Professional Documents
Culture Documents
Tiến hóa sao - Wikipedia tiếng Việt
Tiến hóa sao - Wikipedia tiếng Việt
Khi quá trình co hấp dẫn tiếp tục diễn ra, vì chất khí tiếp tục được bồi đắp lên nhân tiền sao,
kích thước của nó nhỏ lại làm cường độ sáng giảm đi.
Nếu khối lượng (hay cường độ sáng) của tiền sao quá nhỏ, nhân của nó, bằng quá trình bồi đắp
sẽ hút hết chất bụi khí từ vùng vỏ và các phần dư thừa còn lại trong vật chất tạo nên tiền sao.
Nếu khối lượng (ứng với cường độ sáng) của tiền tinh đủ lớn, phần lớn vật chất từ vỏ chất khí bị
gió sao của tiền sao đẩy đi mất vào khoảng không vũ trụ với vận tốc vài trăm kilômét một giờ.
Gió sao ngăn cản sự tiếp tục tăng trưởng khối lượng nhân của tiền sao và suy cho cùng là khối
lượng của tiền sao. Điều này giải thích vì sao khối lượng cực đại của các sao quan sát được có giá trị
ở khoảng 60 khối lượng Mặt Trời[4]. Sau thời gian khoảng 104-105 năm, gió sao sẽ khuếch tán mất
đi toàn bộ vật chất bao quanh sao, sau đó tiền sao, mà trước đó bị vật chất này che khuất một
phần hay hoàn toàn chìm khuất trong đám vật chất này, trở thành một thiên thể có thể quan sát
được[4].
Các tiền sao trong giai đoạn Hayashi nằm bên phải của biểu đồ biểu
đồ Hertzsprung-Russell, khi cường độ sáng của sao giảm đi, vị trí các
tiền sao khối lượng nhỏ tụt xuống theo các đường Hayahi theo hướng
thẳng đứng. Trong giai đoạn tiếp theo, các tiền sao chuyển dịch sang
trái, tiến gần đến dãy chính theo hướng nằm ngang, với cường độ
sáng không đổi. Sự chuyển thể từ tiền sao thành sao phụ thuộc vào tốc
độ của quá trình loại trừ vật chất đặc che ánh sáng bao quanh sao.
Trong các vùng này trên dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell có
các vật thể Herbig-Haro, các sao Herbig phát quang, các sao biến đổi
kiểu T Tauri và sao biến đổi kiểu YY Orionis, các sao hồng ngoại, sao
L/L Cường độ sáng, tính kiểu R Monocerotis v.v. Ngay sau khi nhân tiền sao đạt được nhiệt độ
theo đơn vị cường độ sáng vài triệu K, các phản ứng hạt nhân đầu tiên bắt đầu xảy ra, tiêu thụ
Mặt Trời; S Mặt Trời; K Nhiệt Hiđrô nặng, Lithi, Beryli và Bo. Khi đạt đến dãy chính, nhiệt độ đạt
độ bề mặt (K); HL Các đến khoảng 106 K, tiền sao bắt đầu phản ứng đốt cháy Hydrô. Quá
đường Hyashi; MS dãy trình co của tiền sao dừng lại, nhiệt độ và cường độ sáng trở nên ổn
chính, nơi bắt đầu phản ứng định, ngôi sao bình thường từ tiền sao đã được hoàn thành và nằm lại
nhiệt hạch trong các sao mới; lâu dài trên dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell.
M Khối lượng Mặt Trời.
Tuy nhiên chỉ các tiền sao với khối lượng lớn hơn 0,085 M mới đến
được vị trí của dãy chính. Các tiền sao có khối lượng nhỏ hơn không
gây được trong nhân nhiệt độ đủ lớn để khởi đầu các phản ứng nhiệt hạch. Các thiên thể nhỏ này tiếp
tục quá trình co hấp dẫn cho đến khi đạt đến trạng thái chất khí thoái hóa (tiếng Anh:
degenerate gases), chúng không đạt đến dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell và trở thành
các sao lùn nâu. Các thiên thể có khối lượng còn nhỏ hơn có thể trở thành các hành tinh.
Một trong các nhân tố rất quan trọng trong quá trình phát triển các tiền sao là chuyển động xoay
của nó. Chuyển động này là nhân tố quyết định ngôi sao sẽ trở thành hệ đa sao, hoặc sao có hành
tinh hay một ngôi sao đơn lẻ. Giai đoạn co hấp dẫn trong quá trình phát triển tiền sao theo lý
thuyết co Helmholtz xảy ra trong một thời gian khá ngắn, các tiền sao có khối lượng như Mặt Trời
được hình thành sau khoảng 50 triệu năm, các tiền sao với khối lượng 10 M diễn ra trong khoảng
100.000 năm.
Phát triển trên dãy chính
Vị trí khởi đầu của một ngôi sao mới hình thành trên dãy chính
phụ thuộc vào khối lượng của nó. Khối lượng càng lớn thì nhiệt
độ bề mặt và cường độ sáng của ngôi sao càng cao, vị trí của nó
trên dãy chính của biểu đồ càng cao. Tập hợp một số lượng lớn
các ngôi sao này, với các khối lượng khác nhau tạo nên một đường
cong liên tục, gọi là dãy chính số không trên biểu đồ
Hertzsprung-Russell, đồng thời đó là giới hạn dịch chuyển sang
phía trái cao nhất của ngôi sao trên biểu đồ. Các ngôi sao tồn
tại trên dãy chính này trong suốt quá trình diễn ra các phản ứng
hạt nhân tại vùng nhân sao, để biến đổi Hiđrô thành Heli, nhờ đó
mà ngôi sao giữ được trạng thái cân bằng. Thời kì này là giai đoạn
phát triển sao chính và dài nhất; ngôi sao có khối lượng càng Chu trình CNO, nguồn năng lượng
nhỏ, giai đoạn phát triển chính này càng dài. của sao nặng hơn 1,5xM
Một số ví dụ về mối liên quan giữa thời gian tồn tại của sao
trên dãy chính và khối lượng của nó
Khối lượng sao tính theo đơn vị Thời gian tồn tại
khối lượng Mặt Trời trên dãy chính
0,5xM 70 tỉ năm
1xM 12 tỉ năm
5xM 200 triệu năm
15xM 10 triệu năm
Trong các ngôi sao nằm ở vùng trên của dãy chính, với khối
lượng hơn 1,5xM , nguồn năng lượng phát sáng chính là
quá trình biến đổi Hiđrô thành Heli nhờ chu trình CNO, diễn ra
trong vùng nhân đối lưu, khá rộng của ngôi sao.
Các ngôi sao nhẹ hơn 1,5xM , nằm tại vùng thấp hơn trong
dãy chính của biểu đồ Hertzsprung-Russell phát sáng nhờ
phản ứng proton-proton, diễn ra trong một vùng hẹp tại nhân,
chiếm khoảng 12% khối lượng ngôi sao. Phản ứng proton-proton, nguồn
năng lượng của Mặt Trời.
Dãy chính
Trong Ngân Hà, có hai thế hệ sao chính. Các sao thuộc thế hệ II nằm tại tâm Ngân Hà và trong
vùng halo cao tuổi hơn, trong khi các sao thuộc thế hệ I nằm trong đĩa Ngân Hà là các sao trẻ hơn
nhiều. Đối với các sao thuộc thế hệ I, (tiếng Anh: stellar population), thành phần hóa học đặc
trưng tính theo tỉ lệ khối lượng là 71% Hidrô, 27% Heli, 1 đến 2% các nguyên tố nặng hơn Heli[5]; ở
các sao thuộc thế hệ II, các nguyên tố nặng chỉ chiếm khoảng 0,02%[4]. Các sao với thành phần
hóa học khác nhau có những khác biệt nhỏ trong diễn biến trên dãy chính số không. Quá trình
chuyển biến Hidrô và He li trong nhân làm tăng dần khối lượng phân tử trung bình của ngôi sao.
Theo thời gian, nhân sao nhỏ lại với tốc độ rất chậm, nhiệt độ nhân tăng lên dần dẫn đến việc
cường độ sản xuất năng lượng bức xạ của ngôi sao tăng theo. Các phép tính lý thuyết dẫn đến nhận
định, các lớp ngoài của sao được tạo thêm làm bán kính sao tăng theo, đồng thời nhiệt độ bề mặt
giảm đi. Kết quả là các sao dịch chuyển chậm trên biểu đồ Hertzsprung-Russell từ dãy chính số
không, theo hướng sang phải và lên phía trên. Trong suốt quá trình dài, khi ngôi sao tiêu đốt Hidrô
tại nhân sao, cường độ sáng và bán kính của sao thay đối chậm đến mức ngôi sao chỉ dịch chuyển
trong một dải khá hẹp trên biểu đồ. Điều này giải thích nguyên nhân vì sao có một số lượng lớn các
sao tập trung tại dãy chính.
Sau khi Hidrô bị đốt hết trong nhân sao, mà lúc đó thành phần chính của nó là Heli (còn gọi là
nhân Heli), vùng trung tâm của ngôi sao Heli bắt đầu co lại vì thiếu năng lượng bức xạ cần thiết
cho việc giữ cân bằng cho ngôi sao. Điều này làm nhiệt độ vùng trung tâm sao tăng cao đến mức
các phản ứng nhiệt hạch đốt cháy Hiđrô thành Heli lại diễn ra, tuy nhiên quá trình này diễn ra ở vùng
cao hơn, bao quanh nhân ngôi sao.
Các tầng ngoài của sao trong những giai đoạn này bắt hình thành thêm, nhiệt độ bề mặt giảm,
nhưng cường độ sáng của sao có thể tăng. Biểu hiện của các sao trong thời kì này trên biểu đồ
Hertzsprung-Russell là chuyển dịch nhanh của chúng sang phải, hướng xuống dưới về vị trí các sao
khổng lồ đỏ, các sao có khối lượng từ 10 đến 15 lần khối lượng Mặt Trời sẽ dịch chuyển đến vị trí
các sao siêu khổng lồ đỏ. Ngôi sao có khối lượng càng cao, thì quá trình chuyển chỗ này diễn ra càng
nhanh.
Nếu khối lượng sao nhỏ hơn 1,5 M , sau khi đốt cháy hết Hiđrô, quá trình co hấp dẫn làm tăng
khối lượng riêng của sao với nhiệt độ không đổi. Khi đó, chất khí heli trong nhân bị thoái hóa.
Nhân sao với chất khí thoái hóa không bao giờ đạt được nhiệt độ cần thiết cho phản ứng hạt
nhân để đốt heli. Khi đó ngôi sao co nhỏ lại và trở thành sao lùn trắng với thành phần chính là
heli.
Nếu khối lượng sao trong khoảng 1,5 đến 3 M , tuy có diễn ra quá trình thoái hóa chất khí trong
ngôi sao, nhưng nhiệt độ sao tăng đến 100 triệu K[6][7]. Ở nhiệt độ này, các phản ứng nhiệt hạch
tiếp tục đốt cháy heli thành Cacbon và phát ra năng lượng.
Chú thích
1. ^ Prečo svietia hviezdy? (Vì sao sao sáng?) Vladimír Balek, xuất bản 1986, tiếng Slovak, trang
139
2. ^ Stephen Hawking's Universe (Vũ trụ của Stephen Hawking), David Filkin, 1997, bảng dịch tiếng
Slovak, trang 88.
3. ^ Bất ổn định Jeans
4. ^ a b c Encyklopédia astronómie (Từ điển Bách khoa toàn thư Thiên văn học), tập thể tác giả, xuất
bản 1987, tiếng Slovak, trang 663-667.
5. ^ The Structure of The Universe (Cấu trúc vũ trụ), Paul Halpern, 1997, bản dịch tiếng Slovak,
trang 35.
6. ^ Editors Appenzeller, Harwit, Kippenhahn, Strittmatter, & Trimble (3rd Edition). Astrophysics
Library. Springer, New York. ISBN. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |year= (trợ giúp)
7. ^ Ostlie, D.A. & Carroll, B.W. (2007). An Introduction to Modern Stellar Astrophysics. Addison
Wesley, San Francisco. ISBN 0-8053-0348-0.