Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 8

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC


TÀI CHÍNH - MARKETING

MẪU PHIẾU LÀM BÀI TỰ LUẬN


HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Ngày kiểm tra: 22/04/2022


Họ tên sinh viên: Nguyễn Thúy An

Mã số sinh viên : 2121012550

Mã lớp học phần: 2121112009003

Bài làm gồm: 8 trang

Điểm CB chấm thi


Bằng số Bằng chữ (Ký, ghi rõ họ tên)

ĐỀ BÀI:

Câu 1: Phân tích nội dung và rút ra ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến. Là sinh viên ngành Hệ thống thông tin quản lý trường Đại học Tài chính -
Marketing, anh/chị áp dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này vào trong học
tập và làm việc như thế nào? (5 điểm).

Câu 2: Bàn về bản chất con người, C.Mác đưa ra luận điểm: "Bản chất con người không
phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó,
bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội"(C.Mác và Ph.Ăngghen (1995),
Toàn tập, tập 3 (tr.11), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội). Anh/chị hãy phân tích luận
điểm trên và liên hệ với việc rèn luyện kỹ năng sống của mình. (5 điểm).

BÀI LÀM:
2

Câu 1:

Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

Khái niệm liên hệ: Liên hệ là quan hệ giữa hai đối tượng nếu sự thay đổi của một
số chúng nhất định làm đối thượng kia thay đổi; ngược lại, cô lập (tách rời) là trạng thái
của các đối tượng, khi sự thay đổi của đối tượng này không ảnh hưởng gì đến các đối
tượng khác, không làm chúng thay đổi.

Khái niệm mối liên hệ: Mối liên hệ là một phạm trù triết học dùng để chỉ các mối
ràng buộc tương hỗ, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các yếu tố, bộ phận trong một
đối tượng hoặc giữa các đối tượng với nhau. Ví dụ: Mối liên hệ giữa các cơ quan trong cơ
thể con người, giữa đồng hóa và dị hóa; mối liên hệ giữa các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa; giữa cung và cầu...

Khái niệm mối liên hệ phổ biến dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ, chỉ
những mối liên hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng của thế giới hay nói cách khác mối
liên hệ phổ biến được dùng với hai nghĩa cơ bản đó là: dùng để chỉ tính phổ biến của các
mối liên hệ; dùng để chỉ sự khái quát những mối liên hệ có tính chất phổ biến nhất. Ví
dụ: mối liên hệ giữa cái riêng và cái chung; nguyên nhân và kết quả; nội dung và hình
thức; lượng và chất, các mặt đối lập... Suy ra, sự vật nào chẳng có mối liên hệ đó, những
mối liên hệ đặc thù đa dạng, phong phú đến đâu thì cũng chỉ nằm trong những mối liên
hệ phổ biến đó.

Những tính chất cơ bản của mối liên hệ phổ biến gồm tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng, phong phú. Về tính khách quan, sự tồn tại của mối liên hệ không
phụ thuộc vào tư duy, ý thức của con người. Con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng
mối liên hệ đó vào trong thực tiễn và hoạt động của mình. Ví dụ: Mối liên hệ giữa một
cái cây với các yếu tố đất, nước, ánh sáng, độ ẩm, không khí.. mang tính khách quan, nó
là cái vốn có của sự vật, con người không thể sáng tạo ra được mối liên hệ đó, mà có thể
nhận thức, tác động...; Về tính phổ biến, bất kỳ một sự vật, hiện tường nào đều có mối
liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Tùy theo điều kiện nhất định mà mối liên hệ sẽ biểu
hiện dưới những hình thức riêng biệt và cụ thể. Ví dụ: Không gian và thời gian, sự vật
hiện tượng, tự nhiên xã hội, tư duy đều có mối liên hệ, chẳng hạn quá khứ, hiện tại, tương
lai liên hệ chặt chẽ với nhau...; Về tính đa dạng, phong phú, được thể hiện ở chỗ các sự
3

vật, hiện tượng, quá trình khác nhau đều có những mối liên hệ cụ thể khác nhau: các mối
liên hệ bên trong – bên ngoài, mối liên hệ chủ yếu – thứ yếu, mối liên hệ chung bao quát
toàn thế giới – có mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một lĩnh vực riêng biệt của
thế giới đó, mối liên hệ trực tiếp – gián tiếp... Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động phát
triển qua nhiều giai đoạn, giữa các giai đoạn đều có mối liên hệ với nhau. Ví dụ: Cây
xanh có cây cần nhiều nước, ánh sáng, có cây cần ít nước, ánh sáng... -> Đa dạng phong
phú của các mối liên hệ. Cùng mối liên hệ thầy – trò, cha mẹ - con cái, vợ - chồng... giữa
phương Đông và phương Tây đều có biểu hiện khác nhau, ở mỗi nước phương Đông
cũng có sự khác nhau -> Mối liên hệ đa dạng, phong phú.

Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu: Thứ nhất, trong hoạt động
nhận thức phải đặt đối tượng trong chỉnh thể mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác,
mối liên hệ giữa các mặt và các yếu tố của bản thân nhân vật đó, tránh phiến diện. Ví dụ,
khi đánh giá về một người phải xem xét nhiều mặt (thể lực, phẩm chất, học tập,...), nhiều
mối liên hệ (giữa người với người, với tự nhiên) -> Giữa các mặt, mối liên hệ đó tác động
qua lại -> Phải có cái nhìn bao quát chỉnh thể đó -> Rút ra được người đó là người như
thế nào; Thứ hai, phải phân loại đúng các mối liên hệ, rút ra được các mặt, các mối liên
hệ bản chất tất yếu của đối tượng nhằm tác động đến đối tượng một cách phù hợp, từ đó
thúc đẩy sự vật tiến lên. Ví dụ: Khi đánh giá về công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ năm
1986 đến nay, ta phải đánh giá toàn diện những thành tựu (kết cấu hạ tầng, thu nhập, mức
sống, giáo dục, y tế...) cùng những hạn chế (mặt trái của các yếu tố trên, tệ nạn xã hội), từ
đó rút ra được kết luận đổi mới là tất yếu khách quan, chỉ ra được nguyên nhân dẫn tới
hạn chế -> Tìm ra giải pháp khác phục yếu kém đó -> Mỗi người có niềm tin vào công
cuộc đổi mới vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội; Thứ ba, phải sử dụng đồng bộ nhiều
giải pháp để cải tạo bởi các mối liên hệ khác nhau thì yêu cầu về giải pháp khác nhau. Ví
dụ: Vẫn tiếp ví dụ trên, Khi ta đã chỉ ra những hạn chế như tham ô, tham nhũng, con ông
cháu cha, tệ nạn xã hội -> Tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến kết quả đó -> Có nguyên nhân
trực tiếp, gián tiếp, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu -> Phân tích các nguyên
nhân đó -> Giải pháp phù hợp; Thứ tư, trong hoạt động thực tiễn, khi vận dụng những
nguyên lý, lý luận chung phải xuất phát từ những điều kiện thực tiễn lịch sử - cụ thể,
4

quan điểm lịch sử - cụ thể đối lập với quan điểm chung chung, giáo điều, phiến diện,
không có trọng tâm, trọng điểm rõ ràng. Ví dụ: Đánh giá một sự vật chỉ nhìn về vài mặt,
vài mối liên hệ đã đi đến kết luận về bản chất sự vật (phiến diện, sai lầm), chẳng hạn như
đánh giá con người.

Là sinh viên ngành Hệ thống thông tin quản lý trường Đại học Tài chính -
Marketing, tôi có thể áp dụng ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý này vào trong
học tập bằng cách: Luôn xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn để có kết quả cao
trong học tập. Vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học tập để định
hướng học tập sâu hơn.

Ngày nay, với sự phát triển của xã hội, khái niệm lý thuyết và thực hành được hiểu
khác hơn, học và hành luôn song hành và không thể tách rời nhau. Vì vậy, học và hành
có mối quan hệ rất mật thiết với nhau. “Học” có nghĩa là lĩnh hội kiến thức đã tích lũy
trong giáo trình, sách vở, là nắm vững những lý thuyết được đúc kết trong các môn khoa
học, đồng thời tiếp thu những kinh nghiệm của những người đi trước. “Học” nghĩa là trau
dồi kiến thức, mở mang đầu óc, không để bị tụt hậu phía sau. “Hành” có nghĩa là làm, là
thực hành, là ứng dụng lý thuyết, kiến thức vào thực tế của cuộc sống. Tóm lại, học và
hành là hai mặt của cùng một quá trình, chúng không thể tách rời nhau mà phải luôn gắn
chặt với nhau làm một. Là một sinh viên với ngành học là Hệ thống thông tin quản lý,
theo tôi, việc trau dồi kiến thức kết hợp với thực hành nghề nghiệp là vô cùng cần thiết và
quan trọng. Ngành Hệ thống thông tin quản lý là sự kết hợp giữa kinh tế và công nghệ
thông tin, do đó sinh viên sẽ được trang bị những kiến thức về kinh tế lẫn công nghệ
thông tin, ví dụ như các môn toán, xác xuất thống kê, kinh tế vi mô – vĩ mô, cơ sở lập
trình, cấu trúc dữ liệu và giải thuật... Quan trọng nhất là những môn chuyên ngành để
định hướng nghề nghiệp. Đối với những môn này, sinh viên không chỉ cần phải nắm
vững kiến thức, mà còn phải thực hành càng nhiều càng tốt để tăng cơ hội việc làm. Nếu
chỉ hành trang mỗi lý thuyết, thiếu đi sự hiểu biết về thực hành thì nguy cơ thất nghiệp rất
cao. Ngoài ra, việc trang bị thêm các kỹ năng mềm như làm việc nhóm, kỹ năng giao
tiếp, khả năng truyền đạt thông tin... là một lợi thế trong mắt nhà tuyển dụng.

Câu 2:
5

Phân tích luận điểm:

Tiền đề của lý luận của triết học Mác – Lênin để nghiên cứu con người, những con
người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của chính mình,
không phải là những con người trừu tượng, không ở trong các mối quan hệ xã hội. Con
người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của
lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo ra mọi thành tựu của văn minh và văn hóa.
Vì vậy, để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đưa ra luận điểm: "Bản chất
con người không phải là cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội". (C.Mác và
Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3 (tr.11), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội)

Quan niệm trên cho thấy C.Mác khẳng định không có con người trừu tượng, bản
chất con người là hiện thực, không bị chi phối bởi bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - xã
hội nào. Con người là sự kết hợp thống nhất giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội, nhưng
yếu tố xã hội mới là bản chất đích thực của con người. Con người mang bản chất xã hội
vì bản chất con người bị các điều kiện xã hội đương thời quy định như kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục... Khi những điều kiện này thay đổi thì bản chất con người cũng sẽ thay
đổi theo.

Con người luôn mang tính cụ thể và xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ
thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, con người tạo ra những
giá trị vật chất và tinh thần thông qua hoạt động thực tiễn của mình để tồn tại và phát
triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong tất cả các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ
giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...)
con người mới có thể bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.

Cần lưu ý rằng, luận điểm trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ
nhận các mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại
trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con
người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh hiểu thô thiển về mặt tự
nhiên, cái sinh vật ở con người.
6

Kế thừa và quán triệt tư tưởng lý luận của C.Mác, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú
ý đến con người. Theo Người "chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người" (Hồ Chí Minh
(1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.). Với ý nghĩa đó, khái niệm con
người mang trong nó bản chất xã hội, con người xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội từ
hẹp đến rộng trong đó con người hoạt động và sinh sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
đặt mỗi cá nhân con người trong mối quan hệ ba chiều: Quan hệ với một cộng đồng xã
hội nhất định trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ xã hội
nhất định trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức bóc lột; quan hệ với tự nhiên
trong đó con người là một bộ phận không thể tách rời. Con người trong quan niệm của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chỉnh thể thống nhất giữa thể lực, tâm lực, trí lực và sự hoạt
động. Đó là một hệ thống cấu trúc bao gồm sức khoẻ, tri thức, năng lực thực tiễn, đạo
đức, đời sống tinh thần... Người cho con người là tài sản quý nhất, chăm lo, bồi dưỡng và
phát triển con người, coi con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, nhân tố
quyết định thành công của cách mạng. Nhận thức đúng đắn và khơi dậy nguồn lực con
người chính là sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, xem con người với tư cách
là nguồn sáng tạo có ý thức, chủ thể của lịch sử. (Nguồn: Thanh Hóa – Cơ quan của Đảng
Cộng Sản Việt Van tỉnh Thanh Hóa, Tìm hiểu luận điểm của C.Mác về bản chất con
người và ý nghĩa trong phát huy nguồn lực con người Việt Nam hiện nay, truy cập ngày
23/04/2022, từ https://baothanhhoa.vn/thoi-su/tim-hieu-luan-diem-cua-c-mac-ve-ban-
chat-con-nguoi-va-y-nghia-trong-phat-huy-nguon-luc-con-nguoi-viet-nam-hien-nay/
135786.htm)

Liên hệ bản thân về việc rèn luyện kỹ năng sống:

Con người luôn chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ “gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”. Để trở thành con người tốt, chúng ta phải sống trong môi trường tốt, và bản thân
cũng phải tự cải thiện môi trường bằng cách rèn luyện bản thân, loại bỏ các yếu tố tiêu
cực. Bản thân tôi cũng vậy. Đối với tôi, sống trong một môi trường tốt là một điều lý
tưởng mà tôi đặt mục tiêu hướng đến. Để đạt được điều đó, tôi đã rèn luyện bản thân
bằng cách trang bị các kỹ năng sống cơ bản. Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm tý xã
hội và giao tiếp mà mỗi cá nhân cần có để tương tác với người khác một cách hiệu quả
7

hoặc ứng phó với những vấn đề hay những thử thách của cuộc sống hằng ngày. Bản thân
là một sinh viên, theo tôi, việc trang bị các kỹ năng sống cơ bản trong học tập và sinh
hoạt yếu tố quyết định đến sự hình thành và phát triển nhân cách sau này. Rèn luyện kỹ
năng sống sẽ giúp ta nhanh chóng có ý thức tự chủ và làm chủ được năng lực của mình.
Kỹ năng sống giúp hình thành tích tự lập, giúp sống tích cực hơn, và hướng đến những
điều lành mạnh cho bản thân và xã hội. Bản thân là một người khá khó khăn trong việc
tiết chế cảm xúc, tôi đã gặp khá nhiều rắc rối trong các mối quan hệ của mình. Vì thế tôi
đã học cách chủ động trong việc tiết chế, làm chủ cảm xúc cá nhân phù hợp với hoàn
cảnh và tích cực nhất có thể. Ngoài ra, kỹ năng thể hiện sự tự tin mà tôi học được đã giúp
tôi rất nhiều trong đời sống, trong đó có học tập. Sự tự tin giúp cho tôi giao tiếp hiệu quả
hơn, mạnh dạn bày tỏ ý kiến của mình trong quá trình học, dẫn đến kết quả học tập cực
kỳ tốt. Sự tự tin còn giúp tôi suy nghĩ tích cực về cuộc đời và sống lạc quan hơn. Tóm lại,
rèn luyện kỹ năng sống cũng quan trọng như việc tích lũy kiến thức, là một quá trình lâu
dài và suốt đời. Con người nên nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng sống và biết
cách lồng ghép nó vào thực tiễn đời sống. Bởi lẽ trong bất kỳ thời đại nào đi chăng nữa,
con người muốn thành công được thì không có con đường nào ngoài việc rèn luyện kỹ
năng sống và tích lũy kiến thức.
8

Tài liệu tham khảo:

1. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin

2. Giáo trình Triết học Mác – Lênin

3. Thanh Hóa – Cơ quan của Đảng Cộng Sản Việt Van tỉnh Thanh Hóa, Tìm hiểu
luận điểm của C.Mác về bản chất con người và ý nghĩa trong phát huy nguồn lực
con người Việt Nam hiện nay, truy cập ngày 23/04/2022, từ
https://baothanhhoa.vn/thoi-su/tim-hieu-luan-diem-cua-c-mac-ve-ban-chat-con-
nguoi-va-y-nghia-trong-phat-huy-nguon-luc-con-nguoi-viet-nam-hien-nay/
135786.htm

Chữ ký của sinh viên

Nguyễn Thúy An

You might also like