng dụng khác của phong
thủy trong kiến trúc ở Huế chính là việc hướng của Kinh thành cũng như hầu hết các
di tích đều là hướng Nam “Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam”. Vì khi xây về hướng
Nam Kinh thành Huế sẽ tránh được cái nóng từ phía Tây, bão từ phía Đông, gió mùa
mùa Đông từ phương Bắc và hơn hết là đón được gió nồm thổi từ phía Nam , tạo
không khí mát mẻ vào mùa hè. Đối với các dân tộc phương Đông thì phía Bắc chính là
nơi ở của quỷ thần, không may mắn. Dựa trên các nguyên tắc của thuật phong thủy,
các vua nhà Nguyễn còn hợp các yếu tố có sẵn trong tự nhiên như sông, núi, đảo, hồ...
cùng với bàn tay của con người đã cho tiến hành lấp một số đoạn của sông Bạch Yến
và sông Kim Long, đồng thời đào một loạt hệ thống sông, hào ở trong và ngoài Kinh
thành để phục vụ cho mục đích xây dựng của mình.

Kiến trúc của các khu di tích ngoài tuân theo quy luật phong thủy thì còn chịu
ảnh hưởng của triết lí Âm dương – Ngũ hành trong Dịch học. Không có gì là hoàn
toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong âm có dương và trong dương có âm, chúng luôn
gắn bó mật thiết, chuyển hóa cho nhau. Từ âm dương đến tam tài (Thiên – Địa –
Nhân) và từ tam tài đi đến ngũ hành (Thủy – Hỏa – Mộc – Kim – Thổ).

Đầu tiên đó là ba tòa thành Phòng Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành
được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc đã thể hiện
được nguyên tắc coi trọng số lẻ của truyền thống văn hóa nông nghiệp – tam tài.
Hoàng Thành có trên dưới 100 tòa nhà lớn nhỏ được sắp xếp theo kiểu bàn cờ tuân
theo nguyên tắc “tả nam hữu nữ; tả văn hữu võ; tả trước hữu sau”; “chính ở giữa, phụ
ở hai bên”. Cụ thể như cửa Ngọ Môn vào Hoàng Thành là cửa chính chỉ dành riêng
cho vua đi, còn “phía hữu” là cửa Chương Đức dành riêng cho các bà và cung tần mỹ
nữ. Các công trình chính luôn được nằm ở giữa như Điện Thái Hòa, Đại Cung Môn là
những nơi diễn ra các hoạt động quan trọng của triều đình, còn các công trình phụ như
Cung Diên Thọ, Cung Trường Sinh, Thái Miếu, Triệu Miếu…nằm ở hai bên. Đặc biệt,
Cổng Ngọ môn có dạng hình chữ U, nhìn chính diện có 3 cửa, thêm 2 cửa phụ nữa là
5 tượng trưng cho ngũ hành, trên nóc có 9 nhóm mái cũng thể hiện văn hóa coi trọng
số lẻ của người Việt “Ngọ Môn 5 cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp, Phú Văn Lâu 2 lầu”. Lầu
Ngũ Phụng nằm ở giữa có 100 cây cột đối xứng nhau, 100 là tổng số của hà đồ và lạc
thư thể hiện sự cân bằng âm dương. Các công trình hầu như đều được sơn son thếp
vàng không thì trang trí màu vàng vừa thể hiện quyền uy của vua chúa đồng thời màu
vàng cũng là màu trung tâm, hành thổ, đại diện cho con người trong ngũ hành. Sự kết
hợp phong thủy, âm dương, ngũ hành đã khiến các khu di tích cả trong và ngoài Kinh
thành Huế không những không bị mất đi tính tôn nghiêm của chốn cung cấm mà lại
rất gần gũi với thiên nhiên, nhiều cây cối, tạo không khí thoáng đãng, thư thái và trong
lành.

III. Thực trạng khai thác di sản phục vụ cho phát triển du lịch.

Với một quần thể kiến trúc đồ sộ như trên cộng với bề dày văn hóa lịch sử, Huế
thật sự có những lợi thế lớn để khai thác và phát triển du lịch. Trên thực tế Huế thực
sự đã trở thành một điểm đến du lịch lý tưởng không chỉ của miền Trung mà là cả
nước. Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế, trung bình hằng
năm Huế thu hút từ 1,5 đến 2 triệu lượt khách, 45% trong số đó là khách nước ngoài
(phần lớn là khách đến từ Thái Lan, Pháp, Úc, Nhật Bản, Hà Lan…). Du lịch, dịch vụ
đã đóng góp 45% vào GDP của địa phương (Nguồn: cinet.vn). Đặc biệt du lịch Di sản
Huế đã có những bước tiến dài kể từ khi Quần thể di tích cố đô Huế và Nhã nhạc cung
đình Huế đươc UNESCO công nhận là Di sản của thế giới. Từ năm 1996-2005, trung
bình mỗi năm các di tích ở Huế đón hơn 1,5 triệu lượt khách tham quan tạo được
nguồn thu trên 270 tỷ đồng. Riêng 10 tháng năm 2006 đã đạt doanh thu 50 tỷ đồng
(Nguồn: www.daibieunhandan.vn).

So với các công trình khác thì Quần thể di tích cố đô Huế đã được khai thác
khá nhiều để phục vụ cho phát triển du lịch. Nếu xưa kia Kinh thành chỉ là nơi dành
cho vua chúa, dân thường tuyệt đối không thể vào thì ngày nay Kinh thành Huế mở
cửa để đón du khách đến tham quan, tìm hiểu. Đến với di tích du khách sẽ được đi
tham quan, nghe giới thiệu về lịch sử cũng như kiến trúc của các di tích. Nghe để hiểu
về một thời kì lịch sử của dân tộc-thời kì phong kiến nhà Nguyễn. Ngoài Kinh thành
Huế, thì còn có rất nhiều di tích trong và ngoài thành, mỗi di tích được xây vào những
thời điểm có thể khác nhau phục vụ cho mục đích của các vua, tất cả đều có kiến trúc
rất đặc sắc và có giá trị lịch sử rất lớn. Ngoài việc vào tham quan trực tiếp thì du
khách cũng có thể sử dụng dịch vụ chèo thuyền trên sông Hương ngắm nhìn toàn cảnh
Kinh thành. Dòng sông êm dịu hiền hòa cộng với khung cảnh đồ sộ của cố đô, con
người và thiên nhiên hài hòa khiến ta có cảm giác thật thanh thản, thư thái. Ngoài ra
du bằng thuyền khách còn được đến thăm chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, lăng Minh
Mạng…những di tích không nằm trong khu vực Kinh thành Huế. Như vậy du khách
có thể yên tâm và thỏa mãn vì không bỏ sót việc tham quan bất kì di tích nào trong
toàn bộ quần thể.

Không chỉ khai thác lợi thế về kiến trúc để phát triển du lịch mà Huế còn biết
cách lồng ghép các lễ hội vào du lịch ở Kinh thành Huế. Đầu tiên có thể kể đến là
Festival Huế được tổ chức hai năm một lần vào các năm chẵn. Từ cuối năm 1998, đầu
năm 1999 tỉnh Thừa Thiên Huế đã chính thức đề nghị Chính phủ cho phép tỉnh phối
hợp với Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam tổ chức Festival Huế 2000. Đây được xem là
lễ hội văn hóa nghệ thuật, du lịch có quy mô quốc gia và tính quốc tế đầu tiên ở Việt
Nam. Nhiều chương trình trong Festival được tổ chức tại Kinh thành như Quảng
trường Ngọ Môn, khu vực Đại nội, cung An Định, Hồ Tịnh Tâm… với nhiều hoạt
động đặc sắc. Đặc biệt về đêm có tổ chức nhiều chương trình đặc sắc của các đoàn
nghệ thuật trong nước và quốc tế với nhiều sân khấu nghệ thuật đa dạng, nhiều
chương trình hấp dẫn, sang trọng và thú vị như: Đêm Hoàng cung, những buổi yến
tiệc và những trò chơi cung đình, lễ hội, diễn xướng, ca nhạc, nhã nhạc... Festival Huế
thực sự là một sự kiện văn hóa lớn mang tầm quốc tế. Vì vậy năm du lịch Việt Nam
2012 gắn liền với Festival Huế, đây sẽ là một cơ hội tốt để giới thiệu hình ảnh của
Quần thể di tích cố đô Huế đến với du khách trong và ngoài nước.

Ngoài Fetival Huế thì Kinh thành cũng là nơi diễn ra các hoạt động quan trọng
nằm trong khuôn khổ chương trình Festival làng nghề Huế được tổ chức vào các năm
lẻ. Festival làng nghề này có lịch sử muộn hơn Festival Huế, bắt đầu từ 2005, hai năm
một lần, xen kẽ với Festival Huế. Các hoạt động được tổ chức trong khu Quần thể di
tích như trưng bày các di sản quý hiếm còn lại ở triều Nguyễn ở Tả Vu, thả diều nghệ
thuật ở Ngọ Môn, chương trình “Vẻ đẹp Việt” ở Duyệt Thị Đường và sân trước Điện
Thái Hòa…Trong thời gian diễn ra Festival làng nghề không chỉ trong Kinh thành mà
các đền đài, lăng tẩm thuộc Quần thể nằm ngoài Kinh thành cũng diễn ra nhiều hoạt
động văn hóa – du lịch, lễ hội đa dạng thu hút nhiều sự quan tâm của khách du lịch.
Nếu như Festival 2000 có khoảng 50.000 lượt khách đến Huế, trong đó có 20.000 lượt
khách nước ngoài đến tham dự lễ hội thì đến Festival 2004, 2006, 2008 đã có trên
100.000 lượt khách, trong đó có hơn 30.000 lượt khách nước ngoài (Nguồn: Cinet.vn)

Chính nhờ những chương trình Festival như trên mà Quần thể di tích cố đô Huế
đã được nhiều du khách cả trong và ngoài nước biết đến nhiều hơn, họ thể hiện sự
thích thú rất lớn khi vừa được tham gia vào lễ hội văn hóa vừa được tham quan các di
tích trong quần thể. Điều này thể hiện ở số lượng du khách đến với Kinh thành Huế
luôn tăng lên rất đáng kể vào mỗi dịp tổ chức Festival. Đây cũng được xem là một
trong những chính sách thu hút du lịch đến với di sản thế giới này.

Điều đặc biệt là ở Huế có tới hai di sản được thế giới công nhận, ngoài Quần
thể di tích cố đô Huế thì còn có Nhã nhạc cung đình Huế. Huế cũng là xứ sở của các
làn điệu dân ca trữ tình, mượt mà. Tận dụng điều này các công ty du lịch đã xây dựng
chương trình nghe nhã nhạc, nghe ca Huế trên sông Hương. Sông Hương nằm ngay
trước mặt Thành Huế cũng là điều kiện để du khách có thể vừa nghe nhạc vừa được
ngắm toàn cảnh các di tích của Kinh thành, còn gì bằng khi được thưởng thức Nhã
nhạc cung đình tại đúng nơi mà nó được biểu diễn xưa kia. Ngoài những hoạt động
chủ đạo như trên thì Huế cũng đã có nhiều chính sách khác nhau thu hút khách du
lịch, tăng cường chất lượng phục vụ dể giữ chân khách vào những lần sau.

Tuy vậy có một thực tế đáng buồn là hơn 2/3 di tích thuộc Quần thể di tích cố
đô Huế đã bị hư hại hoặc biến mất hoàn toàn do ảnh hưởng của thời gian và chiến
tranh. Số liệu thống kê năm 1982 cho thấy hơn một nửa trong tổng số 147 công trình ở
khu vực Đại Nội, nơi tập trung các cung điện nguy nga tráng lệ nhất, đã trở thành phế
tích; hầu hết các kiến trúc gỗ còn lại đều bị mối mọt hủy hoại. Hiện nay, hơn 45.000
m2 mái lợp bị thấm dột, khung chịu lực của hơn 60% hạng mục công trình không còn
giữ được vai trò liên kết; 10.000m tường của Kinh thành và Phòng thành đang bị lở và
lún nghiêng; 15km trong tổng số 42km đường trong các di tích không sử dụng được;
30 trên 46 chiếc cầu bị hỏng mố, lở vòm; 20 trên 40 hồ trong các di tích bị lấp cạn;
8.000m kè các hồ bị lở sập làm cho việc cấp thoát nước bị tắc nghẽn; 60 khu vườn bị
hoang phế, cảnh quan nhiều khu vực bị xâm hại, nhiều chi tiết bằng gỗ đang bị mối
mọt tàn phá rất nhiều…. Các công trình hiện tại phần lớn là được sửa chữa hay xây
dựng lại với mục đích bảo tồn, giữ gìn về mặt kiến trúc. Ngoài việc hư hại các công
trình di tích thì vấn đề ô nhiễm môi trường khu vực tham quan cũng rất đáng quan
tâm, nhất là những khu vực có bán hàng rong thì rác bẩn do du khách mua hàng thải
lại rất nhiều, gây mùi hôi và mất đi mĩ quan khu vực di sản.

Việc bảo tồn di tích là hết sức cần thiết. Chỉ đạo công tác bảo tồn, trùng tu là
Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, chịu trách nhiệm thực hiện là Trung tâm bảo
tồn di tích cố đô Huế. Trung tâm này đã cho trùng tu lại nhiều công trình, trong đó
nhiều nơi thu hút rất nhiều du khách. Cụ thể đã cho trùng tu lại Duyệt Thị Đường –
nơi được xem là nhà hát cổ nhất còn lại của nền sân khấu Việt Nam. Một năm sau thì
Minh Khiêm Đường cũng đã được sửa chửa để làm nơi tổ chức các chương trình biểu
diễn nghệ thuật truyền thống cung đình Huế. Những nhà hát cổ của Huế đã sáng đèn,
sống lại một không gian xưa với tiếng đàn, tiếng hát, với những giá trị tuyệt vời của
âm nhạc truyền thống Huế. Tuy vậy vì muốn giữ gìn sự nghiêm trang cho nhà hát
Minh Khiêm Đường và để cho mọi du khách đều có thể nhìn ngắm nhà hát cổ xưa
nhất của Huế, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế đã chuyển vị trí biểu diễn âm nhạc
truyền thống Huế về Xung Khiêm Tạ - một công trình kiến trúc trên hồ Lưu Khiêm. Ở
đây có không gian thoáng mát, phong cảnh nên thơ, tiếng đàn tiếng hát của các nghệ
sĩ, ca sĩ thuộc Nhà hát nghệ thuật truyền thống cung đình Huế vang lên đã đem đến
cho du khách những giây phút tuyệt vời, hoà mình cùng thiên nhiên trong lời ca, tiếng
đàn. Ngoài ra Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế còn cho tu bổ các lăng tẩm của các
vua, hồi phục các tranh trang trí trên tường trong cung cùng nhiều di tích khác.
Bên cạnh những mặt được như trên thì công tác bảo tồn di tích ở đây cũng còn
nhiều vấn đề bất cập, nhiều di tích bị hư hỏng hoàn toàn không thể phục hồi, lại có di
tích bị sử dụng sai mục đích làm mất đi tính lịch sử và giá trị vốn có của nó. Sự thật là
các cơ quan chức năng vẫn chưa giải quyết tốt nhất việc khai thác Quần thể kiến trúc
Cố đô Huế phục vụ cho du lịch, làm lu mờ đi nét độc đáo của các di tích. Tiêu biểu có
thể kể đến Lầu Tứ Phương Vô Sự, trước kia là nơi dành riêng cho vua ngắm cảnh, các
hoàng tử công chúa học tập, dù đã tốn nhiều thời gian và kinh phí để tôn tạo lại nhưng
thay vì giữ vững và phát huy nét văn hóa của nó thì lại biến nơi đây thành quán cà phê
phục vụ cho kinh doanh. Được biết việc kinh doanh buôn bán trong khi vực di sản là
điều cấm kị, chưa kể đây là nơi linh thiêng, thờ cúng vì thế mà quán cà phê trên mọc
lên đã gây nhiều tranh cãi trong dư luận xã hội mà trước hết là đánh mất đi sức thu hút
đối với du khách. Lầu Tứ Phương Vô Sự đã được cho thuê trong vòng 3 năm, mỗi
năm là 200 triệu đồng, nhiều du khách tỏ ra phẫn nộ khi muốn vào tham quan di tích
cũng không thể. Đây được xem là một vấn đề khá nhạy cảm, gây ra nhiều luồng ý kiến
trái chiều, bên cho thuê thì bảo rằng mở quán cà phê chỉ là muốn đáp ứng nhu cầu của
du khách, không gây tổn hại đến di tích trong khi bên phản đối thì cho rằng đây là
hành động không thể chấp nhận, đã lạm dụng di tích đánh đổi lợi ích văn hóa để lấy
lợi ích kinh tế. Được biết công trình này do ảnh hưởng của chiến tranh vào năm 1968
mà đã bị xuống cấp nghiêm trọng nên Trung tâm bảo tồn di tích Huế đã cho tu sửa
trong thời gian từ cuối năm 2008 đến 9/2010, kinh phí là hơn 9 tỉ đồng. Thiết nghĩ 9 tỉ
đồng không hề là một con số nhỏ, 3 năm thuê để mở quán cà phê là 600 triệu đồng
nhưng liệu rằng sau 3 năm kinh doanh, buôn bán như vậy Lầu Tứ Phương Vô Sự có
còn được “yên ổn”, phải chăng cần đến chục tỉ đồng nữa để trùng tu lại? Việc kinh
doanh trong di sản thế giới có được phép, kinh doanh tại chốn cung đình xưa cổ có là
điều nên làm? Quả thật, giữa bảo tồn và lợi ích kinh tế luôn là một xung đột khó giải
quyết.
Một di tích khác là hồ Tịnh Tâm - trước kia là nơi thượng uyển của vua Gia
Long, được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt
Nam, được công nhận là một di sản văn hóa năm vào 1999 thì giờ đây lại trở thành ao
trồng rau muống, Hổ Quyền - Voi Ré là đấu trường hổ duy nhất còn sót lại của Châu
Á thì nay cũng xuống cấp nghiêm trọng, nhiều bậc thang bị gáy, thành bị nứt… không
chỉ do sự thay đổi theo thời gian mà ngay đến cả người dân cũng lấn chiếm đất trái
phép vào khu vực này. Ngoài ra còn có Võ Thánh Miếu, Bia Quốc Học cùng nhiều
công trình khác cũng đang xuống cấp nghiêm trọng, nhiều khu vực cỏ lên um tùm,
nắng mưa bào mòn. Nhiều du khách khi đến thăm những địa danh trên không khỏi
bàng hoàng, ngạc nhiên khi phải chứng kiến những di tích bị xuống cấp hay bị lấn
chiếm vô tội vạ như vậy nhất là với du khách nước ngoài, họ hoàn toàn “sốc” và
không chấp nhận được cảnh tượng đó.
Phải thấy được rằng Quần thể di tích cố đô Huế là một di sản mang tầm thế giới
và cũng đã được thế giới công nhận về giá trị thẩm mĩ, kiến trúc, lịch sử…Điều mà du
khách cảm thấy hào hứng nhất khi đến đây chính là được tham quan các công trình
kiến trúc ghi dấu ấn một thời kì dài trong lịch sử phong kiến, được tìm hiểu về cuộc
sống của các vua chúa, quan lại thời xưa, được quan sát, tìm hiểu về những nét đặc sắc
trong lối kiến trúc cung đình xưa cổ…Vì vậy cũng không có gì lạ khi hệ thống di tích
ở đây khi bị xuống cấp, hư hỏng, công tác trùng tu tốn kém nhưng không hiệu quả,
tính văn hóa lịch sử bị mất đi như vậy thì sức hút du lịch của di sản cũng vì thế mà
giảm hẳn.
Việc các di tích thuộc Quần thể di tích cố đô Huế đang bị hư hại, xuống cấp
ngoài lí do thời gian và ảnh hưởng của chiến tranh thì còn nhiều lí do khác nữa. Việc
khai thác di sản phục vụ cho phát triển du lịch bên cạnh những mặt tích cực thì cũng
có những mặt trái khó tránh khỏi. Hàng ngày các di tích đều mở cửa đón du khách
tham quan, mặc dù có tại nhiều nơi có ghi rõ là không được leo trèo, chạm vào di tích
nhưng tình trạng đó vẫn diễn ra làm hư hại các di tích rất nhiều. Có nhiều trường hợp
chọc phá, không có thái độ tôn trọng nơi linh thiêng hay giữ gìn di tích, ý thức trách
nhiệm không có. Chỉ cần mỗi người leo trèo, chạm phá một chút, ngày nào cũng vậy,
đoàn khách này đến đoàn khách khác thì chỉ cần thời gian ngắn thôi các di tích sẽ
xuống cấp không kiểm soát và cứ hư lại tu sửa thì biết bao nhiêu kinh phí mới đủ. Nói
ở đây để thấy thực trạng khai thác di sản để phục vụ du lịch Huế vẫn còn nhiều vấn đề
đáng quan tâm xem xét, nhất là công tác bảo tồn di tích.
Được biết nhờ nỗ lực của chính quyền, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế mà
công tác bảo tồn, trùng tu cũng đã có một số kết quả đáng khích lệ như hơn 80 công
trình di tích và cơ sở hạ tầng có mức độ hư hỏng khác nhau đã được tu bổ, Di sản văn
hóa Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp. Việc bảo tồn và phát huy Di sản
Văn hóa Huế không còn là việc riêng của những người làm công tác văn hóa mà trở
thành trách nhiệm chung, sự quan tâm chung của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn
thể và cộng đồng. Thực tế hoạt động của di tích Huế cho thấy, đầu tư cho văn hóa, cho
di tích chính là đầu tư cho phát triển; di sản văn hóa không những là tài sản tinh thần
vô giá đối với đất nước mà còn là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội bền vững.
Có thể thấy việc khai thác một di sản để phục vụ phát triển du lịch nhưng vẫn
phải đảm bảo việc bảo vệ, trùng tu không phải là chuyện dễ dàng. Ngoài vấn đề bảo
tồn khỏi ảnh hưởng thời gian thì các di tích của quần thể di tích cố đô Huế còn chị sự
tàn phá của mưa lũ miền Trung. Mỗi đợt mưa lũ như vậy hầu như các hoạt động du
lịch đều bị đóng băng vì phải tiến hành che tủ các di tích như Phu Văn Lâu, Ngọ Môn,
lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị… để tránh bị hư hại.
Những tưởng việc mưa nhiều và kéo dài của khí hậu Huế sẽ gây khó khăn cho
du lịch ở Kinh Thành Huế nhưng các công ty du lịch ở đây đã biết cách tận dụng mùa
mưa và biến nó thành một trong những hình thức du lịch thu hút ở Huế. Nhiều người
rất thích cảm giác đắm mình trong trời mưa, ngắm bức tranh cố cung trầm mặc để trở
về với những hoài niệm ngày xưa, để chiêm nghiệm, triết lí. Các du khách phương
Tây đến vào mùa này cũng rất nhiều bởi họ cũng muốn trải nghiệm những cơn mưa
của xứ nhiệt đới trong lúc ngắm cảnh. Các công ty du lịch ở Huế cũng đã sớm nắm bắt
nhu cầu du khách và tổ chức nhiều hoạt động vào mùa mưa tại khu Quần thể di tích cố
đô Huế. Vì mưa nên các hoạt động tham quan ngoài trời sẽ khó tổ chức hơn, ngược lại
các hoạt động trong nhà lại rất phong phú như thiền định, tĩnh tâm, thưởng thức âm
nhạc, thơ ca, kịch… Ngọ Môn, Phú Văn Lâu, Duyệt Thị Đường… lất phất trong mưa
luôn tạo nguồn cảm hứng cho du khách thưởng ngoạn, chụp ảnh…Có thể thấy các
công ty du lịch đã biết cách khắc phục mùa “ảm đạm” của du lịch Huế bằng những
hoạt động rất thú vị và thu hút, khai thác tối đa tiềm năng du lịch của di sản.
IV. Giải pháp bảo tồn và khai thác di sản phục vụ cho phát triển du lịch.

Như đã nói ở trên việc bảo tồn các di sản là một công việc quan trọng và mang
tính cấp thiết, bởi đây không chỉ đơn thuần là di sản trong nước nữa mà đã vượt ra
mang tính toàn cầu, là niềm vinh dự và tự hào của người dân Việt Nam. Phải thừa
nhận rằng việc một di sản được UNESCO công nhận là một niềm vinh dự lớn, di sản
đó sẽ được quan tâm, chú trọng nhiều hơn ở công tác bảo tồn nhưng đồng thời cũng sẽ
khai thác nhiều hơn phục vụ cho mục đích du lịch. Việc khai thác như vậy không có gì
là xấu nếu chúng ta vừa khai thác vừa tôn tạo, trùng tu, có ý thức bảo vệ di sản.

Đối với quần thể di tích cố đô Huế kể từ khi được công nhận là di sản văn hóa thế giới
vào 11/12/1993 đã thu hút rất nhiều khách du lịch đến tham quan, chiêm ngưỡng,
cũng chính vì vậy mà di sản có nguy cơ hư hại nhanh chóng hơn. Trung tâm bảo tồn
di tích cố đô Huế cũng đã thực hiện nhiều biện pháp để có thể bảo tồn di tích này. Cụ
thể Trong giai đoạn từ 2006-2010, trung tâm đã tiến hành tu bổ nhiều công trình trọng
điểm có giá trị văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc tiêu biểu và có quy mô lớn với
tổng kinh phí từ các nguồn trong nước và tài trợ quốc tế trên 202 tỉ đồng. Điển hình là
công trình hệ thống Trường Lang, tổng thể lăng Đồng Khánh, lăng Gia Long, lăng
Thiệu Trị, cung Trường Sanh, nội thất cung An Định, Hiển Đức Môn, lầu Tứ Phương
Vô Sự, điện Long An…Trung tâm cũng đã chủ động đẩy mạnh quan hệ hợp tác với
trên 20 tổ chức quốc tế và phi chính phủ. Qua đó tiếp nhận được sự ủng hộ giúp đỡ
nhiều mặt về tài chính, phương tiện kỹ thuật, tri thức khoa học như: Trùng tu Ngọ
Môn do chính phủ Nhật Bản tài trợ, Thế Miếu do Chính phủ Ba Lan tài trợ, chương
trình nghiên cứu di tích Huế và nghiên cứu phục nguyên điện Cần Chánh phối hợp với
Viện Di sản Đại học Waseda - Nhật Bản, dự án bảo tồn phục hồi nội thất ở cung An
Định phối hợp với Hiệp hội Trao đổi Văn hóa Leibniz ( Đức) …Bên cạnh việc đạt
được những thành công đáng khích lệ như vậy thì tình trạng xuống cấp, hư hại các di
tích vẫn diễn ra. Đứng trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Đề án
điều chỉnh quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế giai đoạn 2010-
2020”, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 35/KH-UBND ngày 13/5/2011 đã bắt đầu
triển khai thực hiện đề án này. Mục tiêu cụ thể được đặt ra ở đây là bảo tồn, tôn tạo hệ
thống các di tích trong quần thể cố đô Huế, nhằm phát huy tối đa các lợi thế và tiềm
năng, tạo sự hấp dẫn cho khách tham quan du lịch; trùng tu, tôn tạo và phục hồi những
công trình di tích có giá trị tiêu biểu. Về cơ bản, đến năm 2020 phục hồi hoàn nguyên
toàn khu vực Đại Nội theo kiến trúc Hoàng Thành trước kia; cải thiện, tôn tạo cảnh
quan thiên nhiên khu vực Kinh Thành, các Lăng tẩm và các công trình thuộc quần thể
di tích Cố đô Huế; xây dựng hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng những điểm di tích; di dời giải
toả các hộ dân ra khỏi khu vực khoanh vùng bảo vệ di tích. Kế hoạch trên được chia
thành 3 giai đoạn cụ thể và thực hiện lần lượt : Giai đoạn I (từ năm 2010 đến năm
2012), Giai đoạn II (từ năm 2013 đến năm 2017), Giai đoạn III (từ năm 2018 đến năm
2020). Có rất nhiều giải pháp bảo tồn, tôn tạo di tích đã được đề cập đến trong kế
hoạch trên như:

 Thực hiện việc thống kê, kiểm soát số lượng di tích hiện còn tồn tại và
cả những di tích đã mất, cắm mốc khoanh vùng khu vực các di tích để tránh
tình trạng nhà dân chen lấn đất di tích trái phép. Song song với đó là thống kê
số hộ dân hiện đang ở gần các khu di tích để có các biện pháp tuyên truyền về
việc bảo vệ di tích, thực hiện công tác dãn dân tại một số khu vực trọng điểm.
 Bảo quản tất cả các di tích bị xuống cấp. Tiếp tục hoàn thành việc tu bổ
các công trình đang dở dang, đặc biệt là các công trình trong khu vực Đại Nội
và lăng tẩm các vua. Thực hiện công tác bảo quản và trùng tu này không hề
đơn giản bởi cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu thật kĩ về kiến trúc, vật liệu xây
dựng, các họa tiết trang trí, thời gian xây dựng di sản…để có những phương
pháp thực hiện hợp lí nhất. Công tác tìm hiểu nghiên cứu này rất quan trọng,
bởi nếu làm bừa, làm ẩu không những không phục hồi được di tích mà còn
khiến tình trạng hư hại trở nên nghiêm trọng hơn. Để làm tốt trước hết cần có
sự phối hợp của các nhà khảo cổ học và các nhà bảo tồn di tích, hai lực lượng
này phải liên kết mạnh mẽ với nhau, có trách nhiệm lập các kế hoạch phát
triển địa phương nhằm đảm bảo việc bảo tồn di sản, xem đó là một phần trong
công tác quy hoạch phát triển của thành phố và đất nước. Tiếp đến là các chính
sách bảo tồn, phát triển di tích của Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế cũng
như chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế, cần có những chính sách, biện pháp
tích cực hơn nữa để bảo tồn di sản. Việc thực hiện các biện pháp ấy phải được
tính toán, cân nhắc kĩ lưỡng và có kế hoạch rõ ràng.
 Đặc biệt, việc bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn hóa đòi hỏi đội ngũ
người thực hiện phải có trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật và tay nghề cao
có kiến thức về lịch sử, về mỹ thuật, tâm huyết, lòng kiên trì nhẫn nại, sự cẩn
trọng trong quá trình bảo tồn di tích. Nó cũng rất cần lời động viên, tính khách
quan và sự chia sẻ từ phía công luận.
 Nên thành lập một đội thợ ổn định, có tay nghề cao và nhiều kinh
nghiệm tiến hành bảo dưỡng thường xuyên và định kỳ các di tích đã được tu
bổ. Có như vậy mới kéo dài được tuổi thọ của cá di tích và không lãng phí
công sức, tiền bạc của lần tu sửa trước.
 Xã hội hóa công tác bảo tồn di sản. Điều này có nghĩa rằng trách nhiệm
bảo tồn di sản không chỉ của riêng chính quyền, của trung tâm bảo tồn, của các
nhà khoa học, nhà khảo cổ mà là của cả xã hội. Toàn xã hội cần chung tay góp
sức để bảo tồn niềm tự hào của đất nước, đơn giản chỉ cần thực hiện đúng các
quy định như không trèo lên di sản, không sờ mó, đạp phá, không buôn bán,
lấn đất trái phép vào khu vự di sản thì cũng đã góp công vào công tác bảo tồn
di sản. Có thể tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về di tích Huế trong học đường, thi
thiếu nhi vẽ tranh về di tích Huế, khuyến khích sưu tầm các tài liệu, hiện vật
liên quan đến di tích…Nhiều tổ chức cá nhân cũng đã có nhiều đóng góp về
mặt kinh phí để hỗ việc trùng tu, sửa chữa, đó cũng là một cách rất hiệu quả và
thiết thực.
 Thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học, tuyên truyền giáo
dục, hợp tác đối ngoại, đào tạo nguồn nhân lực nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị di sản. Đặc biệt trong đó công tác tuyên truyền giáo dục có vai trò hết sức
quan trọng. Thông qua tuyên truyền sẽ giúp mọi người có ý thức hơn trong vấn
đề bảo vệ di sản, đánh giá được tầm quan trọng của di sản đối với dân tộc và
đất nước.
 Xây dựng hoàn chỉnh và nâng cấp cơ sở hạ tầng tại các điểm di tích
đồng thời cải thiện và tôn tạo cảnh quan thiên nhiên trong khu có di sản.
 Thường xuyên tổ chức các lễ hội trong khu vực có di tích như các kì
Festival và một số lễ hội dân gian khác như lế hội Điện Hòn Chén, lễ tế miếu,
lễ Vạn Thọ… điều này sẽ giúp thu hút khách du lịch đến với Quần thể kiến
trúc cố đô Huế đồng thời là cơ hội để quảng bá hình ảnh di sản đến với du
khách.
 Công tác bảo tồn, tôn tạo di tích nên gắn với du lịch, bởi du lịch là
ngành sử dụng di sản như một nhân tố không thể thiếu để phát triển du lịch.
Du lịch làm cho di sản được biết đến nhiều hơn, được quan tâm nhiều hơn
nhưng nếu không có những biện pháp bảo vệ tôn tạo đi kèm thì sẽ là nguyên
nhân chính khiến cho di sản bị hư hại.
 Có biện pháp ngăn ngừa và xử lí nghiêm minh đối với những trường
hợp buôn bán, lấn đất trái phép vào khu vực di sản. Giải quyết vấn đề chia sẻ
lợi ích trong phát triển du lịch.
 Để huy động và phát huy có hiệu quả cao các nguồn lực trí tuệ và vật
chất một cách có hiệu quả trong công tác bảo tồn, tôn tạo di tích lịch sử văn
hoá, danh lam thắng cảnh, vừa giữ gìn được di sản của dân tộc, vừa phát huy
tác dụng giá trị của các di sản vào đời sống đương đại, thiết nghĩ cần nâng cao
hơn nữa vai trò quản lý của các cơ quan công quyền, năng lực chuyên môn và ý
thức trách nhiệm của các cơ quan chuyên môn và ý thức pháp luật của mọi
công dân, trước hết là những người trực tiếp làm công tác bảo vệ di sản.

 Tổ chức thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế, đặc biệt là với tổ
chức UNESCO, tranh thủ sự trợ giúp của quốc tế, của các chính phủ, các tổ
chức phi Chính phủ và cá nhân người nước ngoài, quản lý và sử dụng đúng
mục đích có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư theo quy định của Nhà nước trong
việc trùng tu, tôn tạo di tích

Trên đây là những giải pháp mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ giúp nâng cao hiệu quả
công tác bảo vệ, tôn tạo và giữ gìn những nét đặc sắc, văn hóa của Quần thể di tích cố
đô Huế. Có giải pháp ở tầm vĩ mô nhưng cũng có giải pháp ở tầm vi mô, nghĩa là mỗi
người chỉ cần có ý thức hành động đúng nhất là khi tham quan tại các di tích là cũng
đã góp phần vào bảo vệ di sản của chúng ta rồi. Ở mức độ cảm tính, chúng ta có thể
nhận thức được giá trị của việc bảo vệ di sản quan trọng và cần thiết như thế nào,
nhưng thực tế khắc nghiệt của những gì đang xảy ra quanh chúng ta sẽ khiến chúng ta
ngừng lại. Vấn đề gia tăng dân số, sự phát triền kinh tế xã hội, ô nhiễm môi trường,
phát triển du lịch ồ ạt tại các di tích lịch sử… là những nguyên nhân gây nên tình
trạng đáng báo động hiện nay về sự tồn tại lâu dài của các nguồn tài nguyên du lịch
nhất là tài nguyên du lịch nhân văn.

Làm sao để sử dụng di sản như một tài nguyên phục vụ cho phát triển du lịch,
phát triển kinh tế - xã hôi nhưng đồng thời không làm giảm đi những giá trị của di sản
hay tệ hơn là làm di sản biến mất vẫn còn là một bài toán nan giải cho chính quyền,
cơ quan quản lí và các bên hữu quan. Di sản của chúng ta là tất cả những gì chúng ta
có được từ quá khứ, những gì mà chúng ta sống trong hiện tại và những gì mà chúng
ta sẽ để lại cho các thế hệ tương lai. Nhưng di sản còn là cái hơn cả giá trị tồn tại giữa
các thế hệ. Nó cũng là nguồn để phát triển tương lai và là công cụ cho sự phát triển
kinh tế xã hội. Nó như là một đặc điểm để nhận biết một vị trí đặc biệt, một di sản
văn hóa không chỉ là sự hiện thân của lịch sử mà còn là "nét đặc trưng" của cộng
đồng, hàm chứa một tính cách độc đáo và một diện mạo riêng của mỗi vùng trong hệ
thống thế giới ngày càng bị đồng hóa. Một nơi không có sự bảo tồn các di tích, di sản,
không có môi trường xây dựng truyền thống và cảnh quan văn hóa, nơi đó có thể phát
triển về mặt kinh tế nhưng sự phát triển này sẽ không bền vững lâu dài được và không
có giá trị về mặt tinh thần.

V. Đánh giá, nhận xét

Quần thể di tích cố đô Huế là một trong những công trình kiến trúc đồ sộ nhất
của thời kì phong kiến nhà Nguyễn. Giá trị của công trình này được đánh giá cao ở
kiến trúc, lịch sử và cả văn hóa. Nó được xem là hiện thân của một thời kì lịch sử dân
tộc, là công trình kết tinh của trí tuệ và tài năng của con người Việt Nam, thể hiện sự
giao hòa giữa văn hóa Đông và Tây. Thực sự việc được UNESCO công nhận là di sản
văn hóa của thế giới là một điều hoàn toàn xứng đáng. Trước kia, khi chưa được công
nhận thì Quần thể di tích cố đô Huế gần như bị quên lãng, người ta chỉ nhắc tới nó
như là những công trình còn sót lại từ thời nhà Nguyễn, hầu như không có ai đến
thăm trừ những nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Nhưng từ khi được công nhận, Di sản
này như được hồi sinh, nó đã được không chỉ du khách trong nước mà cả du khách
quốc tế biết đến rất nhiều. Di sản đã trở thành một trong những điểm thu hút du lịch
không chỉ của riêng Huế mà còn là của cả nước. Chính quyền tỉnh Thừa Thiên Huế
đã tập trung vào việc khai thác di sản phục vụ cho mục đích phát triển du lịch, Quần
thể di tích cố đô Huế đã góp phần thúc đẩy nghành du lịch của Huế phát triển, du lịch
giờ đây là một trong những ngành đóng góp nhiều nhất cho GDP của tỉnh Thừa Thiên
Huế.

Cái gì cũng luôn tồn tại tính hai mặt của nó, du lịch cũng vậy. Du lịch phát
triển đã giúp đưa hình ảnh của Quần thể di tích cố đô đến với du khách trong nước và
quốc tế, góp phần nâng cao vị thế và giá trị của di sản nhưng cũng vì du lịch mà di
sản cũng hư hại xuống cấp nhanh hơn. Nói ở đây không phải là đổ lỗi cho du lịch đã
làm hư hỏng các di tích nhưng phải thừa nhận rằng một di tích đã có từ lâu như Quần
thể di tích cố đô Huế cộng thêm tác hại của thời gian nếu chỉ biết mở cửa đón du
khách tham quan, thưởng ngoạn mà không có những biện pháp ngăn chặn những ảnh
hưởng xấu cũng như những hoạt động bảo tồn, trùng tu, sửa chữa thì việc di sản hư
hại nhanh chóng cũng là điều dễ hiểu.

Hiện nay việc làm thế nào để thu hút du lịch tới tham quan di sản nhưng đồng
thời phải bảo tồn và không làm giảm đi giá trị của di sản là một vấn đề được cả xã hội
quan tâm. Quần thể di tích cố đô Huế vì có tới 300 di sản, phân bố trên một diện tích
khá rộng lại bị hư hại do ảnh hưởng của thời gian và chiến tranh nên công tác bảo tồn
gặp rất nhiều khó khăn. Thiết nghĩ chính quyền, đội ngũ các nhà khoa học, nhà khảo
cổ, các kiến trúc sư ... cần có những biện pháp tích cực hơn nữa để tăng hiệu quả cho
việc bảo tồn di tích.

Được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới không chỉ là niềm tự hào
của riêng Huế mà của cả Việt Nam. Nó đem đến những cơ hội để phát triển du lịch
cho nước nhà nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu nghiêm ngặt cho vấn đề
bảo tồn, trùng tu và gìn giữ nét nguyên bản của di tích. Di sản không đơn thuần là
những cái đẹp mà đó còn là kết tinh của những truyền thống dân tôc, của lịch sử, của
văn hóa…Giữ gìn di sản là giữ gìn phần hồn tốt đẹp cho những thế hệ tương lai, lưu
giữ những kí ức lịch sử quý giá của cả một dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thế Bình (CB), Non nước Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, 2008
2. Lê Tuấn Anh (CB), Di sản thế giới ở Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,
2005
3. PGS.TS.Lê Thông – PGS.TS.Nguyễn Minh Tuệ, Địa lí du lịch Việt Nam,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2010.
4. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo Dục, 1999.
5. Báo cáo “Bảo tồn bền vững, phát triển vững chắc cho di sản văn hóa thế
giới Huế”, tác giả Phùng Phu và Nguyễn Văn Phúc thuộc Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế.
6. Các trang web:

 www.khamphahue.com.vn
 www.go news.com
 www.tapchisonghuongonline.com
 www.mientrung.com
 www.hue360.com
 www.huedisan.com
 www.kenhdulichvietnam.com
PHỤ LỤC
 Một số hình ảnh về Quần thể di tích cố đô Huế:

Hình 1: Hoàng thành Huế


Hình 2: Cổng Ngọ Môn

Hình 3: Tử Cấm Thành


Hình 4: Phu Văn Lâu Hình 5: Quốc Tử Giám ở Huế

Hình 6: Chùa Thiên Mụ Hình 7:Bảo tàng Mĩ thuật cung đình Huế
Hình 8: Sân Đại Triều Nghi

Hình 9: Điện Voi Ré


Hình 10: Điện Thái Hòa

Hình 11: Cung Diên Thọ


Hình 12: Cung Trường Sanh

Hình 13: Xưng Khiêm Tạ


Hình 14: Ứng lăng ( thờ vua Khải Định)

Hình 15: Hưng Miếu (thờ song thân vua Gia Long)
Hình16: Hiếu lăng (thờ vua Ming Mạng)

Hình 17: Hổ quyền


Hình 18: Điện Phụng Tiên

Hình 19: Thái miếu (thờ 9 chúa Nguyễn)


Hình 20: Kinh thành Huế về đêm
Hình 21: Bên trong lăng Khải Định
BẢNG PHÂN CÔNG LÀM VIỆC NHÓM
 Thành viên nhóm G6:
1. Võ Thị Thủy (Nhóm trưởng) 0956080173
2. Đặng Thị Dạ Thảo 0956080150
3. Nguyễn Thu Thảo 0956080158
4. Trần Thụy Thùy Trang 0956080191
5. Huỳnh Nguyễn Thùy Linh 0956080080
6. Lê Thi Bích Trâm 0956080195

Công việc Thành viên thực hiện


1. Thảo luân, phát thảo đề cương bài làm Cả nhóm G6
2. Đọc, tìm kiếm thông tin trên mạng Thu Thảo, Dạ Thảo, Thùy Trang
Internet
3. Đọc, tìm kiếm thông tin từ sách báo thư Võ Thị Thủy, Bích Trâm, Thùy Linh
viện
4. Tập hợp tài liệu từ nguồn mạng Dạ Thảo
5. Tập hợp nguồn tài liệu từ sách báo Võ Thị Thủy
6. Tìm kiếm hình ảnh Dạ Thảo, Thùy Trang, Bích Trâm
7. Thực hiên Powerpoint Thùy Linh
8. Chỉnh sửa Word Võ Thị Thủy

You might also like