Professional Documents
Culture Documents
Giáo trình Phát triển chương trình giáo dục
Giáo trình Phát triển chương trình giáo dục
Giáo trình Phát triển chương trình giáo dục
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
1. Chương trình giáo dục
Thuật ngữ CTGD xuất hiện từ năm 1820; tuy nhiên phải đến giữa thế kỉ XX, thuật ngữ
này mới được sử dụng một cách chuyên nghiệp ở Hoa Kì và một số nước có nền giáo
dục phát triển. CTGD (Curriculum) có gốc Latinh là Currere, có nghĩa là “to run” (chạy,
điều hành hoặc “to run a course” - điều hành một khoá học). Do vậy, định nghĩa truyền
thống của CTGD là “một khoá học” (Course of Study).
Hầu hết các nhà giáo dục ở giai đoạn đầu đều xem CTGD là một khoá học, một giáo
trình – cái hình thành nên một khoá học:
- Chương trình học bao gồm các môn học thường xuyên như ngữ pháp, đọc, hùng biện,
logic, và toán học (cho các trường tiểu học và trung học) và những môn học tinh tuý nhất
của thế giới phương Tây (bắt đầu đưa vào từ trường trung học).
- Chương trình học gồm các môn học chủ yếu trong 5 lĩnh vực lớn như : (1) tiếng mẹ đẻ
và ngữ pháp, văn chương và viết; (2) toán học; (3) các môn khoa học; (4) lịch sử; (5)
ngoại ngữ.
- Chương trình học gồm toàn bộ kiến thức của các môn học. Giáo dục được xem như
một quá trình nhằm giúp người học nắm bắt các nội dung kiến thức cấu tạo nên các môn
học.
- Chương trình học là một hệ thống các khoá học hay môn học cần phải có để được tốt
nghiệp hoặc được cấp chứng nhận đã học xong một ngành học.
- Chương trình học gồm các môn học cố định như ngữ pháp, đọc, logic, hùng biện, toán
và các môn học tinh tuý của thế giới phương Tây.
Định nghĩa chương trình học như là một sản phẩm đã hoàn thiện đã không làm thoả mãn
các nhà giáo dục tham gia phát triển chương trình học. Vào đầu thế kỉ trước, sự phát
triển mạnh mẽ của thông tin đã hàm ý rằng kiến thức không chỉ nằm trong phạm vi các
tài liệu in ấn. Với sự phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện công nghệ, việc xác
định những gì cấu tạo nên các kiến thức thiết yếu là không dễ dàng.
Trong những giai đoạn phát triển tiếp theo, yêu cầu của sự phát triển kinh tế-xã hội,
nhiều môn học mới được đưa thêm vào CTGD, sự khác biệt giữa người học đã trở nên
rõ rệt hơn đối với GV và các nhà quản lí, định nghĩa về CTGD bắt đầu được mở rộng.
Các chuyên gia trong lĩnh vực thiết kế CTGD bắt đầu phân loại các CTGD khác nhau:
CTGD cho khối cơ bản, khối kĩ thuật, khối thực hành v.v.
Ví dụ:
Trong quan niệm của Bobbitt (1924), CTGD có thể được định nghĩa theo hai hướng:
1) Đó là một loạt các hoạt động nhằm phát hiện khả năng của mỗi người học.
2) Đó là một loạt các hoạt động có chủ định nhằm hoàn thiện người học.
Theo hướng này, Hollis và Doak Campbell (1935) cho rằng CTGD “bao gồm tất cả những
hiểu biết và kinh nghiệm mà người học có được sự hướng dẫn của nhà trường”.
Nhiều tác giả khác cũng cho rằng CTGD không phải là một sản phẩm được dùng cho lâu
dài mà có tính phát triển liên tục; chẳng hạn:
- “CTGD là một chuỗi những kinh nghiệm được nhà trường phát triển nhằm giúp người
học tăng cường tính kỉ luật, phát triển năng lực tư duy và hành động.”
- “CTGD bao gồm tất cả kinh nghiệm mà người học có được dưới sự dẫn dắt của nhà
trường.”
- “CTGD gồm tất cả những gì người học có được từ một CTGD nhằm đạt các mục đích
và mục tiêu của nó. CTGD được xây dựng theo khung lí thuyết và nghiên cứu hoặc
những thực tiễn nghề nghiệp trong quá khứ hay hiện tại.”
Đến giữa những năm 50 của thế kỉ trước, ảnh hưởng của xã hội tới nhà trường ngày
càng rõ hơn, và HS không chỉ học được những gì có trong trường học mà còn tiếp nhận
nhiều kinh nghiệm phong phú trong đời sống xã hội. Do vậy, định nghĩa về CTGD được
mở rộng hơn, không chỉ đơn thuần là những nội dung học được trong nhà trường; chẳng
hạn:
- “CTGD là tất cả các hoạt động học tập của người học và được kế hoạch hoá bởi trường
học nhằm đạt được những mục đích của giáo dục.”
- “CTGD là một kế hoạch nhằm cung cấp những cơ hội học tập để đạt được những mục
đích, mục tiêu cụ thể cho một nhóm đối tượng và ở một nhà trường nào đó”.
Vào những năm 60 và tiếp tục sang thế kỉXXI, người ta quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả
của CTGD. Ví dụ:
- CTGD không chỉ quan tâm đến những gì người học phải làm trong quá trình học tập,
mà còn là những gì họ sẽ học được từ những việc làm đó. CTGD quan tâm đến những
kết quả cuối cùng.
- CTGD là những hoạt động học tập được hoạch định và chỉ đạo bởi nhà trường nhằm
giúp người học phát triển năng lực cá nhân và xã hội một cách liên tục.
Tới những năm 90 và kéo dài đến những năm đầu của thế kỉXXI, những quan niệm về
CTGD có những thay đổi to lớn. Ví dụ, William Doll Jr. (1993) cho rằng một hệ thống giáo
dục theo trình tự tuyến tính và định lượng như hiện nay sẽ nhường chỗ cho một hệ thống
giáo dục đa dạng và phức tạp hơn, ít có tính ổn định hơn. Một hệ thống như vậy, như
chính cuộc sống, sẽ luôn vận động và thay đổi.
Cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong việc định nghĩa về CTGD. Sự khác
nhau đó tuỳ thuộc vào quan niệm của các nhà nghiên cứu và các nhà thực hành khi suy
nghĩ và thiết kế chương trình. Từ điển bách khoa quốc tế về giáo dục (Oxford) đã thống
kê 9 định nghĩa khác nhau về CTGD. Còn Reisse lại tổng hợp được tới 27 định nghĩa
khác nhau về CTGD, trong đó ông chia thành 3 nhóm khác nhau về mức độ rộng hẹp,
nhiều ít các yếu tố cấu thành chương trình. Tuy nhiên, khuynh hướng chung không chỉ
bó hẹp CTGDtrong hai thành phần là nội dung và mục tiêu dạy học mà còn đề cập tới
những yếu tố khác của quá trình dạy - học.
Còn theo K.Frey, CTGD được định nghĩa như sau: “CTGD là sự trình bày, diễn tả có hệ
thống việc dạyhọc được dự kiến trong một khoảng thời gian xác định mà sản phẩm của
sự trình bày đó là một hệ thống xác định các thành tố khác nhau nhằm chuẩn bị, thực
hiện và đánh giá một cách tối ưu việc dạyhọc”. Đây là định nghĩa được nhiều nhà nghiên
cứu và thực hành quan tâm.
Mặc dù định nghĩa về CTGD luôn thay đổi do tác động của xã hội với những bước tiến
khổng lồ về khoa học kĩ thuật và công nghệ, hiện nay CTGD được xem như là tập hợp
các mục tiêu và giá trị có thể được hình thành ở người học thông qua các hoạt động
được kế hoạch hoá và tổ chức trong nhà trường, gắn liền với đời sống xã hội. Mức độ
đạt các mục tiêu ấy là thể hiện tính hiệu quả của một CTGD. Mục đích của việc thiết kế
một CTGD phụ thuộc vào đối tượng người học của CTGD đó.
Ngày nay, quan niệm về CTGD đã rộng hơn, đó không chỉ là việc trình bày mục tiêu cuối
cùng và bảng danh mục các nội dung giảng dạy. Chương trình vừa cần cụ thể hơn, bao
quát hơn, vừa là một phức hợp bao gồm các bộ phận cấu thành:
- Mục tiêu học tập.
- Phạm vi, mức độ và cấu trúc nội dung học tập.
- Các phương pháp, hình thức tổ chức học tập.
- Đánh giá kết quả học tập.
Như vậy, cấu trúc của CTGDbao gồm hai thành phần chính: (1) sự hình dung trước
những thành tích mà người học sẽ đạt được sau một thời gian học tập, và (2) cách thức,
phương tiện, con đường, điều kiện để mong muốn đó trở thành hiện thực.
Có thể xem định nghĩa sau đây đã bao hàm được những ý đó:
CTGD là kế hoạch tổng thể, hệ thống về toàn bộ hoạt động giáo dục tại nhà trường. Nó
bao gồm mục đích giáo dục, mục tiêu, chuẩn đầu ra, nội dung giáo dục (với độ rộng và
sâu tương ứng với chuẩn đầu ra), phương thức giáo dục và hình thức tổ chức giáo dục
(với các phương pháp, phương tiện, công cụ dạy học phù hợp), phương thức đánh giá
kết quả giáo dục (trong so sánh, đối chiếu với chuẩn đầu ra của chương trình).
2. Các thành tố cơ bản của chương trình giáo dục
Gatawa B. S. M (1990) đã mô tả bốn nhóm thành tố cơ bản trong CTGD (Mục đích và
chuẩn chương trình; Phạm vi và nội dung chương trình; Phương pháp dạy học, hình thức
tổ chức dạy học và kinh nghiệm học tập; Đánh giá kết quả giáo dục) cùng mối quan hệ
tương tác giữa chúng. Đồng thời, các thành tố và mối quan hệ giữa chúng được nhúng
trong bối cảnh quốc gia (xã hội, chính trị, chính sách, môi trường,…) (xem sơ đồ 1).
Vì lí do nào đó mà những cuộc thảo luận về mô hình của Tyler thường kết thúc sau khi
khảo sát phần đầu – lí do căn bản để lựa chọn các mục tiêu giáo dục –của mô hình trên.
Thực ra, mô hình của Tyler đã vượt ra ngoài quá trình này nhằm miêu tả thêm ba bước
trong việc hoạch định chương trình: lựa chọn, tổ chức và đánh giá các kinh nghiệm học
tập. Ông định nghĩa các kinh nghiệm học tập như “sự tương tác giữa người học và các
điều kiện bên ngoài trong môi trường mà anh ta có thể phản hồi lại”. Ông đề nghị các GV
nên chú ý đến các kinh nghiệm học tập mà chúng ta sẽ:
- “phát triển kĩ năng suy nghĩ”
- “có ích cho việc thu thập thông tin”
- “có ích trong việc hình thành các thái độ xã hội”
- “có ích trong việc hình thành các mối quan tâm”.
Ông giải thích cách thức sắp xếp các kinh nghiệm thành các đơn vị và miêu tả các quy
trình đánh giá khác nhau. Mặc dù Tyler không có một chương riêng cho giai đoạn được
gọi là hướng dẫn các kinh nghiệm học tập (hay thực hiện việc giảng dạy), chúng ta cũng
có thể suy ra rằng việc giảng dạy hẳn phải diễn ra giữa các giai đoạn chọn lựa và tổ
chức, sắp xếp các kinh nghiệm học tập và đánh giá thành tích HS qua các kinh nghiệm
này.
Các mô hình mở rộng. Do vậy, chúng ta có thể sửa đổi sơ đồ của mô hình Tyler bằng
cách mở rộng nó, nhằm để bao gồm các bước trong quá trình hoạch định sau khi cụ thể
hoá các mục tiêu giảng dạy. Sơ đồ 4 cho thấy cách thức một mô hình mở rộng như thế
có thể thực hiện được.
Để hiểu được mô hình này, đầu tiên, chúng ta phải phân tích các khái niệm “chương
trình” và “kế hoạch chương trình” của họ. Định nghĩa của họ về chương trình là “Một kế
hoạch cung cấp tập hợp các cơ hội học tập để mọi người được giáo dục”. Tuy nhiên, kế
hoạch chương trình không được xem như một tài liệu duy nhất mà là “nhiều kế hoạch
nhỏ hơn cho các phần cụ thể của chương trình học”.
1) Các mục đích, mục tiêu và phạm vi.Mô hình cho thấy rằng các nhà hoạch định chương
trình bắt đầu bằng việc xác định rõ các mục đích giáo dục chính và các mục tiêu cụ thể
mà họ muốn đạt được. Saylor, Alexander và Lewis phân loại các tập hợp các mục đích
rộng thành 4 lĩnh vực mà theo đó các kinh nghiệm học tập diễn ra: 1) phát triển cá nhân,
2) năng lực xã hội, 3) các kĩ năng học tập tiếp tục và 4) sự chuyên môn hoá.
Một khi các mục đích, mục tiêu, và lĩnh vực đã được thiết lập, người hoạch định chuyển
sang quá trình thiết kế chương trình học. Người làm chương trình quyết định các cơ hội
học tập thích hợp cho mỗi lĩnh vực cũng như cách thức và thời điểm cung cấp các cơ hội
này. Ví dụ, liệu chương trình có được thiết kế theo các tuyến ngành chuyên môn, theo
như khuôn mẫu của các thể chế xã hội, hay có liên quan đến nhu cầu và quan tâm của
học viên hay không.
2) Các phương thức giảng dạy.Sau khi các thiết kế đã được tạo ra (và thường có nhiều
hơn một thiết kế), tất cả GV chịu trách nhiệm bởi một phần nào đó của chương trình cần
phải tạo ra các kế hoạch giảng dạy. Họ lựa chọn các phương pháp mà qua đó chương
trình học có liên hệ đến các HS. Mô hình ở thời điểm này là dịp thuận lợi để giới thiệu
thuật ngữ các mục tiêu giảng dạy. Các GV sau đó sẽ xác định các mục tiêu giảng dạy
trước khi lựa chọn các chiến lược hay phương thức thể hiện.
3) Đánh giá.Cuối cùng, các nhà hoạch định chương trình và giáo vên tham gia vào việc
đánh giá. Họ phải chọn ra từ một tập hợp rất nhiều các kĩ thuật đánh giá khác nhau.
Saylor, Alexander và Lewis đề nghị một thiết kế cho phép đánh giá toàn bộ một CTGD,
cũng như đánh giá chính bản thân một chương trình đánh giá. Các quá trình đánh giá
cho phép các nhà hoạch định quyết định liệu các mục đích của nhà trường và mục tiêu
giảng dạy có được đáp ứng hay không.
Saylor, Alexander và Lewis bổ sung mô hình quá trình hoạch định chương trình học của
họ bằng các mô hình kèm theo mô tả các thành tố của hệ thống chương trình, quá trình
xác định các mục đích và mục tiêu của các thể chế giáo dục và đánh giá chương trình.
Các nhà hoạch định chương trình có thể nhận thấy sự tổng hợp nào đó của mô hình quá
trình hoạch định chương trình với các mô hình kèm theo là cần thiết và nên có.
Sự giống và khác nhau giữa các mô hình.
Các mô hình được thảo luận cho thấy giữa chúng có cả sự giống nhau lẫn khác nhau.
Tyler và Taba phác hoạ các bước cụ thể cần phải tiến hành trong việc xây dựng chương
trình; Saylor, Alexander và Lewis lên sơ đồ các thành phần của quá trình xây dựng
chương trình (thiết kế, thực hiện và đánh giá) chứ không phải các bước tiến hành của
những người làm chương trình (chẩn đoán nhu cầu, hình thành các mục tiêu và những
vấn đề tương tự). Khái niệm của Tyler về các nguồn dữ liệu và các bức màn chắn là
những điểm nổi bật nhất trong mô hình của ông.
Các mô hình chắc chắn là chưa hoàn chỉnh; chúng không và không thể chỉ ra từng chi
tiết và từng sắc thái của một quá trình sinh động, phức tạp như quá trình xây dựng
chương trình – “đây là các nét đặc trưng mà bạn không thể nào quên”. Để miêu tả mỗi
chi tiết của quá trình xây dựng chương trình có thể cần đến sự phác hoạ vô cùng phức
tạp hay là nhiều mô hình. Một nhiệm vụ trong việc xây dựng một mô hình chương trình
học là phải xác định xem các thành phần quan trọng nhất của quá trình là cái gì – một
nhiệm vụ không dễ – và phải giới hạn mô hình trong các thành phần đó. Những người
xây dựng mô hình luôn cảm thấy bản thân mình lửng lõ giữa sự ðõn giản hoá của Scylla
và sự phức tạp hoá của Charybdis đến mức bối rối.
Khi nhìn vào các mô hình khác nhau, chúng ta không thể nói rằng mô hình này hơn hẳn
tất cả các mô hình khác. Ví dụ, một số nhà hoạch định chương trình làm theo mô hình
của Tyler trong nhiều năm với nhiều thành công đáng kể. Decker Walker nói về tầm quan
trọng của công trình của Tyler khi ông phát biểu: “Ralph Tyler có nhiều ảnh hưởng đến tư
tưởng và thực tiễn của nền giáo dục Hoa Kỳ ở thế kỉ XXhơn bất cứ cá nhân nào khác, có
lẽ chỉ với một ngoại lệ là John Dewey”. Mặt khác, sự thành công này không có nghĩa là
mô hình của Tyler tượng trưng cho cái cuối cùng trong các mô hình xây dựng chương
trình, cũng không có nghĩa là bất cứ mô hình nào, kể cả của Tyler, cũng được chấp nhận
khắp nơi như nền tảng của việc xây dựng chương trình.
Trước khi lựa chọn một mô hình hay thiết kế một mô hình mới – tất nhiên là một mô hình
thay thế có thể thực hiện được – các nhà hoạch định chương trình có thể cố gắng phác
hoạ ra các tiêu chí hay đặc điểm mà họ sẽ tìm kiếm trong một mô hình nhằm cải tiến
chương trình. Họ có thể đồng ý rằng, mô hình cần phải trưng ra các điểm sau:
1) Các thành phần chính của quá trình, bao gồm các giai đoạn hoạch định, thực hiện và
đánh giá.
2) Các thông lệ, nhưng không phải là các điểm “bắt đầu” và “kết thúc” không linh hoạt.
3) Mối liên hệ giữa chương trình học và việc giảng dạy.
4) Sự khác biệt giữa các mục đích và các mục tiêu của chương trình và giảng dạy.
5) Mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần
6) Một khuôn mẫu theo chu kì chứ không phải theo tuyến
7) Các tuyến phản hồi
8) Khả năng đi vào bất cứ điểm nào của chu kì
9) Sự nhất quán và lôgic nội tại
10) Đủ đơn giản để trở nên dễ hiểu và khả thi
11) Các thành phần ở dạng biểu đồ hay sơ đồ.
6.4. Mô hình Oliva
Mô hình được thể hiện ở Sơ đồ 5 minh hoạ một quá trình toàn diện, từng bước mà một
người hoạch định chương trình tiến hành từ các nguồn của chương trình học cho đến
việc đánh giá. Mỗi thành phần (được gọi tên theo số La Mã từ I đến XII) sẽ được miêu tả,
và các minh hoạ sẽ được đưa ra nhằm hướng dẫn các nhà hoạch định chương trình và
đồng nghiệp của họ.
Cần lưu ý rằng cả hình vuông và hình tròn đều được sử dụng trong mô hình này. Các
hình vuông được sử dụng để biểu thị các giai đoạn hoạch định; các hình tròn là các giai
đoạn hoạt động.
Sơ đồ 6. Mô hình xây dựng chương trình của
Oliva
Quá trình bắt đầu với phần I, ở thời điểm mà những người xây dựng chương trình tuyên
bố mục đích giáo dục và các nguyên tắc triết học cũng như tâm lí của họ. Những mục
đích này là niềm tin xuất phát từ các nhu cầu của xã hội chúng ta và nhu cầu của cá
nhân sống trong xã hội của chúng ta. Thành phần này kết hợp chặt chẽ với các khái niệm
giống như “các bức màn” của Tyler.
Thành phần II đòi hỏi sự phân tích các nhu cầu của cộng đồng nơi mà nhà trường toạ
lạc, nhu cầu của các HS trong cộng đồng đó và các nhu cầu cấp bách của môn học sẽ
được dạy trong nhà trường đó. Các nguồn dữ liệu chương trình được xem như có trong
cả các thành phần II và III. Trong khi thành phần I xem các nhu cầu của HS và của xã hội
theo ý nghĩa tổng quát hơn, thì thành phần II giới thiệu khái niệm các nhu cầu của cácHS
cụ thể trong những khu vực cụ thể, bởi vì các nhu cầu của HS trong các cộng đồng cụ
thể nào đó không phải lúc nào cũng giống như các nhu cầu chung của HS trong toàn bộ
xã hội chúng ta.
Các thành phần III và IV đòi hỏi việc xác định các mục đích và mục tiêu chương trình dựa
vào các mục đích, niềm tin và nhu cầu được xác định trong các thành phần I và II. Những
khác biệt giữa các mục đích và mục tiêu sẽ được làm rõ sau bằng các ví dụ.
Nhiệm vụ của thành phần V là sắp xếp và thực hiện chương trình giảng dạy và thiết lập
cấu trúc mà chương trình giảng dạy được sắp xếp.
Các thành phần VI và VII là sự tìm kiếm các cấp độ cụ thể hoá ngày càng tăng. Các mục
đích và mục tiêu giảng dạy được nêu rõ ở mỗi cấp độ và môn học. Một lần nữa chúng ta
sẽ phân biệt mục đích và mục tiêu và cho thấy chúng khác nhau như thế nào bằng các
minh hoạ.
Sau khi xác định các mục tiêu giảng dạy, người làm chương trình tiến gần đến thành
phần VIII; ở điểm này, họ sẽ lựa chọn các chiến lược giảng dạy để áp dụng đối với HS
trong lớp học. Đồng thời, người làm chương trình khởi xướng sự lựa chọn các kĩ thuật
đánh giá bước đầu, giai đoạn A của thành phần IX. Ở giai đoạn này, người hoạch định
chương trình nghĩ trước và bắt đầu xem xét các cách mà họ sẽ đánh giá thành tích HS.
Việc thực hiện các chiến lược giảng dạy được thể hiện ở thành phần X.
Sau khi HS được cung cấp cơ hội thích hợp để học tập (thành phần X), người hoạch
định trở về với vấn đề lựa chọn các kĩ thuật đánh giá thành tích HS và tính hiệu quả của
GV. Thành phần IX, sau đó, được tách riêng ra làm hai giai đoạn: giai đoạn đầu đi trước
việc thực hiện giảng dạy thực sự (IXA) và giai đoạn hai theo sau việc thực hiện này
(IXB). Thành phần giai đoạn giảng dạy (X) cung cấp cho các nhà hoạch định cơ hội chọn
lọc, bổ sung và hoàn thành việc chọn lựa các phương pháp đánh giá thành tích HS.
Thành phần XI là giai đoạn mà việc đánh giá giảng dạy được thực hiện. Thành phần XII
hoàn tất chu kì bằng việc đánh giá không phải HS hay GV mà là chương trình của
chương trình giảng dạy.
Trong mô hình này, các thành phần I-IV và VI-IX là các giai đoạn hoạch định, còn các
thành phần X-XII là các giai đoạn hoạt động. Thành phần V là giai đoạn cả hoạch định
lẫn hoạt động.
Giống như một số mô hình khác, mô hình này kết hợp một kế hoạch xây dựng chương
trình (thành phần I-V và VII) và một thiết kế cho việc giảng dạy (thành phần VI-XI).
Các đặc điểm quan trọng của mô hình là các tuyến phản hồi quay ngược lại từ sự đánh
giá chương trình học đến các mục đích chương trình và từ sự đánh giá việc giảng dạy
đến các mục đích giảng dạy. Các tuyến này chỉ định sự cần thiết của việc sửa đổi liên tục
các thành phần của các chu kì phụ tương ứng của chúng.
7. Phát triển chương trình nhà trường
7.1. Định nghĩa
Skilbeck (1984, trích theo Marsh và cộng sự 1990.tr.48) đã định nghĩa về phát triển
chương trình nhà trường (school-based curiculium development)như sau: “Phát triển
chương trình nhà trường là việc một cơ sở giáo dục lập kế hoạch, thiết kế, thực thi và
đánh giá chương trình học tập của HS trường mình”.
Bezzina có định nghĩa tương tự song có mở rộng thêm khái niệm “hợptác” giữa các
thành viên trong trường như một đặc trưng quan trọng. Theo Bzzina:“Phát triển chương
trình nhà trường là một quá trình trong đó một số hay toàn thể các thành viên trong
trường lập kế hoạch, thực thi và/hoặc đánh giá một hay nhiều khía cạnh trong chương
trình mà nhà trường đang sử dụng. Đó có thể là sự điều chỉnh chương trình hiện có,
chấp nhận không thay đổi, hoặc sáng tạo một chương trình mới. Phát triển chương trình
nhà trường là một nỗ lực tập thể trong khuôn khổ một chương trình khung được thừa
nhận mà không bị ngăn trở bởi bất kì nỗ lực cá nhân của các GV hay nhà quản lí khác”.
Hai định nghĩa trên nhấn mạnh tới vai trò của các hoạt động bên trong trường trong việc
phát triển chương trình nhà trường. Ngược lại tổ chức OECD xem xét nhà trường trong
mối quan hệ rộng hơn với hệ thống các cơ sở giáo dục khác, bao gồm cả Bộ Giáo dục,
các sở giáo dục, công đoàn giáo dục, hội cha mẹ HS, cộng đồng dân cư, các chính trị
gia, giới truyền thông…. OECD định nghĩa vê phát triển chương trình nhà trường như
sau: “Phát triển chương trình nhà trường là một quá trình, trên cơ sở các hoạt động bên
trong nhà trường, hoặc trên cơ sở nhu cầu của nhà trường trong việc thực thi chương
trinh giáo dục – nhằm tạo ra sự phân quyền, trách nhiệm và sự kiểm soát giữa chính
quyền trung ương và địa phương, để nhà trường có được quyền tự chủ hợp pháp về
hành chính, nghề nghiệp để có thể tự quản lí quá trình phát triển của trường mình”
(OECD, 1979 t.4). Và như đã dẫn ở phần trước, Bộ Giáo dục New Zealand đưa ra định
nghĩa sau về chương trình nhà trường trong mối liên hệ với chương trình quốc gia:
“CTGD của New Zealand bao gồm các tuyên bố về chương trình quốc gia quy định các
nguyên tắc, các mục đích, mục tiêu cần đạt mà tất cả các trường học của New Zealand
được yêu cầu phải tuân thủ”. “Chương trình nhà trường bao gồm những cách thức nhà
trường thực hiện các tuyên bố trong chương trình quốc gia. Chương trình đó có tính đến
nhu cầu, ưu tiên, các nguồn lực của địa phương và được thiết kế với sự tham gia của
cộng đồng nhà trường” (MOE. 1993, tr.4).
Bộ Giáo dục New Zealand còn bổ sung: “CTGD New Zealand đảm bảo sự mềm dẻo,
cho phép các trường cùng GV thiết kế chương trình phù hợp với nhu cầu học tập của HS
mình. Chương trình nhà trường được tổ chức linh hoạt để đáp ứng nhu cầu của mỗi HS,
phù hợp với cách hiểu mới về các phong cách học khác nhau của HS, phù hợp với
những thay đổi trong điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với những yêu cầu và kì vọng
của cộng đồng địa phương”.
Nhiều tài liệu về phát triển chương trình nhà trường đặt câu hỏi về ranh giới giữa quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường với quyền và trách nhiệm của chính quyền
các cấp cũng như những người quan tâm tới giáo dục. Do vậy có nhiều tác giả đề nghị
thay cụm từ school-based(dựa vào nhà trường) bằng school-focused (tập trung cho nhà
trường).
Trên cơ sở các quan điểm, định nghĩa nêu trên, một số tác giả, trong đó có Brady (1992),
đã nêu những đặc điểm cơ bản của phát triển chương trình nhà trường:
a) Lôi cuốn sự tham gia của GV vào các quyết định liên quan đến phát triển và thực thi
chương trình.
b) Có thể liên quan đến một bộ phận GV chứ không phải toàn thể GV.
c) Đó có thể là một chương trình “lựa chọn và điều chỉnh” chứ không phải là một chương
trình mới hoàn toàn.
d) Đó chỉ bao gồm việc thay đổi vị trí trong trách nhiệm của nhà trường trong các quyết
định liên quan đến chương trình chứ không đề cập tới quan hệ khác của nhà trường với
các cấp quản lí.
e) Đây là một quá trình liên tục và năng động lôi cuốn GV, HS, cộng đồng tham gia.
g) Thoả mãn nhu cầu của nhiều cấu trúc hỗ trợ.
h) Làm thay đổi vai trò truyền thống của GV.
7.2. Luận cứ
Nghiên cứu lịch sử và quá trình phát triển của hoạt động phát triển chương trình nhà
trường ở Australia, Vương quốc Anh, Hoa Kì, Canada… Marsh và cộng sự (1990) đã xác
định những quan điểm sau được xem như luận cứ của phát triển chương trình nhà
trường:
Nhu cầu cao về quyền tự chủ của nhà trường trong thiết kế chương trình.
Sự không hài lòng với mô hình kiểm soát từ trên xuống.
Nhà trường có nhu cầu được chịu trách nhiệm về HS của mình, mong muốn được tự do
hơn, nhiều cơ hội hơn, quyền tự chịu trách nhiệm cao hơn, nhiều nguồn lực hơn để
quyết định và điều hành công việc của mình.
Quan điểm cho rằng nhà trường là nơi tốt nhất để hoạch định, thiết kế chương trình và
xây dựng chương trình dạy học riêng của mình.
Quan điểm cho rằng GV tự khẳng định được bản thân, có động lực và cảm giác thành
công khi tham gia phát triển chương trình nhà trường.
Quan điểm cho rằng nhà trường là tổ chức bền vững, kiên trì hơn các cơ quan của địa
phương hay chính phủ trong phát triển chương trình.
Lưu ý rằng các luận cứ nêu trên chủ yếu đề cập tới vai trò của nhà trường, GV và địa
phương trong việc kiểm soát và ra các quyết định về phát triển chương trình. Trong đó,
luận cứ 3 (nhà trường có nhu cầu được chịu trách nhiệm về HS của mình) ngụ ý một
cách thuyết phục rằng đây là luận cứ quan trọng nhất về phát triển chương trình nhà
trường; phát triển chương trình nhà trường chính là phương tiện để đưa chương trình
tiến gần tới nhu cầu, nguồn lực của HS và cộng đồng.
7.3. Một vài trường hợp điển hìnhở New Zeland
Trường hợp 1: “Innovative pathways from school” (tạm dịch: Những con đường mới cho
HS sau khi ra trường).
Boyd, McDowall và Cooper (2002) đã nghiên cứu 7 trường trung học có phát triển các
chương trình không chính thức (non-conventional programmes) nhằm giúp HS tìm kiếm
những con đường để học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Các chương trình này tập
trung chủ yếu giúp HS được trải nghiệm những thành công thông qua các hoạt động
trong các lĩnh vực như thể thao, du lịch, cơ khí…. Các chương trình này có thể cấp
chứng chỉ để sử dụng khi xin việc hoặc học lên.
Boyd và cộng sự đã xác định những điểm giống nhau và khác nhau của 7 trường tham
gia dự án này. Một số chương trình như thể thao, giải trí ngoài trời... được sử dụng chủ
yếu như “củ cà rốt” để giữ HS ở lại trường và có thể sử dụng các kĩ năng đó để phát triển
các hành vi, phẩm chất phù hợp với việc học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động. Một số
chương trình khác lại giúp HS có được trải nghiệm của những người lao động.Một số
chương trình khác nữa lại giúp HS có những kĩ năng của sinh viên đại học. Và tuỳ theo
mục tiêu của chương trình mà cách tổ chức các hoạt động cũng khác nhau.
Công trình nghiên cứu “Những con đường mới…” chỉ ra các yếu tố thúc đẩy, hỗ trợ cho
hoạt động phát triển chương trình của mỗi nhà trường, trong đó có những yếu tố giống
nhau giữa cả 7 trường, cũng có những yếu tố riêng, đặc thù của một vài trường. Ví dụ:
Nhận thức rằng chương trình và cách thức kiểm tra đánh giá hiện hành không đáp ứng
nhu cầu của một số HS (cả 7 trường)
Xem nhu cầu xã hội và cả nhu cầu học tập của HS là yếu tố quan trọng (cả 7 trường).
Liên kết với cộng đồng ngoài trường, bao gồm cả người sử dụng lao động, các cơ sở
dạy nghề, các tổ chức tư nhân, chính quyền địa phương (cả 7 trường).
Điều chỉnh việc giảng dạy, kiểm tra đánh giá cho phù hợp với các tổ chức giáo dục nghề
nghiệp (một số trường).
Ưu tiên xem xét môi trường, nguồn lực, đặc điểm cộng đồng địa phương trong việc phát
triển chương trình nhà trường (hầu hết các trường).
Đáp ứng nhu cầu HS (hầu hết các trường).
Tất cả các chương trình trong dự án đều được thiết kế nhằm hỗ trợ một nhóm HS không
đạt kết quả tốt trong học tập các môn học mà vẫn được ở lại trường do có những kĩ năng
nghề nghiệp nhất định. Để động viên nhóm HS này, nhà trường chọn các lĩnh vực mà
các em thích thú và có thể giúp các em trong cuộc sống. Việc các nhà trường thiết kế các
khoá học đáp ứng nguyện vọng của HS và điều kiện có việc làm của địa phương hoặc
học lên được xem như một hoạt động phát triển chương trình nhà trường hiệu quả.
Trường hợp 2: Giáo dục môi trường tại trường Otari.
Trường Otari là trường Tiểu học ở Wellington. Năm học 2002-2003 trường Otari là một
trong 8 trường tham gia dự án của Bộ Giáo dục New Zeland về giáo dục môi trường. Từ
giữa những năm 90,GV trường Otari đã bắt đầu quan tâm tới giáo dục môi trường; điều
đó đã dẫn tới những thay đổi to lớn trong trường và sau đó được tham gia vào dự án của
Bộ Giáo dục. Vấn đề phát triển chương trình nhà trường định hướng giáo dục môi trường
được đặt ra một cách nghiêm túc; ngoài ra còn những yếu tố khác thúc đẩy việc phát
triển chương trình nhà trường ở Otari.
a) Nhu cầu của HS
Trường Otari nằm ở vùng ngoại ô, nơi các hộ dân cư có thu nhập cao, trung bình và thấp
ở xen kẽ nhau. Giáo dục môi trường bắt đầu được quan tâm vào giữa những năm 90 khi
nhà trường phải đối đầu với nhiều thay đổi. Điều đầu tiên mà hiệu trưởng phải quan tâm
là đáp ứng được nhu cầu của số đông HS địa phương, cụ thể là HS các gia đình ở Maori
có thu nhập thấp, vì đây là nguồn tuyển sinh ổn định và lâu dài; và các gia đình đó cũng
không có lựa chọn nào khác. Còn đối với các gia đình có thu nhập trung bình và cao,
hoặc từ các nơi khác đến thì họ có quyền lựa chọn học trường này hay trường khác.
b) Bối cảnh môi trường địa phương và tình hình nhà trường
Thứ nhất, đây là một trường có quy mô nhỏ, chỉ có 6 lớp.
Thứ hai, trường đóng gần Khu dự trữ sinh quyển quốc gia dùng để nghiên cứu đời sống
của thế giới tự nhiên ở New Zealand.
Thứ ba, do đặc điểm của 3 tầng lớp dân cư có con em học trong trường, nhà trường
buộc phải được tổ chức theo 3 hướng. Hướng chính cho HS địa phương; hướng thứ hai
cho HS vùng Montessori; và hướng thứ ba cho HS vùng Maori. Cả 3 nhóm này đều có
HS ở các lớp khác nhau. Hiệu trưởng cũ cho rằng chỉ cần giáo dục ý thức bảo vệ vùng
sinh quyển này cho HS địa phương là đủ vì lúc đó đã xảy ra các hiện tượng vi phạm
vùng dự trữ sinh quyển, nhưng ngay các HS địa phương cũng không cảm thấy có liên
quan hoặc có trách nhiệm với những vi phạm này. Và vấn đề tích hợp một cách chặt chẽ
hơn giáo dục môi trường với các hoạt động của nhà trường được đặt ra một cách
nghiêm túc nhằm thiết lập lại mối quan tâm và trách nhiệm của HS với vùng dự trữ sinh
quyển.
c) Tác động của cộng đồng
Năm 1995, nhà trường đã mời đông đảo cha mẹ HS tham gia xây dựng hệ giá trị cho nhà
trường. Căn cứ vào các đặc điểm của trường (có 3 nhóm dân cư khác nhau, quy mô
trường nhỏ, đa văn hoá, bầu không khí hoà thuận, nằm kề Khu dự trữ sinh quyển quốc
gia,…), hội nghị thống nhất hệ giá trị của trường như sau:
Tự khẳng định và tự trọng,
Tôn trọng người khác và quyền của người khác,
Trách nhiệm xã hội,
Trách nhiệm với môi trường.
d) Tác động của lí luận dạy học mới
Năm 2000, toàn thể GV tham gia chương trình phát triển nghề nghiệp, tập trung phát
triển mô hình “học tập trong hoạt động”. Mô hình này cung cấp cho HS một công cụ để
phát triển sự độc lập trong suy nghĩ và hành động, kĩ năng xử lí có phê phán các thông
tin, tự quản lí bản thân và làm việc với các bạn, bắt đầu bằng việc rèn luyện cho HS kĩ
năng tự chịu trách nhiêm về việc học của bản thân. Trong năm 2000 và 2001,GV còn
tham dự hội thảo về Thang bậc tư duy của Bloom và lí thuyết Đa thông minh của
Gardner. Năm 2001, nhà trường tập trung xác định các biện pháp củng cố và tăng cường
hoạt động dạy học nhằm đáp ứng 4 giá trị của trường. Những tác động trên thúc đẩy nhà
trường xây dựng kế hoạch phát triển chương trình nhà trường.
e) Xây dựng kế hoạch phát triển chương trình nhà trường
Giáo dục môi trường được xây dựng thành kế hoạch 4 năm và cụ thể hoá trong kế hoạch
từng năm học. Kế hoạch mỗi năm gắn với một trong 4 yếu tố: nước, đất, không khí và
lửa. Căn cứ chủ đề của năm, lãnh đạo công đoàn chia kế hoạch năm thành 4 học kì với
các yếu tố “chủ đạo” và “thứ yếu” cho từng học kì. Trên cơ sở đó, các GV thiết kế kế
hoạch dạy học có sử dụng thang nhận thức của Bloom.
Một ví dụ về việc tích hợp giáo dục môi trường vào chương trình nhà trường năm 2001
khi “nước” là chủ đề của năm:
Nhà trường đã xây dựng kế hoạch dạy học dựa trên dự án về nguồn nước địa phương
và vận dụng thêm thuyết “nhân – quả”.
Với sự giúp đỡ của chính quyền Wellington,HS các lớp lớn được học cách lấy mẫu
nước để xét nghiệm;còn HS các lớp nhỏ được quan sát các loài vật nuôi đang sống gần
những nguồn nước. Các lớp HS này được làm việc cùng nhau để xác định những
nguyên nhân làm ô nhiễm nguồn nước và đề xuất biện pháp ngăn chặn. Các em tự làm
các video clip, poster, tranh vẽ… phối hợp với một công ty quảng cáo tuyên truyền trong
cộng đồng về những hoạt động có thể gây ô nhiễm nguồn nước.
Ví dụ nhỏ trên cho thấy phát triển chương trình nhà trường thông qua một dự án đã lôi
cuốn được toàn thể GV và HS tham gia. Mọi người đều thấy lí thú và bổ ích vì nó được
xuất phát từ nhu cầu thật, HS được tự do thể hiện các ý tưởng của mình, và cuối cùng họ
đạt được những kết quả rất đáng khích lệ (Chính quyền Wellington thưởng cho nhà
trường hàng nghìn đô la vì các hoạt động tuyên truyền bảo vệ môi trường). Ngoài ra, các
tổ chức bên ngoài trường cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kết hợp hoạt động
học tập với các cơ hội được trải nghiêm cho HS trong trường.
7.4. Một vài hình thức phát triển chương trình nhà trường
a) Các hình thức trực tiếp:
1. Các GV làm việc với các thành viên khác cùng phát triển chương trình cho một hay
một vài môn học cụ thể.
2. GV của nhiều trường khác nhau, các cấp học khác nhau, hợp tác cùng phát triển
chương trình cho HS chuyên trong quận của mình.
3. GV phát triển chương trình riêng cho nhóm các HS có nhu cầu đặc biệt.
4. Xây dựng đề án thu hút cha mẹ HS và cộng đồng tham gia phát triển chương trình nhà
trường.
b) Các hình thức tham gia:
1. Với tư cách tư vấn trong quá trình phát triển chương trình nhà trường.
2. Tham gia vào quá trình ra quyết định và phát triển chương trình.
3. Được sử dụng như các nguồn lực cho nhà trường trong quá trình phát triển chương
trình của mình.
7.5. Một vài mô hình phát triển chương trình nhà trường
1. Mô hình phát triển chương trình lấy chuyên gia là trung tâm (Expert-Centered
Curiculum development). Trong mô hình này, chuyên gia phát triên chương trình có vai
trò quyết định đối với việc thiết kế chương trình. Giáo viên, các nhà quản lí … chỉ là
những người thực thi.
2. Mô hình phát triển chương trình có tư vấn của các chuyên gia (Curriculum
development through consultation with specialists). Trong mô hình này, các nhà quản lí,
GV có vai trò quyết định đối với quá trình phát triển chương trình, song họ cần sự tư vấn
của chuyên gia từ bên ngoài trong những trường hợp cần thiết.
3. Mô hình phát triển chương trình có tư vấn từ bên trong (Curiculum Development
through consultation with insiders). Trong mô hình này, những người tham gia phát triển
chương trình là các nhà quản lí và GV trong trường. Tuy nhiên nhóm này thường xuyên
có các cuộc tham vấn với đồng nghiệp trong trường, nhất là khi giữa họ nảy sinh những ý
kiến không thống nhất.
4. Mô hình thoả thuận (The negotiated curriculum). Đây là mô hình thể hiện sự phân cấp
rộng rãi trong phát triển chương trình nhà trường. Phát triển chương trình không còn là
quyền của các chuyên gia, cũng không chỉ là quyền của một nhóm, mà là sự thoả thuận,
chia sẻ bình đẳng giữa GV và cả HS. Tấ cả những vấn đề liên quan đến nội dung, các
dạy, học, kiểm tra đánh giá đều được thảo luận, thoả thuận giưa người dạy và người
học.
7.6. Các mô hình trong mối quan hệ chương trình học và hoạt động dạy
Dù có nhiều quan niệm khác nhau về thuật ngữ chương trình học ( curriculum) nhưng
một cách đơn giản có thể hiểu chương trình học là cái được dạy và hoạt động giảng dạy
là cách thức dùng để chuyển tài những nội dung cần được dạy. Đơn giản hơn,chương
trình học được xem là “ nội dung” và hoạt động giảng dạy được xem là “phương pháp”.
Trong thực tế giáo dục, tồn tại một số mô hình thể hiện mối quan hệ này. Oliva
(2005, Nguyễn Kim Dung dịch, 2006) đã khái quát hóa chúng thành bốn dạng mô hình
phổ biến: mô hình song lập, mô hình liên kết, mô hình đồng tâm, và mô hình chu trình
tuần hoàn.
7.6.1.Mô hình song lập
Mô hình song lập là dạng mô hình tách biệt hoàn toàn hai mảng chương trình học và
công tác giảng dạy (Hình 1.1). Trong mô hình này, kế hoạch tổng thể về những gì sẽ
được giảng dạy (chương trình học) do các nhà xây dựng và thiết kế chương trình tạo nên
không được giáo viên sử dụng trong thực tế giảng dạy tại lớp. Theo mô hình này chương
trình học và quá trình giảng dạy có thể thay đổi mà không có những ảnh hưởng đến
nhau. Đây là mô hình bộc lộ rất nhiều hạn chế được xác định do nhiều nguyên nhân khác
nhau.
Hình 1.3 Mô hình đồng tâm
Mô hình A thể hiện khá rõ ấn tượng ban đầu của nhiều người khi nghe về hai khái niệm
chương trình học và công tác giảng dạy, theo đó thì chương trình học là một hệ thống
lớn hơn, có thứ tự ưu tiên cao hơn và quyết định những gì sẽ diễn ra trong công tác
giảng dạy.
Ngược lại, mô hình B thường xuất hiện khi những chương trình học chưa phong phú
được giao cho những người dạy xuất sắc và giàu kinh nghiệm. Lúc này công tác giảng
dạy của người dạy sẽ mở rộng, hoàn thiện thêm, và có những điều chỉnh quan trọng đối
với chương trình học, do đó chương trình học trở thành hệ thống phụ thuộc, và công tác
giảng dạy ở thứ tự ưu tiên cao hơn.
Trong cả hai mô hình này thì chương trình học và công tác giảng dạy thể hiện sự liên kết
chặt chẽ hơn cả mô hình liên kết, chính vì vậy không có bộ phận nào có thể tồn tại nếu
thiếu phần còn lại.
7.6.4. Mô hình chu trình tuần hoàn
Cả ba mô hình nêu trên đều thể hiện những quan niệm cũng như thực tế phổ biến khác
nhau của mối quan hệ giữa chương trình học và công tác giảng dạy. Tuy nhiên chúng
vẫn thiếu một yếu tố quan trọng. Đó là mối quan hệ này sẽ thay đổi theo thời gian bởi
giáo dục là một công tác liên tục và hoàn thiện không ngừng. Chính vì vậy, mô hình thứ
tư này ra đời (Hình 1.4).
Hình 1.4 Mô hình chu trình tuần hoàn
Trong mô hình chu trình tuần hoàn này, chương trình học và công tác giảng dạy tồn tại
tương đối độc lập với nhau. Điều này giúp cho việc thay đổi một trong hai thành phần
trở nên linh hoạt và dễ dàng hơn, kích thích suy nghĩ sáng tạo của cả người dạy và
người xây dựng chương trình học. Bên cạnh đó, hai mũi tên thể hiện một khái niệm quan
trọng không thể thiếu trong công tác phát triển chương trình: sự phản hồi.
Cụ thể hơn, các quyết định của chương trình học sẽ được thực thi trong việc giảng dạy,
sau đó sẽ được đánh giá và phản hồi ngược lại, nhờ đó các nhà phát triển chương trình
học có thể điều chỉnh và hoàn thiện chương trình hơn, kéo theo công tác giảng dạy cũng
được điều chỉnh và hoàn thiện.
Điều quan trọng nhất của mô hình này là hai chữ tuần hoàn: quá trình xây dựng - thực
hiện – đánh giá – phản hồi – điều chỉnh được thực hiện liên tục, lặp đi lặp lại, và không
bao giờ kết thúc, giúp cho cả hai thành phần quan trọng của giáo dục luôn được hoàn
thiện không ngừng và thích nghi với những thay đổi của xã hội và của thời đại.
Theo thời gian, nhận thức của các nhà hoạch định chương trình, nhà quản lý, các nhà
giáo về mối quan hệ giữa chương trình học và công tác giảng dạy đã có nhiều thay đổi.
Theo Oliva (2006) một số những nhận thức này thể hiện như sau:
Chương trình học và công tác giảng dạy có mối liên quan với nhay nhưng khác nhau.
Chương trình học và công tác giảng dạy có mối quan hệ đan xen và phụ thuộc lẫn nhau.
Chương trình học và công tác giảng dạy có thể được nghiên cứu và phân tích như
những thực thể tách rời nhưng không thể hoạt động tách rời nhau.
8. Những định hướng đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông
sau năm 2015
Quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới giáo
dục nói chung, việc đổi mới CTGD phổ thông và sách giáo khoa được thực hiện theo
những định hướng chủ yếu sau:
- Phát triển phẩm chất và năng lực người học, đảm bảo hài hoà giữa “dạy chữ”, “dạy
người” và tiếp cận nghề nghiệp.
- Cấu trúc, nội dung chương trình, sách giáo khoa phải đảm bảo chuẩn hoá, hiện đại hoá,
hội nhập quốc tế và đảm bảo tính chỉnh thể, linh hoạt, thống nhất trong và giữa các cấp
học.
- Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát triển phẩm chất và
năng lực HS.
- Quản lí việc xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo tính khả thi, linh hoạt, phù
hợp với địa phương và đối tượng HS.
CTGD phổ thông của hầu hết các nước tiên tiến đều được thiết kế tổng thể nhất quán và
xuyên suốt từ Mầm non đến hết THPT. Trên cơ sở tiếp thu các thành tựu giáo dục tiên
tiến, CTGD phổ thông đổi mới của Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
- Chương trình được xây dựng nhằm mục tiêu phát triển năng lực của người học.
- Chương trình gồm 2 giai đoạn: cơ bản và sau cơ bản, với nguyên tắc tích hợp ở các
lớp dưới và phân hoá sâu ở các lớp trên.
- Đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục nhằm phát triển
năng lực HS.
- Một chương trình chung và có thể có nhiều bộ sách giáo khoa.
Với những định hướng đổi mới trên, rõ ràng người GV cần được trang bị và phát triển
nhiều kĩ năng mới. Trước hết, người GV cần có khả năng phát triển năng lực của người
học thông qua quá trình dạy học – giáo dục bộ môn thay vì đơn thuần phát triển kiến thức
cho người học. Bên cạnh đó, khả năng dạy kiến thức tích hợp hoặc biết phối hợp, tổ
chức dạy liên môn là những đòi hỏi mới cho cả GV và đội ngũ quản lí giáo dục. Quan
trọng hơn, khi một chương trình có nhiều bộ sách giáo khoa, người GV cần có khả năng
lập kế hoạch dạy học tốt, biết chủ động lựa chọn và tổ chức cho HS tham khảo nhiều
nguồn tài liệu khác nhau theo chủ đề dạy học đã được thiết kế. Việc kiểm tra, đánh giá
HS cũng cần sự thông hiểu về chương trình, vững vàng về chuyên môn, thành thạo về kĩ
thuật, sáng tạo trong vận dụng các biện pháp đánh giá của GV, dựa trên nền tảng tâm lí
học, giáo dục học vững chắc.
Như vậy có thể thấy, đổi mới CTGD phổ thông đã đưa đến nhiều tác động tích cực
nhưng cũng đồng thời là những đòi hỏi mới đối với quá trình đào tạo, đào tạo lại đội ngũ
GV của các trường đại học sư phạm. Đổi mới giáo dục phổ thông là cơ sở quan trọng
trong những đề xuất đổi mới chương trình, hình thức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV và
cán bộ quản lí giáo dục.
Chương 3
CHU TRÌNH PHÁT TRIỂN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
1. Khái niệm
Phát triển CTGD(Curriculum development)là một quá trình liên tục nhằm hoàn thiện
không ngừng CTGD. Theo quan điểm này, CTGD là một thực thể không phải được thiết
kế một lần và dùng cho mãi mãi, mà được phát triển, bổ sung, hoàn thiện tuỳ theo sự
thay đổi của trình độ phát triển kinh tế - xã hội, của thành tựu khoa học - kĩ thuật và công
nghệ, và cũng là theo yêu cầu của thị trường sử dụng lao động. Nói cách khác, một khi
mục tiêu đào tạo của nền giáo dục quốc dân thay đổi để đáp ứng nhu cầu xã hội, thì
CTGD cũng phải thay đổi theo, mà đây lại là quá trình diễn ra liên tục nên CTGD cũng
phải được không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Có một vài quan điểm trong cách tiếp cận khái niệm “phát triển CTGD”.
Tim Wentling (1993) chia quy trình ðào tạo thành 3 giai ðoạn: chuẩn bị, thực thi, đánh giá
CTGD. Giai đoạn chuẩn bị của phát triển CTGD bao gồm:
1) Xác định nhu cầu đào tạo.
2) Xác định mục tiêu đào tạo.
3) Sắp xếp nội dung đào tạo.
4) Lựa chọn phương pháp, kĩ thuật đào tạo.
5) Xác định nguồn lực cần cho quy trình đào tạo.
6) Sắp xếp, lên kế hoạch cho các bài giảng.
7) Lựa chọn, sáng tạo các vật liệu hỗ trợ quá trình đào tạo.
8) Lựa chọn, xây dựng các hình thức kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
9) Thử nghiệm, chỉnh líCTGD (trước khi áp dụng đại trà).
Như vậy theo T. Wentling, phát triển CTGD là quá trình thiết kế CTGD. Sản phẩm của
quá trình này là một bản kế hoạch mô tả CTGD đầy đủ từ mục tiêu (chi tiết cụ thể), nội
dung (kiến thức, kĩ năng, thái độ), phương pháp đào tạo, các phương tiện hỗ trợ đào tạo,
tới phương pháp, cách thức đo lường, đánh giá kết quả học tập của sinh viên (đối chiếu
với hệ mục tiêu). Tuy nhiên, CTGD sau khi được thực thi, được đánh giá thì những thông
tin phản hồi đó luôn được sử dụng ngay trong các giai đoạn của quá trình đào tạo để
hoàn thiện CTGD. Khi kết thúc một chu trình đào tạo thì việc đánh giá toàn bộ CTGD,
thông tin phản hồi, kết hợp với sự phân tích nhu cầu đào tạo sẽ làm cơ sở cho việc cải
tiến hoặc thiết kế mới CTGD cũng sẽ được hoàn thiện, phát triển không ngừng cùng với
quá trình đào tạo.
Nhiều tác giả xem phát triển CTGD là một quá trình liên tục bao gồm các yếu tố sau:
1) Phân tích nhu cầu (Need analysis)
2) Xác định mục đích và mục tiêu (Defining aims and objectives)
3) Thiết kế (curriculum design)
4) Thực thi (Implementation)
5) Đánh giá (Evaluation)
Năm yếu tố nêu trên được bố trí thành một vòng tròn khép kín, biểu diễn sự phát triển
CTGD như một quá trình diễn ra liên tục:
Sơ đồ 7: Các bước phát triển CTGD
Theo sơ đồ này các yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và phải xem xét từng yếu tố trong
mối tác động của các yếu tố khác.
Khái niệm phát triển CTGD có thể liên quan tới hai đối tượng:
- Phát triển CTGD của một khoá đào tạo, một bậc học, và
- Phát triển chương trình của một môn học (course subject).
2. Chu trình phát triển chương trình giáo dục
2.1. Phân tích nhu cầu
Trong quá trình phát triển chương trình một khoá học, bậc học cũng như chương trình
của một môn học, việc đầu tiên mà các nhà giáo dục cần làm là phân tích nhu cầu.
2. 1.1. Nhu cầu phát triển chương trình khoá học/bậc học
Để phân tích nhu cầu phát triển chương trình một khoá học hay bậc học, cần phân tích
4 nội dung:
a) Xu thế phát triển của xã hội nói chung:
- Việt Nam đang hội nhập với thế giới trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá,
khoa học, công nghệ có những tiến bộ nhảy vọt; Tri thức nhân loại tăng theo cấp số nhân
và với sự hỗ trợ của Internet trở thành tài sản chung; Nhiều vấn đề mang tính toàn cầu
đòi hỏi sự hợp tác của tất cả các nước (biến đổi khí hậu, bệnh dịch, an ninh lương thực
v.v).
- Tình hình chính trị trong nước ổn định, các giá trị văn hoá, tinh thần được gìn giữ
và phát huy.
- Kinh tế Việt Nam được thừa nhận có tính thị trường đầy đủ.
- Kinh tế tăng trưởng cao, những vẫn còn các yếu tố gây bất ổn.
- Nhu cầu về nguồn nhân lực được đào tạo ngày càng lớn, nhu cầu học đại học
trong thanh niên ngày càng cao.
- Giáo dục đại học, chuyên nghiệp, dạy nghề bước đầu được vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN.
- Nghị quyết Đổi mới toàn diện và triệt để hệ thống giáo dục đại học Việt Nam của
Chính phủ bắt đầu phát huy tác dụng.
- Nghị quyết 29 – NQ/TW bắt đầu đi vào cuộc sống.
- Bắt đầu hình thành những đặc trưng của một xã hội học tập, nơi con người
được tạo điều kiện học tập suốt đời.
b) Trình độ phát triển của công nghệ nói chung, CNTT&TT nói riêng, khả năng sử
dụng thành tựu của CNTT&TT vào đào tạo và nghiên cứu ngành học:
- Máy tính,máy tính cá nhân, máy tính nối mạng truy cập Internet, các phần mềm
học tập, thí nghiệm ảo, các phần mềm xử lí số liệu v.v.
- Các nguồn dữ liệu mở (online data systems).
- Bảng thông minh kết nối máy tính.
- World Wide Web kết nối với xa lộ thông tin trên mạng.
- Các thiết bị khác như Interactive Videos, Digital Camera kết nối máy tính, CD-
Rom…
c) Xu thế phát triển của ngành học/bậc học.
- Tính liên ngành.
- Những công nghệ được sử dụng trong ngành.
- Các công trình nghiên cứu mới nhất.
d) Đặc điểm về người học trong xã hội đương đại được nghiên cứu trong các lĩnh
vực sau:
- Nhu cầu về ngành học.
- Nhu cầu về kĩ năng nghề nghiệp.
- Nhu cầu phát triển cá nhân, liên nhân cách.
- Nhu cầu rèn luyện các kĩ năng tư duy bậc cao.
- Nhu cầu rèn luyện các kĩ năng hàn lâm cơ bản.
- Nhu cầu về các giá trị khoa học xã hội, nhân văn và tự nhiên.
2.1.2. Nhu cầu phát triển chương trình một môn học
Để phát triển chương trình môn học, việc phân tích nhu cầu nhằm tới các đối tượng
sau:
a)Mối quan hệ giữa môn học với mục đích, mục tiêu của cả CTGD
Mỗi môn học là một bộ phận cấu thành hướng tới chuẩn đầu ra của cả chương trình.
Những mối quan hệ giữa môn học với các môn học khác trong CTGD, với các hoạt động
của người học trong và ngoài lớp học được hoạch định càng chặt chẽ, khoa học bao
nhiêu thì hoạt động giảng dạy, học tập càng có hiệu quả bấy nhiêu. Do vậy, khi thiết kế
chương trình một môn học, việc quan trọng là phải nghiên cứu mối quan hệ của nó với
các môn học khác trong chương trình của cả bậc học.
Để làm việc này, GV phải nghiên cứu chương trình môn học, chuẩn kiến thức, kĩ năng
của môn học, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo các loại; đồng thời tìm hiểu các môn học
gần gũi có khả năng hỗ trợ học tốt môn học (Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân;
Toán, Lí, Hoá, Sinh,…). Quá trình nghiên cứu sẽ giúp GV trả lời các câu hỏi sau:
- Để học tốt môn học, người học cần những kiến thức, kĩ năng gì đã học trước đó?
- Những nội dung nào của môn học có thể tích hợp với các môn khác (liên môn)?
- Những nội dung nào của môn học có thể tích hợp với mục tiêu giáo dục (mục tiêu thái
độ)?
- Sau khi học xong môn học, người học có thể có những kiến thức, kĩ năng, thái độ như
thế nào?
- Người học có thể dùng những kiến thức, kĩ năng ấy để làm gì khi học lên hoặc đi vào
cuộc sống lao động?
Những thông tin này giúp nhà thiết kế chương trình xác định được vị trí của môn học
trong cả chương trình của một bậc học, mối quan hệ của môn học với chính bản thân nó
nhưng ở các lớp dưới và trên nó, với các môn học khác. Và điều quan trọng hơn là giúp
xác định được những yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng để có thể học lên hay đi vào
cuộc sống lao động.
b) Những thông tin về người học
Một môn học được dạy học thành công, có hiệu quả khi người thiết kế có đầy đủ thông
tin về người học.
- Kiến thức trước khi bắt đầu môn học
Việc tìm hiểu, phân tích kiến thức nền của người học đủ để tiếp thu môn học mới là rất
cần thiết trước khi dạy môn học cũng như thiết kế một môn học mới. Bắt đầu một môn
học bằng những kiến thức quá xa lạ, hoặc bằng những kiến thức mà đa số người học đã
biết đều gây hậu quả xấu như nhau, hoặc hoang mang, lo sợ hoặc thất vọng, chán nản.
Nếu có đầy đủ các thông tin về kiến thức đầu vào của người học, GV sẽ có chiến lược
phù hợp trong việc thiết kế chương trình môn học, hoặc sẽ có kế hoạch dạy học môn học
phù hợp nhất với một đối tượng cụ thể.
- Thái độ
Thái độ của người học đối với một môn học cụ thể có thể ảnh hưởng tới kết quả học tập
của họ. Do vậy, nhất thiết phải xem xét thái độ của người học khi thiết kế một khoá học
để có các biện pháp thay đổi thái độ tiêu cực, tác động đến sự hứng thú, nhiệt tình của
HS với môn học. Bổ sung các tài liệu mới, bổ ích, GV nhiệt tình với HS, với môn học là
những biện pháp có tác động tốt, giúp HS phát triển thái độ tích cực đối với môn học.
- Những mong đợi của người học đối với môn học
Tìm hiểu những mong đợi của HS đối với môn học, sẽ giúp GV hoặc người thiết kế điều
chỉnh nội dung môn học nếu có thể, hoặc sẽ có những biện pháp phù hợp để điều chỉnh
những mong đợi của họ.
c) Tính hữu dụng của kiến thức môn học khi học lên hoặc khi đi vào cuộc sống lao động
nghề nghiệp
d) Bối cảnh dạy học
- Đặc điểm kinh tế- xă hội địa phương nơi trường đóng
- Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ dạy học môn học hiện có trong nhà trường.
Mục đích: tìm hiểu khả năng vận dụng kiến thức môn học với đặc điểm của địa phương,
cũng như các điều kiện dạy học có thể sử dụng trong quá t́nh dạy môn học.
e) Những ưu tiên của cơ sở đào tạo
Mỗi cơ sở đào tạo đều phải gắn với một cộng đồng và đều có những ưu tiên đào tạo đặc
thù của cơ sở đó. Trong trường hợp này, những đặc điểm riêng của nhà trường sẽ có
ảnh hưởng nhất định đối với việc xác định mục đích, mục tiêu của một CTGD, chính sách
tuyển sinh v.v.
Kết quả của quá trình phân tích nhu cầu là cơ sở để xác định mục đích, mục tiêu của giáo
dục và của CTGD.
2.2. Xác định mục đích, mục tiêu
2.2.1. Phân biệt triết lí, định hướng, mục đích giáo dục và mục đích, mục tiêu của CTGD
a) Triết lí giáo dục
Triết lí giáo dục (hay còn gọi là cơ sở triết học của giáo dục - Educational philosophy)
phản ánh mong muốn của quốc gia với nền giáo dục tương lai. Triết lí giáo dục được coi
là kim chỉ nam cho quá trình phát triển chương trình bởi nó phản ánh các chính sách tổng
thể, các ưu tiên quốc gia. Ví dụ:
Triết lí giáo dục Nam Phi năm 2005 là: “Xây dựng quốc giathịnh vượng,đoàn kết, dân chủ
và cạnh tranh quốc tế,vớicáccông dâncó học thức,sángtạovà quan trọng là có kĩ năng
học tập suốt đờitrong mộtđất nước tự dokhông bạo lực, không phânbiệtđốixửvà thành
kiến”.
Tầm nhìn của NewZealand là: “Giáo dục thanh thiếu niên trở thành người sáng tạo
vànăng động;nắm bắt cơ hộivề kiếnthứcvà công nghệmớiđể bảo đảm xây dựng xã hội có
nền văn hoá, kinh tế và môi trường bền vững; phát triểncác giá trị,kiến thức và năng
lực để đáp ứng nhu cầu cuộc sống; tự tin, kết nối, tích cực và là nhữngngườihọcsuốt
đời”(MOE, 2007).
Triết lí giáo dục của Phần Lan là: Lòng tin, Bình đẳng, Hợp tác… trong đó lòng tin với
từng HS là vô cùng quan trọng.
b) Định hướng giáo dục
Triết lí giáo dục là cơ sở để xác định những định hướng (aim) cốt lõi của cả hệ thống
giáo dục quốc dân.
Định hướng là việc đưa ra một hình mẫu và một phương hướng để thiết kế các hoạt
động đặc thù nhằm đạt tới một sản phẩm hay một hành vi trong tương lai. Định hướng là
điểm xuất phát để tạo ra một hình mẫu lí tưởng, hay một tầm nhìn đầy cảm hứng đối với
sản phẩm tương lai. Định hướng phản ánh những nhận định giá trị, những ước vọng và
phương hướng để các nhà giáo dục thiết kế quy trình giáo dục.
Các nhà giáo dục thường rất khó khăn trong việc xác định các định hướng chung của
toàn xã hội, song trong các định hướng chung đó, chỉ có một số cần cho giáo dục. Ví dụ,
Ralph Tyler đã xác định cho giáo dục Hoa Kì một số định hướng:
1. Phát triển sự tự thể hiện của người học.
2. Mọi người biết đọc biết viết.
3. Khuyến khích sự năng động xã hội.
4. Cung cấp các kĩ năng và kiến thức cần thiết cho lao động hiệu quả.
5. Cung cấp công cụ cần thiết để lựa chọn có hiệu quả đối với các giá trị vật thể, phi vật thể
và các dịch vụ.
6. Cung cấp công cụ cần thiết để tự học suốt đời.
Ronald Doll xem định hướng trong giáo dục chỉ đề cập tới các khía cạnh về tri thức hay
nhận thức, về cá nhân và xã hội hay về mặt tình cảm và về tính hiệu quả. Theo ông:
1) Định hướng có liên quan tới tri thức, việc tiếp thu và thông hiểu kiến thức, kĩ năng giải
quyết vấn đề, các phương pháp tư duy.
2) Định hướng xác định quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với xã hội, cá nhân
với các mối quan hệ qua lại. Định hướng này cũng bao gồm các khía cạnh về tình cảm,
tâm lí, khả năng thích nghi với gia đình, cộng đồng.
Định hướng cũng xác định hiệu quả của nhà trường tới các khía cạnh khác của giáo dục,
giúp các cá nhân hoạt động có hiệu quả nưoi làm việc, ở nhà cũng như với tư cách là
một công dân, thành viên của xã hội.
Thêm vào các định hướng này có thể bổ sung: (1) định hướng thể chất, nhằm duy trì và
phát triển một cơ thể khoẻ mạnh; (2) định hướng thẩm mĩ xác định giá trị của nghệ thuật;
(3) định hướng đạo đức xác định giá trị của hành vi; và (4) định hướng tâm hồn xác định
sự thừa nhận và niềm tin đối với các giá trị thiêng liêng của dân tộc.
Có thể xây dựng những định hướng chung cho cả hệ thống giáo dục. Giáo dục Việt Nam
đang phát triển theo các định hướng sau:
Giáo dục là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển.
Giáo dục Việt Nam là nền giáo dục mang tính nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại.
Giáo dục Việt Nam phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng.
Giáo dục là sự nghiệp của toàn dân.
Sơ đồ 8: Các cấp độ mục tiêu giáo dục
(Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự)
c) Mục đích và mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục cụ thể hoá định hướng giáo dục, là những kết quả mà hệ thống giáo
dục phải đạt vào cuối giai đoạn giáo dục. Mục tiêu giáo dục (Education objectives)là cụ
thể hoá mục đích giáo dục và liên quan tới hành vi con người. Tổng hoà các mục tiêu này
phải hướng đến triết lí giáo dục, định hướng giáo dục và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân
lực của xã hội.
Sau đây là một vài ví dụ về cách hiểu mục đích của giáo dục:
Hội tư vấn và phát triển CTGD (Association for Supervision and Curriculum
Development):
1) Học cách tự khái niệm hoá (self conceptualization).
2) Học cách hiểu người khác.
3) Phát triển các kĩ năng cơ bản.
4) Phát huy hứng thú và năng lực học suốt đời.
5) Trở thành thành viên có trách nhiệm của xã hội.
6) Phát huy sức khoẻ thể chất và tinh thần.
7) Tăng cường sáng tạo.
8) Tham gia vào đời sống kinh tế sản xuất và tiêu dùng.
9) Sử dụng kiến thức tổng hợp để hiểu thế giới.
10) Sẵn sàng trước mọi thay đổi.
Hội Phi Delta Kappa:
1) Học để trở thành công dân tốt.
2) Học cách tôn trọng và sống chung với những người suy nghĩ, ăn mặc và hành động
khác nhau.
3) Học cách hiểu những thay đổi đang diễn ra trên thế giới.
4) Phát triển kĩ năng đọc, viết, nghe, nói.
5) Hiểu và thực hành các tư tưởng và nguyên tắc đạo đức.
6) Học cách đánh giá và sử dụng thông tin.
7) Phát triển các kĩ năng thâm nhập vào một lĩnh vực công việc đặc thù.
8) Phát huy ước vọng học bây giờ và trong tương lai.
9) Thực hành và hiểu các ý tưởng về sức khoẻ và sự an toàn.
10) Tôn trọng văn hoá và cái đẹp của thế giới.
Năm 1990, Hoa Kìcông bố6mục đíchgiáo dục rõ ràng đến năm 2000 là:
1) Mọi trẻem Mỹ đềusẵn sàng đi học;
2) Ít nhất 90% HStốt nghiệpTHPT;
3) HS các lớp 4, 8và 12phảichứngtỏ đượcnănglựclàmchủ các môn Tiếng Anh, Toán,
Khoa học, Lịch sử và Địa lí;
4) HS Mỹ dẫn đầu thế giớitrong lĩnh vực Khoa họcvà Toán học;
5) Tất cảngười Mỹ trưởng thành đều biết chữ, có những kiến thức, kĩ năngcầnthiết cạnh
tranh trongnền kinh tếtoàncầu và thực hiện quyền, trách nhiệm công dân;
6) Tất cả các trường học Mỹkhông cómatuý, bạo lựcvà đảm bảo cung cấp môi trườnghọc
tập thuận lợi cho HS.
Theo Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự, ở nước ta hiện nay, trong các văn bản pháp
quy và văn bản chỉ đạo thường không dùng các khái niệm mục đích và mục tiêu, mà
dùng hai khái niệm tương ứng là mục tiêu chung/tổng quát và mục tiêu cụ thể.Ví dụ, Điều
27 Luật Giáo dục quy định:
“Mục tiêu chung của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư
cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Mục tiêu cụ thể của các cấp học:
Giáo dục tiểu học nhằm giúp HS hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để HS tiếp tục
học trung học cơ sở.
Giáo dục trung học cơ sở nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo
dục tiểu học; có học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kĩ
thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động.
Giáo dục trung học phổ thông nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của
giáo dục trung học cơ sở, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn
hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động”.
Triết lí giáo dục, định hướng, mục đích giáo dục là cơ sở để xác định mục đích, mục tiêu
CTGD.
d) Mục đích CTGD
Mục đích chương trình (Curriculum goals)là mong muốn đối với người học sau khi họ
hoàn thành chương trình đó. HS đạt được mục đích này qua quá trình thực hiện từng
hoặc tấtcả các phân đoạn củachương trình trongmộtcơ sở giáo dụccụ thể. Còn mục tiêu
chương trình (Curriculum objectives)là sự cụ thể hoá mụcđíchchương trình để có thể đo
lường được, tức là đượcxácđịnh như các chuẩnthực hiện đối vớiHS.
Ví dụ, mục đích chương trình môn Khoa học cấp tiểu học Malaysia là “pháttriểnkiến
thức,kĩ năng, tư duy, tạo động lực để cá nhân đẩy mạnh thực hànhkhoa học vàcông
nghệcóvăn hoá, có ý thứctráchnhiệmvới môi trườngtự nhiên màĐứcChúaTrời đã tạo ra”
(theo Ministry of Education Malaysia, 1997). Còn các mục tiêu cụ thể là:
1) Am hiểu các khái niệm, nguyên tắckhoa học, có khả năngliên kết chúngvớicáchiện
tượng tự nhiênvàkinh nghiệm sống hàng ngày.
2) Áp dụng kiến thức, kĩnăngkhoa học một cách sáng tạo,thông minh.
3) Phát triểncác đức tínhtò mò, trung thực, kiên trì, trítuệ,… trong khoa học.
4) Phát triển các kĩ năngkhoa học qua điều tra,khám phá, tập dượt nghiên cứu.
CTGD phổ thông hiện hành của nước ta coi mục tiêu giáo dục phổ thông chính là mục
tiêu của chương trình. Điều này gây nhiều khó khăn cho quá trình đánh giá chương trình
bởi có một số mục tiêu giáo dục không chỉ chương trình mà cả hệ thống giáo dục mới có
thể tạo nên; chẳng hạn như “hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
e) Mục tiêu CTGD
Mục tiêu CTGD là sự cụ thể hoá mục đích của chương trình trong các lĩnh vực kiến thức,
kĩ năng, thái độ. Mục tiêu chương trình mô tả cụ thể những gì người học có thể thực hiện
được sau khi học xong một bậc học hay môn học. Có mục tiêu chung cho một bậc học
(general objective) và mục tiêu đặc thù cho từng môn học, bài học (specific objective).
Mục tiêu chương trình được xác định theo 3 lĩnh vực sau:
1) Mục tiêu nhận thức(Cognitive)
B. Bloom và cộng sự đã đề xuất thang nhận thức như sau:
Biết - Nhận thức ở mức này liên quan tới kiến thức về: (1) những đặc thù (specifics), như
những sự kiện đặc thù, những thuật ngữ; (2) con đường, giải pháp có liên quan tới
những đặc thù đó, như các chuỗi sự kiện, trào lưu, bảng phân loại, các phạm trù, các tiêu
chí và phương pháp luận; và (3) các phổ niệm, sự kiện trừu tượng, như các nguyên lí,
các định luật, cấu trúc. Ví dụ: sinh viên phải gọi tên ngọn núi cao nhất của châu Á.
Hiểu - Nhận thức ở mức độ này bao gồm những hiểu biết liên quan tới: (1) sự chuyển
dịch; (2) thông hiểu (theo kiểu của mình); và (3) suy luận thông tin. Ví dụ, khi nêu (bằng
lời) những dữ kiện khác nhau của một hình hình học, sinh viên có thể vẽ chính xác lại
được hình đó.
Áp dụng - Nhận thức ở mức này đòi hỏi sinh viên phải sử dụng được các khái niệm trừu
tượng vào tình huống cụ thể. Ví dụ: sinh viên có thể dự báo được hệ quả của việc rút hết
không khí khỏi một thùng rỗng.
Phân tích - Nhận thức ở mức độ này đòi hỏi sinh viên biết chia nhỏ một tổng thể thành
các bộ phận và phân biệt được: (1) các yếu tố; (2) mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố; và
(3) nguyên lí tổ chức các yếu tố. Ví dụ: khi đưa cho sinh viên một văn bản để đọc, sinh
viên phải phân biệt được đâu là sự kiện, đâu là ý kiến của người viết.
Tổng hợp - Nhận thức ở mức độ này liên quan tới việc sắp xếp các bộ phận với nhau để
tạo ra một dạng mới của chính thể: (1) một cuộc giao tiếp trọn vẹn; (2) một kế hoạch
hành động; hoặc (3) một hệ thống các mối liên hệ trừu tượng. Ví dụ, khi nhận một báo
cáo về ô nhiễm môi trường, sinh viên có thể đề xuất những cách thức để thử nghiệm các
giả thuyết khác nhau.
Đánh giá - Đây là mức cao nhất của thang bậc nhận thức có ngụ ý tới một sự phức tạp
nhất. Mục tiêu ở mức này là nhằm đánh giá tới: (1) những chứng cứ nội tại hay sự kiên
định lôgic; và (2) những chứng cứ ngoại tại hay sự kiên định với những sự kiện phát triển
ở một nơi khác. Ví dụ, sinh viên đánh giá được sai lầm trong một lập luận nào đó.
2) Mục tiêu tình cảm(Affective domain)
Tiếp nhận (receiving)
Ở mức này, mục tiêu đề cập tới sự nhạy cảm của sinh viên tới sự hiện diện của một tác
nhân kích thích (stimuli) bao gồm: (1) sự nhận biết; (2) sẵn lòng tiếp nhận; và (3) có sự
chú ý cần thiết. Ví dụ, khi nghiên cứu các nền văn hoá khác nhau của phương Đông, sinh
viên có nhận thức về các yếu tố thẩm mĩ trong trang phục, nội thất, kiến trúc...
Hồi đáp (responding)
Mục tiêu tình cảm ở mức này có ngụ ý về sự chú ý tích cực của sinh viên tới các tác
nhân kích thích như: (1) sự chấp nhận; (2) vui lòng hồi đáp; và (3) sự hài lòng. Ví dụ, sinh
viên thể hiện sự hứng thú về chủ đề một cuộc trò chuyện bằng cách tích cực tham gia
vào một công trình nghiên cứu.
Tạo giá trị (valuing)
Ở mức này, mục tiêu ngụ ý tới niềm tin và thái độ của sinh viên về các giá trị. Nó được
thể hiện ở: (1) sự chấp nhận; (2) sự ưa thích; và (3) sự cam kết. Ví dụ, sinh viên có quan
điểm rõ ràng về ưu điểm và nhược điểm của năng lượng nguyên tử.
Sự tổ chức (organization)
Ở mức này, mục tiêu ngụ ý tới sự khao khát về giá trị và niềm tin, bao gồm: (1) khái niệm
hoá các giá trị; và (2) tổ chức hệ thống giá trị. Ví dụ, sinh viên tự đánh giá trách nhiệm
của bản thân trong việc bảo vệ các nguồn lực tự nhiên.
- Đặc trưng hoá (characterlization)
Đây là mức cao nhất trong bậc tình cảm. Mục tiêu ở mức này liên quan đến hành vi tác
động tới: (1) khái quát hoá hệ thống giá trị; và (2) đặc trưng hoá hay triết lí cuộc sống. Ví
dụ, sinh viên tự xây dựng cho mình quy tắc cho cuộc sống cá nhân và với tư cách là một
công dân trên cơ sở các nguyên tắc đạo lí.
3) Mục tiêu tâm lí học vận động
Vận động phản xạ (Reflex movements)
Mục tiêu ở mức này bao gồm: (1) các phản xạ phân đoạn (segmental reflexs); (2) các
phản xạ liên đoạn. Ví dụ, sau khi tham gia vào một hoạt động, sinh viên có thể co cơ bắp
của mình.
Vận động cơ bản (Fundamental movements)
Mục tiêu ở mức này ngụ ý tới hành vi có liên quan tới: (1) đi bộ; (2) chạy; (3) nhảy; (4)
đẩy; (5) kéo; và (6) vận dụng các thao tác. Ví dụ, sinh viên có thể nhảy qua sào 2 foot (60
cm).
- Năng lực các giác quan (Perceptual activities)
Mục tiêu ở mức này gồm: (1) giác quan về bản thể (phát hiện vị trí của cơ thể, sự vận
động của cơ bắp ...); (2) thị giác; (3) thính giác; (4) xúc giác; (5) phối hợp các giác quan.
Ví dụ, sinh viên có thể phân biệt nhóm các khối hình theo hình dạng bên ngoài.
- Năng lực thể chất (Physical activities)
Mục tiêu ở mức này gồm: (1) sức chịu đựng; (2) sức khoẻ; (3) độ mền dẻo; (4)sự nhanh
nhẹn; (5) thời gian phản xạ; và (6) sự khéo léo. Ví dụ, sinh viên phải hít đất tăng 5 lần
sau mỗi năm học.
- Các vận động kĩ năng (Skillful motions)
Mục tiêu ở mức này gồm: (1) các trò chơi; (2) các môn thể thao; (3) các điệu nhảy; (4)
các loại hình nghệ thuật. Ví dụ, sinh viên có thể thực hiện các động tác nhào lộn.
- Vận động mạch lạc
Mục tiêu ở mức cao nhất này liên quan tới các vận động mạch lạc như: (1) dáng người;
(2) điệu bộ; (3) nét mặt; và (4) những vận động sáng tạo. Ví dụ, sinh viên có khả năng
sáng tạo những động tác và biểu diễn theo nhạc.
Các mức trong thang bậc của 3 loại mục tiêu được sắp xếp theo trình tự từ thấp tới cao,
từ đơn giản đến phức tạp. Trong mục tiêu nhận thức, từ mức 2 đến mức 6 bao hàm
nhiều năng lực, kĩ năng giải quyết vấn đề khác nhau. Ví dụ, để người học có thể giải
quyết được một vấn đề, người đó phải khai thác, xử lí được thông tin, đề xuất các
phương án, lựa chọn phương án tối ưu… tức là phải trải qua nhiều thang bậc nhận thức
trước khi hoàn thành công việc. Để người học có thể xác định được giá trị của một sự
vật, người học đó phải có khả năng phản hồi về một tình huống và vui lòng tiếp nhận
thông tin, tức là người học đó phải nhạy cảm với một tình huống cụ thể. Ðể một ðứa trẻ
có ðýợc nãng lực cảm nhận, ðứa trẻ ðó phải có các vận ðộng cõ bản và vận ðộng phản
xạ.
Cả 3 thang bậc mục tiêu này đều cần để xác định các mục tiêu giáo dục. Các nhà quản lí
giáo dục có thể gặp khó khăn khi cần xác định các mục tiêu giữa các phạm trù liền kề
(trong trường hợp các mục tiêu khó được xác định rõ ràng). Nếu các nhà thiết kế CTGD
thận trọng và khoa học trong việc xác định mục tiêu th́ 3 lĩnh vực nêu trên, với các bậc
của nó, có thể là công cụ hữu ích cho việc xác định mục tiêu của một CTGD và tiếp sau
đó là các mục đích, mục tiêu dạy học.
g. Chuẩn của CTGD
Theo Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự:
Chuẩn của CTGD được dùng với nhiều thuật ngữ khác nhau như chuẩn đầu ra
(Outcome standard), chuẩn thành tích (Achievement standard), chuẩn thực hiện
(Peformance standard), chuẩn quốc gia (National standard), mục tiêu cần đạt
(Achievement objective)… Có thể tóm lược như sau:
- Chuẩn đầu ra (Outcome standard) mô tả những gì người học cần biết, cần hiểu và có
thể làm sau khi hoàn thànhCTGD. Chuẩn đầu ra thường bao gồm chuẩn nội dung và
chuẩn thực hiện: chuẩn nội dung là phạm vi những kiến thức, kĩ năng và thái độ HS cần
đạt, coi như là kết quả môn học; còn chuẩn thực hiện là những mô tả cụ thể về mức độ
để chứng tỏ rằng HS đạt chuẩn nội dung.
Ví dụ, chương trình quốc gia (2004) môn Công dân và Chính phủ các lớp 9-12 ở Hoa Kì
đã quy định:
• Chuẩn nội dung: giải thích được những đặc điểm bản chất của chính quyền có quyền
lực hữu hạn và chính quyền có quyền lực vô hạn.
• Chuẩn thành tích gồm ba mức từ thấp đến cao là: (1) Giải thích được đặc điểm bản
chất của quyền lực hữu hạn và quyền lực vô hạn dựa trên cơ sở hiến pháp và luật pháp;
lấy được ít nhất một ví dụ về chính quyền có tính chất như vậy trong quá khứ và trong
hiện tại; (2) Đạt được mức 1 và giải thích thêm sự khác biệt giữa hai kiểu chính quyền có
quyền lực hữu hạn và có quyền lực vô hạn, chẳng hạn như hệ thống độc tài và chuyên
chế; lấy được ít nhất một ví dụ về chính quyền có tính chất như vậy trong quá khứ và
trong hiện tại; (3) Đạt được mức 2 và còn thể hiện được sự hiểu biết sâu hơn về các đặc
điểm như vai trò của công dân trong chính quyền có quyền lực hữu hạn và chính quyền
có quyền lực vô hạn, hệ tư tưởng trong chế độ độc tài và chuyên chế.
- Chuẩn quốc gia được hiểu là kết quả kì vọng về các lĩnh vực học tập mà HS cần đạt
được sau khi hoàn thành một lớp học, cấp học. Chuẩn này thường mô tả tổng hoà các
kiến thức, kĩ năng (kĩ năng chuyên môn, kĩ năng mềm) và thái độ (phẩm chất đạo đức,
trách nhiệm công dân…) mà người học phải đạt. Chuẩn quốc gia là bản tham chiếu giúp
tập trung đáp ứng triết lí hay tầm nhìn giáo dục.
Nhìn chung, tuỳ thuộc vào quan điểm kết quả đầu ra là gì thì sẽ có chuẩn đầu ra tương
ứng. Nếu kết quả đầu ra là kiến thức, kĩ năng, thái độ thì chuẩn được cấu trúc theo các
chủ đề và các lĩnh vực kiến thức, kĩ năng và thái độ. Nếu kết quả đầu ra là năng lực (tổng
hợpcác kiến thức,kĩ năng nhận thứcvà thực tiễn, động cơ, giá trị và đạo đức, thái độ,
cảm xúc để người học hoạt động hiệu quảtronghoàn cảnhcụthể), thì chuẩn sẽ được cấu
trúc theo mức độ phát triển năng lực, mà mỗi mức độ sẽ tổng hoàkiến thức,kĩ năng, động
cơ, giá trị, thái độ và cảm xúc.
Ở chương trình NewZealand, một trong những yêu cầu của năng lực ngôn ngữ ở giai
đoạn giáo dục cơ bản là “HS hiểu và sử dụng được câu và từ vựng phù hợp trong các
tình huống đơn giản hàng ngày”. Năng lực này được cấu thành bởi 3 thành tố: giao tiếp,
kiến thức ngôn ngữ và kiến thức văn hoá. Chuẩn quốc gia có 4 cấp độ, trong đó cấp độ 1
(học xong lớp 2) được phát biểu là:
- Giao tiếp: Tiếp nhận, tái tạo thông tin; Đáp ứng lại câu hỏi và yêu cầu; Thể hiện nhận
thức xã hội khi giao tiếp với người khác;
- Kiến thức ngôn ngữ: Nhận biết được ngôn ngữ có cấu trúc; Thực hiện giao tiếp bằng
ngôn ngữ của chính mình;
- Kiến thức văn hoá: Nhận biết văn hoá được tổ chức theo các cách cụ thể; Kết nối được
các nền văn hoá đã biết.
Chương trình Australia xác định năng lực công nghệ
thông tin và truyền thông (ICT) là khả năng sử dụngICT khi truy cập, tìm kiếm, tạo lập
vàtruyền thông tinđể thể hiện ý tưởng, giải quyết vấn đề, làm việccộngtáctrong họctập và
cuộc sống; thích ứng trong môi trường công nghệsố (theo ACARA, 2011).
Năng lực này được cấu thành từ 5 thành tố là: (1) Áp dụng các giao thức đạo đức, xã hội
khi sử dụng ICT; (2) Điều tra bằng phương tiện ICT; (3) Sáng tạo cùng ICT; (4) Giao tiếp
bằng ICT; và (5) Quản lí, điều hành hoạt động ICT (xem sơ đồ 9). Chuẩn thành tích được
xác lập tại 3 thời điểm cuối các lớp 2, 6 và 10. Bảng 2 trình bày chuẩn thành tích đối với
thành tố “Sáng tạo cùng ICT”.
Bảng 2. Chuẩn thành tích của năng lực ICT, thành tố Sáng tạo cùng ICT
Cuối lớp 2 Cuối lớp 6 Cuối lớp 10
Tạo ra ý tưởng, kế hoạch, quy trình
Sử dụng ICT một
Sử dụng ICTđể
cáchhiệuquảđể ghi lại cácý Lựa chọnvà sử dụngICTđể
lậpkếhoạchđơngiản,tìm giải
tưởng, biểu thị suy nghĩ, các trình bàyý tưởng, kháiniệmvà
pháphoặccâutrảlờicho các câu
giải pháp. Ví dụ: dùng phần lập kế hoạchpháttriểncác giải
hỏi.Ví dụ:vẽMindmapbằng
mềmTimeline để lập kế hoạch phápphức tạp.Ví dụ:tạo các
phần mềm Mapping, dùng
thời gian, siêu liên kết, bảng biểu và biểu
phần mềmhiển thịcácbước của
phầnmềmMappingđểtạocácý đồ.
tiến trình,…
tưởng quan trọng.
Tìm kiếm giảiphápcho những thách thứcvà cácnhiệm vụ/lĩnh vực học tập
Thử nghiệm với ICTnhư một
Tạo ra các giải pháp kĩthuậtsố Thiết kế, điều chỉnhcácgiải
công cụđể tạo
một cách độc lập hoặchợp pháp kĩthuậtsố, các giải pháp
racácgiảiphápđơn giản, để
táccho các đối tượngvà mục môhìnhhoá. Ví dụ: thiết
sửađổicác đối tượngcụthể.Ví
đích cụ thể.Ví dụ:chènhình kếphimảnh, hình ảnh động, các
dụ:
ảnh,văn bản, video, âm thanh trang web về âm nhạc, trò
sửdụngphầnmềmWordđểchỉnh
chocác bài thuyết trình để tạo chơilập trình, thiết kế
sửa văn bản, chèn hình ảnh, âm
ấn tượng, thu hút sự chú ý. trangweb,…
thanh,số…
( Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự )
2.2.2. Năng lực, chuẩn đầu ra dưới dạng năng lực
2.2.2.1. Năng lực
a) Khái niệm
Thuật ngữ “năng lực” (competence) được R. W. White đưa ra vào năm 1959, và từ đó
đến nay đã được luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,
năng lực của một cá nhân là khả năng thực hiện được một công việc cụ thể, liên quan
đến một lĩnh vực nhất định, diễn ra trong bối cảnh thực, dựa trên những kiến thức, kĩ
năng và những trải nghiệm của bản thân. Năng lực có thể được xem như khả năng hành
động, giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, trong các tình huống khác nhau, tại những thời
điểm khác nhau. Năng lực được xem là chỉ có thể được hình thành trên cơ sở trí thức
thông qua các trải nghiệm. Năng lực cũng hàm chứa trong nó ý thức sẵn sàng hành
động, ý chí, động cơ và trách nhiệm xã hội để hoàn thành tốt công việc.
“Năng lực là khả năng cá nhân đáp ứng các yêu cầu phức hợp và thực hiện thành công
nhiệm vụ trong một bối cảnh cụ thể” (OECD, 2002).
Năng lực là các khả năng và kĩ năng nhận thức vốn có ở cá nhân hay có thể học được…
để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Năng lực cũng hàm chứa trong nó tính
sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội để có thể sử dụng một cách
thành công và có trách nhiệm các giải pháp… trong những tình huống thay đổi (Weinert,
2001).
Người có năng lực về lĩnh vực nào đó cần hội tụ các yêu cầu:
(1) Có kiến thức, hiểu biết một cách hệ thống, sâu sắc về lĩnh vực đó;
(2) Biết lựa chọn và thực hiện các hành động cụ thể, lựa chọn được các giải pháp,
phương tiện để thực hiện nhiệm vụ phù hợp với mục đích, mục tiêu đặt ra;
(3) Hành động một cách hiệu quả, ứng phó linh hoạt với những bối cảnh khác nhau.
Có thể xem định nghĩa sau bao hàm đầy đủ những đặc trưng cơ bản của khái niệm năng
lực:
Năng lực là tổ hợp các hoạt động dựa trên sự huy động và sử dụng có hiệu quả các
nguồn tri thức khác nhau để giải quyết vấn đề hay có cách ứng xử phù hợp trong bối
cảnh phức tạp của cuộc sống luôn thay đổi (Quebec Education program).
b) Năng lực của HS, sinh viên
Năng lực của người học là khả năng làm chủ những hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái
độ... phù hợp với lứa tuổi và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí vào thực hiện
thành công nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho chính các em
trong cuộc sống (Nguyễn Công Khanh, 2012).
Người học phải có khả năng sử dụng kiến thức của bản thân vừa để giải quyết vấn đề,
vừa làm công cụ để tư duy, để tìm tòi, để sáng tạo trong suốt quá trình học trong trường
cũng như trong cuộc sống lao động sau này.
c) Kiến thức, kĩ năng, thái độ là cơ sở hình thành năng lực
Một năng lực là tổ hợp đo lường được các kiến thức, kĩ năng và thái độ mà một người
cần vận dụng để thực hiện hiệu quả một nhiệm vụ trong một bối cảnh thực và có nhiều
biến động.
Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác nhau.
Vì năng lực được thể hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ nên người học cần phải
chuyển hoá những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống
mới và xảy ra trong môi trường mới.
d) Năng lực và mục tiêu dạy học.
Năng lực của người học đối với một môn khoa học nào đó được mô tả là sự sử dụng
tổng hoà kiến thức, kĩ năng, thái độ dưới dạng những hoạt động cần thiết để thực hiện
có hiệu quả những nhiệm vụ thực trong cuộc sống. Nhưng kiến thức, kĩ năng, thái độ đó
được hình thành thông qua các mục tiêu dạy học mà người GV thực hiện trên lớp qua
các bài học.
Mục tiêu dạy học là cơ sở để người học tự tìm cách phù hợp nhất với mình để chiếm lĩnh
mục tiêu của bài học, môn học và tự đánh giá mức độ đạt mục tiêu; là cơ sở để GV lựa
chọn nội dung dạy học, hình thức tổ chức dạy học, phương pháp dạy học; là cơ sở để
đánh giá được hiệu quả, giá trị của một bài dạy, một khoá dạy hay cả một chương trình.
Mục tiêu dạy học còn là chuẩn để đánh giá được sự tiến bộ của người học trong quá
trình học tập.
Những đặc trưng cơ bản của mục tiêu dạy học:
- Các mục tiêu phải mô tả được cả kiểu hành vi được kì vọng và nội dung hay ngữ cảnh
mà các hành vi đó được áp dụng.
- Các mục tiêu phức hợp cần phải được xác định theo kiểu phân tích và đủ cụ thể
để không còn nghi ngờ đối với kiểu hành vi được kỳ vọng hay cái mà hành vi được áp
dụng.
- Các mục tiêu phải xây dựng có tính phân hoá giữa những người học, đạt được
những hành vi khác nhau.
- Mục tiêu có tính phát triển, thể hiện các con đường đi tới chứ không phải là các
điểm cuối cùng.
- Mục tiêu phải thực tế và chỉ bao gồm những gì được hiện thực hoá thành kinh
nghiệm trong lớp học.
- Phạm vi của các mục tiêu phải đủ rộng để chứa đựng tất cả các kết quả đầu ra
mà cơ sở đào tạo chịu trách nhiệm.
2.2.2.2. Chuẩn đầu ra của CTGD dưới dạng năng lực
Chuẩn đầu ra của CTGDdưới dạng năng lực là tổng hoà năng lực của người học bao
gồm nững năng lực chung và những năng lực chuyên biệt liên quan đến các lĩnh vực học
tập/môn học.
a) Chuẩn đầu racủaCTGD bậc phổ thôngbao gồm 2 nhóm cơ bản:
Nhóm các năng lực chung, bao gồm:
- Các năng lực làm chủ và phát triển bản thân (năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực tự quản lí).
- Các năng lực về quan hệ xã hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác).
- Các năng lực công cụ (năng lực sử dụng ICT, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng
lực tính toán).
Nhóm các năng lực chuyên biệt/môn học, bao gồm: (1) Tiếng Việt, (2) Tiếng nước ngoài,
(3) Toán, (4) Khoa học tự nhiên và công nghệ, (5) Khoa học xã hội và nhân văn, (6) Thể
chất, (7) Nghệ thuật.
Nếu đạt chuẩn đầu ra như trên,HS sẽ có khả năng làm chủ các kiến thức, kĩ năng và thái
độ phù hợp với lứa tuổi và bậc học, vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lí để giải
quyết thành công những vấn đề học tập cũng như trong cuộc sống. Những năng lực
được tổ hợp trong chuẩn đầu ra thành một cấu trúc động, mở, đa tầng bậc, đa thành tố,
hàm chứa trong đó không chỉ kiến thức, kĩ năng,… mà còn cả niềm tin, hệ giá trị, trách
nhiệm xã hội… thể hiện ở tính sẵn sàng hành động của HS trong môi trường nhà trường
cũng như trong đời sống xã hội.
b) Chuẩn đầu ra của CTGD bậc đại học bao gồm 2 nhóm cơ bản:
- Nhóm liên quan đến chuyên môn, nghề nghiệp tương lai của SV (ngành đào
tạo), bao gồm các năng lực trong các lĩnh vực kiến thức ngành, chuyên ngành, các kĩ
năng nghề nghiệp.
- Nhóm liên quan đến phẩm chất cá nhân và nghề nghiệp, bao gồm phẩm chất
công dân, đạo đức nghề nghiệp, các kĩ năng mềm, trong đó có những kĩ năng đặc trưng
cho công dân kỉ nguyên thông tin.
2.3.3. Mối quan hệ giữa chuẩn đầu ra dưới dạng năng lực và việc tổ chức quá trình dạy
học
a) Chương trình lấy việc học làm gốc
Để thực hiện được việc rèn luyện năng lực, chương trình được đặt trên nền tảng của một
tiền đề là kiến thức phải được HS tự kiến tạo, chứ không phải qua con đường chuyển
giao, truyền đạt từ GV. Một lẽ rất tự nhiên là không ai học hộ được người khác. Hơn nữa,
mọi lí luận dạy học đều thừa nhận một chân lí là người học chính là kiến trúc sư của kiến
thức và năng lực của chính mình.
Đây cũng chính là điều mà cả thuyết kiến tạo, thuyết kiến tạo xã hội và thuyết nhận thức
đều thừa nhận:
- Thuyết kiến tạo xem kiến thức là kết quả của hành động (từ cụ thể tới trừu tượng) do
từng cá thể thực hiện phù hợp với đối tượng và mục tiêu nhận thức.
- Thuyết kiến tạo xã hội nhấn mạnh tới tính xã hội của tư duy và xem kiến thức như công
cụ để trao đổi các quan điểm của bản thân với các thành viên khác của xã hội.
- Thuyết nhận thức mô tả các quá trình con người sử dụng để tích hợp kiến thức mới với
hệ thống kiến thức đã biết và sử dụng chúng trong bối cảnh mới một cách hiệu quả nhất.
b) Kiến thức và năng lực bổ sung cho nhau
Kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, các loại kiến thức khác nhau tạo nguồn để
HS có được các giải pháp tối ưu hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp.
Khả năng đó là đặc trưng của năng lực; tuy nhiên, khả năng đó lại được dựa trên sự
đồng hoá và sử dụng có cân nhắc các kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh
cụ thể.
Những kiến thức có ích để rèn luyện năng lực chỉ là những kiến thức mà người HS năng
động, tự kiến tạo; và phạm vi của năng lực trực tiếp tuỳ thuộc vào phạm vi và mức độ
phù hợp của kiến thức mà HS huy động vào giải quyết vấn đề đó.
Sự phát triển năng lực không diễn ra theo tuyến tính, từ đơn giản đến phức tạp, từ bộ
phận tới toàn thể. Năng lực được kiến tạo trên cơ sở mức độ phức tạp, đa dạng của vấn
đề. Điểm xuất phát để sử dụng và phát triển năng lực là toàn cảnh thách thức cần vượt
qua, còn điểm đến là phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc cách ứng xử phù hợp
trong tình huống đã cho.
Rèn luyện năng lực được tiến hành theo đường xoắn ốc trong đó các năng lực có trước
được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới, và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở
để hình thành những năng lực mới.
c) Chỉ dạy học những vấn đề cốt lõi
Rèn luyện năng lực đòi hỏi phải có đủ thời gian, HS phải sử dụng nhiều lần, lặp đi lặp lại
mới có thể tăng cường năng lực cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Nếu chương trình tập
trung rèn luyện năng lực thì cũng có nghĩa chỉ nên tập trung vào số lượng năng lực chọn
lọc và lượng kiến thức tương ứng để HS có đủ thời gian rèn luyện, kiến tạo và phát triển
những năng lực đó.
Việc lựa chọn cách tiếp cận theo năng lực trong trường đại học còn hàm ý trong thời gian
học tập tại trường, sinh viên phải được rèn luyện, kiến tạo những năng lực cho phép họ
tự kiến tạo những kiến thức, kĩ năng mới để thích nghi với môi trường sống luôn thay đổi
sau này. Đây chính là lí do để xác định các năng lực chung, xuyên suốt CTGD với tư
cách là công cụ để học tập suốt đời.
d) Học tích hợp
Thế giới hiện đại có đặc trưng là sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng trong tất cả các
lĩnh vực khoa học và đời sống. Do vậy, mức độ năng lực cần thiết để thích ứng với thực
tế đó cũng ngày càng tăng. Và dĩ nhiên là những kiến thức đơn lẻ được truyền đạt từ
giảng viên không còn phù hợp nữa. Phải học tích hợp, học phương pháp luận, học cách
kiến tạo kiến thức để rèn luyện khả năng kết hợp các nguồn kiến thức khác nhau, sinh
viên mới có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp trong cuộc sống lao động sau này.
e) Mở cửa trường ra thế giới bên ngoài
Nhà trường không phải là đích đến, mà chỉ là nơi chuẩn bị cho HS sẵn sàng bước vào
cuộc sống lao động.
Mở cửa trường cũng là cách tốt nhất để HS có cơ hội vận dụng kiến thức, kĩ năng học
được trong trường vào giải quyết các vấn đề khác nhau đang diễn ra trong xã hội, trong
nhà trường phổ thông. Đây cũng là phương thức đào tạo tốt nhất để HS sau khi ra
trường tự tin học lên hay đi vào cuộc sống lao động.
g) Đánh giá thúc đẩy quá trình học
Đánh giá không phải là mục đích tự thân. HS học không phải để được đánh giá, nhưng
họ được đánh giá để học tốt hơn, tiến bộ nhanh hơn.
h) Đánh giá là công cụ để học tập (learning-tool)
Một điều quan trọng cần nhận thức đúng là đánh giá trên hết là công cụ giúp HS học tốt
và giúp GV hướng dẫn HS trong suốt quá trình học trong trường, tạo động lực cho HS
tiến bộ không ngừng trong suốt quá trình học môn học.
i) Kiểm tra đánh giá phải được tích hợp vào quá trình dạy học để giúp HS có động lực
học tập và không ngừng tiến bộ trong suốt quá trình học tập.
Kiểm tra đánh giá kết quả học tập được xem là quá trình thu thập, chỉnh lí, xử lí thông tin
một cách hệ thống những kết quả học tập ở các giai đoạn khác nhau, đối chiếu với mục
tiêu dạy học ở từng giai đoạn và cuối cùng đối chiếu với chuẩn đầu ra của CTGD để
đánh giá sự tiến bộ của người học trong từng giai đoạn, đánh giá mức độ đạt chuẩn đầu
ra của người học và đánh giá chất lượng của quá trình đào tạo (với cách hiểu chất lượng
là sự trùng khớp với mục tiêu).
k) Kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một trong những khâu quan trọng nhất của quy
trình đào tạo. Kiểm tra đánh giá định hướng cho toàn bộ quá trình đào tạo, tạo động lực
cho người học, giúp họ tiến bộ không ngừng. Kiểm tra đánh giá còn cung cấp thông tin
phản hồi hữu ích cho giảo viên, nhà quản lí, giúp điều chỉnh quá trình dạy học và quản lí
để cùng đạt mục tiêu dạy học ngày càng cao.
l) Trong giáo dục, kiểm tra đánh giá đang có những bước phát triển mới:
Chuyển từ tập trung kiểm tra đánh giá cuối môn học, khoá học sang sử dụng ngày càng
nhiều các hình thức kiểm tra đánh giá định kì sau từng phần, từng chương.
Chuyển từ kiểm tra đánh giá kiến thức sang kiểm tra đánh giá năng lực của người học
(authentic assessment).
Chuyển từ kiểm tra đánh giá một chiều sang kiểm tra đánh giá đa chiều (tự đánh giá,
đánh giá lẫn nhau).
Chuyển kiểm tra đánh giá từ một hoạt động độc lập với quá trình dạy học sang việc tích
hợp kiểm tra đánh giá vào quá trình dạy học, xem kiểm tra đánh giá là một phương pháp
dạy học.
Sử dụng CNTT trong kiểm tra đánh giá.
3. Thiết kế chương trình giáo dục
Mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình là cơ sở để thiết kế chương trình.
Quá trình thiết kế chương trình được tiến hành theo các bước sau:
3.1. Lựa chọn và sắp xếp nội dung chương trình
Nội dungchương trình làtập hợp cácsự kiện,khái niệm,nguyên lí, nguyên tắc,lí thuyết,...
về các lĩnh vực khoa học liên quan đến mục tiêu, chuẩn đầu ra của chương trình. Phạm
vi và độ sâu của các nội dung này cũng được quy định bởi chính mục tiêu và chuẩn đầu
ra đó và được tổ chức phù hợp với trình độnhậnthứccủa người học.
Theo Nguyễn Thị Lan Phương và cộng sự:
Việc lựa chọn nội dung giảng dạy ở nhà trường, một mặt chịu áp lực từ chính phủ, cộng
đồng, cha mẹ, các học giả, các tổ chức phi chính phủ…; mặt khác chịu tác động của khối
lượng thông tin phong phú và phát triển với tốc độ nhanh chóng trong xã hội. Tuy nhiên,
trong mọi trường hợp, mục tiêu và chuẩn đầu ra của chương trình luôn là đích để mọi nội
dung hướng tới.
Ornstein và Hunkins (1998) đưa ra 5 tiêu chí cơ bản để lựa chọn nội dung:
1) Ý nghĩa: nội dung vừa có ý nghĩa đáng kể đối với nhu cầu và lợi ích của người học,
đồng thời vừa có ý nghĩa đáng kể đối với xã hội.
2) Tiện ích: nội dung thực sự hữu dụng trong cuộc sống của mỗi người học.
3) Hiệu lực: nội dung phải chính xác và cập nhật liên tục.
4) Phù hợp: nội dung phải phù hợp với trình độ phát triển nhận thức, phát triển tâm sinh lí
lứa tuổi của người học.
5) Khả thi: nội dung phải phù hợp với bối cảnh thực tế về môi trường giáo dục, điều kiện
kinh tế, xã hội của đất nước và vai trò của chính phủ.
Việc lựa chọn và sắp xếp các nội dung chương trình cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
1) Xác định phạm vi nội dung (là chiều rộng, chiều sâucủa cácchủ đề vàkinh nghiệm học
tậptrong chương trình) phải chú trọng đến: tính hữu dụng củanội dungđượclựachọn; tính
phân hoá các trình độ nhận thức của HS; phù hợp với thời lượng dạy học; cân đối giữa
các mục tiêukiến thức,kĩ năngvà thái độ.
2) Trình tự sắp xếp các nội dung và kinh nghiệm học tập có thể có các dạng thức sau
(theo Ornstein và Hunkins năm 1998, Taba năm 1962 và Bruner năm 1960):
- Từ đơn giản đến phức tạp: nội dung được tổ chức từ các thành phần đơn giản đến các
thành phần phức tạp dựa vào mối tương quan giữa chúng.
- Xoắn ốc: một khái niệm có thể được giới thiệu ban đầu ở mức độ đơn giản, sau đó
được xem xét lại với mức độ phức tạp và mở rộng hơn.
- Tuyến tính: các thông tin hoặc nội dung học tập này phải được hiểu trước khi các thông
tin hoặc nội dung khác có thể được hiểu.
- Toàn bộ: lần đầu tiên trình bày một cái nhìn tổng quan (toàn bộ) để nhìn thấy sự kết nối
giữa các bộ phận.
- Niên đại: nội dung được sắp xếp theo trình tự thời gian, đặc biệt là ở các môn học Lịch
sử, Chính trị,...
- Theo chiều dọc: các kiến thức và kĩ năng được sắp xếp gắn kết với trình tự phát triển
nhận thức của HS.
- Theo chiều ngang: các nội dung có liên quan được giảng dạy cùng một cấp độ trong
cùng khoảng thời gian. Ví dụ, trong thời gian học về Khoa học xã hội có thể xem xét các
vấn đề về lịch sử, xã hội, chính trị và kinh tế có liên quan.
3) Tích hợp nội dung theo cách tổng hoà các khái niệm, kiến thức, kĩ năng vàgiá trị nhiều
môn học để giúp HS thấy hình ảnh thống nhất về các hiện tượng trong tự nhiên và xã hội
chứ không rời rạc,phân mảnhvà tách rời từng nội dung.
Việctích hợp nội dung giảng dạy trong nhà trường ngày càng phổ biến bởi sự tíchtụ, phát
triểnnhanh chóng lượng thôngtintrong khoảng thời gian ngắn và thực tế là hiếm khi một
lĩnh vựcnội dung lại có thể đủ để giải thích các hiện tượng phức tạp trong tự nhiên cũng
như trong cuộc sống xã hội. Ở hầu hết các quốc gia, nội dung CTGD phổ thông thường
có ba hướng tích hợp chủ yếu sau đây:
- Tích hợp một số chủ đề, kĩ năng hoặc năng lực vào chương trình tất cả các môn học.Ví
dụ: chủ đề ICT, các kĩ năng làm toán và đọc hiểu, năng lực giao tiếp trong khung chương
trình quốc gia Hoa Kỳ (Framework for 21st Century Learning, www.21stcenturyskills.org),
Australia (theo ACARA, 2011)…;
- Tích hợp một số môn học riêng biệt thành lĩnh vực chung, ví dụ: Vật lí – Hoá học – Sinh
học; Lịch sử - Văn học, Khoa học xã hội và nhân văn; Xã hội học – Sức khoẻ – Nghệ
thuật, Giáo dục thể chất – Nghệ thuật– Nghiên cứu xã hội,...;
- Nghiên cứu một chủ đề chung từ việc tích hợp nội dung của nhiều môn học.Ví dụ: chủ
đề “Nước” có thể được nghiên cứu từ các lĩnh vực Khoa học (thành phần của nước), Địa
lí (phân phối tài nguyên nước), Ngôn ngữ (từ vựng về nước), Lịch sử (tranh chấp tài
nguyên nước), Kinh tế (cung cấp và nhu cầu về nước),…
Để xây dựng các nội dung tích hợp, cần mời đại diện các doanh nghiệp, ngành công
nghiệp, các lĩnh vực lao động và đại diện chính phủ cung cấp các đề xuất cho chương
trình. Và để thực hiện thành công chương trình tích hợp, đòi hỏi GV phải thâm nhập vào
cộng đồng để xem những kiến thức, kĩ năng gì của Toán học, Khoa học, Khoa học xã
hội, Ngôn ngữ, Nghệ thuật và các kĩ năng mềm cần cho thực tiễn.
Các hướng tích hợp nói trên sẽ giúpHSchuyểntừ các tình huống giả định trong sách giáo
khoasang tiếp cận các tình huống thực tiễn ở cộng đồng. Nội dung tích hợp giúp HS vận
dụng các kĩ năng, thu thập thông tin nhanh hơn, khuyến khích phát triển cả chiều sâu và
chiều rộng trong học tập, thúc đẩy thái độ học tập tích cực (cải thiện tinh thần hợp tác và
thói quen làm việc).
4) Những ý tưởng, chủ đề và các kĩ năng của chương trình cần liên tục, tức là được lặp
lại dọc theo cáclớp học, cấp học. Điềunàylàbởi HSkhông thểam hiểu các khái niệm,
thành thạo cáckĩ năng chỉ trongmột lần thực hành. Ví dụ,HSTiểuhọcđược học các
nguyên tắcviết bài luận; các nguyên tắcnày sẽ liên tục lặp lạitrong những nămtiếptheo,với
mức độ sâu và phức tạp tăng dần. Hoặclàm thí nghiệmlà một kinh nghiệmhọctậpđược
lặp lạitrongsuốt tiến trình giảng dạy môn Khoa học ở cả bậc học,vớimức độ ngày
càngphức tạpvà trừu tượng hơn.
3.2. Xác định phương thức tổ chức quá trình đào tạo
Trong giáo dục phổ thông, phương thức tổ chức quá trình thực thi chương trình vẫn theo
niên chế.
Trong giáo dục đại học, phần lớn các trường đã chuyển sang đào tạo theo tín chỉ. Đây là
phương thức đào tạo vừa đảm bảo đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho nhu cầu xã hội,
vừa đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân người học. Trong phương thức này, người học
có thể căn cứ chương trình đào tạo, cách thức tổ hợp các tín chỉ tiến tới một văn bằng để
thiết kế một kế hoạch học tập phù hợp nhất với bản thân.
3.3. Xác định các hình thức tổ chức dạy học
Căn cứ vào mục tiêu và nội dung đã được xác định, lựa chọn và tổ chức như đã nói ở
trên, việc tìm kiếm các hình thức tổ chức dạy học phù hợp cũng là một khâu quan trọng
tác động lớn tới hiệu quả dạy học.
Có 2 hình thức tổ chức dạy học cơ bản: (1) có mặt GV (face to face) với các hình thức
như: dạy học trên lớp, làm việc nhóm, xemina, dạy học tại phòng thí nghiệm, phòng bộ
môn, đi dã ngoại v.v. và (2) không có mặt GV (tự học có sự hướng dẫn và kiểm tra đánh
giá của GV) với các hình thức như: tự học ở nhà trước khi lên lớp, tự học ở nhà sau khi
lên lớp v.v. Mỗi hình thức tổ chức dạy học đều có các phương pháp dạy học và hình thức
kiểm tra đánh giá tương ứng.
Căn cứ mục tiêu, nội dung, đối tượng dạy học, điều kiện dạy học… GV có thể lựa chọn
hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhằm phát huy tối đa sự chủ động, tích cực của HS,
với tư cách là một chủ thể của quá trình dạy học.
Hình thức tổ chức dạy học cũng là cơ sở để lựa chọn các phương tiện, công nghệ, công
cụ dạy học, giúp quá trình dạy học thêm đa dạng, lí thú hơn với HS.
3.4. Lựa chọn các phương pháp dạy học
3.4.1. Phân loại các phương pháp dạy học
a) Phân loại theo hình thức hoạt động của các chủ thể trong quá trình dạy học
- Theo hình thức hoạt động của người dạy có: phương pháp thông báo, phương pháp
giải thích, diễn giảng, thuyết trình, kể chuyện, làm mẫu v.v.
- Theo hình thức hoạt động của người học có: phương pháp luyện tập, thực hành, bắt
chước, tự học, tự nghiên cứu v.v.
b) Phân loại theo con đường tiếp nhận tri thức
Phương pháp dùng lời – con đường tiếp nhận tri thức là ngôn ngữ nói hoặc viết; ví dụ: kể
chuyện, giải thích, diễn giảng, trò chuyện gợi mở, độc giảng (t.Nga – Leksia, t. Anh
– Lecture) v.v;
Phương pháp trực quan – tri thức đến với người học thông qua các giáo cụ trực quan, sự
vật, hiện tượng có thể quan sát được; ví dụ: minh hoạ, trình diễn, làm mẫu v.v.;
Phương pháp thực hành – thông qua các hoạt động, hành động, thao tác… người học
chiếm lĩnh tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ xảo v.v; ví dụ: luyện tập, thực hành, thực
nghiệm, thí nghiệm, trò chơi v.v.
c) Phân loại theo hướng tiếp cận
Phương pháp truyền thống, cổ điển, hiện đại; phương pháp giáo điều, một chiều, tái tạo,
khám phá, phát huy sáng tạo, tích cực của người học; phương pháp thụ động, tích cực;
phương pháp Algorit hoá, phương pháp Heuristic v.v.
d) Phân loại theo đặc điểm hoạt động nhận thức của người học
Xuất phát từ quan điểm cho rằng mục đích việc lựa chọn và sử dụng phương pháp dạy
học là nhằm thiết kế và triển khai việc dạy học có hiệu quả, tức đạt được mục tiêu dạy
học (“Kết thúc bài học này người học sẽ….!”), M.N.Skatkin, I.Ja.Lener phân các phương
pháp dạy học thành:nhóm phương pháp giải thích, minh hoạ; nhóm phương pháp tái
hiện; nhóm phương pháp tìm kiếm bộ phận; nhóm phương pháp sáng tạo. J.Davephân
các phương pháp dạy học theo các mục tiêu:nhận thức (Cognitive),tâm vận
(Psychomotor), tình cảm (Affective).B.J.Bloom chia hoạt động nhận thức ra làm 6 cấp độ:
Biết (Nhớ) - Hiểu - Vận dụng – Phân tích - Tổng hợp – Đánh giá. Như vậy, ứng với mỗi
mục tiêu dạy học (người học sẽ phải đạt tới cấp độ nào của thang bậc nhận thức) sẽ có
một nhóm phương pháp dạy học thích hợp.
1) Phương pháp thuyết trình - minh hoạ (thông báo thông tin - thu nhận)
Phương pháp này nhằm đến mục tiêu làm cho người học Biết (ghi nhớ) phù hợp với nội
dung dạy học sự kiện, khái niệm.
- Mục đích:Tổ chức việc lĩnh hội tri thức thông qua con đường thông báo, diễn giải thông
tin, nội dung dạy học; đóng vai trò bước khởi đầu cho việc khám phá sự vật, hiện tượng.
- Hoạt động của người dạy:Thông báo, truyền đạt thông tin bằng các phương tiện khác
nhau, trong đó chủ yếu là ngôn ngữ, phương tiện trực quan (sơ đồ, bảng biểu, ví dụ minh
hoạ v.v.)
- Hoạt động của người học:Lĩnh hội, tư duy, ghi nhớ nội dung được thông báo v.v.
- Ưu điểm:Dễ triển khai, giải quyết mâu thuẫn giữa thời gian, không gian, số lượng lớn
người học với khối lượng lớn thông tin, kinh tế v.v.
- Nhược điểm:Người học thụ động, học “vẹt”, học “gạo”, chưa hình thành được kĩ năng,
thao tác vận dụng xử lí thông tin, thiếu sự tương tác, phản hồi từ phía người học v.v.
2) Phương pháp tái tạo (lặp lại, thao tác theo mẫu cho sẵn)
Phương pháp này nhằm đến mục tiêu làm cho người học Hiểu (bước đầu vận dụng), phù
hợp với nội dung dạy học quy trình, quá trình.
- Mục đích:Hình thành kĩ năng, kĩ xảo, thao tác thuần thục với thông tin, nội dung dạy
học.
- Hoạt động của người dạy:Thiết kế và đưa ra các “mẫu” (bài tập, công thức, bảng biểu,
chỉ dẫn v.v.), chương trình hoá các nội dung dạy học.
- Hoạt động của người học:Thao tác, lặp lại theo mẫu, theo chỉ dẫn, sử dụng các kĩ thuật
để nhận diện, hiểu rõ vấn đề, bước đầu hình thành và phát triển kĩ năng thực hiện các
thao tác đơn lẻ.
- Ưu điểm:Hiểu bản chất vấn đề, hình thành kĩ năng vận dụng tri thức đã lĩnh hội.
- Nhược điểm:Học “tủ”, rập khuôn, cứng nhắc.
3) Phương pháp nêu vấn đề - tình huống
Phương pháp này nhằm đến mục tiêu giúp người học Vận dụng được các kĩ năng để giải
quyết những vấn đề của nội dung, phù hợp với dạy học các nguyên lí, nguyên tắc.
- Mục đích:Đưa ra các vấn đề (tình huống có vấn đề), khai phá các mâu thuẫn, chỉ ra các
cách giải quyết chúng.
- Hoạt động của người dạy:Thiết kế, phân loại, chỉ ra các vấn đề, tình huống có vấn đề
của nội dung dạy học, điều khiển, hướng dẫn, điều chỉnh các hướng giải quyết vấn đề,
kiểm chứng tính đúng đắn do người học đưa ra.
- Hoạt động của người học:Tìm kiếm, khai phá mâu thuẫn cũng như logic của vấn đề, đề
ra giả thuyết, phương hướng giải quyết.
- Ưu điểm:Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, hình thành tư duy
phê phán.
- Nhược điểm:Khó triển khai, tốn nhiều công sức, thời gian v.v.
4) Phương pháp khám phá sáng tạo
Phương pháp này nhằm đến mục tiêu giúp người học Phân tích được các vấn đề của nội
dung đặt ra, phù hợp với dạy học sáng tạo.
- Mục đích:Hình thành kĩ năng tự xác định, phân tích và giải quyết các vấn đề chứa trong
nội dung dạy học.
- Hoạt động của người dạy:Hướng dẫn cách xác lập vấn đề, tìm kiếm, thu thập cứ liệu,
lập kế hoạch giải quyết các vấn đề của nội dung.
- Hoạt động của người học: Xác lập, phân tích, lên kế hoạch độc lập tìm kiếm giải pháp,
con đường giải quyết vấn đề.
- Ưu điểm:Rèn luyện, kích thích tư duy phê phán, sáng tạo, phát triển kĩ năng độc lập giải
quyết vấn đề, tìm kiếm giải pháp mới cho cùng một vấn đề.
- Nhược điểm:Khó tổ chức triển khai, tốn nhiều công sức, thời gian, đòi hỏi người dạy và
người học phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng.
5) Phương pháp tự nghiên cứu (làm việc độc lập)
Phương pháp này nhằm đến mục tiêu giúp người học Phân tích, Tổng hợp và Đánh giá,
đưa ra quan điểm, ý kiến riêng về những vấn đề của nội dung dạy học.
- Mục đích:Đảm bảo và phát huy các kĩ năng làm việc độc lập, sáng tạo, mềm dẻo, thích
ứng nhanh của người học để giải quyết những vấn đề mới.
- Hoạt động của người dạy:Đưa ra yêu cầu, nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề cụ thể của nội
dung dạy học.
- Hoạt động của người học:Độc lập tìm kiếm các giải pháp thực hiện nhiệm vụ nghiên
cứu.
- Ưu điểm:Phát huy khả năng làm việc độc lập, tìm tòi, phát hiện vấn đề và giải quyết
chúng một cách sáng tạo, hình thành kĩ năng nghiên cứu khoa học.
- Nhược điểm:Hạn chế sự giao tiếp giữa người dạy và người học, khó tổ chức.
Việc không nhất quán trong quan điểm phân loại các phương pháp càng chứng tỏ tính
phức tạp và những thách thức vẫn đang đặt ra cho bài toán đi tìm một phương pháp dạy
học hiệu quả. Điều này đòi hỏi người dạy và người học không chỉ phải nắm vững và làm
chủ các phương pháp dạy học mà còn phải biết cách vận dụng, phối hợp chúng hài hoà
trong quá trình dạy học
3.4.2. Những điều kiện quy định việc lựa chọn phương pháp dạy học
Bởi phương pháp tạo nên hiệu quả của quá trình dạy học nên vấn đề lựa chọn phương
pháp luôn được đặt lên hàng đầu trong khi thiết kế, xây dựng ý đồ triển khai một bài
giảng cụ thể. Trên thực tế, không tồn tại một phương pháp tuyệt hảo cũng như không có
một phương pháp tồi tệ. Mỗi phương pháp đều có những mặt ưu và nhược điểm riêng.
Do đó, người dạy phải biết chọn lựa để phát huy những điểm mạnh và hạn chế những
nhược điểm của từng phương pháp trong quá trình dạy học. Một phương pháp dạy học
được coi là hợp lí và hiệu quả khi phương pháp này:
a) Nhằm đến mục tiêu dạy học rõ ràng:Tạo ra khả năng cao nhất để thực hiện mục tiêu,
nhiệm vụ dạy học, phát triển nhận thức, kĩ năng, thái độ của người học;
b) Tương thích:Phù hợp với nội dung dạy học cụ thể, đặc thù của từng môn học, bài học,
từng vấn đề cụ thể; từng giai đoạn cụ thể trong tiến trình giờ học v.v. (Một số tác giả đặc
biệt lưu tâm đến việc cần phải kết hợp nhiều phương pháp khác nhau tại những thời
điểm khác nhau trong giờ học căn cứ vào mức độ tập trung chú ý của người học. Ví dụ:
khủng hoảng chú ý ở người học sẽ xảy ra ở phút 14-18, sau đó tình trạng này sẽ lặp lại
lần thứ hai sau khoảng 11-14 phút, lần ba sau khoảng 9-11 phút, lần cuối sau khoảng 8-9
phút v.v.).
c) Khả thi:Phù hợp với năng lực, trình độ, sở thích, hứng thú, kinh nghiệm của người dạy
lẫn người học, phù hợp với các điều kiện dạy học v.v.
Do đó, việc lựa chọn phương pháp dạy học sẽ bị quy định bởi:
- Mục tiêu, nội dung dạy học (môn học, chương mục, bài học, từng nội dung cụ thể trong
các giai đoạn triển khai giờ học v.v.);
- Nguyên tắc dạy học;
- Đặc điểm tâm, sinh lí, khả năng, trình độ, hứng thú của người học, trình độ chuyên
môn, năng lực sư phạm của người dạy.
3.5. Lựa chọn và sử dụng phương tiện, công nghệ dạy học
Trong giáo dục phổ thông, sách giáo khoa và các sách hướng dẫn, tham khảo, các tài
liệu in ấn đã và vẫn đang là học liệu cơ bản.Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học và công nghệ, nhất là CNTT, trong những thập kỉ qua, giáo dục phổ thông đã
chấp nhận công nghệ mới trên một quy mô rộng lớn và bước đầu làm thay đổi đáng kể
cấu trúc lớp học, vai trò của GV, HS.
Trong số các công nghệ được áp dụng thì máy vi tính là phương tiện được áp dụng
thành công nhất, bởi lẽ máy vi tính là công cụ cơ bản vừa để giảng dạy, vừa để học tập,
được nhiều HS sử dụng một cách thành thạo.
Việc lựa chọn và sử dụng công nghệ phụ thuộc rất nhiều vào hình thức tổ chức dạy học,
phương pháp dạy học, để tiến tới mục đích cuối cùng là đạt mục tiêu dạy học. “Một công
nghệ sử dụng kém hiệu quả sẽ không giúp GV nâng cao chất lượng dạy học, nó chỉ duy
trì, thậm chí còn gia tăng sự kém hiệu quả nữa. Còn khi chỉ có công nghệ đơn giản, được
sử dụng một cách thông minh, khéo léo vẫn có thể nâng cao chất lượng dạy học. Trong
cả hai trường hợp phải bắt đầu giảng dạy, rồi tiếp đó mới là công nghệ” (Geoghehan,
1994).
Để lựa chọn đúng công nghệ, phù hợp với hình thức tổ chức dạy học(như lớp đông HS,
chuyên đề, làm việc nhóm, độc lập nghiên cứu…), các tác giả đề xuất một mô hình giúp
lựa chọn các công nghệ, phương tiện tương ứng:
Phương tiện cho phương pháp chủ yếu là thuyết
Hình thức tổ chức dạy học
trình
- Bài giảng bằng Powerpoint, có máy chiếu
Lớp đông
- Pano
Cần trực quan tĩnh, trực quan động
- Băng Video
Tình huống giả định, trò chơi.
Bảng lật, bảng phấn
Lớp đông, kết hợp nhóm nhỏ Tranh ảnh, slide, máy chiếu, máy tính, video, giấy A0,
Bút các loại
Làm việc nhóm Biểu đồ, sơ đồ
Video, Bảng lật, giấy A0, Bút các loại
Ở nhà Phiếu học tập, câu đố, tranh ảnh.
Phiếu câu hỏi.
Về nhà
Mẫu báo cáo.
Khi lựa chọn các phương tiện hãy lưu ý:
- Chỉ chọn các phương tiện hiệu quả nhất cho mục tiêu học tập của giờ học.
- Phải đảm bảo thiết bị là có sẵn.
- Phương tiện càng dễ sử dụng càng có hiệu quả cao.
- Nếu yêu cầu HS sử dụng máy vi tính ngoài lớp học, phải đảm bảo HS có thể tiếp cận
với máy tính cùng phần mềm tương ứng.
- Luôn sáng tạo linh hoạt, không quá cầu kì.
- Đừng quên những công nghệ thấp nhưng hiệu quả cao (tài liệu phát tay, đồ dùng dạy
học tự tạo v.v.).
3.6. Xây dựng kế hoạch kiểm tra đánh giá
Phát triển CTGD luôn bao gồm cả việc xây dựng mộtchương trình đánh giáphù hợp. Kinh
nghiệmnhiều nước cho thấy,nếu không quan tâm đúng mức đến vấn đề đo lường, đánh
giá việc thực hiện chương trình của GV và nhà trường, thì sẽ phát sinh xung đột giữa hai
mục đích “đánh giá để thúc đẩy học tập” và “đánh giá kết quả học tập”.
Đánh giá kết quả giáo dục nhằm nhiều mục đích khác nhau như: đưa ra phản hồicho HS
về việc học và sự tiến bộcủahọ; cung cấpphản hồi choGVvềhiệu quả củahoạt động giảng
dạy vàchương trình; báo cáo sự tiến bộ của HScho cha mẹ, cán bộ quản lígiáo dục, cộng
đồng; xác nhận trìnhđộ của cá nhân HS, chất lượng giáo dục của nhà trường; đánh giá
chất lượng toàn bộ hệ thống giáo dục…
Hai kiểu đánh giá thường được nhấn mạnh trong CTGD là:
- Đánh giá quá trình (Formative assessment): là việc thu thập, phân tích, xử lí thông tin
để phản hồi sự tiến bộ học tập của HS hàng ngày trên lớp học. Đánh giá này được thực
hiện thông qua nhiều hình thức như quan sát, phỏng vấn, hồ sơ học tập, trình diễn, dự
án học tập, tự đánh giá,… và nhưlàmộtphầnkhông tách rờicủahoạt động dạy,hoạt
độnghọc nhằm hỗ trợ quá trìnhhọc tập. Chẩn đoán những điểm yếu của HS cũng là một
phần của đánh giá quá trình.
-Đánh giá tổng kết (Summative assessment): là đánh giá được thực hiện tại thời điểm kết
thúc giai đoạn giáo dục nhằm xác nhận kết quả đạt được so với mục tiêu giáo dục ứng
với thời điểm đó. Hình thức của nó là đánh giá học kì, cuối năm học, thi tốt nghiệp cấp
học, đánh giá dựa vào nhà trường và đánh giá trên diện rộng.
Xuất phát từ quan điểm “cần kết nối giữa kết quả đạt các mục tiêu giáo dục và tác động
của chúng đối với cá nhân người học, xã hội, thế giới” mà mô hình giáo dục dựa theo
năng lực (Competences-based education) và phương thức đánh giá dựa theo năng lực
(Competence-based assessment)đang dần trở nên phổ biến (T. Lobanova, Yu. Shunin).
Theo Wolf, A. (2001), đây là “đánh giá khả năng tiềm ẩn của HS dựa theo sản phẩm đầu
ra cuối một giai đoạn học tập, là quá trình tìm kiếm minh chứng về việc họ đã thực hiện
thành công các sản phẩm đó”. Có nhiều phương pháp đánh giá năng lực có hiệu quả
như thảo luận, phỏng vấn, quan sát, hoạt động nhóm, tiểu luận, bài tập, kiểm tra, dự án,
trình diễn,... Đặc biệt, cần tạo nhiều cơ hội để HS tự đánh giá và phản hồi bởi khi đã
xácđịnh được cáchthứccải thiện năng lực học tập thì sẽ dần đạt tới các giá trị tự tin, độc
lập, chủ động phê phán và thoải mái khi tiếp nhậnlời phê phán,...
Cấu phần “đánh giá trên lớp” tập trung đánh giá kết quả học tập môn học và do GV chịu
trách nhiệm. Để phát triển năng lực người học, cần lưu ý:
- Làm rõnhữnggì HS biết và có thể làm vànhữnggì họ vẫn cần tìm hiểu trong mối liên
quan với chuẩn quốc gia. Điều này giúp HSthấy rằng họ có tiến bộ, từ đó sẽ tăng cường
động lực và sự tự tin.
- HS được thảo luận, làm rõvà suy nghĩ về mục tiêu,chiến lược học tập, được tự đánh
giá, đánh giá đồng đẳng, từ đó phát triển dần năng lực cá nhân.
- HShiểu được kết quả kỳ vọngvà các tiêu chí để thành công; còn GV có được thông tin
phản hồi giúpHS nâng cao dần cấp độ năng lực tiềm ẩn.
- Chứng cứthu được thông quanhiều hình thức đánh giáchính thức và không chính thức,
đảm bảo phù hợp vớiđặc điểmvà kinh nghiệm học tập mỗi HS.
-Báo cáo cha mẹ về sự tiến bộ và thành tích học tập của HS so với chuẩn quốc gia; hỗ
trợ họ hiểu cách thức đánh giá và cách thức hỗ trợ HS ở nhà.
Cấu phần “đánh giá nhà trường” tập trung đánh giá kết quả giáo dục dựa theo chuẩn giáo
dục quốc gia và do hiệu trưởng chịu trách nhiệm. Để đánh giá đúng năng lực HS, cần lưu
ý:
- Thiết lập hệ thống đánh giá chuẩn hoá trong nhà trường hoặc cụm trường.
- Chỉ đạo, quản lí, giám sát thực hiện đánh giá năng lực theo quy trình 4 giai đoạn của
Wilson (2005): (1) Xây dựng khung năng lực (các yếu tố cấu thành); (2) Thiết lập các
mức độ năng lực; (3) Phát triển năng lực bởi các chiến lược, phương pháp giảng dạy; (4)
Đo lường, đánh giá (phương pháp, hình thức, công cụ, phản hồi…).
- Thu thập và phân tích dữ liệu đánh giá của HS toàn trường về việc đạt các mục tiêu
giáo dục để hiểu biết về những gì ảnh hưởng đến chương trình giảng dạy và thực chất
việc học tập của toàn trường.
- Sử dụng kết quả đánh giá nhà trường để so sánh thành tích tương đối giữa các nhóm
HS trong trường theo thời gian, giữa các trường và với tiêu chuẩn quốc gia.
- Trên cơ sở kết quả đánh giá mà điều chỉnh, bổ sung kế hoạch giáo dục, chính sách
giáo dục và chương trình giảng dạy; xác định các nguồn lực hỗ trợ hoạt động đánh giá
như tập huấn GV, phát triển công cụ đánh giá,…
- Báo cáo Hội đồng được ủy thác, cha mẹ và cơ quan quản lí giáo dục cấp trên về sự tiến
bộ và thành tích học tập so với chuẩn quốc gia; hỗ trợ các bên có liên quan, nhất là cha
mẹ, hiểu cách thức đánh giá và cách thức hỗ trợ HS ngoài nhà trường
Cấu phần “Thi quốc gia” tập trung xác nhận trình độ HS để cấp chứng chỉ/bằng tốt
nghiệp phổ thông và thường do cấp trung ương chịu trách nhiệm. Chương trình thiết lập
khung trình độ quốc gia, bao gồm các yêu cầu cụ thể về tiêu chuẩn, số lượng đơn vị các
lĩnh vực hoặc nội dung học tập, tương ứng với chứng chỉ/bằng tốt nghiệp quốc gia và các
loại chứng chỉ khác. Dựa vào chương trình và khung trình độ quốc gia, các trường có thể
xây dựng các chương trình giảng dạy đảm bảo tăng cơ hội tiếp cận cho mọi HS thông
qua việc lựa chọn con đường, môn học phù hợp với điều kiện học tập, trình độ nhận thức
và loại chứng chỉ/bằng tốt nghiệp mà bản thân họ đã dự kiến.
Đối với một môn học, GV phải tin chắc rằng những mục tiêu học tập của môn học đã và
đang được HS phấn đấu để đạt được.
Trong một quy trình dạy học và giáo dục, đánh giá liên tục là một hoạt động mà GV nào
cũng phải thực hiện, ngay cả khi không có bất kì áp lực nào từ bên ngoài.
Đến đây giai đoạn thiết kế CTGD được xem là hoàn tất, có thể được đưa vào thực thi.
Thông thường, trước khi thực thi một CTGD người ta phải xem xét lại một lần cuối cùng,
kiểm tra các thông số về điều kiện thực hiện CTGD, như sự sẵn sàng của giảng viên,
sinh viên, các điều kiện về học liệu, địa điểm, thời gian và các vấn đề khác. Trong trường
hợp cần thiết phải có những điều chỉnh cần thiết trong một số khâu của CTGD.
Một vài công cụ kiểm tra đánh giá ở bậc đại học thông thường dưới dạng viết.
Lloyd Bostian xác định 7 loại bài viết phổ biến có thể dùng như những công cụ hữu hiệu
để đánh giá kĩ năng đọc, viết của sinh viên (Bostien & Lunde 1995, tr.155):
- Bài viết 1, 2 khổ (đoạn) trả lời các câu hỏi trên lớp về một vấn đề vừa được giảng, hoặc
một chủ đề có liên quan. Những bài này thường dùng để sinh viên giải thích, bình luận,
giới thiệu, đánh giá.
- Bài viết 1 – 3 trang để sinh viên phân tích hoặc tổng hợp các bài đọc, điểm các chương
sách, một vài tài liệu học tập.
- Bài viết đánh giá, bình luận 1-3 trang về một chủ đề của khoá học.
- Bài viết nghiên cứu, mô tả thí nghiệm 2-5 trang.
- Nhật kí bao gồm những nhận xét và suy nghĩ của sinh viên về khoá học, về học liệu v.v.
- Tiểu luận 10-15 trang về một chủ đề nhất định.
Các bài tập nhóm thường được xây dựng theo các bước sau:
- Chọn một vấn đề, một công việc đòi hỏi có sự tham gia có tổ chức của một nhóm sinh
viên.
- Đặt ra các mục tiêu cụ thể, rõ ràng cho nhóm, đảm bảo sẽ nhận được thông tin phản
hồi rõ ràng về công việc của nhóm.
- Thảo luận và lựa chọn các quy trình và phương pháp làm việc để đạt mục tiêu trong
giới hạn thời gian đã ấn định.
- Xác định vai trò của từng thành viên, phân công nhiệm vụ sát thực với các mục tiêu,
quy trình, phương pháp làm việc của nhóm.
- Tổ chức các nguồn lực (nhân lực, tài chính, thông tin, thời gian v.v.) cần thiết để nhóm
hoàn thành tốt mục tiêu.
- Quy định rõ sản phẩm, tiêu chí đánh giá sản phẩm làm việc nhóm.
Ngoài ra, người ta còn dùng một số hình thức đánh giá khác, như sử dụng hồ sơ học tập,
trình diễn trong các tình huống giả định.
Bước cuối cùng trong quy trình kiểm tra đánh giá là cách xếp hạng. Cách xếp hạng hiện
nay căn cứ vào điểm số và xếp theo các bậc xuất sắc, giỏi, khá, trung bình khá, trung
bình, yếu, kém. Sắp tới, việc xếp hạng sinh viên trong các trường đại học áp dụng học
chế tín chỉ sẽ theo bảng chữ cái A, B, C, D, E, F.
Trên cơ sở mục tiêu đánh giá, hình thức đánh giá, công cụ đánh giá và các tiêu chí đánh
giá đã được xác định, cần lập kế hoạch đánh giá (vào lúc nào, hình thức gì v.v.) và cung
cấp toàn bộ các thông tin này cho sinh viên ngay từ ngày đầu của khoá học. Thông
thường các thông tin này được đưa vào đề cương môn học.
4. Thực thi chương trình giáo dục (thông qua một môn học)
Thực thi CTGD là quá trình hiện thực hoá toàn bộ triết lí, định hướng, mục đích, mục tiêu
của CTGD qua một môn học cụ thể, trên một đối tượng HS cụ thể, trong một bối cảnh
dạy học cụ thể.
Hay nói cách khác, đây là quá trình chuyển mục đích, mục tiêu CTGD thành mục đích,
mục tiêu dạy học của từng môn học cho một đối tượng người học cụ thể, trong một môi
trường dạy học cụ thể.Quá trình đó được thực hiện theo một quy trình đã được thừa
nhận trong lí luận dạy học hiện đại và được kiểm chứng trên phạm vi thế giới.
Quy trình dạy học xét trên quan điểm hệ thống bao gồm 3 giai đoạn với các thành tố liên
kết với nhau thành một chu trình và tác động qua lại với nhau. Có thể biểu diễn quy trình
dạy học bằng sơ đồ 10:
Sơ
đồ
10:
Quy
trình
dạy
học
4.1.
Giai
PHẦN 1: LÍ THUYẾT
- Giới thiệu được mục đích, nội dung môn học
- Trình bày được lịch sử phát triển của ngành công
nghiệp ô tô, sự phát triển của các loại động cơ đốt
trong.
Chương 1: Khái quát về ô tô-động cơ đốt
- Trình bày được cấu tạo tổng quan của động cơ
trong
đốt trong 2 thì và 4 thì sử dụng nhiên liệu Xăng và
Disel.
1.1. Giới thiệu khái quát về ô tô
- Trình bày được nguyên lí hoạt động của động cơ
1.2. Cấu tạo chung về ôtô
đốt trong 2 thì và 4 thì sử dụng nhiên liệu Xăng và
1.3. Giới thiệu khái quát về động cơ đốt
Disel
trong
- Giải thích được sự khác biệt trong kết cấu,
nguyên lí của động cơ 2 thì với 4 thì, của động cơ
xăng với động cơ diesel. Qua đó phân tích các hư
hỏng về hoạt động của các loại động cơ.
Chương 2: Hệ thống phát lực - Trình bày được đặc điểm làm việc, vật liệu chế
2.1. Nhóm các chi tiết cố định tạo và phương pháp chế tạo của các chi tiết trong
2.2. Nhóm các chi tiết chuyển động của cơ hệ thống phát lực
cấu trục khuỷu- thanh truyền - Giải thích được các liên kết kết cấu của các chi
tiết trong hệ thống, phân tích được các hư hỏng
liên đới giữa các chi tiết trong hệ thống phát lực
- Phân tích được sự khác nhau trong kết cấu của
các chi tiết trong hệ thống phát lực trên động cơ
xăng va diesel qua đó phân tích và giải thích các
hư hỏng trên các loại động cơ này.
- Trình bày được đặc điểm làm việc, vật liệu chế
tạo và phương pháp chế tạo của các chi tiết trong
Chương 3: Hệ thống phân phối khí hệ thống phối khí.
3.1. Công dụng- yêu cầu- phân loại - Giải thích được các liên kết kết cấu của các chi
3.2. Sơ đồ và nguyên lí làm việc của cơ cấu tiết trong hệ thống, phân tích được các hư hỏng
phân phối khí liên đới giữa các chi tiết trong hệ thống phối khí
3.3. Cấu tạo các chi tiết chủ yếu của cơ cấu - Trình bày được nguyên lí làm việc của hệ thống
phân phối khí phối khí cổ điển cũng như các hệ thống phối khí
thông minh hiện nay (công nghệ VVTi của Toyota;
công nghệ i-VTEC của Honda;…)
- Trình bày được công dụng, nguyên lí làm việc
của hệ thống bôi trơn trên động cơ đốt trong. Qua
đó giải thích được tầm quan trong của hệ thống
cũng như yêu cầu bảo dưỡng định kỳ của hệ thồng
Chương 4: Hệ thống bôi trơn
bôi trơn.
4.1. Nhiệm vụ
- Trình bày được những đặc điểm của nhớt bôi trơn
4.2. Dầu làm trơn và các đặc tính cơ bản
nói chung và nhớt bôi trơn sử dụng cho động cơ
4.3. Các loại hệ thống bôi trơn
đốt trong trên ô tô nói riêng.
4.4. Kết cấu một số bộ phận chính
- Phân biệt được sự khác nhau trong hệ thống bôi
4.4. Thông gió hộp trục khuỷu
trơn trên động cơ xăng và động cơ diesel
4.5. Đồng hồ và đèn báo nguy
- Phân tích được các đặc điểm chế tạo, liên kết kết
cấu của các chi tiết trong hệ thống, qua đó phân
tích được, giải thích được các hư hỏng của các chi
tiết, của hệ thống bôi trơn.
Chương 5: Hệ thống làm mát - Trình bày và giải thích được sự khác nhau giữa
5.1. Nhiệm vụ của hệ thống làm mát hệ thống làm mát bằng không khí với hệ thống làm
5.2. Phân loại hệ thống làm mát mát bằng dung dịch.
5.3. So sánh hệ thống làm mát bằng không - Trình bày được công dụng, nguyên lí làm việc
khí và làm mát bằng nước của hệ thống làm mát bằng dung dịch trên động cơ
5.4. Các bộ phận của hệ thống làm mát đốt trong.
- Phân tích được các đặc điểm chế tạo, nguyên lí
hoạt động của các chi tiết trong hệ thống làm mát,
qua đó phân tích được, giải thích được các hư hỏng
của các chi tiết, của hệ thống bôi trơn.
- Trình bày được những đặc điểm cơ bản của nhiên
liệu xăng, qua đó lí giải các hiện tượng cháy trong
động cơ (cháy sớm, kích nổ)
- Trình bày được công dụng, nguyên lí làm việc
Chương 6: Hệ thống nhiên liệu động cơ của hệ thống cung cấp nhiên liệu sử dụng bộ chế
xăng hoà khí, hệ thống phun xăng điện tử trên động cơ
6.1. Phương pháp tạo hỗn hợp trong xy lanh đốt trong. Qua đó chỉ ra được ưu nhược điểm của
6.2. Hệ thống cung cấp nhiên liệu dùng bộ từng hệ thống đồng thời giải thích được tầm quan
chế hoà khí trong của hệ thống cũng như yêu cầu bảo dưỡng
6.3. Giới thiệu hệ thống nhiên liệu phun định kỳ của hệ thống trên động cơ.
xăng điện tử - Phân tích được các đặc điểm chế tạo, liên kết kết
cấu của các chi tiết trong hệ thống, qua đó phân
tích được, giải thích được các hiện tượng, hư hỏng
của động cơ khi hoạt động có liên quan đến hệ
thống cung cấp nhiên liệu.
- Trình bày được những đặc điểm cơ bản của nhiên
liệu diesel, qua đó lí giải các hiện tượng cháy trong
động cơ.
Chương 7: Hệ thống nhiên liệu động cơ
- Trình bày được công dụng, nguyên lí làm việc
diezel
của hệ thống cung cấp nhiên liệu diesel thông
7.1. Phương pháp tạo hỗn hợp và phân loại
thường, hệ thống phun dầu điện tử trên động cơ đốt
hệ thống nhiên liệu động cơ Diesel
trong. Qua đó chỉ ra được ưu nhược điểm của từng
7.2. Các bộ phận cơ bản trong hệ thống
hệ thống đồng thời giải thích được tầm quan trong
nhiên liệu Diesel
của hệ thống cũng như yêu cầu bảo dưỡng định kỳ
7.3. Cơ cấu điều tốc
của hệ thống trên động cơ.
7.4. Giới thiệu hệ thống nhiên liệu EDC
- Phân tích được các đặc điểm chế tạo, liên kết kết
7.5. Giới thiệu hệ thống nhiên liệu phun
cấu của các chi tiết trong hệ thống, qua đó phân
common-rail
tích được, giải thích được các hiện tượng, hư hỏng
của động cơ khi hoạt động có liên quan đến hệ
thống cung cấp nhiên liệu.
PHẦN 2: THỰC HÀNH
Bài 1. An toàn lao động và sử dụng dụng - Phân tích được các vấn đề gây ra tai nạn lao động
cụ trong cơ xưởng, từ đó chỉ ra được và làm được các
1.1. Các tai nạn thường gặp trong cơ xưởng công việc giúp giảm tải tai nạn lao động cũng đảm
1.2. Các biện pháp đề phòng tai nạn trong bảo an toàn lao động trong cơ xưởng.
- Trình bày được, phân tích được và sử dụng được
các dụng cụ, máy móc cơ bản phục vụ quá trình
học tập tại cơ xưởng (khoá, nụ, cần xiết,…, máy
mài, máy ép,…)
cơ xưởng
- Trình bày được, sử dụng được các dụng cụ đo
1.3. Các thiết bị, dụng cụ tháo lắp thông
phục vụ công việc kiểm tra xác định hư hỏng của
thường
các chi tiết trong động cơ (panme, thước cặp, so
1.4. Các dụng cụ đo kiểm
kế, …).
1.5. Các thiết bị chuyên dùng
- Quan sát và đánh giá được việc sắp xếp, bố trí
máy móc thiết bị trong cơ xưởng, qua đó đề xuất
phương án bố trí, sắp xếp nhằm đảm bảo tính tiện
lợi và an toàn lao động.
- Phân tích được các vấn đề an toàn trong quá trình
Bài 2. Phương pháp tháo, lắp động cơ tháo, lắp động cơ
2.1. Phương pháp chuẩn bị dụng cụ đồ nghề - Phân tích được các bước trong quy trình kĩ thuật
2.2. Phương pháp tháo, lắp động cơ ở trên tháo lắp động cơ.
xe - Thực hiện được các bước trong quy trình tháo lắp
2.3. Phương pháp tháo, lắp các chi tiết trong động cơ cơ bản.
động cơ - Phân tích và đánh giá được nhưng khác biệt,
2.4. Các phương pháp xác định thứ tự công những điểm cần lưu ý trong quy trình tháo lắp
tác động cơ động cơ, trong kết cấu của các loại động cơ.
2.5. Các phương pháp cân chỉnh cho động - Trình bày và thực hiện được các phương pháp
cơ xác định thứ tự công tác động cơ, các phương pháp
cân cam cho động cơ.
- Phân tích được các bước trong quy trình kĩ thuật
tháo lắp cơ cấu phối khí cơ bản trong động cơ.
Bài 3. Phương pháp kiểm tra sửa chữa hệ
- Thực hiện được các bước trong quy trình tháo
thống phối khí
lắp, kiểm tra xác định hư hỏng các chi tiết trong cơ
3.1. Phương pháp tháo, lắp hệ thống phối
cấu phối khí và đề xuất được phương án sửa chữa.
khí.
- Phân tích và đánh giá được nhưng khác biệt,
3.2. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa các
những điểm cần lưu ý trong quy trình tháo lắp các
chi tiết hệ thống phối khí.
dạng cơ cấu phối khí trong động cơ.
3.3. Phương pháp xoáy xupap
- Trình bày và thực hiện được phương pháp xoáy
xupap.
Bài 4. Phương pháp kiểm tra sửa chữa - Nhận biết được các hư hỏng bên ngoài của nắp
nắp máy máy. Phân tích được các vấn đề dẫn tới hư hỏng
4.1. Các hiện tượng và nguyên nhân hư của nắp máy.
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
hỏng của nắp máy
hỏng của nắp máy. Qua đó đề xuất được các
4.2. Phương pháp tháo, lắp nắp máy
phương án sửa chữa.
4.3. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa nắp
- Quan sát, phân tích và đánh giá được nhưng khác
máy
biệt, những điểm cần lưu ý trong quy trình tháo lắp
4.4. Các hiện tượng của động cơ có liên
nắp máy của các loại động cơ .
quan đến hư hỏng của nắp máy
- Trình bày và thực hiện được các phương pháp
làm joang cho động cơ.
- Nhận biết được các hư hỏng bên ngoài của thân
Bài 5. Phương pháp kiểm tra sửa chữa xy
máy, nòng xylanh. Phân tích được các vấn đề dẫn
lanh và thân máy
tới hư hỏng của thân máy.
5.1. Các hiện tượng và nguyên nhân hư
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
hỏng của xy lanh và thân máy
quy trình kiểm tra xác định hư hỏng của thân máy
5.2. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa xy
và xylanh. Qua đó đề xuất được các phương án sửa
lanh và thân máy
chữa.
- Nhận biết được các hư hỏng bên ngoài của
pittong, bạc xéc măng. Phân tích được các vấn đề
dẫn tới hư hỏng của chúng.
Bài 6. Phương pháp kiểm tra sửa chữa
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
pittong và bạc xéc măng
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
6.1. Hiện tượng và nguyên nhân hư hỏng
hỏng của pittong. Qua đó đề xuất được các phương
của pittong, bạc xéc măng
án sửa chữa.
6.2. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
pittong
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
6.3. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa bạc
hỏng của bạc xéc măng.
xéc măng
- Quan sát, phân tích và đánh giá được nhưng khác
6.4. Các chú ý khi tháo, lắp pittong và bạc
biệt, những điểm cần lưu ý trong quy trình tháo lắp
xéc măng
pittong, bạc xéc măng của các loại động cơ .
- Trình bày và thực hiện được các phương pháp rà
miệng cho bạc xéc măng.
Bài 7. Phương pháp kiểm tra sửa chữa - Nhận biết được các hư hỏng sơ bộ của thanh
thanh truyền truyền. Phân tích được các vấn đề dẫn tới hư hỏng
7.1. Các hiện tượng và nguyên nhân hư đó.
hỏng của thanh truyền - Phân tích được, thực hiện được các bước trong
7.2. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
thanh truyền hỏng của thanh truyền. Qua đó đề xuất được các
phương án sửa chữa.
- Nhận biết được các hư hỏng bên ngoài của trục
Bài 8. Phương pháp kiểm tra sửa chữa
khủy. Phân tích được các vấn đề dẫn tới hư hỏng
trục khuỷu
của chúng.
8.1. Các hiện tượng và nguyên nhân hư
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
hỏng của trục khuỷu
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
8.2. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa trục
hỏng của trục khuỷu. Qua đó đề xuất được các
khuỷu
phương án sửa chữa.
8.3. Phương pháp tuốt lại các cổ trục và cạo
- Trình bày và thực hiện được các phương pháp
rà bạc lót
tuốt lại các cổ trục, phương pháp cạo rà bạc lót.
- Nhận biết được các hư hỏng bắt nguồn từ hệ
Bài 9. Phương pháp kiểm tra và sửa chữa
thống bôi trơn khi động cơ vận hành. Phân tích
hệ thống bôi trơn
được các vấn đề dẫn tới hư hỏng đó.
9.1. Phương pháp tháo, lắp hệ thống bôi
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
trơn
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
9.2. Kiểm tra và sửa chữa các chi tiết hệ
hỏng các chi tiết trong hệ thống bôi trơn. Qua đó
thống bôi trơn
đề xuất được các phương án sửa chữa.
9.3. Phương pháp thông rửa hệ thống bôi
- Trình bày và thực hiện được các bước trong quy
trơn
trình thông rửa cho hệ thống bôi trơn.
- Nhận biết được các hư hỏng bắt nguồn từ hệ
Bài 10. Phương pháp kiểm tra sửa chữa
thống làm mát khi động cơ vận hành. Phân tích
hệ thống làm mát
được các vấn đề dẫn tới hư hỏng đó.
10.1. Phương pháp tháo, lắp hệ thống làm
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
mát
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
10.2. Kiểm tra và sửa chữa các chi tiết hệ
hỏng các chi tiết trong hệ thống làm mát. Qua đó
thống làm mát
đề xuất được các phương án sửa chữa.
10.3. Phương pháp thông rửa hệ thống làm
- Trình bày và thực hiện được các bước trong quy
mát
trình thông rửa cho hệ thống làm mát.
Bài 11: Phương pháp kiểm tra và sửa - Phân tích được, thực hiện được các bước trong
chữa hệ thống nhiên liệu quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
11.1. Phương pháp kiểm tra các chi tiết hỏng hệ thống nhiên liệu. Qua đó đề xuất được các
trong hệ thống nhiên liệu phương án sửa chữa.
11.2. Phương pháp cân chỉnh bộ chế hoà khí - Trình bày nguyên lí làm việc của bộ chế hoà khí,
11.3. Phương pháp kiểm tra hệ thống nhiên phân tích được các vấn đề kĩ thuật của bộ chế hoà
liệu khi động cơ vận hành khí khi làm việc từ đó tiến hành chẩn đoán được
tình trạng cũng như tiến hành hiệu chỉnh.
- Phân tích và đánh giá được những hư hỏng cơ
bản khi động cơ vận hành có liên quan tới hệ thống
nhiên liệu, đề xuất và thực hiện được phương pháp
khắc phục hư hỏng.
- Phân tích được, thực hiện được các bước trong
quy trình kĩ thuật tháo lắp, kiểm tra xác định hư
hỏng hệ thống điện động cơ. Qua đó đề xuất được
các phương án sửa chữa.
- Trình bày nguyên lí làm việc của hệ thống điện
Bài 12: Phương pháp kiểm tra và sửa động cơ cơ bản, các vấn đề kĩ thuật của hệ thống
chữa hệ thống điện động cơ khởi động, hệ thống cung cấp điện, hệ thống đánh
12.1. Phương pháp kiểm tra các chi tiết lửa khi làm việc từ đó tiến hành chẩn đoán được
trong hệ thống điện động cơ tình trạng cũng như tiến hành khắc phục.
12.2. Phương pháp cân lửa cho động cơ - Phân tích và đánh giá được những hư hỏng cơ
12.3. Phương pháp kiểm tra hệ thống đánh bản khi động cơ vận hành liên quan đến hệ thống
lửa khi động cơ vận hành điện động cơ, đề xuất và thực hiện được phương
pháp khắc phục hư hỏng.
- Trình bày và thực hiện được phương pháp cân
lửa, hiệu chỉnh thời điểm đánh lửa cho động cơ.
Phân tích được, chẩn đoán được các hiện tượng hư
hỏng của động cơ do hệ thống đánh lửa.
- Trình bày được, phân tích được các vấn đề an
toàn, kĩ thuật khi vận hành động cơ. Qua đó quan
Bài 13: Phương pháp chạy thử và cân
sát và lập được quy trình kĩ thuật trước và sau khi
chỉnh động cơ
vận hành của các loại động cơ khác.
13.1. Phương pháp lắp hoàn chỉnh động cơ
- Thực hiện được quy trình vận hành động cơ cơ
13.2. Phương pháp kiểm tra động cơ trước
bản, qua đó quan sát và lập được quy trình kĩ thuật
khi khởi động
vận hành một số động cơ khác.
13.3. Phương pháp khởi động và điều chỉnh
- Trình bày và phân tích được quy trình tìm pan
động cơ
cũng như khắc phục pan cho động cơ khi động cơ
hoạt động.
- Trình bày các vướng mắc, nội dung còn chưa rõ
Ôn tập cuối kỳ và giải đáp thắc mắc
trong quá trình học, qua đó phân tích, thực hiện lại.
I. HỌC LIỆU
Bắt buộc
1. Giáo trình Kết cấu động cơ đốt trong, Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, 2005.
2. Giáo trình Thực hành động cơ đốt trong, Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, 2005.
3. Phiếu Thực hành Động cơ 1, Trường ĐH Công nghiệp TPHCM, 2006
Sách tham khảo
1. Nguyên lí động cơ đốt trong, Nguyễn Tất Tiến, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ hai, 2003.
2. Nguyên lí kết cấu động cơ đốt trong, Võ Văn Nhuận, Nguyễn Văn Trạng, Trường ĐH Sư
phạm Kĩ thuật TPHCM, 2006.
3. Động cơ xăng, Tài liệu đào tạo Toyota New Team giai đoạn 2, tập 1, Toyota Việt Nam.
4. Hệ thống nhiên liệu, Tài liệu đào tạo Toyota New Team giai đoạn 2, tập 2, Toyota Việt
Nam.
5. Hệ thống đánh lửa, Tài liệu đào tạo Toyota New Team giai đoạn 2, tập 3, Toyota Việt
Nam.
6. Động cơ Diesel, Tài liệu đào tạo Toyota New Team giai đoạn 2, tập 6, Toyota Việt Nam
7. Hệ thống phun xăng điện tử, Tài liệu đào tạo Toyota New Team giai đoạn 5, tập 5,
Toyota Việt Nam.
8. Cẩm nang sửa chữa động cơ 7K-E, Công ty Toyota Việt Nam, 08/1999.
9. Cẩm nang sửa chữa động cơ 1NZ-FE, 2NZ-FE, Công ty Toyota Việt Nam, 08/2000
10. Cẩm nang sửa chữa động cơ 1AZ-FE, 2AZ-FE, Công ty Toyota Việt Nam, 08/2001
Ngoài ra, sinh viên cần làm quen với trang web với các thông tin và vấn đề liên
quan đến môn học:
1. www.lib.iuh.edu.vn
2. www.oto-hui.com
3. www.autoshop101.com
4. www.autorepairmanuals.ws
5. www.en.wikipedia.org/wiki/Engine
II. HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
8. Hình thức tổ chức dạy học
8.1. Lịch trình chung
HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC
NỘI TỔNG SỐ
TT Lí Thảo Tự Tư
DUNG TH/TN Nhóm KTĐG (Quy đổi)
thuyết luận học vấn
PHẦN LÍ THUYẾT
1.1
1.2 2 1 2 4 3
1
1.3
2.1
2.2
2 2 1 4 1 KTTK 3
3.1
3.2
3.3
4.1
4.2
4.3
4.4
3 3 3 6 KTGK 3
4.5
5.1
5.2
5.3
5.4
6.1
4 6.2 2 1 1 4 1 3
6.3
7.1
7.2
5 7.3 2 1 1 4 1 KTTK 3
7.4
7.5
3.2
3.3
4.1
8 4.2
15 1 7,5
4.3
4.4
5.1
5.2
6.1
6.2
6.3
15 1 2 KTTK 7,5
6.4
9 7.1
7.2
8.1
8.2
8.3
10 15 1 2 7,5
9.1
9.2
9.3
10.1
10.2
10.3
11 15 1 2 7,5
11.1
11.2
11.3
12.1
12.2
12 15 1 2 KTTK 7,5
12.3
13.1
13.2
13 13.3 15 1 4 7,5
Ôn-thi
Tổng 11 4 15 22 19 75
120
Đánh giá vai trò của người làm - Tên gọi cố vấn học tập hay
công tác cố vấn học tập hiện nay GV chủ nhiệm.
15 phút
2 Xemina (đào tạo theo học chế tín chỉ) với - Năng lực cần có để làm 6
(Tự luận)
GV chủ nhiệm lớp trước đây (đào được công tác cố vấn học
tạo theo niên chế) tập.
Buổi 2 (5 tiết)
Thời Hình Nội dung Giờ tự nghiên cứu Kiểm tra Tổng
thứcdạy
gian đánh giá
học
- Học viên đọc và liệt kê
những nguyên tắc hoạt động
của cố vấn học tập
Nguyên tắc hoạt động của cố vấn
1 Lí thuyết - So sánh, đối chiếu với
học tập
nguyên tắc hoạt động giảng
dạy/quản lí hiện nay của học
viên
-Học viên thống kê danh
sách những công cụ/tài liệu
cần có để phục vụ công tác
Làm việc cố vấn học tập
1 Bộ công cụ của cố vấn học tập
nhóm - Tìm hiểu các nguồn thông
tin chính thức để xây dựng
được bộ công cụ dành cho cố
vấn học tập
2 Lí thuyết Hoạt động tư vấn học tập: - Học viên đọc các quy định 15 phút (TN
- Hướng dẫn sinh viên các quy về đào tạo, quản lí sinh viên
định, quy chế về học chế tín chỉ, - Làm quen với phần mềm
các quy định của Học viện liên đăng ký học
quan đến quyền và nghĩa vụ của - Dự kiến lịch tiếp sinh viên,
sinh viên; thời gian và địa điểm tiếp
- Hướng dẫn sinh viên tìm hiểu sinh viên định kỳ trong 1 học
chương trình đào tạo toàn khoá, kỳ/1 năm học
chương trình đào tạo chuyên
ngành và cách lựa chọn học phần,
tuân thủ các điều kiện tiên quyết
của từng học phần;
- Hướng dẫn quy trình, thủ tục cho
sinh viên đăng ký học phần, hủy
đăng ký học phần, xây dựng kế
hoạch học tập cá nhân cho từng
học kỳ;
- Ký chấp nhận hoặc từ chối vào
Phiếu đăng ký học phần cho sinh
viên;
- Theo dõi và trao đổi với sinh
viên về kết quả học tập và rèn
luyện
- Tư vấn cho sinh viên phương
pháp học đại học, phương pháp tự
học, kĩ năng nghiên cứu khoa học,
kĩ năng thu thập, xử lí thông tin,
tài liệu học tập;
Nôi dung tư vấn học tập: Cố vấn Đưa ra những tình huống
học tập có tư vấn cho SV những sinh viên hỏi vượt quá thẩm
1 Xemina
vấn đề liên quan đến kiến thức quyền trả lời của người cố
môn học không vấn học tập
Buổi 3 (5 tiết)
Thời Hình thức Kiểm tra
Nội dung Giờ tự nghiên cứu Tổng
gian dạy học đánh giá
1 Lí thuyết Hoạt động tư vấn các lĩnh vực - Đọc quy định chức năng,
khác nhiệm vụ của các Ban chức
- Theo dõi đánh giá toàn diện về năng
học tập và rèn luyện của sinh - Lập mẫu sổ theo dõi quản
viên; nhận xét và tham gia cho lí SV theo tuần, tháng, học
điểm rèn luyện theo quy định về kỳ, năm học và cả quá trình
đánh giá, xếp loại sinh viên; học tập, rèn luyện tại Học
- Phối hợp với Ban Công tác viện để làm cơ sở phân loại,
chính trị sinh viên giáo dục phẩm đánh giá SV theo quy định.
chất chính trị, đạo đức, tác phong - Dự kiến các tình huống tư
lối sống sinh viên; vấn đối với sinh viên trong
- Phối hợp và trao đổi thông tin "diện đặc biệt" hoặc "có vấn
với Ban Thanh tra Giáo dục trong đề" mà học viên đang phụ
việc theo dõi, kiểm tra tuân thủ trách
các quy định, quy chế của Học
viện;
- Phối hợp với Trung tâm thông
tin-thư viện, Trung tâm y tế nhằm
đảm bảo điều kiện học tập và
chăm sócsức khoẻ cho sinh viên;
-Tư vấn và định hướng cho sinh
viên trong việc tham gia các hoạt
động đoàn thể, các hoạt động xã
hội, hoạt động ngoại khoá.
- Trả lời câu hỏi:
Những thông tin nào được
Nội dung công tác quản lí sinh để nghị các Ban chức năng
Làm việc viên của cố vấn học tập, Cơ chế cung cấp để phục vụ công
1
nhóm phối hợp với các Bộ phận có liên tác tư vấn học tập
quan - Các vấn đề ngoài thẩm
quyền tư vấn của cố vấn học
tập
Xây dựng kế hoạch hoạt động
- Nội dung các cuộc họp định kỳ:
đầu học kỳ năm 1, các năm tiếp
- Học viên đọc chương V:
theo, các cuộc họp giữa kỳ, cuối
Lập, phê duyệt kế hoạch
kỳ, kết thúc năm học.
hoạt động của cố vấn học
- Kế hoạch làm việc với BCS lớp.
tập
1 Lí thuyết - Kế hoạch tư vấn, trợ giúp sinh
- Nêu 2 trường hợp đặc biệt
viên thường xuyên và bất thường
mà học viên đang phụ trách,
(Có tính đến các trường hợp sinh
dự kiến kế hoạch tư vấn đối
viên thuộc diện “đặc biệt”/“có
với các trường hợp này.
vấn đề”).
- Kế hoạch làm việc với các Ban
chức năng.
Trả lời câu hỏi:
- Sinh viên là người trưởng
thành đã đủ tuổi chịu trách
nhiệm về hành vi của mình.
15 phút
Phối hợp với gia đình sinh viên Có cần thiết phải thông báo
2 Xemina (Bài tập tình
trong công tác cố vấn học tập tình hình học tập/rèn luyện
huống
cho gia đình sinh viên
không ?
- Khi nào cần thông báo?
Nội dung thông báo?
VII. PHƯƠNG PHÁP, PHƯƠNG TIỆN, CÔNG CỤ DẠY HỌC
Phương pháp dạy học:
Phương pháp thuyết trình - minh họa
Làm việc nhóm
Tự nghiên cứu
Phương tiện và công cụ dạy học:
Phiếu học tập
Câu hỏi thảo luận
Các biểu mẫu báo cáo
Máy tính
Máy chiếu/projector
VIII. CÁC HÌNH THỨC KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ