(các tình huống được lấy từ nguồn Báo đấu thầu, trang web chinhphu.vn, cổng thông tin điện tử của Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 1. Việc tiết kiệm chi phí trong đấu thầu: Hỏi: Dự toán gói thầu được lập tuân thủ đúng theo quy định về quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình. Tuy nhiên, khi phê duyệt dự toán, chủ đầu tư đã quyết định giảm trừ 5% giá trị dự toán với lý do để bảo đảm cạnh tranh và tiết kiệm kinh phí trong đầu tư xây dựng các công trình sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Việc chủ đầu tư phê duyệt dự toán gói thầu như trên có phù hợp với quy định của pháp luật đấu thầu hiện hành hay không? Trả lời: Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 (Điều 35 Khoản 2) quy định giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc dự toán (nếu có) đối với dự án; dự toán mua sắm đối với mua sắm thường xuyên. Giá gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, phí, lệ phí và thuế. Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 117 Khoản 2) quy định trường hợp dự toán được phê duyệt của gói thầu cao hơn hoặc thấp hơn giá gói thầu ghi trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu đã duyệt thì dự toán đó sẽ thay thế giá gói thầu trong kế hoạch lựa chọn nhà thầu. Như vậy, theo quy định nêu trên, thì dự toán gói thầu phải được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, phí, lệ phí và thuế. Do đó, việc giảm trừ 5% giá trị dự toán sau khi đã được tính đúng, tính đủ là chưa phù hợp với quy định nêu trên. Tiết kiệm chi phí trong đấu thầu là chủ trương đúng đắn, cần thiết và phù hợp với mục tiêu của công tác đấu thầu là cạnh tranh, công bằng, minh bạch, hiệu quả kinh tế, song phải bảo đảm không trái với quy định của pháp luật về đấu thầu. Để đạt được mục tiêu tiết kiệm chi phí trong đấu thầu thì quan trọng là phải xem xét, kiểm soát ngay từ bước lập thiết kế, dự toán gói thầu. Nếu dự toán được lập chính xác, đầy đủ, sát với thiết kế, phù hợp với giá cả thị trường thì cũng sẽ giúp tiết kiệm được chi phí mà vẫn bảo đảm tính khả thi trong việc thực hiện gói thầu. Ngoài ra, quan trọng là phải tạo được môi trường đấu thầu rộng rãi, cạnh tranh, bình đẳng giữa các nhà thầu, từ đó sẽ lựa chọn được nhà thầu đáp ứng yêu cầu với giá cạnh tranh. 2. Chỉ định thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật Hỏi: Đối với gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật thì có thể chỉ định thầu cho đơn vị không trực tiếp quản lý công trình nhưng đáp ứng các điều kiện về năng lực, kinh nghiệm được hay không? Trả lời: Một trong các trường hợp được áp dụng chỉ định thầu quy định tại Khoản 1 Điều 22 Luật Đấu thầu là gói thầu di dời các công trình hạ tầng kỹ thuật do một đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý để phục vụ công tác giải phóng mặt bằng. Việc chỉ định thầu trong trường hợp này không cần căn cứ hạn mức chỉ định thầu quy định tại Điểm e Khoản này. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 55 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, nhà thầu được xác định để nhận hồ sơ yêu cầu khi có tư cách hợp lệ theo quy định tại các điểm a, b, c, d, e và h Khoản 1 Điều 5 Luật Đấu thầu và có đủ năng lực, kinh nghiệm thực hiện gói thầu. Đối với câu hỏi trên, nếu đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật (gọi tắt là đơn vị chuyên ngành) có đủ năng lực, kinh nghiệm để thực hiện gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ giải phóng mặt bằng thì được phép áp dụng hình thức chỉ định thầu. Trong đó, đơn vị chuyên ngành cần được hiểu là đơn vị quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật, đồng thời được giao quản lý, lưu giữ các hồ sơ, tài liệu kỹ thuật liên quan đến công trình, từ đó bảo đảm tính thống nhất khi đấu nối hạ tầng, hạn chế sự gián đoạn trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ. Trong trường hợp này, việc giao cho các đơn vị khác thực hiện là không khả thi do các đơn vị này không đủ thông tin để thực hiện di dời công trình trên cơ sở bảo đảm tính thống nhất trong đấu nối hạ tầng và sự liên tục trong cung cấp sản phẩm, dịch vụ có liên quan. Trường hợp đơn vị chuyên ngành không đủ năng lực, kinh nghiệm, đồng thời có nhiều doanh nghiệp khác đủ năng lực thực hiện công việc di dời công trình sau khi chủ đầu tư công bố các hồ sơ, tài liệu kỹ thuật thì không áp dụng hình thức chỉ định thầu, mà phải áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác theo quy định của pháp luật về đấu thầu cho phù hợp. Tóm lại, đối với gói thầu di dời công trình hạ tầng kỹ thuật thì việc chỉ định thầu phải đầy đủ hai yếu tố: Thứ nhất, chỉ định thầu cho đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật; thứ hai, đơn vị chuyên ngành trực tiếp quản lý công trình hạ tầng kỹ thuật phải đáp ứng yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm của gói thầu. 3. Phương án thay thế trong HSDT Ngày 25/5/2017, một nhà thầu đã gửi fax cho Nhà máy đề nghị cho phép được chào hai loại máy khác nhau về ý tưởng thiết kế, nhưng đáp ứng được các tính năng và các yêu cầu kỹ thuật in nêu tại HSMT bằng hai bản chào riêng. Hỏi: Với tình huống như trên thì Nhà máy nên xử lý như thế nào? Trả lời: Đây là một tình huống liên quan đến phương án thay thế trong hồ sơ dự thầu (HSDT). Về nguyên tắc, trong trường hợp nếu HSMT yêu cầu nhà thầu đề xuất các phương án thay thế thì nhà thầu mới được đề xuất phương án thay thế. Bên cạnh đó, nhà thầu vẫn phải chuẩn bị một HSDT theo phương án chính đáp ứng yêu cầu của HSMT. Khi đề xuất các phương án thì phải nêu rõ phương án nào là phương án chính, phương án nào là phương án thay thế. Nếu trong HSMT không yêu cầu nhà thầu đề xuất phương án thay thế, việc đề xuất phương án thay thế trong HSDT cho phương án nêu trong HSMT sẽ không được xem xét, mà chỉ xem xét phương án chính. Tuy nhiên, đối với tình huống nêu trên, do thời điểm đóng thầu là ngày 24/6/2017, trong khi bên mời thầu nhận được thông báo đề xuất phương án thay thế của nhà thầu vào ngày 25/5/2017 (chưa đến ngày đóng thầu) nên chủ đầu tư hoàn toàn có thể xem xét đề xuất trên của nhà thầu. Nếu chủ đầu tư xét thấy đề xuất của nhà thầu hợp lý, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho gói thầu thì cần đề nghị người phê duyệt HSMT xem xét việc sửa đổi HSMT theo hướng cho phép nhà thầu chào phương án thay thế. Phương án thay thế chỉ được xem xét trong trường hợp nhà thầu được xếp hạng thứ nhất và được mời vào thương thảo, tại bước thương thảo mới xem xét đến phương án thay thế. Trường hợp phương án thay thế được chấp nhận thì bên mời thầu không sửa lỗi, hiệu chỉnh sai lệch như HSMT mà lấy giá chào theo phương án thay thế của nhà thầu chào. Như vậy, trong trường hợp nói trên chủ đầu tư cần khách quan xem xét các đề nghị của nhà thầu, trường hợp cần thiết thì sửa đổi lại nội dung HSMT theo hướng cho phép chào phương án thay thế để đảm bảo hoạt động đấu thầu cạnh tranh, công bằng và hiệu quả kinh tế. 4. Tự gửi tài liệu để làm rõ năng lực: Tình huống: Có một nhà thầu sau khi xem lại hồ sơ dự thầu (HSDT) đã nộp cho Bên mời thầu thì phát hiện ra HSDT của mình thiếu về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT). Chẳng hạn như có bằng cấp, chứng chỉ đại học của công nhân nhưng chưa đủ năm (thiếu tháng) theo yêu cầu của HSMT (ngày cấp bằng là 20/8/2014, ngày đóng thầu là 12/7/2017, thiếu hơn 1 tháng so với yêu cầu 3 năm của HSMT nên chưa đạt), có hợp đồng tương tự nhưng thiếu giá trị theo yêu cầu của HSMT. Hỏi: Bên mời thầu có được phép đánh giá nhà thầu trên không đạt về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của HSMT hay phải gửi văn bản yêu cầu nhà thầu làm rõ bổ sung về năng lực và kinh nghiệm? Nhà thầu có được phép thay thế bổ sung làm rõ hợp đồng tương tự và nhân sự lao động khác không? Trả lời: Theo quy định tại Nghị định số 63/2014/NĐ-CP (Điều 16 khoản 1 và 2) thì sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Trường hợp sau khi đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện HSDT thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu được phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của HSDT. Trao đổi với Báo Đấu thầu, chuyên gia về đấu thầu cho rằng, trong quá trình đánh giá HSDT, nếu thấy nhà thầu không đạt về năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của HSMT thì bên mời thầu cần gửi văn bản yêu cầu nhà thầu làm rõ về năng lực và kinh nghiệm. Nhà thầu được phép bổ sung, thay thế hợp đồng tương tự để chứng minh năng lực của mình vì điều này không làm thay đổi bản chất của nhà thầu. Còn đối với vấn đề nhân sự thì nhà thầu chỉ được phép bổ sung, làm rõ năng lực, kinh nghiệm của nhân sự đã đề xuất chứ không được thay đổi nhân sự tham gia đấu thầu. Về vấn đề nhân sự tham gia đấu thầu có bằng cấp, chứng chỉ đại học nhưng thiếu tháng theo yêu cầu của HSMT (ngày cấp bằng là 20/8/2014, ngày đóng thầu là 12/7/2017 thiếu hơn 1 tháng so với yêu cầu của 3 năm của HSMT) thì có 2 cách tính: cách tính tương đối và cách tính tuyệt đối. Nếu tính tương đối thì từ năm 2014 – 2017 được xem là 3 năm; còn nếu tính tuyệt đối thì 3 năm phải tròn 36 tháng (đối với trường hợp này thì HSMT cần phải nói rõ là bằng cấp, chứng chỉ của nhân sự có thời hạn đủ 3 năm kinh nghiệm, tính đến thời điểm đóng thầu). 5. Làm rõ HSDT sau thời hạn bên mời thầu yêu cầu: Tình huống: Nhà thầu X tham dự một gói thầu do Ban Quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện A làm bên mời thầu. Trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) của Nhà thầu X, ngày 5/9/2017, Bên mời thầu đã phát hành văn bản yêu cầu Nhà thầu X làm rõ HSDT. Văn bản này nêu rõ: “Trong vòng 3 ngày làm việc (từ ngày 5/9/2017 đến hết ngày 7/9/2017), Nhà thầu X phải có văn bản gửi Bên mời thầu để làm rõ HSDT. Nếu sau 3 ngày nêu trên, Nhà thầu X không có công văn phản hồi thì HSDT của Nhà thầu X được coi là không đáp ứng yêu cầu của HSMT và bị loại”. Do trong thời hạn 3 ngày làm việc nêu trên Nhà thầu X chưa chuẩn bị kịp nội dung làm rõ HSDT nên chỉ nộp một phần tài liệu làm rõ HSDT, đến ngày thứ 4 nhà thầu này mới nộp đủ tài liệu làm rõ HSDT theo yêu cầu của Bên mời thầu. Bên mời thầu đã nhận được văn bản làm rõ HSDT kèm theo các tài liệu cần thiết để làm rõ HSDT của Nhà thầu X vào ngày 8/9/2017 và thời điểm này vẫn đang trong quá trình đánh giá HSDT của gói thầu đó. Hỏi: Bên mời thầu phải tiếp nhận và xử lý tài liệu làm rõ HSDT của Nhà thầu X như thế nào để phù hợp quy định của pháp luật về đấu thầu? Trả lời: Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định, sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ HSDT theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường hợp HSDT của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong HSDT của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của HSDT đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Theo hướng dẫn của Trung tâm Hỗ trợ đấu thầu thuộc Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, việc làm rõ HSDT chỉ được thực hiện giữa bên mời thầu và nhà thầu có HSDT cần làm rõ. Nội dung làm rõ HSDT được bên mời thầu bảo quản như một phần của HSDT. Đối với nội dung làm rõ ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá tư cách hợp lệ, năng lực, kinh nghiệm và yêu cầu kỹ thuật, tài chính nếu quá thời hạn làm rõ mà nhà thầu không có văn bản làm rõ hoặc có văn bản làm rõ nhưng không đáp ứng được yêu cầu làm rõ của bên mời thầu thì bên mời thầu sẽ đánh giá HSDT của nhà thầu theo HSDT nộp trước thời điểm đóng thầu. Bên mời thầu cần lưu ý quy định về thời gian dành cho nhà thầu làm rõ HSDT phù hợp, tránh tình trạng quy định thời gian làm rõ HSDT quá ngắn, không phù hợp, dẫn đến nhà thầu không thể thu thập, chuẩn bị đủ tài liệu để làm rõ HSDT theo đúng thời hạn bên mời thầu yêu cầu. Trường hợp nhà thầu nộp bổ sung tài liệu làm rõ HSDT sau thời hạn mà bên mời thầu yêu cầu nhưng vẫn đang trong quá trình đánh giá HSDT thì bên mời thầu vẫn phải tiếp nhận, xem xét và đánh giá các tài liệu do nhà thầu bổ sung, làm rõ để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu. Trường hợp cần thiết, bên mời thầu có thể gửi văn bản yêu cầu nhà thầu có khả năng trúng thầu đến làm việc trực tiếp với bên mời thầu để làm rõ HSDT. Nội dung làm rõ HSDT phải được ghi cụ thể thành biên bản. Việc làm rõ HSDT trong trường hợp này phải bảo đảm tính khách quan, minh bạch. Trong trường hợp nêu trên, Nhà thầu X nộp bổ sung tài liệu làm rõ HSDT sau thời hạn mà Bên mời thầu yêu cầu nhưng vẫn trong quá trình đánh giá HSDT thì Bên mời thầu vẫn phải tiếp nhận, xem xét và đánh giá để tăng tính cạnh tranh trong đấu thầu. 6. Chi phí lập hồ sơ mời thầu khi thuê tư vấn Tình huống: Ông Ngô Văn Trường (Điện Biên) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn xác định định mức chi phí lập hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu trường hợp phải thuê tư vấn đấu thầu. Sở Xây dựng thẩm định báo cáo kinh tế - kỹ thuật có chi phí lập hồ sơ mời thầu (HSMT), hồ sơ yêu cầu được tính bằng 0,1% giá gói thầu và UBND tỉnh đã phê duyệt báo cáo kinh tế - kỹ thuật, kế hoạch lựa chọn nhà thầu theo mức chi phí mà Sở Xây dựng đã thẩm định. Nhưng theo Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định mức chi phí lập HSMT, hồ sơ yêu cầu được tính bằng 0,1% giá gói thầu điều này áp dụng đối với trường hợp chủ đầu tư, bên mời thầu trực tiếp thực hiện, còn bên công trình của đơn vị ông (dưới 10 tỷ đồng) là đi thuê tư vấn đấu thầu thì theo Quyết định 79/QĐ-BXD của Bộ Xây dựng thì chi phí là 0,432%. Hỏi: Ông Trường hỏi, vậy khi ký hợp đồng tư vấn thì đơn vị theo mức 0,1% như UBND tỉnh phê duyệt hay theo mức 0,432%? Trường hợp nếu theo 0,432% (khác với quyết định phê duyệt của UBND tỉnh) thì sau này khi thanh quyết toán như thế nào? Ông cần thực hiện những thủ tục như thế nào? Có cần phải làm phụ lục hợp đồng khi thanh toán hay không? Trả lời: Theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 9 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ, chi phí lập HSMT, hồ sơ yêu cầu được tính bằng 0,1% giá gói thầu nhưng tối thiểu là 1.000.000 đồng và tối đa là 50.000.000 đồng. Theo quy định tại Khoản 7, Điều 9 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ, chi phí quy định tại các Khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này áp dụng đối với trường hợp chủ đầu tư, bên mời thầu trực tiếp thực hiện. Đối với trường hợp thuê tư vấn đấu thầu để thực hiện các công việc nêu tại các Khoản 2, 3, 4, 5 và 6 Điều này, việc xác định chi phí dựa trên các nội dung và phạm vi công việc, thời gian thực hiện, năng lực kinh nghiệm của chuyên gia tư vấn và các yếu tố khác. Đối với trường hợp của ông Trường, chi phí lập hồ sơ yêu cầu thực hiện theo quy định nêu trên. 7. Các tiêu chí đánh giá hợp đồng tương tự trong hồ sơ thầu Tình huống: Ông Tuấn Anh (Hà Nội) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn chủ đầu tư xử lý tình huống về đánh giá hợp đồng tương tự đối với gói thầu mua sắm hàng hóa. Cụ thể, hồ sơ mời thầu nêu quy định đánh giá hợp đồng tương tự: Số lượng tối thiểu các hợp đồng tương tự cung cấp thiết bị y tế mà nhà thầu đã hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành phần lớn với tư cách là nhà thầu chính (độc lập hoặc thành viên liên danh) hoặc nhà thầu phụ trong vòng 3 năm trở lại đây (từ 2014 đến thời điểm đóng thầu): - Số lượng tối thiểu các hợp đồng tương tự là 1 hợp đồng (hợp đồng, biên bản bàn giao nghiệm thu hoặc thanh lý hợp đồng được công chứng), trong đó có ít nhất 1 hợp đồng có giá trị ≥ 4,1 tỷ đồng. - Hợp đồng hoàn thành phần lớn được hiểu là hoàn thành ít nhất 80% khối lượng công việc của hợp đồng (có tài liệu chứng minh). Tổ thẩm định có yêu cầu, hợp đồng tương tự theo quy định tại Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nhưng tổ chuyên gia thì dẫn chứng tham khảo theo Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Tổ thẩm định không chấp nhận, vẫn yêu cầu tổ chuyên gia thực hiện đánh giá hồ sơ dự thầu phải thực hiện theo yêu cầu của tổ thẩm định, tức là tương tự về chủng loại, tính chất và quy mô (theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT yêu cầu) nhưng không được quy định trong hồ sơ mời thầu. Hỏi: Ông Tuấn Anh hỏi, trường hợp này chủ đầu tư phải thực hiện theo ý kiến nào? Trả lời: Theo hướng dẫn tại ghi chú số 11 Mục 2.1 Chương III Mẫu hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT- BKHĐT, hợp đồng cung cấp hàng hóa tương tự là hợp đồng trong đó hàng hóa được cung cấp tương tự với hàng hóa của gói thầu đang xét và đã hoàn thành, bao gồm: - Tương tự về chủng loại, tính chất: Có cùng chủng loại, tương tự về đặc tính kỹ thuật và tính năng sử dụng với hàng hóa của gói thầu đang xét. - Tương tự về quy mô: Có giá trị hợp đồng bằng hoặc lớn hơn 70% giá trị của gói thầu đang xét. Theo đó, chủ đầu tư, bên mời thầu căn cứ vào quy mô, tính chất của gói thầu để đưa ra yêu cầu cụ thể trong hồ sơ mời thầu cho phù hợp với hướng dẫn nêu trên. 8. Đánh giá tính hợp lệ của liên danh thế nào? Tình huống: Ông Nguyễn Văn Rin (TPHCM), kỹ sư chuyên làm công tác tư vấn đấu thầu cho các Ban quản lý dự án quận, huyện, đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống như sau: Một gói thầu thi công xây lắp áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi một giai đoạn hai túi hồ sơ. Nhà thầu X có thỏa thuận liên danh giữa công ty A và công ty B (theo tỷ lệ liên danh như sau: Công ty A đảm nhiệm 30% công việc của gói thầu, công ty B đảm nhiệm 70% công việc của gói thầu). Kết quả đánh giá về kỹ thuật thì nhà thầu X đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật, được chủ đầu tư phê duyệt danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật và mời mở túi tài chính. Sau khi mở tài chính đơn vị tư vấn đấu thầu tiến hành đánh giá và sửa lỗi hiệu chỉnh giá dự thầu của nhà thầu X. Kết quả có sự sai sót số học và hiệu chỉnh sai lệch làm thay đổi tỷ lệ liên danh giữa công ty A và công ty B (tỷ lệ liên danh sau khi sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch là công ty A 50% và công ty B 50%). Nếu xét theo tỷ lệ liên danh công ty A 50% thì công ty A không đáp ứng yêu cầu về năng lực kinh nghiệm, dẫn đến nhà thầu X không đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật. Hỏi: Ông Rin hỏi, tình huống nêu trên bên mời thầu xử lý như thế nào? Trả lời: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trả lời như sau: Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo quy định tại điểm g Mục 1.2 Chương III Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT, thỏa thuận liên danh hợp lệ là thỏa thuận liên danh được đại diện hợp pháp của từng thành viên liên danh ký tên, đóng dấu (nếu có) và trong thỏa thuận liên danh phải nêu rõ nội dung công việc cụ thể và ước tính tỷ lệ % giá trị tương ứng mà từng thành viên trong liên danh sẽ thực hiện theo Mẫu số 03 Chương IV – Biểu mẫu dự thầu. Theo đó, việc đánh giá tính hợp lệ của liên danh phải tuân thủ theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu. 9. Gói thầu thuộc dịch vụ phi tư vấn hay mua sắm hàng hóa? Hỏi: Đơn vị bà Nguyễn Bích Ngọc (Yên Bái) đang chuẩn bị lập hồ sơ mời thầu gói thầu cung cấp dịch vụ vệ sinh công nghiệp phục vụ công tác khám, chữa bệnh tại trung tâm. Bà Ngọc hỏi, hồ sơ mời thầu sẽ lập theo gói thầu phi tư vấn hay gói thầu cung cấp hàng hóa? Trả lời: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trả lời như sau: Tại Khoản 9 và Khoản 25 Điều 4Luật Đấu thầu quy định, dịch vụ phi tư vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: Logistics, bảo hiểm, quảng cáo, lắp đặt không thuộc quy định tại Khoản 45, Điều 4 Luật Đấu thầu, nghiệm thu chạy thử, tổ chức đào tạo, bảo trì, bảo dưỡng, vẽ bản đồ và hoạt động khác không phải là dịch vụ tư vấn quy định tại Khoản 8, Điều 4 Luật Đấu thầu. Hàng hoá gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế. Đối với trường hợp của bà Ngọc, dịch vụ vệ sinh công nghiệp tại bệnh viện được coi là dịch vụ phi tư vấn theo định nghĩa nêu trên. 10. Có tên trên Hệ thống đấu thầu quốc gia là đáp ứng yêu cầu? Tình huống: a) Tình huống 1: Bà Lê Thị Thanh Thủy (Đà Nẵng) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống như sau: - Về tính hợp lệ của nhà thầu tham gia đấu thầu: Hồ sơ mời thầu yêu cầu các nhà thầu đã đăng ký tên trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, nhà thầu phải đạt năng lực tương ứng với hạng II theo quy định tại Điều 65, Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 (Kèm theo tài liệu chứng minh) và chứng minh được năng lực kinh nghiệm đã thi công các công trình có quy mô, tính chất tương tự như gói thầu đang xét. Nhà thầu X có chứng chỉ năng lực xây dựng dân dụng hạng I. Giấy đăng ký hoạt động doanh nghiệp của nhà thầu X được đăng ký năm 2009 đăng ký hoạt động xây dựng ở mã ngành nghề 4290 là xây dựng công trình kỹ thuật dân dụng khác (Mã ngành xây dựng công trình công nghiệp, trừ nhà cửa) được chi tiết rõ tên ngành trong giấy phép kinh doanh bao gồm “Xây dựng: Dân dụng, công nghiệp, giao thông, cầu đường, thủy lợi (Đập dâng, hồ chứa, xây lắp kè công, kênh mương, đào đắp kè); Xây dựng đường dây tải điện, trạm biến áp có điện áp từ 35KV trở xuống, xây lắp cấp thoát nước; Xây dựng công trình văn hóa”; Hồ sơ dự thầu của nhà thầu X chứng minh năng lực kinh nghiệm của mình đã thực hiện công trình dân dụng cấp II được xây dựng từ tháng 11/2012 và hoàn thành năm 1/2015 (Hợp đồng có giá trị 127 tỉ đồng, biên bản nghiệm thu đưa vào sử dụng, hóa đơn thuế giá trị gia tăng cho toàn bộ giá trị công trình và công trình đã được quyết toán năm 2015). Từ các yếu tố trên Tổ chuyên gia chấm thầu của chủ đầu tư có 2 quan điểm trái chiều: Quan điểm I: Mặc dù có thi công thực tế nhưng năng lực kinh nghiệm của nhà thầu không được chấp nhận vì thực hiện xây dựng công trình không đúng ngành nghề đã đăng ký hoạt động (vi phạm pháp luật) dẫn đến kết luận năng lực nhà thầu không hợp lệ. Quan điểm II: Hồ sơ mời thầu chỉ yêu cầu nhà thầu có đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia và kinh nghiệm thực tế thi công các công các công trình tương tự về quy mô, tính chất phức tạp là đáp ứng yêu cầu cầu hồ sơ mời thầu, bên cạnh đó tại điều 7 Luật Doanh nghiệp 68/2014/QH13 có quy định quyền của doanh nghiệp “Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm;Tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh”và tại Điều 29 Luật Doanh nghiệp cũng bỏ nội dung ghi mã ngành nghề trên giấy đăng ký hoạt động doanh nghiệp nhằm mở rộng thông thoáng môi trường kinh doanh cho các nhà thầu. Nhà thầu đã được cấp chứng chỉ năng lực hạng I về dân dụng. Như vậy, năng lực kinh nghiệm của nhà thầu X này hoàn toàn hợp lệ. Bà Thủy đề nghị cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn về tính hợp lệ của nhà thầu này. b) Tình huống 2: Về tư cách hợp lệ của nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu và chấm thầu: Nhà thầu tư vấn được chủ đầu tư chỉ định thầu với giá trị thực hiện cho việc lập hồ sơ mời thầu và chấm thầu các gói thầu xây lắp và thiết bị là 130 triệu đồng (Nhà thầu này có cung cấp năng lực kinh nghiệm, giấy phép kinh doanh và đã đăng ký tên trên Hệ thống mạng đấu thầu vào ngày 31/7/2014 đến chủ đầu tư) tuy nhiên tại thời điểm được chỉ định thầu nhà thầu chưa nộp phí duy trì hoạt động trên Hệ thống. Được biết đây là ngành nghề kinh doanh không điều kiện và năng lực chính là năng lực của các chuyên gia tư vấn, tại Điều 31 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT-BKHĐT-BTC ngày 8/9/2015 có nêu “Nhà thầu, nhà đầu tư không nộp chi phí duy trì tên và dữ liệu trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia theo đúng thời hạn trên sau khi đã được nhắc nhở nhưng vẫn không nộp thì việc đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị xem là hết hiệu lực, khi đó, nhà thầu, nhà đầu tư sẽ không in được bản xác nhận đã đăng ký tham gia Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia quy định tại Khoản 3 Điều 6 Thông tư này”chứ không quy định hủy bỏ tư cách đã đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia. Đến nay Nhà thầu tư vấn đã nộp phí duy trì hoạt động và được gia hạn. (Quá trình nộp phí nhà thầu chỉ cần chuyển tiền cho tài khoản của Hệ thống mạng là tự động được gia hạn, nhà thầu không phải thực hiện việc đăng ký lại năng lực của mình). Hỏi: Bà Thủy hỏi, vậy có được hiểu rằng“Việc có tên đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia bị xem là hết hiệu lực”không ràng buộc tính hợp lệ của năng lực nhà thầu? Nhà thầu này có năng lực hợp lệ khi thực hiện công việc tư vấn của mình không? Trả lời: Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trả lời như sau: Theo quy định tại Điểm d, Khoản 1, Điều 5 Luật Đấu thầu, một trong những điều kiện về tư cách hợp lệ của nhà thầu tham dự thầu là đã đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia (Hệ thống). Theo quy định tại Khoản 1, Điều 37 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT- BKHĐT-BTC ngày 8/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính quy định bắt đầu từ ngày 1/7/2016, trước thời điểm đóng thầu 2 ngày làm việc, nhà thầu chưa có xác nhận đăng ký thông tin trên Hệ thống không được tham dự thầu đối với các gói thầu, dự án có hình thức lựa chọn nhà thầu quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25 và 26 của Luật Đấu thầu. Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo hướng dẫn tại ghi chú số 10 Chương III Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp một giai đoạn hai túi hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hợp đồng tương tự là hợp đồng đã thực hiện toàn bộ, trong đó công việc xây lắp có các tính chất tương tự với gói thầu đang xét, bao gồm: - Tương tự về bản chất và độ phức tạp: Có cùng loại và cấp công trình tương tự hoặc cao hơn cấp công trình yêu cầu cho gói thầu này theo quy định của pháp luật về xây dựng. Đối với các công việc đặc thù, có thể chỉ yêu cầu nhà thầu phải có hợp đồng thi công tương tự về bản chất và độ phức tạp đối với các hạng mục chính của gói thầu; - Tương tự về quy mô công việc: Có giá trị công việc xây lắp bằng hoặc lớn hơn 70% giá trị công việc xây lắp của gói thầu đang xét (hai công trình có cấp thấp hơn liền kề với cấp của công trình đang xét, quy mô mỗi công trình cấp thấp hơn liền kề bằng hoặc lớn hơn 70% giá trị công việc xây lắp của gói thầu đang xét thì được đánh giá là một hợp đồng xây lắp tương tự). Đối với trường hợp của bà Thủy, việc đánh giá năng lực, kinh nghiệm (trong đó có nội dung về hợp đồng tương tự) của nhà thầu thực hiện theo tiêu chuẩn đánh giá đã quy định trong hồ sơ mời thầu và trên cơ sở quy định của Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu. Liên quan đến tư cách của nhà thầu, trường hợp nhà thầu đã có tên trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia thì được coi là đáp ứng yêu cầu về tư cách hợp lệ nêu tại Điểm d, Khoản 1, Điều 5 Luật Đấu thầu. 11. Lựa chọn nhà đầu tư đối với dự án có sử dụng đất: Tình huống: Theo phản ánh của ông Trung, trên địa bàn tỉnh Phú Yên đang thực hiện tổ chức lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất theo Nghị định số 30/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ và Thông tư số 16/2016/TT-BKHĐT ngày 16/12/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Trong quy định của Nghị định số 30/2015/NĐ-CP và Thông tư số 16/2016/TT-BKHĐT có quy định việc đánh giá tiêu chuẩn hiệu quả đầu tư (B) = M2+M3. Trong đó: - M2 là giá trị bồi thường giải phóng mặt bằng do nhà đầu tư đề xuất. - M3 là giá trị nộp ngân sách Nhà nước do nhà đầu tư đề xuất. Tuy nhiên, trong Nghị định số 30/2015/NĐ-CP và Thông tư số 16/2016/TT-BKHĐT không quy định việc xác định giá trị M3 này dựa trên những tiêu chí nào và bao gồm những khoản phải nộp ngân sách Nhà nước là những khoản gì để bên mời thầu có cơ sở xác định cho đúng quy định. Hỏi: Ông Nguyễn Duy Trung hỏi, giá trị M3 gồm những khoản phải nộp nào cho ngân sách Nhà nước để bên mời thầu có cơ sở xác định khi lập hồ sơ mời thầu nhà đầu tư và giá trị M3 này có bao gồm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất không? Trả lời: Vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Tại Mục 5, Chương III bảng Chỉ dẫn nhà đầu tư Mẫu hồ sơ mời thầu ban hành kèm theo Thông tư số 16/2016/TT-BKHĐT ngày 16/12/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phương pháp lợi ích xã hội, lợi ích Nhà nước được sử dụng để đánh giá nhà đầu tư đề xuất phương án thực hiện dự án có hiệu quả đầu tư lớn nhất. Hiệu quả đầu tư được đánh giá thông qua các tiêu chí như sau: - Nhà đầu tư có giá đề xuất (A) không thấp hơn giá sàn; - Giá trị bồi thường, giải phóng mặt bằng (M2) không thấp hơn m2; - Giá trị đề xuất nộp ngân sách Nhà nước (M3) không thấp hơn m3; - Hiệu quả đầu tư (B) lớn nhất được xếp thứ nhất và mời vào đàm phán sơ bộ hợp đồng. Theo bảng Chỉ dẫn nhà đầu tư (Chương II, Mục 1.2) Mẫu hồ sơ mời thầu ban hành kèm theo Thông tư số 16/2016/TT-BKHĐT ngày 16/12/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giá trị đề xuất nộp ngân sách Nhà nước tối thiểu (m3) được bên mời thầu xác định căn cứ lợi thế thương mại của khu đất, quỹ đất thực hiện dự án trong tương lai hoặc thống kê giá trị của các khu đất có vị trí, tính chất tương đồng với khu đất thực hiện dự án. Trong đó, m3 là giá trị tối thiểu nhà đầu tư phải cam kết nộp ngân sách Nhà nước không điều kiện. Giá trị này độc lập với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải nộp (được xác định tại thời điểm giao đất, cho thuê đất thực tế) theo quy định của pháp luật về đất đai. Việc xác định m3 theo quy định nêu trên có thể tham vấn ý kiến hướng dẫn của cơ quan quản lý Nhà nước về tài chính để vận dụng xác định hệ số điều chỉnh giá đất khi khu đất thuộc đô thị, đầu mối giao thông, khu dân cư tập trung có lợi thế, khả năng sinh lợi trong đấu giá đất (tại Điều 1 Khoản 3 Thông tư số332/2016/TT- BTCngày 26/12/2016 của Bộ Tài chính). Nội dung này đặc biệt cần thiết khi áp dụng hình thức chỉ định thầu để lựa chọn nhà đầu tư. Khi đó, cơ quan tham mưu về lĩnh vực tài chính đất đai dự kiến giá trị lợi thế của khu đất trong trường hợp chỉ có một nhà đầu tư tham gia quá trình lựa chọn, không có sự cạnh tranh, nhằm tránh thất thoát cho ngân sách Nhà nước. 12. Nên đề nghị làm rõ hồ sơ dự thầu hay chấm trượt thầu? Tình huống: Đơn vị của ông Tạ Thiên Giang (Bắc Ninh) đang chấm thầu gói thầu xây lắp, bên nhà thầu có những lỗi như sau: - Theo hồ sơ mời thầu thì số liệu doanh thu hàng năm từ hoạt động xây dựng cho 3 năm gần nhất nhưng trong hồ sơ dự thầu ghi số liệu doanh thu hàng năm từ hoạt động xây dựng cho 2 năm gần nhất. - Cán bộ an toàn lao động trong bản kê kinh nghiệm chuyên môn từ năm 2010, trong hợp đồng lao động ký năm 2012. - Bảng kê khai thiết bị năm sản xuất không khớp với hóa đơn. - Phần thuyết minh sơ đồ tổ chức tại công trường không khớp với bảng kê nhân sự. - Tổ chức mặt bằng thi công, bản vẽ và thuyết minh không thống nhất với nhau. - Bảng tiến độ thi công không khớp với đơn thời gian ghi trong đơn dự thầu. Hỏi: Ông Giang hỏi, đơn vị ông có nên yêu cầu nhà thầu bổ sung, làm rõ hồ sơ không hay chấm trượt? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Khoản 1 và Khoản 3, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định, sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường hợp hồ sơ dự thầu của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Việc làm rõ hồ sơ dự thầu chỉ được thực hiện giữa bên mời thầu và nhà thầu có hồ sơ dự thầu cần phải làm rõ và phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi bản chất của nhà thầu tham dự thầu. Nội dung làm rõ hồ sơ dự thầu phải thể hiện bằng văn bản và được bên mời thầu bảo quản như một phần của hồ sơ dự thầu. Đối với trường hợp của ông Giang, việc làm rõ hồ sơ dự thầu được thực hiện theo quy định nêu trên. Ngoài ra, cần lưu ý theo quy định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, đơn dự thầu hợp lệ phải có thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật. 13. Thương thảo hợp đồng trong chào hàng cạnh tranh rút gọn Hỏi: Bà Nguyễn Tố Anh (Hà Nội) đang làm công việc đấu thầu xây dựng cơ bản, bà có một số vướng mắc đề nghị được giải đáp như sau: Theo Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, khi thương thảo hợp đồng trong đấu thầu không được làm thay đổi giá gói thầu. Tuy nhiên, khi lập dự toán hồ sơ đề xuất, nhà thầu lại ghi các khoản mục công việc theo các mã hiệu theo định mức công bố nhưng đơn giá lại tính cao hơn đơn giá định mức. Bà Tố Anh hỏi, trong trường hợp này thì bên mời thầu có được thương thảo lại giá không? Tại Điều 58 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định chào hàng cạnh tranh thì, thương thảo hợp đồng trong chào hàng cạnh tranh thông thường tuân theo Điều 19 của Nghị định nêu trên (thương thảo không làm thay đổi giá), vậy còn trường hợp chào hàng cạnh tranh rút gọn, có được thương thảo thay đổi giá gói thầu cạnh tranh rút gọn không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Điểm b, Khoản 3, Điều 19 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định một trong những nguyên tắc về thương thảo hợp đồng là không tiến hành thương thảo đối với các nội dung mà nhà thầu đã chào thầu theo đúng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp của bà Tố Anh, việc thương thảo hợp đồng (đối với cả trường hợp chào hàng cạnh tranh rút gọn) phải tuân thủ theo quy định nêu trên. Bên cạnh đó, thông báo giá vật tư, ca máy, công bố mức lương tối thiểu của các cơ quan có thẩm quyền ban hành chỉ mang tính chất tham khảo đối với nhà thầu và mang ý nghĩa để hướng dẫn các chủ đầu tư lập đơn giá, định mức, dự toán cho gói thầu. 14. Chi phí hạng mục chung có phân bổ vào giá dự thầu? Tình huống: Ông Đặng Văn Duy (Nam Định) đang thẩm định hồ sơ mời thầu gói thầu xây lắp bao gồm: - Chi phí xây dựng: 9.955.807.027 đồng - Chi phí hạng mục chung: 298.674.211 đồng Đơn vị tư vấn đã lập xong hồ sơ mời thầu trong đó yêu cầu chi phí hạng mục chung nhà thầu phân bổ vào trong giá dự thầu. Tuy nhiên, theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 quy định chi tiết lập hồ sơ mời thầu xây lắp, phần giá gói thầu bao gồm chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung, chi phí dự phòng, trong đó đối với hợp đồng trọn gói, nhà thầu phải tính toán và phân bổ chi phí dự phòng vào trong giá dự thầu; không tách riêng phần chi phí dự phòng mà nhà thầu đã phân bổ trong giá dự thầu để xem xét, đánh giá trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu về tài chính, thương mại. Nhưng không quy định chi phí hạng mục chung nhà thầu phân bổ vào trong giá dự thầu. Hỏi: Ông Duy hỏi, việc hồ sơ mời thầu của đơn vị tư vấn yêu cầu chi phí hạng mục chung nhà thầu phân bổ vào trong giá dự thầu có đúng quy định không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo quy định tại Điều 5 Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT, giá gói thầu phải bao gồm chi phí xây dựng, chi phí hạng mục chung và chi phí dự phòng. Đối với hợp đồng trọn gói, nhà thầu phải tính toán và phân bổ chi phí dự phòng vào trong giá dự thầu; không tách riêng phần chi phí dự phòng mà nhà thầu đã phân bổ trong giá dự thầu để xem xét, đánh giá trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu về tài chính, thương mại. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 4, Thông tư nêu trên, giá dự thầu của nhà thầu phải bao gồm toàn bộ các chi phí cần thiết để thực hiện gói thầu, trong đó có thuế, phí, lệ phí (nếu có). Thuế, phí, lệ phí được áp theo thuế suất, mức phí, lệ phí theo quy định tại thời điểm 28 ngày trước ngày có thời điểm đóng thầu. Theo đó, giá dự thầu đã bao gồm chi phí hạng mục chung. Đối với trường hợp của ông Duy, việc lập hồ sơ mời thầu thực hiện theo quy định nêu trên và là cơ sở để nhà thầu chào giá. Việc xét duyệt trúng thầu thực hiện theo quy định tại Khoản 1, Điều 43 Luật Đấu thầu. 15. Căn cứ xác định hình thức gói thầu: Tình huống: Công ty TNHH NN MTV Thương mại và XNK Viettel (Hà Nội) đang thực hiện đấu thầu gói thầu có nội dung công việc bao gồm cung cấp thiết bị, cung cấp phần mềm. Tổng giá trị gói thầu là 15 tỷ đồng, trong đó giá trị phần thiết bị chiếm 99,8% giá trị gói thầu, giá trị phần mềm chiếm 0,2%. Hỏi: Công ty hỏi, đây là gói thầu hỗn hợp hay gói thầu mua sắm hàng hóa thông thường? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có ý kiến như sau: Khoản 8, Khoản 25, Điều 4 Luật Đấu thầu quy định dịch vụ tư vấn là một hoặc một số hoạt động bao gồm: - Lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, kiến trúc; - Khảo sát, lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cứu khả thi, báo cáo đánh giá tác động môi trường; - Khảo sát, lập thiết kế, dự toán; - Lập hồ sơ mời quan tâm, hồ sơ mời sơ tuyển, hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu; - Đánh giá hồ sơ quan tâm, hồ sơ dự sơ tuyển, hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất; - Thẩm tra, thẩm định; - Giám sát; - Quản lý dự án; - Thu xếp tài chính; - Kiểm toán, đào tạo, chuyển giao công nghệ; - Các dịch vụ tư vấn khác. Hàng hoá gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, vật tư, phụ tùng; hàng tiêu dùng; thuốc, vật tư y tế dùng cho các cơ sở y tế. Theo đó, trường hợp phần mềm cần mua đã có sẵn trên thị trường, không yêu cầu thuê chuyên gia tư vấn để thiết kế thì được coi là hàng hóa, gói thầu mua thiết bị và phần mềm này là gói thầu hàng hóa. Tình huống 2: Đơn vị ông Hoàng Long (Trà Vinh) đang công tác có dự án xây dựng phần mềm để phục vụ công tác quản lý chuyên môn, trong đó gói thầu xây dựng phần mềm có giá trị 550 triệu đồng. Kế hoạch lựa chọn nhà thầu được cấp có thẩm quyền phê duyệt có ghi gói thầu xây dựng phần mềm sử dụng kinh phí sự nghiệp được giao năm 2017 thực hiện hình thức lựa chọn nhà thầu là chào hàng cạnh tranh thông thường phương thức 1 giai đoạn 1 túi hồ sơ. Sau khi lập Hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh theo Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT để trình cơ quan thẩm định thì nhận được ý kiến như sau: "Chủ đầu tư lưu ý đây là gói thầu "Dịch vụ tư vấn" căn cứ các quy định của pháp luật về đấu thầu đề nghị chủ đầu tư xem xét lại hình thức và phương thức lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu tư vấn để đảm đảo lựa chọn nhà thầu đủ năng lực thực hiện và đúng quy định hiện hành". Theo ý kiến của cấp có thẩm quyền thì đây là gói thầu mua sắm hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh của Điểm e, Khoản 1, Điều 2 Thông tư số 58/2016/TT- BTC, có giá gói thầu trong khoảng 200 triệu đồng đến 2 tỷ đồng thực hiện chào hàng cạnh tranh thông thường theo Khoản 1, Điều 19 Thông tư số 58/2016/TT- BTC. Hỏi: Ông Long hỏi, trường hợp này ý kiến của cơ quan nào không phù hợp? Đơn vị ông nên thực hiện theo quy định nào? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Trường hợp gói thầu mua phần mềm mà phần mềm này có sẵn trên thị trường thì đây là gói thầu mua sắm hàng hóa theo quy định tại Khoản 25 Điều 4 Luật Đấu thầu. Trường hợp gói thầu là thuê tổ chức, chuyên gia để xây dựng, phát triển một phần mềm theo yêu cầu của bên mời thầu thì đây là gói thầu dịch vụ tư vấn theo quy định tại Khoản 8, Điều 4 Luật Đấu thầu. 16. Yêu cầu về năng lực kinh nghiệm trong đấu thầu mua sắm hàng hóa? Tình huống: Trong đấu thầu mua sắm hàng hóa, tại mục yêu cầu về năng lực kinh nghiệm mà bên Chủ đầu tư đưa ra như sau: "Số lượng tối thiểu các hợp đồng tương tự theo mô tả dưới đây mà nhà thầu đã hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành phần lớn với tư cách là nhà thầu chính (độc lập hoặc thành viên liên danh) hoặc nhà thầu phụ trong vòng 3 năm trở lại đây (tính đến thời điểm đóng thầu): Số lượng hợp đồng là 2 và mỗi hợp đồng có giá trị tối thiểu là 650.000.000 đồng. Hoặc Số lượng hợp đồng ít hơn 2 hoặc nhiều hơn 2 và có ít nhất một hợp đồng có giá trị tối thiểu là 650.000.000 đồng và tổng giá trị tất cả các hợp đồng ≥ 1.300.000.000 đồng. Hợp đồng tương tự là hợp đồng trong đó hàng hóa được cung cấp tương tự với hàng hóa của gói thầu đang xét, bao gồm: Tương tự về chủng loại, tính chất (có cùng chủng loại, tương tự về đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng của gói thầu đang xét) và tương tự về quy mô nêu trên. Với các hợp đồng mà nhà thầu tham gia với tư cách là thành viên liên danh hoặc nhà thầu phụ thì chỉ tính giá trị phần công việc do nhà thầu thực hiện. Nhà thầu có trách nhiệm nộp bản scan các hợp đồng tương tự và biên bản nghiệm thu/ thanh lý/ hóa đơn/ văn bản xác nhận của Chủ đầu tư ( của hợp đồng tương tự)… để chứng minh năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu" Nhà thầu A tham dự gói thầu này và gửi 3 hợp đồng: - Hợp đồng 1 giá trị 36.256.000 và toàn bộ hàng hóa trong hợp đồng này giống với hàng hóa bên Chủ đầu tư cần mua. - Hợp đồng 2 có giá trị hợp đồng là 108.768.000 và toàn bộ hàng hóa trong hợp đồng này giống với hàng hóa bên Chủ đầu tư cần mua. - Hợp đồng 3: Giá trị hợp đồng là 1.700.000.000 nhưng phần giá trị hàng hóa giống với yêu cầu bên Chủ đầu tư là 794.970.000, phần hàng hóa còn lại khác với hàng hóa mà bên Chủ đầu tư yêu cầu. Trong quá trình xét thầu, bên Chủ đầu tư đánh rớt nhà thầu với lý do: Năng lực kinh nghiệm không đạt vì tổng giá trị đối với hạng mục công việc tương đương không đáp ứng. Hỏi: Trong trường hợp này bên Chủ đầu tư đúng hay sai. Vì nếu áp dụng "cách hiểu về hợp đồng tương tự và giá trị hợp đồng tương tự" của bên Chủ Đầu tư như vậy là máy móc và hạn chế rất nhiều đến khả năng cung cấp hàng hóa của Nhà Thầu. Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định việc đánh giá hồ sơ dự thầu phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và các yêu cầu khác trong hồ sơ mời thầu, căn cứ vào hồ sơ dự thầu đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Theo ghi chú số 11 Mục 2.1 Chương III Mẫu HSMT mua sắm hàng hóa ban hành kèm theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT, hợp đồng cung cấp hàng hóa tương tự là hợp đồng trong đó hàng hóa được cung cấp tương tự với hàng hóa của gói thầu đang xét và đã hoàn thành, bao gồm: (i) tương tự về chủng loại, tính chất: có cùng chủng loại, tương tự về đặc tính kỹ thuật và tính năng sử dụng với hàng hóa của gói thầu đang xét; (ii) tương tự về quy mô: có giá trị hợp đồng bằng hoặc lớn hơn 70% giá trị của gói thầu đang xét. Trường hợp trong HSMT yêu cầu nhà thầu đã thực hiện từ hai hợp đồng tương tự trở lên thì nhà thầu phải đáp ứng tối thiếu một hợp đồng với quy mô, tính chất tương tự gói thầu đang xét. Quy mô của các hợp đồng tương tự tiếp theo được xác định bằng cách cộng các hợp đồng có quy mô nhỏ hơn nhưng phải bảo đảm các hợp đồng đó có tính chất tương tự với các hạng mục cơ bản của gói thầu đang xét. Theo đó, việc đánh giá hồ sơ dự thầu (trong đó bao gồm việc đánh giá về năng lực, kinh nghiệm) phải tuân thủ theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu. 17. Hồ sơ mời thầu được yêu cầu về thời hạn chứng chỉ hành nghề? Tình huống: Công ty CP Xây dựng Thương mại Dịch vụ TPP là đơn vị tư vấn đấu thầu gói thầu A (1 giai đoạn 2 túi hồ sơ). Trong quá trình đánh giá hồ sơ đề xuất kỹ thuật của nhà thầu A về nhân sự chủ chốt, cán bộ kỹ thuật phụ trách phần xây dựng có yêu cầu là phải có chứng chỉ hành nghề giám sát công trình dân dụng còn hiệu lực tối thiểu 1 năm kể từ thời điểm đóng thầu. Nhà thầu A có bố trí nhân sự B có chứng chỉ hành nghề giám sát công trình dân dụng còn hiệu lực nhưng hiệu lực chứng chỉ dưới 1 năm kể từ thời điểm đóng thầu. Bên mời thầu đã làm rõ nhân sự B của nhà thầu A, nhưng nhà thầu A có văn bản trả lời là nhà thầu cam kết sẽ xin cấp chứng chỉ hành nghề giám sát xây dựng và hoàn thiện công trình dân dụng công nghiệp mới cho nhân sự B khi chứng chỉ cũ hết hạn sử dụng theo quy định hiện hành. Hỏi: Việc tổ chuyên gia đánh giá nhà thầu A đáp ứng về năng lực kinh nghiệm có đúng quy định không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trả lời như sau: Khoản 2, Điều 12 và Khoản 1, Điều 15 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trong hồ sơ mời thầu (HSMT) không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng; việc đánh giá hồ sơ dự thầu (HSDT) phải căn cứ vào tiêu chuẩn đánh giá HSDT và các yêu cầu khác trong HSMT, căn cứ vào HSDT đã nộp, các tài liệu giải thích, làm rõ HSDT của nhà thầu để bảo đảm lựa chọn được nhà thầu có đủ năng lực và kinh nghiệm, có giải pháp khả thi để thực hiện gói thầu. Đối với vấn đề nêu của Công ty CP Xây dựng Thương mại Dịch vụ TPP, việc lập HSMT, đánh giá HSDT phải tuân thủ theo quy định nêu trên và thuộc trách nhiệm của tổ chuyên gia, bên mời thầu. Theo đó, việc HSMT yêu cầu cán bộ kỹ thuật phải có chứng chỉ hành nghề giám sát còn hiệu lực tối thiểu 1 năm có thể dẫn đến làm hạn chế sự tham gia của nhà thầu, vi phạm quy định tại Khoản 2, Điều 12 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP nêu trên. Do đó, trong trường hợp này, nếu tại thời điểm đóng thầu, nhân sự do nhà thầu đề xuất đảm nhiệm vị trí cán bộ kỹ thuật có chứng chỉ hành nghề giám sát còn hiệu lực thì nhân sự này được đánh giá đáp ứng yêu cầu của HSMT đối với nội dung về chứng chỉ hành nghề giám sát. 18. Yêu cầu về mức doanh thu trung bình trong hồ sơ mời thầu Hỏi: Đối với gói thầu quy có mô hơn 20 tỷ đồng, bên mời thầu có được đưa ra yêu cầu hệ số k của công thức tính mức doanh thu trung bình hàng năm là 1 không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo hướng dẫn tại Chương III, mục 2.1, ghi chú số 6, Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cách tính toán thông thường về mức yêu cầu doanh thu bình quân hàng năm: Yêu cầu tối thiểu về mức doanh thu bình quân hàng năm = (Giá gói thầu/thời gian thực hiện hợp đồng theo năm) x k. Thông thường yêu cầu hệ số “k” trong công thức này là từ 1,5 đến 2. Trường hợp thời gian thực hiện hợp đồng dưới 1 năm thì cách tính doanh thu như sau: Yêu cầu tối thiểu về mức doanh thu trung bình hàng năm = Giá gói thầu x k. Thông thường yêu cầu hệ số “k” trong công thức này là 1,5. Đối với trường hợp của ông Khánh, việc đưa ra yêu cầu về doanh thu trung bình hàng năm trong hồ sơ mời thầu phải tuân thủ theo quy định nêu trên. 19. Tiêu chí đánh giá tính hợp lệ của đơn dự thầu Hỏi: Trường hợp giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu khác với giá dự thầu ghi trong bảng tổng hợp giá dự thầu thì hồ sơ dự thầu của nhà thầu có bị loại không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Điểm b, Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định đơn dự thầu hợp lệ là đơn dự thầu được đại diện hợp pháp của nhà thầu ký tên, đóng dấu (nếu có) theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu; thời gian thực hiện gói thầu nêu trong đơn dự thầu phải phù hợp với đề xuất về kỹ thuật; giá dự thầu ghi trong đơn dự thầu phải cụ thể, cố định bằng số, bằng chữ và phải phù hợp, logic với tổng giá dự thầu ghi trong biểu giá tổng hợp, không đề xuất các giá dự thầu khác nhau hoặc có kèm theo điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư, bên mời thầu. Theo đó, việc đánh giá tính hợp lệ của đơn dự thầu phải tuân thủ theo quy định nêu trên, nếu vi phạm một trong các tiêu chí nói trên thì đơn dự thầu được coi là không hợp lệ và hồ sơ dự thầu của nhà thầu bị loại. 20. Nhà thầu có cần chứng minh khả năng huy động nhân sự. Tình huống: Công ty CP Tư vấn Đô thị Việt Nam - Vinacity hiện đang tham gia tư vấn lựa chọn nhà thầu cho chủ đầu tư. Tại Điểm a Mục 5 Chỉ thị 47/CT-TTg ngày 27/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh công tác đấu thầu trong các dự án đầu tư phát triển và hoạt động mua sắm thường xuyên sử dụng vốn nhà nước quy định: “Không được đưa ra các điều kiện để hạn chế sự tham dự thầu của nhà thầu như: Yêu cầu nhân sự thực hiện gói thầu phải được đóng BHXH, phải là nhân sự đăng ký hợp đồng với nhà thầu, thiết bị thi công phải thuộc sở hữu của nhà thầu mà không được đi thuê, đã thực hiện hợp đồng tương tự trên một địa bàn cụ thể... hoặc quy định năng lực, kinh nghiệm của nhà thầu cao hơn mức yêu cầu của gói thầu”. Tuy nhiên, Điều 18 Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 ngày 18/6/2012 quy định nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động như sau: “1. Trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì việc giao kết hợp đồng lao động phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người lao động 2. Đối với công việc theo mùa vụ, công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng thì nhóm người lao động có thể ủy quyền cho một người lao động trong nhóm để giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản; trường hợp này hợp đồng lao động có hiệu lực như giao kết với từng người. Hợp đồng lao động do người được ủy quyền giao kết phải kèm theo danh sách ghi rõ họ tên, tuổi, giới tính, địa chỉ thường trú, nghề nghiệp và chữ ký của từng người lao động” . Điểm a, Điểm b, Khoản 1, Điều 2 Luật BHXH số 58/2014/QH13 ngày 20/11/2014 quy định đối tượng áp dụng đóng BHXH: “a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động; b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng”. Tại Điểm a, Mục 4, Điều 12 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13 quy định nhân sự khi lập hồ sơ mời thầu: “Năng lực kỹ thuật: Số lượng, trình độ cán bộ chuyên môn chủ chốt, công nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện gói thầu và số lượng thiết bị thi công sẵn có, khả năng huy động thiết bị thi công để thực hiện gói thầu”. Hỏi: Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp trong hồ sơ mời thầu Công ty không yêu cầu về xác nhận đóng BHXH và không yêu cầu có hợp đồng lao động với nhà thầu, tuy nhiên trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu có tình huống Công ty nghi ngờ về tính xác thực của việc huy động nhân sự của nhà thầu (kể cả nhân sự đi thuê nếu có) thì Công ty có quyền yêu cầu nhà thầu cung cấp hợp đồng lao động (kể cả hợp đồng lao động của bên cung cấp nhân sự nếu có) và xác nhận BHXH để chứng minh không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Khoản 12, Điều 4 Luật Đấu thầu quy định việc lựa chọn nhà thầu phải thực hiện trên cơ sở bảo đảm cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Khoản 2, Điều 12 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào hạn chế sự tham gia của nhà thầu nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Theo hướng dẫn tại Điểm a Mục 2.2 Chương III của Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp một giai đoạn một túi hồ sơ ban hành kèm Thông tư số 03/2015/TT- BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu phải chứng minh có đầy đủ nhân sự cho các vị trí chủ chốt để thực hiện gói thầu. Theo hướng dẫn tại Mẫu số 15 – Mẫu hồ sơ mời thầu nêu trên, nhà thầu phải kê khai những nhân sự chủ chốt có năng lực phù hợp đáp ứng các yêu cầu quy định tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu và có thể sẵn sàng huy động cho gói thầu; không được kê khai những nhân sự đã huy động cho gói thầu khác có thời gian làm việc trùng với thời gian thực hiện gói thầu này. Trường hợp kê khai không trung thực thì nhà thầu sẽ bị đánh giá là gian lận. Đối với trường hợp của Công ty CP Tư vấn Đô thị Việt Nam - Vinacity, việc đưa ra yêu cầu về nhân sư chủ chốt trong hồ sơ mời thầu thực hiện theo hướng dẫn nêu trên. Pháp luật về đấu thầu không có quy định trong hồ sơ dự thầu nhà thầu phải cung cấp tài liệu liên quan đến việc đóng BHXH cho người lao động. Doanh nghiệp và người lao động phải có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định của pháp luật liên quan. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, bên mời thầu có thể yêu cầu nhà thầu làm rõ về khả năng huy động cũng như năng lực, kinh nghiệm của các nhân sự chủ chốt mà nhà thầu đã kê khai trong hồ sơ dự thầu. Trong trường hợp này, nhà thầu có trách nhiệm cung cấp các tài liệu liên quan để chứng minh khả năng huy động nhân sự đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. 21. Quy định về hợp đồng tương tự với gói thầu vật tư y tế Tình huống: Công ty TNHH Dược phẩm quốc tế tham gia đấu thầu gói thầu mua sắm vật tư y tế tiêu hao cho các cơ sở y tế công lập trong tỉnh năm 2017 – 2018 tại Sở Y tế Bình Dương. Trong hồ sơ mời thầu, Sở Y tế Bình Dương có yêu cầu về “kinh nghiệm thực hiện hợp đồng cung cấp hàng hoá tương tự” cho gói thầu đang xét theo Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT. Theo đó, nhà thầu cung cấp ít nhất 2 hợp đồng tương tự cung cấp vật tư y tế tiêu hao mà nhà thầu đã hoàn thành toàn bộ (kèm hợp đồng và biên bản thanh lý hợp đồng) từ năm 2014 đến thời điểm đóng thầu (8/11/2017). Về giá trị, cả 2 hợp đồng tương tự đều có giá trị lớn hơn hoặc bằng 70% giá trị của gói thầu đang xét hoặc có ít nhất một hợp đồng tương tự có giá trị lớn hơn hoặc bằng 70% giá trị của gói thầu đang xét và hợp đồng tương tự tiếp theo được xác định bằng cách cộng các hợp đồng có quy mô nhỏ hơn nhưng phải bảo đảm giá trị lớn hơn hoặc bằng 70% giá trị của gói thầu đang xét. Tuy nhiên, hiện giữa chủ đầu tư và nhà thầu có mâu thuẫn trong cách hiểu về “kinh nghiệm thực hiện hợp đồng cung cấp hàng hoá tương tự” tại Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT. Qua Hệ thống Tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp, Công ty TNHH Dược phẩm quốc tế đề nghị giải đáp: - Giá trị hợp đồng đang xét trong Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT là giá trị dự thầu của nhà thầu hay giá trị kế hoạch do chủ đầu tư xây dựng? - Đặc thù trong ngành y tế thường đấu thầu tập trung tại Sở Y tế hoặc Bệnh viện đa khoa tỉnh, kết quả thầu tập trung sẽ được phân bổ cho từng cơ sở y tế và các cơ sở y tế sẽ ký kết hợp đồng với nhà thầu (mỗi hợp đồng sẽ rất nhỏ so với kết quả nhà thầu trúng thầu tại Sở hoặc Bệnh viện đa khoa tỉnh). Hỏi: Công ty có thể sử dụng giá trị kết quả trúng thầu tại Sở Y tế hoặc Bệnh viện đa khoa tỉnh kèm hợp đồng và thanh lý các cơ sở y tế để chứng minh quy mô của hợp đồng trong trường hợp này không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Theo hướng dẫn tại Mục 2.1 Chương II các Mẫu hồ sơ mời thầu mua sắm hàng hóa ban hành kèm Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hợp đồng cung cấp hàng hóa tương tự là hợp đồng trong đó hàng hóa được cung cấp tương tự với hàng hoá của gói thầu đang xét và đã hoàn thành, bao gồm: (i) Tương tự về chủng loại, tính chất: Có cùng chủng loại, tương tự về đặc tính kỹ thuật và tính năng sử dụng với hàng hóa của gói thầu đang xét. (ii) Tương tự về quy mô: Có giá trị hợp đồng bằng hoặc lớn hơn 70% giá trị của gói thầu đang xét. Theo quy định tại Khoản 3, Điều 44 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, mua sắm tập trung được thực hiện theo một trong hai cách sau: (i) Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn nhà thầu, trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn cung cấp hàng hóa, dịch vụ. (ii) Đơn vị mua sắm tập trung tập hợp nhu cầu mua sắm, tiến hành lựa chọn nhà thầu, ký văn bản thỏa thuận khung với một hoặc nhiều nhà thầu được lựa chọn làm cơ sở để các đơn vị có nhu cầu mua sắm trực tiếp ký hợp đồng với nhà thầu được lựa chọn cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Đối với trường hợp Công ty TNHH Dược phẩm quốc tế, giá trị hợp đồng tương tự quy định trong hồ sơ mời thầu theo hướng dẫn tại Mẫu hồ sơ mời thầu nêu trên được tính trên cơ sở giá gói thầu đang xét mà không căn cứ giá dự thầu của nhà thầu. Đối với trường hợp đấu thầu tập trung, do việc đấu thầu tập trung đã được hình thành gói thầu, tổ chức đấu thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu và ký kết thỏa thuận khung nên nhà thầu được phép sử dụng thỏa thuận khung để chứng minh hợp đồng tương tự của mình; tuy nhiên, do việc thực hiện thỏa thuận khung còn phụ thuộc các đơn vị trực tiếp sử dụng hàng hóa nên nhà thầu cần cung cấp thêm hợp đồng, biên bản nghiệm thu hợp đồng ký kết với đơn vị trực tiếp sử dụng hàng hóa để chứng minh mức độ hoàn thành thỏa thuận khung cũng như phạm vi công việc thực tế đã thực hiện. 22. Chưa nộp phí duy trì mạng đấu thầu có được dự thầu Hỏi: Sau thời điểm đóng thầu mà nhà thầu chưa nộp phí duy trì hoặc phí tham gia Hệ thống và tài khoản không có hiệu lực như thông báo của Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia, thì nhà thầu có được coi là không đủ tư cách hợp lệ tham gia dự thầu không? Trả lời: Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau: Điểm d, Khoản 1, Điều 5 Luật Đấu thầu quy định một trong những điều kiện về tư cách hợp lệ mà nhà thầu phải đáp ứng là đã đăng ký trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 37 Thông tư liên tịch số 07/2015/TTLT- BKHĐT-BTC ngày 8/9/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính thì bắt đầu từ ngày 1/7/2016, trước thời điểm đóng thầu 2 ngày làm việc, nhà thầu chưa có xác nhận đăng ký thông tin trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia không được tham dự thầu đối với các gói thầu, dự án có hình thức lựa chọn nhà thầu quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23, 24, 25 và 26 của Luật Đấu thầu. Đối với trường hợp nêu trên, nếu nhà thầu đã thực hiện đăng ký thông tin trên Hệ thống mạng đấu thầu Quốc gia trước thời điểm đóng thầu 2 ngày làm việc thì được đánh giá là đáp ứng quy định của pháp luật đấu thầu nêu trên. Trường hợp nhà thầu chưa nộp phí duy trì thì phải thực hiện nộp phí theo quy định. 23. Hồ sơ dự thầu không có giấy phép bán hàng có bị loại? Tình huống: Công ty ông Phan Nhật Thành (Đà Nẵng) tổ chức lựa chọn nhà thầu cho một gói thầu theo hình thức đấu thầu rộng rãi trong nước, phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ. Số lượng nhà thầu tham dự là 3 nhà thầu. Kết quả xét thầu, cụ thể như sau: - Nhà thầu A không đáp ứng năng lực kinh nghiệm. - Nhà thầu B không đạt kỹ thuật vì nhà sản xuất (ở nước ngoài) không cấp giấy phép bán hàng. - Nhà thầu C đạt kỹ thuật và có giá dự thầu sau sửa lỗi hiệu chỉnh sai lệch vượt giá gói thầu. Nhưng trong đó cả hai nhà thầu B và C đều chào hàng hóa của cùng nhà sản xuất: Nhà thầu C đạt kỹ thuật (vì được nhà sản xuất cấp giấy phép bán hàng) và nhà thầu B không đạt kỹ thuật (vì nhà sản xuất không cấp giấy phép). Sau khi bên mời thầu yêu cầu, nhà thầu B làm rõ bổ sung nhưng không được chấp nhận. Đồng thời giá chào của nhà thầu B thấp hơn giá gói thầu 2 tỷ đồng, trong khi giá chào của nhà thầu C vượt giá gói thầu 2 tỷ đồng. Hỏi: Ông Thành hỏi, chủ đầu tư có được quyền quyết định hủy thầu để tổ chức lại, mà không cần phải áp dụng xử lý tình huống đấu thầu theo Điều 117 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP về vượt giá gói thầu không? Nếu phải xử lý tình huống thì chủ đầu tư có quyền đề xuất giá sau đàm phán với nhà thầu C (phải nhỏ hơn hoặc bằng giá chào thầu của nhà thầu B) hay không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Tại Khoản 2, Điều 6 Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT quy định đối với hàng hóa đặc thù, phức tạp cần gắn với trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc cung cấp các dịch vụ sau bán hàng như bảo hành, bảo trì, sửa chữa, cung cấp phụ tùng, vật tư thay thế và các dịch vụ liên quan khác thì trong hồ sơ mời thầu có thể yêu cầu nhà thầu tham dự thầu phải cung cấp giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương. Trường hợp trong hồ sơ dự thầu, nhà thầu không đóng kèm giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương thì nhà thầu phải chịu trách nhiệm làm rõ, bổ sung trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu. Bên mời thầu phải có trách nhiệm tiếp nhận tài liệu bổ sung do nhà thầu gửi đến để đánh giá. Nhà thầu chỉ được trao hợp đồng sau khi đã đệ trình cho chủ đầu tư giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương. Đối với trường hợp của ông Thành, trường hợp hồ sơ mời thầu yêu cầu nhà thầu phải cung cấp giấy phép bán hàng của nhà sản xuất và nhà thầu chưa cung cấp giấy phép này thì không được loại bỏ hồ sơ dự thầu. Trường hợp hàng hóa mà nhà thầu chào trong hồ sơ dự thầu đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của hồ sơ mời thầu (về thông số kỹ thuật, tính năng, hiệu năng, chất lượng…) thì nhà thầu vẫn được tiếp tục xem xét, đánh giá và xét duyệt trúng thầu. Tuy nhiên, nhà thầu phải bổ sung giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương trước khi nhà thầu được trao hợp đồng. 24. Công ty mẹ được sử dụng năng lực của công ty con khi dự thầu Tình huống: Công ty A và Công ty B hoạt động theo hình thức công ty mẹ-con nhưng hạch toán độc lập về tài chính. Công ty A là công ty mẹ của Công ty B với vốn góp là trên 60% tổng số cổ phần. Hỏi: Khi Công ty A khi tham gia dự thầu nhưng năng lực về nhân sự và thiết bị không đủ thì có thể lấy năng lực của Công ty B không hoặc ngược lại? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo hướng dẫn tại Chương III, mục 2.2, ghi chú số 1 của Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trường hợp nhà thầu tham dự thầu là công ty mẹ có sử dụng công ty con thực hiện gói thầu thì nhà thầu phải kê khai cụ thể phần công việc dành cho các công ty con theo biểu mẫu tương ứng tại Chương IV, Biểu mẫu dự thầu. Việc đánh giá kinh nghiệm, năng lực của nhà thầu căn cứ vào giá trị, khối lượng do công ty mẹ, công ty con đảm nhiệm trong gói thầu. Đối với vấn đề nêu trên, trường hợp công ty mẹ tham dự thầu thì được sử dụng năng lực, kinh nghiệm của công ty con tương ứng với phần công việc mà công ty mẹ huy động công ty con thực hiện. 25. Có được đưa ra yêu cầu về nhân sự với gói thầu kiểm toán? Tình huống: Ông Phan Việt Hiếu (TPHCM) đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn trường hợp như sau: Hồ sơ mời thầu gói thầu kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành đưa ra yêu cầu kiểm toán viên hành nghề phải có bằng kỹ sư xây dựng phù hợp với loại công trình được kiểm toán. Theo ông Hiếu tham khảo Điều 14, 15 Luật Kiểm toán độc lập số 67/2011/QH12 không có quy định kiểm toán viên hành nghề phải có bằng kỹ sư xây dựng phù hợp với loại công trình được kiểm toán khi kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn thành. Hỏi: Vậy hồ sơ mời thầu có vi phạm quy định của Nghị định số 63/2014/NĐ-CP là "Trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng" không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Tại Khoản 1, Điều 3 Luật Đấu thầu quy định hoạt động đấu thầu thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này phải tuân thủ quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo Khoản 2, Điều 12 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trong hồ sơ mời thầu không được nêu bất cứ điều kiện nào nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Đối với trường hợp của ông Hiếu, việc lập hồ sơ mời thầu phải thực hiện theo quy định nêu trên. Việc đưa ra yêu cầu về nhân sự đối với gói thầu kiểm toán thực hiện theo quy định của pháp luật về kiểm toán. Trường hợp pháp luật về kiểm toán không quy định thì không được đưa ra yêu cầu làm hạn chế sự cạnh tranh. 26. Có được thanh toán chi phí dự phòng trong hợp đồng trọn gói? Tình huống: Theo bà Nguyễn Thị Lan Anh (Phú Thọ) tham khảo Khoản 3, Điều 5 Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn đối với hợp đồng trọn gói, nhà thầu phải tính toán và phân bổ chi phí dự phòng vào trong giá dự thầu; không tách riêng phần chi phí dự phòng mà nhà thầu đã phân bổ trong giá dự thầu để xem xét, đánh giá trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu về tài chính, thương mại. Theo đó, khi tham dự thầu nhà thầu phải nghiên cứu, tính toán tất cả các chi phí cho các yếu tố rủi ro và chi phí trượt giá có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng và được phân bổ vào trong đơn giá của khi đấu thầu. Khi đơn vị ký hợp đồng thì giá trị hợp đồng đã bao gồm cả phần dự phòng. Nhưng khi thanh toán khối lượng hoàn thành, kho bạc lại yêu cầu tách phần dự phòng ra và không thanh toán phần dự phòng đó. Hỏi: Bà Lan Anh hỏi, như vậy là đúng hay sai? Nếu phải tách phần dự phòng khi thanh toán thì số tiền dự phòng trong giá tham dự thầu sẽ được thanh toán trong trường hợp nào? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo quy định tại Khoản 1, Điều 62 Luật Đấu thầu quy định hợp đồng trọn gói là hợp đồng có giá cố định trong suốt thời gian thực hiện đối với toàn bộ nội dung công việc trong hợp đồng. Tổng số tiền mà nhà thầu được thanh toán cho đến khi hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng bằng đúng giá ghi trong hợp đồng. Khi áp dụng hợp đồng trọn gói, giá gói thầu để làm căn cứ xét duyệt trúng thầu phải bao gồm cả chi phí cho các yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, chi phí dự phòng trượt giá. Giá dự thầu phải bao gồm tất cả chi phí cho các yếu tố rủi ro và chi phí trượt giá (gọi chung là chi phí dự phòng) có thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 5 Thông tư số 10/2015/TT-BKHĐT ngày 26/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư của dự án. Trường hợp dự toán đã được phê duyệt trước khi lập kế hoạch lựa chọn nhà thầu thì căn cứ dự toán để lập giá gói thầu. Giá gói thầu được tính đúng, tính đủ toàn bộ chi phí để thực hiện gói thầu, kể cả chi phí dự phòng, chi phí dự phòng trượt giá, chi phí dự phòng phát sinh khối lượng và chi phí dự phòng cho các khoản tạm tính (nếu có), phí, lệ phí và thuế. Đối với các gói thầu có thời gian thực hiện hợp đồng ngắn, không phát sinh rủi ro, trượt giá thì chi phí dự phòng được tính bằng không. Chi phí dự phòng do chủ đầu tư xác định theo tính chất từng gói thầu nhưng không được vượt mức tối đa do pháp luật chuyên ngành quy định. Giá gói thầu được cập nhật trong thời hạn 28 ngày trước ngày mở thầu nếu cần thiết. Đối với trường hợp của bà Lan Anh, chi phí dự phòng thực hiện theo quy định nêu trên. Khi áp dụng loại hợp đồng trọn gói, nhà thầu được thanh toán bằng đúng giá ghi trong hợp đồng khi hoàn thành các nghĩa vụ theo hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý việc tính toán chi phí dự phòng cho gói thầu phải thực hiện theo quy định nêu trên. 27. Thời gian có hiệu lực của hồ sơ đề xuất Tình huống: Cơ quan ông Trịnh Ngọc Tân (Cà Mau) thực hiện chỉ định thầu gói thầu xây lắp di dời hệ thống điện. Trong hồ sơ yêu cầu quy định hiệu lực của hồ sơ đề xuất là 60 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu là ngày 25/9/2017. Tuy nhiên, nhà thầu đã làm xong hồ sơ đề xuất sớm và gửi lại trong đó đơn đề xuất của nhà thầu ghi hồ sơ đề xuất có hiệu lực là 70 ngày kể từ ngày 20/9/2017 (hiệu lực của hồ sơ đề xuất sớm hơn 5 ngày so với yêu cầu của hồ sơ yêu cầu). Hỏi: Về tình huống trên Ông Tân hỏi, hồ sơ đề xuất của nhà thầu có hợp lệ không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo Khoản 42, Điều 4 Luật Đấu thầu quy định thời gian có hiệu lực của hồ sơ đề xuất là số ngày được quy định trong hồ sơ yêu cầu và được tính kể từ ngày có thời điểm đóng thầu đến ngày cuối cùng có hiệu lực theo quy định trong hồ sơ yêu cầu. Từ thời điểm đóng thầu đến hết 24 giờ của ngày đóng thầu được tính là 1 ngày. Theo hướng dẫn tại Chương III, mục 1.2, Mẫu hồ sơ yêu cầu chỉ định thầu ban hành kèm Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hồ sơ đề xuất hợp lệ phải có hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ yêu cầu. Đối với trường hợp của ông Tân, nếu hồ sơ yêu cầu quy định hồ sơ đề xuất phải có hiệu lực 60 ngày kể từ ngày 25/9/2017 thì hồ sơ đề xuất có hiệu lực 70 ngày kể từ ngày 20/9/2017 được coi là đáp ứng yêu cầu của hồ sơ yêu cầu. Ngoài ra, theo Điểm a, Khoản 3, Điều 55 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định đối với chỉ định thầu, trong quá trình đánh giá, bên mời thầu mời nhà thầu đến thương thảo, làm rõ hoặc sửa đổi, bổ sung các nội dung thông tin cần thiết của hồ sơ đề xuất nhằm chứng minh sự đáp ứng của nhà thầu theo yêu cầu về năng lực, kinh nghiệm, tiến độ, khối lượng, chất lượng, giải pháp kỹ thuật và biện pháp tổ chức thực hiện gói thầu. 28. Chủ đầu tư có được đổi tên, mã hàng hoá khi lựa chọn nhà thầu? Theo quy định, hợp đồng được ký kết giữa các bên phải phù hợp với nội dung trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu, kết quả thương thảo hợp đồng, quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu. Hỏi: ông Trần Văn Cường, Công ty TNHH MTV điện lực Hải Phòng đề nghị cơ quan chức năng giải đáp, trong quá trình thương thảo hợp đồng và trình ký hợp đồng, Tổ chuyên gia, Chủ đầu tư có được phép đổi tên thiết bị trong bảng giá hợp đồng theo thông số nhà thầu chào thực tế không (thay đổi so với tên tương ứng trong phạm vi cung cấp của gói thầu)? Việc thay đổi này có làm ảnh hưởng gì trong quá trình thực hiện hợp đồng và quyết toán dự án hay không? Có quan điểm cho rằng khi ký hợp đồng phải giữ nguyên tên thiết bị trong phạm vi cung cấp của hồ sơ mời thầu là A để phù hợp với thiết kế tổng thể và nhiều hạng mục công việc liên quan của dự án. Khi thực hiện hợp đồng và quyết toán dự án, thiết bị sử dụng cho dự án thực tế là B, tức là "có sai khác so với phạm vi cung cấp của Hợp đồng" và không được phép nghiệm thu hay thanh toán. Quan điểm này có đúng hay không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Khoản 3 Điều 65 Luật Đấu thầu quy định hợp đồng được ký kết giữa các bên phải phù hợp với nội dung trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ dự thầu, kết quả thương thảo hợp đồng, quyết định phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu. Đối với trường hợp ông Trần Văn Cường, Công ty TNHH MTV điện lực Hải Phòng hỏi, việc ký kết hợp đồng phải tuân thủ quy định nêu trên. Theo đó, trong hợp đồng ký kết với nhà thầu trúng thầu phải mô tả rõ tên, xuất xứ, ký mã hiệu, nhãn mác sản phẩm và đơn giá của hàng hóa, thiết bị mà nhà thầu đề xuất, cung cấp cho gói thầu. Bên cạnh đó, Công ty cần lưu ý, trong hồ sơ mời thầu không được đưa ra các điều kiện nhằm hạn chế sự tham gia của nhà thầu hoặc tạo lợi thế cho một hoặc một số nhà thầu, gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng như nêu nhãn hiệu, xuất xứ cụ thể của hàng hoá, kể cả việc nêu tên nước, nhóm nước, vùng lãnh thổ gây ra sự phân biệt đối xử. Trường hợp không thể mô tả chi tiết hàng hóa theo đặc tính kỹ thuật, thiết kế công nghệ, tiêu chuẩn công nghệ thì có thể nêu nhãn hiệu, catalogue của một sản phẩm cụ thể để tham khảo, minh họa cho yêu cầu về kỹ thuật của hàng hóa nhưng phải ghi kèm theo cụm từ “hoặc tương đương” sau nhãn hiệu, catalogue, đồng thời phải quy định rõ nội hàm tương đương với hàng hóa đó về đặc tính kỹ thuật, tính năng sử dụng, tiêu chuẩn công nghệ và các nội dung khác (nếu có) mà không được quy định tương đương về xuất xứ (Điểm c Khoản 5 Điều 3 Thông tư số 05/2015/TT-BKHĐT ngày 16/6/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư). 29. Hành vi giả báo cáo tài chính có phải gian lận trong đấu thầu? Tình huống: ông Nguyễn Đức Luân, Công ty CP Xây dựng và Thương mại Phúc Hưng Lộc đề nghị cơ quan chức năng hướng dẫn tình huống như sau: Công ty ông đang hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Theo báo cáo tài chính của các năm gần nhất thì tổng nguồn vốn (Xác định bằng tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hơn 20 tỷ đồng. Nhưng qua xác định số lao động bình quân hàng năm của doanh nghiệp thì số lao động bình quân hàng năm của công ty ít hơn 200 người. Ông Luân hỏi, vậy Công ty có phải là doanh nghiệp cấp nhỏ hay không? Trong quá trình tham gia dự thầu gói thầu xây lắp có một nhà thầu làm giả báo cáo tài chính (Báo cáo tài chính trong hồ sơ dự thầu khác với báo cáo tài chính nộp tại cơ quan quản lý thuế. Giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán của báo cáo tài chính trong hồ sơ dự thầu nhỏ hơn 20 tỷ đồng. Giá trị tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán của báo cáo tài chính tại cơ quan thuế hơn 20 tỷ đồng). Hỏi: Trong quá trình lựa chọn nhà thầu thì nhà thầu làm giả báo cáo tài chính là nhà thầu được lựa chọn thực hiện thi công gói thầu nói trên. Vậy hành vi làm giả báo cáo tài chính của nhà thầu nêu trên có phải là hành vi gian lận trong đấu thầu dẫn đến làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu hay không? Nếu không phải hành vi gian lận trong đấu thầu thì nhà thầu nêu trên vi phạm vào điều gì? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên). Theo đó, doanh nghiệp nhỏ thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng là doanh nghiệp có tổng nguồn vốn từ 20 tỷ đồng trở xuống hoặc số lao động từ trên 10 người đến 200 người. Theo đó, việc xác định doanh nghiệp nhỏ cần căn cứ quy định nêu trên. Nếu doanh nghiệp có tổng nguồn vốn trên 20 tỷ đồng nhưng có số lao động bình quân năm nhỏ hơn 200 người thì vẫn được coi là doanh nghiệp nhỏ. 30. Nhà thầu nộp bổ sung catalogue hàng hóa có bị vi phạm? Tình huống: Công ty Viễn thông điện lực và công nghệ thông tin có một gói thầu tổ chức đấu thầu rộng rãi. Sau khi đóng thầu, có một nhà thầu A đã nộp nổ sung giấy phép bán hàng của Nhà sản xuất, kèm theo đó là catalogue của một số hàng hóa trong hồ sơ dự thầu mà nhà thầu chưa cung cấp khi nộp hồ sơ. Theo quy định của hồ sơ mời thầu, trong khoảng thời gian theo quy định tại Bảng dữ liệu đấu thầu, trường hợp nhà thầu phát hiện hồ sơ dự thầu của mình thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm (trong đó bao gồm cả giấy phép bán hàng của nhà sản xuất hoặc giấy chứng nhận quan hệ đối tác hoặc tài liệu khác có giá trị tương đương, nếu hồ sơ mời thầu có quy định) thì nhà thầu được phép gửi tài liệu đến Bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của hồ sơ dự thầu. Thời gian quy định tại Bảng dữ liệu đấu thầu là 3 ngày kể từ ngày có thời điểm đóng thầu. Hỏi: Việc nhà thầu nộp bổ sung catalogue hàng hóa có vi phạm không (vì catalogue không thuộc các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm), và bên mời thầu phải xử lý tình huống này như thế nào, chỉ tiếp nhận giấy phép bán hàng hay vẫn tiếp nhận đầy đủ các tài liệu của nhà thầu nộp? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Khoản 2 Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định trường hợp sau khi đóng thầu, nếu nhà thầu phát hiện hồ sơ dự thầu thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu được phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của hồ sơ dự thầu. Đối với trường hợp nêu trên của Công ty Viễn thông điện lực và công nghệ thông tin, catalouge là tài liệu chứng minh về kỹ thuật của hàng hóa không thuộc tài liệu chứng minh về năng lực, kinh nghiệm. Tuy nhiên, trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu, nếu nhà thầu thiếu các tài liệu để chứng minh về thông số kỹ thuật hàng hóa (catalogue) thì bên mời thầu phải yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung theo quy định tại Khoản 1 Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. 31. Nhà thầu được phép đặt cọc bằng tiền mặt? Hình thức đặt cọc được hiểu là việc thực hiện bảo đảm dự thầu bằng tiền mặt hoặc bằng séc (bảo chi). Tình huống: Đơn vị của ông Phùng Thành (Hà Nội) thực hiện tư vấn cho đơn vị tổ chức lựa chọn nhà thầu theo hình thức chào hàng cạnh tranh (thông thường). Ông Thành tham khảo Mục 9, Mẫu hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh ban hành kèm theo Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thấy quy định về bảo đảm dự thầu, như sau: "Nhà thầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu trước thời điểm đóng thầu theo một trong các hình thức: Đặt cọc hoặc thư bảo lãnh do tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam phát hành....". Hỏi: Ông Thành hỏi, từ "đặt cọc" nêu trên có thể quy định trong hồ sơ yêu cầu là bằng tiền mặt có phù hợp với quy định hiện hành không? Hay bắt buộc phải đặt cọc bằng séc? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo hướng dẫn tại Khoản 1, Mục 9 Chương I Mẫu hồ sơ yêu cầu chào hàng cạnh tranh ban hành kèm theo Thông tư số 11/2015/TT-BKHĐT ngày 27/10/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhà thầu phải thực hiện biện pháp bảo đảm dự thầu trước thời điểm đóng thầu theo một trong các hình thức: Đặt cọc hoặc thư bảo lãnh do tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam phát hành. Trường hợp sử dụng thư bảo lãnh thì phải áp dụng theo Mẫu thư bảo lãnh dành cho nhà thầu độc lập hoặc Mẫu thư bảo lãnh dành cho nhà thầu liên danh theo quy định tại hồ sơ yêu cầu này hoặc một Mẫu thư bảo lãnh khác nhưng phải bao gồm đầy đủ nội dung cơ bản của bảo lãnh dự thầu. Theo đó, hình thức đặt cọc được hiểu là việc thực hiện bảo đảm dự thầu bằng tiền mặt hoặc bằng séc (bảo chi). 32. Nguyên tắc và giới hạn trong việc làm rõ hồ sơ dự thầu Tình huống: Trường hợp nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm (như hợp đồng tương tự, báo cáo tài chính, chứng chỉ của nhân sự chủ chốt, tài liệu chứng minh khả năng huy động thiết bị) thì bên mời thầu có trách nhiệm yêu cầu nhà thầu bổ sung, làm rõ. Theo phản ánh của bà Hồ Thị Vỹ Hà, hiện Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng huyện Ia Pa, tỉnh Gia Lai đang thực hiện xét gói thầu thi công, hình thức đấu thầu rộng rãi, với 5 nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu. Khi đơn vị xét đến gói thầu của nhà thầu liên danh A, hồ sơ dự thầu thiếu các loại sau đây: Báo cáo tài chính từ năm 2014-2016 để chứng minh tình hình tài chính lành mạnh của công ty trong tiêu chuẩn đánh giá về năng lực tài chính và kinh nghiệm. Việc làm rõ bổ sung về phần năng lực tài chính theo quy định có thể làm thay đổi kết quả chấm điểm phần năng lực tài chính của hồ sơ dự thầu. Về phần đánh giá năng lực kỹ thuật, thiếu các chứng chỉ, chứng nhận để chứng minh nhân sự chủ chốt, thiếu giấy tờ chứng minh khả năng huy động thiết bị thi công chủ yếu để thực hiện gói thầu theo hồ sơ mời thầu. Việc làm rõ bổ sung về phần kỹ thuật theo quy định có thể làm thay đổi kết quả chấm điểm phần năng lực kỹ thuật của hồ sơ dự thầu. Hỏi: bà Hà hỏi, nhà thầu có được bổ sung làm rõ hay không nếu làm thay đổi kết quả chấm thầu và kết quả lựa chọn nhà thầu so với nhà thầu khác? Trường hợp cho bổ sung làm rõ thì việc thực hiện công tác chấm điểm của các tài liệu làm rõ và bổ sung của nhà thầu sẽ thực hiện như thế nào? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có ý kiến như sau: Theo Khoản 1, Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định sau khi mở thầu, nhà thầu có trách nhiệm làm rõ hồ sơ dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu. Trường hợp hồ sơ dự thầu của nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì bên mời thầu yêu cầu nhà thầu làm rõ, bổ sung tài liệu để chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm. Đối với các nội dung đề xuất về kỹ thuật, tài chính nêu trong hồ sơ dự thầu của nhà thầu, việc làm rõ phải bảo đảm nguyên tắc không làm thay đổi nội dung cơ bản của hồ sơ dự thầu đã nộp, không thay đổi giá dự thầu. Theo đó, trường hợp nhà thầu thiếu tài liệu chứng minh năng lực, kinh nghiệm (như hợp đồng tương tự, báo cáo tài chính, chứng chỉ của nhân sự chủ chốt, tài liệu chứng minh khả năng huy động thiết bị) thì bên mời thầu có trách nhiệm yêu cầu nhà thầu bổ sung, làm rõ. Trường hợp sau khi đóng thầu, nêu nhà thầu phát hiện hồ sơ dự thầu thiếu các tài liệu chứng minh tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm thì nhà thầu được phép gửi tài liệu đến bên mời thầu để làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm của mình. Bên mời thầu có trách nhiệm tiếp nhận những tài liệu làm rõ của nhà thầu để xem xét, đánh giá; các tài liệu bổ sung, làm rõ về tư cách hợp lệ, năng lực và kinh nghiệm được coi như một phần của hồ sơ dự thầu (Khoản 2, Điều 16, Nghị định số 63/2014/NĐ-CP). 33. Đánh giá tính hợp lệ của thư bảo lãnh dự thầu thế nào? Tình huống: Trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Ban quản lý dự án Đầu tư xây dựng huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang là bên mời thầu, có phát hành Hồ sơ mời thầu xây lắp (1 giai đoạn 1 túi hồ sơ theo mẫu số 01 kèm theo Thông tư 03/2015/TT-BKH) và yêu cầu nhà thầu tham dự thầu phải thực hiện bảo đảm dự thầu. Ngân hàng X có phát hành thư bảo lãnh theo mẫu số 04 kèm theo hồ sơ mời thầu cho Công ty A tham dự thầu và đều đáp ứng theo yêu cầu. Thư bảo lãnh của ngân hàng X làm trên tờ giấy A4 thường dùng gồm 2 trang rời nhau, trang đầu chứa tất cả các nội dung quan trọng, trang thứ hai chứa một vài nội dung và được đại diện hợp pháp của ngân hàng ký tên và đóng dấu nhưng không có dấu giáp lai của hai trang. Hỏi: Ban quản lý dự án Đầu tư xây dựng huyện An Minh đề nghị giải đáp, thư bảo lãnh nêu trên có hợp lệ không? Nếu không hợp lệ thì có được làm rõ, bổ sung không? Liên quan đến vấn đề thỏa thuận liên danh, liên danh Công ty A - Công ty B cùng tham dự thầu, trong thỏa thuận liên danh là ủy quyền cho Công ty A đứng đầu liên danh, đại diện liên danh làm các công việc sau: Ký đơn dự thầu; sử dụng chữ ký trong hồ sơ dự thầu; sử dụng con dấu trong hồ sơ dự thầu;... nhưng trong thực tế, khi kê khai thông tin năng lực tài chính, năng lực về kinh nghiệm,... thì Công ty B sử dụng chữ ký và con dấu của công ty mình, như vậy có đúng không? Hồ sơ dự thầu đó có được đánh giá tiếp không? Trả lời: Về vấn đề này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời như sau: Điểm d, Khoản 2, Điều 18 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP quy định, một trong các nội dung đánh giá tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu là có bảo đảm dự thầu với giá trị và thời hạn hiệu lực đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Đối với trường hợp quy định bảo đảm dự thầu theo hình thức nộp thư bảo lãnh thì thư bảo lãnh phải được đại diện hợp pháp của tổ chức tín dụng hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập theo pháp luật Việt Nam ký tên với giá trị và thời hạn hiệu lực, đơn vị thụ hưởng theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Với vấn đề nêu trong câu hỏi, việc đánh giá tính hợp lệ của bảo lãnh dự thầu được thực hiện theo quy định nêu trên. Trường hợp nghi ngờ về tính xác thực của thư bảo lãnh dự thầu, bên mời thầu cần làm rõ thư bảo lãnh này với nhà thầu hoặc ngân hàng phát hành thư bảo lãnh. Ngoài ra, việc các thành viên trong liên danh ký và đóng dấu trong bảng kê khai thông tin về năng lực và kinh nghiệm của mình là không trái với quy định của pháp luật đấu thầu.