Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

Đề tài: 異文化間教育(コミュニケーション)

1. Phần mở đầu

1.1 Lý do chọn đề tài

Giáo dục là hiện tượng thường được bàn đến ít nhất theo hai nghĩa: 1/đó là một
trong những lĩnh vực tương đối độc lập của sự phát triển và tiến bộ kinh tế - xã hội;
2/là một hệ thống tác nghiệp chuyên môn, tức là dạy học và học tập, chương trình
và học liệu, thầy và trò và những hoạt động, cơ cấu bảo đảm cho sự tác nghiệp này.

Các triết lí giáo dục cho dù nhiều đến đâu cũng có hai loại tương tự như hai kiểu tư
duy nói trên. Có các triết lí về chương trình và hoạt động giáo dục, tức là những
triết lí về hoạt động chuyên môn của nghề này, thí dụ như Dạy con từ thuở còn thơ.
Và có các triết lí về sự phát triển giáo dục, thí dụ như Giáo dục là lĩnh vực đầu tư
phát triển. Loại triết lí thứ hai nhằm lí giải bản chất của giáo dục từ các khía cạnh
kinh tế - xã hội trên cơ sở nhận thức khoa học và nhận thức kinh nghiệm về các
quan hệ khác nhau giữa giáo dục, phát triển giáo dục và phát triển kinh tế - xã hội
nói chung.

Chẳng hạn đó là các quan hệ: giáo dục và văn hóa, giáo dục và kinh tế, giáo dục và
khoa học, giáo dục và phát triển con người, giáo dục và chính trị v.v..., cũng như
các quan hệ kinh tế – xã hội vĩ mô với tư cách các phạm trù triết học thể hiện trong
giáo dục như thế nào, thí dụ quan hệ lượng - chất, quan hệ khả năng - hiện thực,
quan hệ chung - riêng...Do vậy, tại các quốc gia khác nhau với các nền văn hoá
khác nhau thì sẽ có sự khác biệt nền giáo dục. Nghiên cứu này được thực hiện
nhằm phân tích sự khác biệt về hệ thống giáo dục trong các nền văn hoá khác nhau
với trường hợp điển hình là Nhật Bản và Việt Nam.

Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khoá XI về đổi
mới căn bản, toàn diện GD-ĐT; Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, ngành Giáo dục đang triển
khai đổi mới giáo dục phổ thông, trong đó quá trình đổi mới chương trình và sách
giáo khoa cần được triển khai đồng bộ với việc xây dựng các mô hình giáo dục,
xác định các thành tố và cách thức tổ chức thực hiện để nâng cao chất lượng giáo
dục.

Trong quá trình phát triển chương trình giáo dục phổ thông mới, cần tìm hiểu kinh
nghiệm quốc tế, đặc biệt cần lựa chọn được những quốc gia tiêu biểu, có những
điều kiện khá tương đồng với Việt Nam, đã đạt được những kết quả cao trong đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông để tiến hành nghiên cứu, phân tích, rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Nhật Bản là một nước thuộc châu Á, có nhiều quan hệ và đặc điểm về văn hoá, xã
hội gần gũi với Việt Nam. Nhiều học giả nước ngoài đã tìm thấy những phẩm chất
rất giống nhau giữa con người thuộc hai dân tộc Nhật Bản và Việt Nam. Nhật Bản
đã phát triển nhanh chóng, trở thành một siêu cường kinh tế, hiện đại hoá mà vẫn
giữ được bản sắc truyền thống dân tộc. Hiện đại hoá đất nước ở Nhật Bản không
phải là quá trình tự phát mà là một công cuộc được nhà nước chủ động tiến hành,
lấy việc giáo dục nâng cao ý thức con người làm cơ sở cho sự phát triển đất nước.

Việc nghiên cứu mô hình giáo dục Nhật Bản sẽ giúp chúng ta có được những kinh
nghiệm tốt để áp dụng hiệu quả vào thực tiễn Việt Nam.

Trong những năm gần đây, tại Việt Nam bắt đầu xuất hiện các mô hình giáo dục
mang phong cách, triết lí Nhật Bản, đặc biệt là mô hình giáo dục tiểu học. Có thể
kể đến các trường: Trường Quốc tế Nhật Bản (Japanese International School - JIS),
Trường Nhật Bản Hà Nội (The Japanese School in Hanoi - JSH). Các trường này
đã hoạt động trong một số năm qua và đang giúp nhiều trẻ em được tiếp nhận tinh
hoa văn hóa Nhật Bản, đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục không chỉ của từng HS
mà còn đáp ứng nhu cầu nâng cao chất lượng giáo dục của một bộ phận xã hội là
các phụ huynh HS. Đồng thời, việc tổ chức, triển khai mô hình giáo dục Nhật Bản
tại Việt Nam ở các trường này cũng gợi mở nhiều bài học trong việc triển khai mô
hình giáo dục tiểu học Nhật Bản tại Việt Nam. Tuy nhiên, những thành tựu này còn
mang tính kinh nghiệm, đơn lẻ, cần được nghiên cứu một cách hệ thống, bài bản,
nhằm tìm ra cách thức vận dụng mô hình, lan tỏa các giá trị giáo dục cao đẹp một
cách rộng rãi trong các trường tiểu học Việt Nam.

Việc nghiên cứu mô hình giáo dục ở Nhật Bản, so sánh với mô hình giáo dục ở
Việt Nam, từ đó đề xuất vận dụng mô hình giáo dục ở Nhật Bản cho trường học ở
Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện trong giáo dục là một
nhiệm vụ rất cấp thiết, có ý nghĩa lớn cả về mặt lí luận và thực tiễn hiện nay.

1.2. Tình hình nghiên cứu

Tính đến thời điểm hiện tại thì đã có một số nghiên cứu được thực hiện liên quan
đến đề tài, tiêu biểu là một số nghiên cứu dưới đây:

Bùi Mạnh Hùng (2020) đã thực hiện nghiên cứu với tiêu đề “Vài nét về giáo dục
Hà Ước và kinh nghiệm đối với Việt Nam”. Bài viết trình bày những điểm cốt yếu
của giáo dục Hàn Quốc, trọng tâm là về chương trình và sách giáo khoa, và những
kinh nghiệm có thể áp dụng vào thực tiễn giáo dục Việt Nam. Hàn Quốc và Việt
Nam có rất nhiều điểm tương đồng về lịch sử và văn hóa. Vì vậy, việc tìm hiểu
kinh nghiệm của Hàn Quốc có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, đặc biệt trong
bối cảnh chúng ta đang đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục.

Nguyễn Thị Kim Dung (2019) đã thực hiện nghiên cứu nhằm so sánh chương
trình, nội dung giáo dục đạo đức ở Nhật Bản và Việt Nam. Trong nghiên cứu, tác
giả đã nhấn mạnh Giáo dục Nhật Bản có mục đích giữ gìn các giá trị truyền thống
và truyền lại cho thế hệ tiếp sau. Chính vì vậy, giáo dục đạo đức được xem xét như
là phần trọng tâm, không thể thiếu được của quá trình giáo dục, được thực hiện
dưới sự quản lý chặt chẽ của chính phủ. GDĐĐ là một môn học riêng biệt, bắt
buộc ở cả cấp tiểu học và sơ trung (junior high school). Tuy nhiên với quan điểm
giáo dục đạo đức như là môn học riêng biệt cần phải dựa trên nguyên lí là nó tôn
trọng tính chung (phổ quát) của các chuẩn mực đạo đức và nguyên lí đặc thù (cần
quan tâm đến hoàn cảnh chính trị, kinh tế và công nghệ đặc thù mà người Nhật
Bản đang đối mặt) nên giáo dục đạo đức của Nhật Bản cứ 10 năm lại có những
thay đổi trong mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp cho phù hợp với
thực tiễn và mang lại hiệu quả giáo dục cao. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả
giới thiệu chương trình, nội dung giáo dục đạo đức hiện hành của Nhật Bản được
thông qua từ năm 1998 và tiến hành đại trà ở nhà trường phổ thông từ 2002. Trên
cơ sở đó chỉ ra những điểm giống và khác nhau về giáo dục đạo đức giữa nền văn
hoá Nhật Bản và nền văn hoá Việt Nam.

1.3. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích sự khác biệt về giáo dục giữa hai nền
văn hoá là Nhật Bản và Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu giáo dục
của Nhật Bản rút ra các kinh nghiệm về phát triển giáo dục cho Việt Nam trong
thời gian tới.

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là sự khác biệt về giáo dục giữa nền văn hoá Nhật bản và
nền văn hoá Việt Nam

Phạm vi nghiên cứu:

- Phạm vi không gian: Nghiên cứu được thực hiện trong giới hạn tại Nhật Bản
và Việt Nam
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu được thực hiện trong khoảng thời gian từ
5/2022 đến 12/2022
1.5 Phương pháp nghiên cứu

Trong nghiên cứu này, phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp so
sánh nhằm tìm ra những điểm giống và khác nhau về giáo dục giữa nền văn hoá
Nhật Bản và nền văn hoá Việt Nam. phương pháp nghiên cứu so sánh là một thủ
tục có hệ thống tương phản của một hoặc nhiều hiện tượng, thông qua đó tìm cách
thiết lập sự tương đồng và khác biệt giữa chúng. Kết quả phải là để có được dữ liệu
dẫn đến định nghĩa của một vấn đề hoặc cải thiện kiến thức về vấn đề này.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1 Triết lý tổng quát về giáo dục

Giáo dục là môi trường nhân văn trong đó diễn ra quá trình xã hội hóa cá nhân phù
hợp với những định chế tư tưởng, chính trị, kinh tế, đạo đức và văn hóa của xã hội,
dẫn đến kết quả là sự phát triển cá nhân của người học, của con người, và tiến bộ
kinh tế - xã hội bền vững của quốc gia và thời đại.

Giáo dục có sứ mạng là phát hiện, nuôi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực quốc
gia, nhân tài của xã hội và không ngừng nâng cao tiềm năng trí tuệ của cộng đồng
dân tộc để phát triển đất nước với tầm nhìn chung là vươn tới tự do, xã hội hiện
đại, với các công dân có khả năng học tập thường xuyên, chủ động và tích cực
sáng tạo trong môi trường sống và trong cuộc sống.

Mỗi người đều có cách hiểu và diễn đạt của riêng mình, và trên đây chỉ là một
cách. Nếu gọn hơn chỉ cần nói: giáo dục là phương thức giao hòa giữa cá nhân và
hệ thống văn hóa theo nguyên lí phát triển và nguyên lí chuyển đổi giá trị. Hoặc
nói cách khác nữa: giáo dục là hình thức phổ biến của sự phát triển giữa con người
và xã hội, bởi vì ngoài hình thức phát triển cá biệt do gen qui định thì ai cũng phải
phát triển dưới hình thức chung nữa - giáo dục.

2.2 Mục tiêu giáo dục


Con người cá nhân phát triển hài hòa, khỏe mạnh về thể chất, tâm lí và xã hội, có
đức tin vào cái Thiện, vào con người và tương lai tốt đẹp của loài người, và những
thế hệ người phát triển bền vững trên cơ sở hiểu biết nhau, biết hợp tác, chung
sống và làm việc hiệu quả, vì lợi ích của mình và của Tổ quốc, của nhân loại, công
bằng về cơ hội và khác biệt về thành tựu phát triển.

Nhìn chung cho dù có những khác biệt chính trị, kinh tế... giữa các quốc gia thì từ
góc độ văn hóa vẫn có thể hiểu mục tiêu giáo dục quốc gia cơ bản vẫn là phát triển
con người với những nét đồng nhất và những nét khác biệt nhất định do ảnh hưởng
của văn hóa loài người và nền văn hóa cụ thể.

2.3 Chức năng cơ bản của giáo dục

a) Giáo dục là công cụ phát triển người và phát triển kinh tế - xã hội, vì nó tạo ra
nguồn lực đầu tư phát triển quyết định nhất trong số các nguồn lực phát triển, đó là
nguồn lực người (chức năng công cụ trong phát triển).

b) Giáo dục thực hiện chức năng phục vụ và dịch vụ xã hội thông qua các hoạt
động dạy học, học tập, chuyển giao và phát triển tri thức, đào tạo nhân lực, cung
cấp sức lao động, từ đó phát triển tính cách, năng lực chung và chuyên biệt của cá
nhân, cũng như kĩ năng sống và giải quyết vấn đề của mọi người trong các lĩnh vực
kinh tế - xã hội.

c) Giáo dục thực hiện chức năng tái sản xuất, phát triển các giá trị xã hội thông qua
quá trình cá nhân hóa những giá trị, kinh nghiệm của loài người để làm phong phú
và không ngừng nâng cao những giá trị, kinh nghiệm đó tại những giai doạn lịch sử
tiếp sau của cộng đồng. Đây là điều có thể gọi là chức năng di truyền văn hóa của
giáo dục, phân biệt với di truyền sinh học.

d) Giáo dục thực hiện chức năng phúc lợi xã hội, dù là giáo dục phi lợi nhuận hay
có lợi nhuận. Nó bảo đảm giá trị học vấn mà con người thụ hưởng thực sự là một
phần quan trọng của hạnh phúc, của thành công và của quyền công dân bình đẳng
của mỗi người trước tất cả mọi người trong xã hội.

2.4 Những nguyên tắc cơ bản của giáo dục

a) Giáo dục hướng vào con người (người học), vì lợi ích con người và vì sự phát
triển tự do của người học. Điều này dễ hiểu vì những lợi ích

và sự phát triển con người là lẽ sống còn của giáo dục, và nhờ những yếu tố đó thì
giáo dục mới tồn tại và phát triển được.

b) Giáo dục cho mọi người và của mỗi người trên cơ sở nỗ lực chung của cộng
đồng, nhà nước và cá nhân (công bằng xã hội và khác biệt cá nhân). Nguyên tắc
này nhấn mạnh giáo dục không đơn giản là giá trị được cho không, và ai ai cũng
đương nhiên hưởng thụ được. Ai có được cái gì thì người đó phải nỗ lực mà giành
lấy, vì vậy kết quả giáo dục luôn là cái riêng ở từng cá nhân. Đây có thể được xem
như qui luật của giáo dục.

c) Giáo dục là hệ thống mở và được điều tiết đồng thời bằng các qui luật của kinh
tế thị trường cũng như bằng những can thiệp của nhà nước dựa vào thể chế, chính
sách và chuẩn. Giáo dục không thể phát triển bên ngoài các tác động của qui luật
giá trị, qui luật cung - cầu và qui luật cạnh tranh. Nhưng giáo dục nào cũng tự thân
là thiết chế xã hội - chính trị của nhà nước cụ thể và có bản chất của một loại công
cụ định hướng trong quản lí xã hội.

d) Giáo dục được thực hiện vì chất lượng cuộc sống và sự phát triển bền vững của
xã hội và đất nước (định hướng XHCN, bản sắc Việt Nam, chủ quyền quốc gia và
độc lập dân tộc), cũng như vì hòa bình và hạnh phúc của toàn nhân loại. Nếu thiếu
nguyên tắc này thì giáo dục vô nghĩa, nếu như có sự phát triển giáo dục thì đó là sự
phát triển rỗng không, không có nội dung, không có giá trị.
e) Giáo dục tuân theo những nguyên lí nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh trong mọi hình thức và tiến trình phát triển của nó. Cho dù các
loại hình trường lớp, các cơ cấu tổ chức, các hình thức sở hữu và quản lí giáo dục ở
nước ta thay đổi thế nào thì chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn
là nguyên tắc nền tảng của phát triển giáo dục.

f) Giáo dục phát triển bằng tiềm năng vật chất, trí tuệ và đạo đức của dân tộc cũng
như bằng quá trình tiếp nhận có chọn lọc những yếu tố tiến bộ và hiện đại của loài
người.

g) Giáo dục được tổ chức và thực hiện trên cơ sở khoa học, gắn bó với đời sống xã
hội, những thay đổi kinh tế, văn hóa, công nghệ trong nước và những xu thế tiến
bộ của đời sống quốc tế. Những thay đổi lớn nhất trong thời đại ngày nay là toàn
cầu hóa kinh tế, các giao dịch xuyên và liên quốc gia, các quan hệ đa văn hóa và
tiếp biến văn hóa, các tác động của mạng thông tin toàn cầu dựa vào công nghệ số
và tài nguyên internet, các thành tựu hiện đại của công nghệ sạch và công nghệ
quản lí có khuynh hướng nhân văn.

2.5 Hệ thống giáo dục

a) Hệ thống giáo dục là thể hiện thực tiễn của cấu trúc và việc tổ chức giáo dục ở
qui mô quốc gia. Tính hợp lí của cấu trúc và tính hiệu quả của tổ chức giáo dục
cũng là một trong những tiêu chí chất lượng của hệ thống giáo dục, vì chúng ảnh
hưởng rất rõ rệt đến việc tiến hành quá trình giáo dục và hiệu quả quản lí, hiệu quả
hoạt động giáo dục.

b) Do nó là hệ thống nên hệ thống giáo dục cũng tuân theo các liên hệ và qui luật
hệ thống. Với mỗi hệ điều kiện, cấu trúc và tổ chức nhất định, mỗi hệ thống giáo
dục có khả năng giới hạn của nó mà không thể vượt quá giới hạn ấy. Khi nó vận
hành quá công suất và vượt quá giới hạn này, thì khủng hoảng sẽ xảy ra. Tuy
khủng hoảng có thể vẫn là một trong những phương thức phát triển, nhưng phát
triển theo phương thức này chắc chắn là thiếu bền vững và phải trả giá đắt.

c) Chất lượng của hệ thống giáo dục được tạo ra từ chất lượng của tất cả những
thành tố cấu thành nó: nhân sự, hạ tầng vật chất - kĩ thuật, thông tin, hoạt động
giáo dục, học liệu, môi trường dạy học, cơ cấu và hoạt

động quản lí, thành tích học tập và giảng dạy, hiệu quả trong quá trình giáo dục
v.v... Nhưng đem gộp tất cả những thành tố đó lại thì không phải là chất lượng của
hệ thống. Chất lượng của hệ thống còn phụ thuộc vào bối cảnh bên ngoài và hiệu
lực, hiệu quả quản lí giáo dục từ phía nhà nước và xã hội.

d) Hệ thống giáo dục là bộ phần chủ đạo của toàn bộ nền giáo dục quốc gia. Vì vậy
những thay đổi của hệ thống giáo dục có vai trò dẫn động và định hướng cho toàn
bộ việc đổi mới giáo dục.

3. Cấu trúc dự kiến của nghiên cứu

Ngoài phần mở đầu nghiên cứu bao gồm 03 chương chính cụ thể như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận

1.1 Tổng quan về giáo dục

1.1.1 Mục tiêu giáo dục quốc gia

1.1.2 Chức năng cơ bản của giáo dục

1.1.3 Những nguyên tắc cơ bản của giáo dục

1.1.4 Hệ thống giáo dục

1.2. Tổng quan về giáo dục tại các nền văn hoá khác nhau
1.2.1 Giáo dục tại Nhật Bản

1.2.3 Giáo dục tại Hàn Quốc

1.2.4 Giáo dục tại Singapore

1.2.5 Giáo dục tại Trung Quốc

1.2.6 Giáo dục tại một số quốc gia phương Tây

Chương 2: Thực trạng giáo dục tại Nhật Bản và Nam

2.1 Giới thiệu về giáo dục tại Nhật Bản

2.1.1 Mục tiêu giáo dục

2.1.2 Hệ thống giáo dục

2.1.3 Nội dung giáo dục

2.1.4 Phương pháp giáo dục

2.1.5 Phương pháp đánh giá kết quả học tập

2.1.6 Chính sách phát triển giáo dục

2.2 Giới thiệu về giáo dục tại Việt Nam

2.2.1 Mục tiêu giáo dục

2.2.2 Hệ thống giáo dục

2.2.3 Nội dung giáo dục

2.2.4 Phương pháp giáo dục

2.2.5 Phương pháp đánh giá kết quả học tập

2.2.6 Chính sách phát triển giáo dục

2.3 So sánh sự giống và khác nhau về giáo dục giữa nền văn hoá Nhật Bản và nền
văn hoá Việt Nam
2.3.1 Giống nhau

2.3.2 Khác nhau

2.4 Bài học kinh nghiệm phát

Chương 3: Kết luận và kiến nghị giải pháp

3.1 Kết luận

3.2 Kiến nghị giải pháp

3.2.1 Giải pháp 1

3.2.2 Giải pháp 2

3.2.3 Giải pháp 3

You might also like