Bài tập lớn HLU - Thư tư vấn cho doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến một số vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến giải quyết tranh chấp có thể phát sinh trong hợp đồng mua bán ô tô với doanh nghiệp Nhật Bản
Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên để giải quyết tranh chấp có thể đã hoặc đã xảy ra thông qua trọng tài. Do đó, khi các bên giao kết hợp đồng (và chưa có vấn đề gì phát sinh), họ có thể quy định phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại trong hợp đồng hoặc trong một văn bản riêng. Khi phát sinh tranh chấp, các bên vẫn có thể thoả thuận lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp ngay cả khi hợp đồng không quy định phương thức giải quyết tại thời điểm ký kết hoặc đã quy định phương thức khác. Trọng tài thương mại được sử dụng để giải quyết tranh chấp. Thoả thuận Trọng tài này phải được lập thành một văn bản riêng tại thời điểm đó. Thông thường, các trung tâm trọng tài thương mại đã tạo ra một mẫu điều khoản trọng tài (có sẵn trên trang web) để các bên thông qua và đưa vào hợp đồng của mình nhằm duy trì tính thống nhất và tránh mọi bất đồng. Thỏa thuận Trọng tài có thể bị tuyên bố là vô hiệu. “Theo Điều 18 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài vô hiệu trong các trường hợp sau: a) Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật này. b) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. c) Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự. d) Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16 của Luật này. e) Một trong các bên bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu. f) Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.” “Theo Khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại, tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Như vậy, điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là phải có thỏa thuận trọng tài. Thóa thuận trọng tài được thể hiện theo Khoản 2 Điều 16 Luật Trọng tài thương mại, thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.” “Theo Điều 4 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP, thoả thuận trọng tài bị coi là không thể thực hiện được là các trường hợp: a) Trung tâm trọng tài nơi các bên đã có thoả thuận giải quyết tranh chấp đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức kế thừa và các bên không có thoả thuận thay thế; b) Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên đã có thoả thuận lựa chọn không thể tham gia giải quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; hoặc Toà án không thể tìm được Trọng tài viên như các bên yêu cầu và các bên không có thoả thuận thay thế; c) Trọng tài viên trọng tài vụ việc mà các bên đã có thoả thuận lựa chọn từ chối hoặc Trung tâm trọng tài từ chối việc chỉ định Trọng tài viên và các bên không có thoả thuận thay thế; d) Các bên có thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài nhưng lại thỏa thuận áp dụng Quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài khác mà điều lệ của Trung tâm trọng tài các bên chọn không cho phép và các bên không thỏa thuận được về việc lựa chọn Quy tắc tố tụng trọng tài thay thế. e) Nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ và người tiêu dùng có điều khoản về thỏa thuận trọng tài được ghi nhận trong các điều kiện chung về cung cấp hàng hóa, dịch vụ do nhà cung cấp soạn sẵn nhưng khi phát sinh tranh chấp, người tiêu dùng không đồng ý lựa chọn Trọng tài giải quyết tranh chấp.” 2. Quy định về thỏa thuận trọng tài trong ICC Theo điều 6 của ICC về hiệu lực của thỏa thuận trọng tài: “1. Khi các bên thoả thuận đưa tranh chấp ra trọng tài giải quyết theo Qui tắc này thì ngày bắt đầu tố tụng trọng tài được coi là có hiệu lực từ ngày mà các bên đưa tranh chấp ra giải quyết theo Qui tắc này, trừ khi các bên đã thoả thuận chọn Qui tắc có hiệu lực vào ngày các bên ký thoả thuận trọng tài. 2. Nếu Bị đơn không nộp văn thư trả lời như qui định tại Ðiều 5, hoặc nếu bất kỳ bên nào đưa ra một hoặc nhiều nguyên cớ liên quan đến sự tồn tại, giá trị pháp lý hoặc phạm vi của thoả thuận trọng tài, thì Tòa án có thể quyết định, không ảnh hưởng đến việc có chấp nhận hay không hoặc nội dung nguyên do hoặc các nguyên do, rằng trọng tài sẽ được tiếp tục tiến hành nếu xét theo những tài liệu hiện có thấy rằng một thoả thuận trọng tài theo Qui tắc này là có thể tồn tại. Trong trường hợp đó, bất cứ quyết định nào về thẩm quyền giải quyết của uỷ ban Trọng tài sẽ do chính uỷ ban Trọng tài quyết định. Nếu Tòa án không thoả đáng với quyết định của Uỷ ban Trọng tài thì sẽ thông báo cho các bên rằng quá trình trọng tài không thể tiếp tục được. Trong trường hợp đó thì bất kỳ bên nào vẫn có quyền yêu cầu bất kỳ tòa án có thẩm quyền nào giải quyết cho dù có hay không thoả thuận trọng tài ràng buộc. 3. Nếu bất kỳ bên nào trong các bên từ chối hoặc không tham gia trọng tài hoặc trong bất kỳ giai đoạn nào của trọng tài thì tố tụng trọng tài vẫn được tiến hành bất kể sự không tham gia hoặc từ chối tham gia của các bên. 4. Trừ khi có thoả thuận khác, thẩm quyền giải quyết của Uỷ ban Trọng tài sẽ không mất đi vì bất kỳ khiếu nại nào cho rằng hợp đồng bị vô hiệu và không có giá trị pháp lý hoặc cho rằng hợp đồng không tồn tại, với điều kiện là Uỷ ban Trọng tài xác nhận giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Ủy ban Trọng tài sẽ tiếp tục có thẩm quyền giải quyết để xác định các quyền tương ứng của các bên và xét xử các khiếu kiện và biện hộ cho dù bản thân hợp đồng có thể không tồn tại hoặc vô hiệu.” “Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bàng trọng tài gồm có: Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Phán quyết trọng tài là chung thẩm.” Thỏa thuận trọng tài có thể được viết dưới dạng điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới dạng văn bản riêng biệt. Một thỏa thuận trọng tài bằng văn bản là bắt buộc. “Các hình thức thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản: a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax, telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật; b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên; d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự khác; đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.”
Bài tập lớn HLU - Thư tư vấn cho doanh nghiệp Việt Nam liên quan đến một số vấn đề pháp lý cơ bản liên quan đến giải quyết tranh chấp có thể phát sinh trong hợp đồng mua bán ô tô với doanh nghiệp Nhật Bản