Professional Documents
Culture Documents
BTKinhte Chinhtri
BTKinhte Chinhtri
KHOA/VIỆN: AEP
Đề bài:
Tích lũy tư bản là gì? Vì sao phải tích lũy tư
bản? Hãy tưởng tượng bạn là một nhà tư
bản (một doanh nhân), bạn phải làm gì để
quy mô tư bản của mình ngày càng phát
triển.
2. Nhân tố thứ hai tác động đến quy mô tích lũy tư bản là sử dụng hiệu quả
máy móc
C.Mác gọi việc này là chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Tư
bản sử dụng là giá trị của máy móc, thiết bị và tư liệu sản xuất được sử dụng
trong quá trình tạo ra giá trị thặng dư. Tư bản tiêu dùng là giá trị tiêu hao của
máy móc, thiết bị, sự xuống cấp của chúng sau mỗi quá trình sử dụng. Sự chênh
lệch giữa hai yếu tố này càng lớn sẽ càng làm ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ
đến quy mô tích lũy tư bản.
Theo C.Mác, máy móc được sử dụng toàn bộ tính năng của nó, song giá trị chỉ
được tính dần vào giá trị sản phẩm qua khấu hao. Sau mỗi chu kỳ như thế, máy
móc vẫn hoạt động toàn bộ nhưng giá trị của bản thân nó đã giảm dần do tính
giá khấu hao để chuyển vào giá trị sản phẩm.
Hệ quả là, mặc dù giá trị đã bị khấu hao, song tính năng hay giá trị sử dụng thì
vẫn nguyên như cũ, như lực lượng phục vụ không công trong sản xuất. Sự phục
vụ không công ấy được lao động sống nắm lấy và làm cho chúng hoạt động.
Chúng được tích lũy lại cùng với tăng quy mô tích lũy tư bản. Đồng thời, sự lớn
lên không ngừng của quỹ khấu hao trong khi chưa cần thiết phải đổi mới tư bản
cố định cũng trở thành nguồn tài chính có thể sử dụng cho mở rộng sản xuất.
Như vậy, nhà tư bản thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc, thiết
bị và tư liệu sản xuất được sử dụng trong quá trình sử dụng để tăng quy mô tích
lũy tư bản cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, dựa trên quan điểm của C.Mác, nhà tư bản có thể vận dụng các nhân
tố ảnh hưởng đến năng suất lao động để tăng năng suất lao động.
Trước hết là trình độ khéo léo của người lao động. Đây là nhân tố đầu tiên
C.Mác đề cập trong hệ thống các nhân tố tác động đến năng suất lao động. Theo
C.Mác, người lao động có trình độ thành thạo càng cao, thì năng suất lao động
càng cao. Điều này không chỉ xảy ra đối với những người lao động thủ công, mà
còn xảy ra đối với những người lao động bằng máy móc. Bởi vì, tốc độ làm việc
của máy móc rất cao, đòi hỏi người lao động phải có trình độ thành thạo tương
ứng, thì mới theo kịp được tốc độ làm việc của máy móc.
Đồng thời, mức độ thành thạo của người lao động sẽ được nâng lên khi người
lao động được đào tạo hoặc được làm một công việc nào đó thường xuyên. Bởi
vì, khi thường xuyên làm một việc sẽ giúp người lao động làm việc trơn tru, liền
mạch và tiêu tốn ít thời gian hơn. Do đó, với độ dài ngày lao động như nhau,
trình độ thành thạo của người lao động càng cao, thì năng suất lao động càng
tăng.
Như vậy, một nhà tư bản cần có những giải pháp nâng cao chất lượng của người
lao động như: chú trọng công tác tuyển dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho người
lao động học tập, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: thúc đẩy việc nhân viên
tự tìm tòi, học hỏi và tự nâng cao trình độ bản thân thông qua các khóa đào tạo
trực tuyến, internet và tạo môi trường học tập ngay tại doanh nghiệp. Điển hình
như việc sắp xếp nhân viên mới cùng bộ phận với những nhân viên kỳ cựu để
họ có thể học việc nhanh nhất,…
Tiếp theo là khả năng áp dụng khoa học vào quá trình sản xuất. Khi nghiên cứu
nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác thấy rằng, khoa học tách ra khỏi lao động
trở thành “tiềm lực sản xuất độc lập”. Tuy nhiên, để thực sự trở thành động lực
thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển, thì những thành tựu khoa học
đó phải được đem vào ứng dụng trong quá trình sản xuất.
Theo C.Mác, biểu hiện rõ nét của việc ứng dụng khoa học vào quá trình sản
xuất đó là việc đổi mới quy trình sản xuất và đưa ngày càng nhiều máy móc vào
các quá trình sản xuất. Trong hệ thống các nhân tố tác động đến năng suất lao
động, C.Mác thấy rằng, “máy móc là phương tiện mạnh nhất để tăng năng suất
lao động”.
Theo C.Mác, “máy móc chứa đựng lao động ít bao nhiêu, thì giá trị mà chúng
chuyển vào sản phẩm lại càng ít bấy nhiêu”. Vì vậy, nếu sử dụng ngày càng
nhiều máy móc với quy mô ngày càng lớn kết quả là “… chẳng những sản xuất
ra đủ bảo đảm sự tiêu dùng dồi dào cho tất cả mọi người trong xã hội và gây
một quỹ dự trữ quan trọng...”.
Như vậy, một nhà tư bản cần đổi mới quy trình sản xuất, ứng dụng khoa học
công nghệ và thiết bị máy móc vào quá trình sản xuất để tăng năng suất lao
động, dẫn đến tăng quy mô tích lũy tư bản.
Ngoài ra, phải kể đến sự phân công lao động và sự kết hợp xã hội của quá trình
sản xuất. Trước khi xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, các hoạt động
sản xuất là độc lập, mỗi người phụ trách các công đoạn của quá trình sản xuất.
Nhưng khi phương thức tư bản chủ nghĩa xuất hiện, quá trình sản xuất được tổ
chức thành nhiều công đoạn, người lao động chỉ hoạt động ở một công đoạn của
quá trình sản xuất này và chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm.
Nhờ chỉ chuyên môn làm một công việc, mà mỗi người công nhân bộ phận
dùng ít thời gian hơn người thợ thủ công lần lượt làm cả một chuỗi công việc.
Vì rút ngắn được thời gian sản xuất của từng công đoạn, nên thời gian sản xuất
một sản phẩm hoàn chỉnh cũng được rút ngắn.
Chính vì vậy, C. Mác coi phân công lao động chính là “phương tiện để sản xuất
ra được nhiều hàng hóa hơn với một số lượng lao động như cũ”, hay phân công
lao động chính là một nhân tố quan trọng nâng cao năng suất lao động.
Tuy nhiên, để nâng cao năng suất lao động, theo C.Mác, không chỉ có phân
công lao động, mà còn phải gắn phân công lao động với kết hợp xã hội trong
quá trình sản xuất. Theo đó, phải đưa người lao động đơn lẻ, làm việc trong
những khâu, những bước khác nhau vào một không gian chung, có sự liên kết
với nhau trong quá trình sản xuất.
Theo C.Mác, thì sự kết hợp không chỉ xảy ra ở các công trường thủ công, mà
ngay cả khi bước vào giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, khi mà sản xuất bằng
máy móc ngày càng nhiều hơn, thì càng cần đến sự kết hợp xã hội ấy. “Vì bản
thân tổng thể máy móc là một hệ thống gồm nhiều chiếc máy khác nhau, hoạt
động cùng một lúc và kết hợp với nhau, cho nên sự hiệp tác dựa trên hệ thống
máy móc đó cũng đòi hỏi phải phân chia những nhóm công nhân khác loại cho
những máy móc khác loại”.
Như vậy, nhà tư bản cần phân công công việc phù hợp cho người lao động, phải
đưa người lao động riêng lẻ, làm việc ở những công đoạn khác nhau vào một
không gian chung, có sự liên kết với nhau trong quá trình sản xuất.
PHẦN KẾT
Trên đây là toàn bộ phần trình bày của em về vấn đề tích lũy tư bản. Do trình độ
nhận thức của em về vấn đề này còn giới hạn, cho nên bài tập của em chắc chắn
còn nhiều sai sót. Em sẽ làm tốt hơn nếu như sau này em còn quay lại nghiên
cứu vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn cô!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ngô, T.N và nnk. (2019). Giáo trình Kinh tế Chính trị Mác – Lênin
Bùi, Đ.H & Trịnh, X.V. (2021). Một số giải pháp tăng năng suất lao động ở
Việt Nam trên cơ sở vận dụng lý luận của C.Mác. Tạp chí Kinh tế và Dự báo
Đinh, T.T.H. (2021). Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ
http://truongchinhtrithaibinh.edu.vn/Tin-Tuc/baiviet-chuyende/991_Van-dung-
hoc-thuyet-gia-tri-thang-du-cua-CMac-trong-phat-trien-nen-kinh-te-thi-truong-
dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-Viet-Nam