Tình hình tội phạm về môi trường và một số dự báo về xu hướng vận động

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 1

Trang chủ » Hình sự » Tình hình tội phạm về môi


trường và một số dự báo về xu hướng vận động

Tình hình tội phạm về môi trường


và một số dự báo về xu hướng vận
động

Thực tế cho thấy, tình hình tội phạm về môi


trường (TPMT) sẽ ngày càng diễn biến phức
tạp, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh truyền
nhiễm, biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh
học, suy thoái đất, tài nguyên nước, môi
trường biển… tiếp tục là vấn đề mang tính
toàn cầu, làm thay đổi hệ sinh thái tự nhiên,
đời sống kinh tế – xã hội trên toàn thế giới, trở
thành một trong những thách thức lớn nhất đối
với an ninh phi truyền thống. Xu hướng toàn
cầu hóa, tội phạm môi trường có yếu tố nước
ngoài gia tăng, diễn biến phức tạp, tinh vi khó
phát hiện… sẽ hình thành những vi phạm pháp
luật mới, thậm chí những vi phạm có tính chất
nguy hiểm biến đổi thành tội phạm về môi
trường, mang tính quốc tế cần phải phòng
ngừa.

Thực trạng tội phạm về môi trường và


thực tiễn xử lý
Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế những năm qua
cho thấy, Việt Nam đã mở ra một giai đoạn mới trong
quá trình phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh hiệu
quả về phát triển kinh tế – xã hội, Việt Nam cũng đối
diện với vấn đề môi trường bị ô nhiễm. Các khu công
nghiệp, làng nghề, khu đô thị được hình thành nhanh
chóng làm cho nguồn rác thải công nghiệp cũng như
rác thải sinh hoạt đưa vào môi trường ngày càng
nhiều, gây ô nhiễm không khí, đất, nước.

Hầu hết các khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý


môi trường tập trung hoặc có nhưng hoạt động chỉ
mang tính chất đối phó; việc các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất xả nước thải trực tiếp ra sông, biển là khá
phổ biến. Tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải
vào nước ta dưới hình thức phế liệu làm nguyên liệu
sản xuất trong nước, kể cả thiết bị công nghệ lạc hậu
dẫn đến nguy cơ biến nước ta thành bãi thải công
nghiệp. Tình trạng săn bắt, buôn bán động vật
hoang dã, quý hiếm xảy ra hết sức nghiêm trọng, làm
giảm tính đa dạng sinh học; số vụ ngộ độc thực
phẩm, ngộ độc hóa chất bảo vệ thực vật tăng nhanh
làm cho tình hình tội phạm về môi trường và vi phạm
pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam ngày
càng gia tăng, không những ảnh hưởng tới tính
mạng, sức khỏe và tài sản của cá nhân, tổ chức mà
còn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với môi trường nói
chung.

Theo số liệu thống kê của Cục Cảnh sát phòng chống


tội phạm về môi trường (C05) Bộ Công an, trong 11
năm qua (từ năm 2010 đến năm 2020), toàn lực
lượng đã phát hiện 170.875 vụ vi phạm pháp luật về
môi trường; xử lý hành chính 141.000 vụ, khởi tố 2.624
vụ với 4.357 bị can; xử phạt vi phạm hành chính
97.000 vụ với số tiền 1.166 tỉ đồng(1). Đặc biệt, đã điều
tra, xử lý nhiều vụ phạm tội về môi trường, tập trung
vào lĩnh vực tài nguyên khoáng sản, an toàn thực
phẩm. Số liệu của Tòa án nhân dân tối cao cho thấy,
trong 11 năm từ năm 2010 đến năm 2020, hệ thống
tòa án nhân dân đã thụ lý 2.842 vụ án về môi trường
với 4.445 bị cáo. Trong đó xét xử 2.237 vụ với 4.145 bị
cáo phạm tội về môi trường, chiếm 0,37% tổng số vụ
án hình sự đã xét xử(2).

Số liệu thống kê trên cho thấy tình hình tội phạm về


môi trường diễn ra có xu hướng ngày càng tăng,
nhưng chủ yếu mới chỉ điều tra, khởi tố và đưa ra xét
xử đối với các hành vi vi phạm thuộc các tội danh:
“Gây ô nhiễm môi trường” (Điều 235 Bộ luật Hình sự,
chỉ khởi tố được cá nhân phạm tội), “Hủy hoại rừng”
(Điều 243 Bộ luật Hình sự) và tội “Vi phạm quy định
về bảo vệ động vật hoang dã, quý hiếm” (Điều 244)
và gần đây nhất tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn
biến phức tạp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
đối với nhân loại, chúng ta đã khởi tố, truy tố, xét xử
hành vi “Làm lây lan dịch bệnh” (Điều 240). Trong khi
đó, các tội danh khác, mặc dù gây hậu quả rất
nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người dân và
môi trường xung quanh nhưng không thể truy cứu
trách nhiệm hình sự được. Điển hình như vụ Vedan,
Nicotex Thanh Thái, Hào Dương, Formosa Hà Tĩnh và
gần đây nhất là vụ gây ô nhiễm nước sạch sông Đà
chỉ xử lý được cá nhân, trong khi pháp nhân thương
mại (chủ quản lý nguồn chất thải nguy hại) thì không
xử lý được…

Nguyên nhân, điều kiện, phương thức,


thủ đoạn của tội phạm về môi trường
Nguyên nhân và điều kiện

Đất nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế, nhiều


chính sách ưu đãi nhằm thu hút vốn đầu tư trên các
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; nhập khẩu máy móc,
phương tiện, thiết bị… phục vụ công nghiệp hóa hiện
đại hóa. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước trong
các lĩnh vực này chưa chặt chẽ, cơ chế không rõ
ràng là điều kiện phát sinh vi phạm.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu,


chưa đồng bộ, chế tài chưa đủ mạnh để răn đe; cơ sở
pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các lực lượng
chuyên trách, trong đó có lực lượng Cảnh sát môi
trường chưa hoàn chỉnh nên công tác phát hiện, điều
tra, xử lý của các lực lượng này chưa mạnh mẽ, chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.

Do áp lực tăng trưởng kinh tế địa phương, nhận thức


chưa đầy đủ về hậu quả của tội phạm môi trường
nên chính quyền một số địa phương, ban ngành kêu
gọi đầu tư dàn trải, cấp phép kinh doanh ồ ạt, không
quan tâm đến việc thẩm định ảnh hưởng của các dự
án đối với môi trường; chỉ quan tâm đến lợi ích kinh tế
trước mắt, chưa chú trọng đúng mức đến công tác
bảo vệ môi trường.

Vụ án về môi trường thường liên quan đến nhiều tội


danh khác nhau như tội danh về buôn lậu, buôn bán
hàng cấm, hối lộ, tham nhũng(3)… nên phần tội danh
về môi trường thường bị xem nhẹ, chưa kiên quyết
tập trung điều tra, xử lý. Hậu quả của tội phạm và
các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường phần
lớn không xảy ra ngay mà tích lũy theo thời gian, do
vậy trong hoạt động điều tra không xác định rõ tính
chất, mức độ nguy hiểm, không đánh giá đầy đủ
thiệt hại gây ra nên thường chỉ xử lý bằng các biện
pháp nhẹ (xử lý hành chính, cảnh cáo, nhắc nhở)
không đủ mức độ răn đe và phòng ngừa tái phạm.

Phương thức và thủ đoạn

Hoạt động của tội phạm môi trường thường diễn ra


khá phức tạp và hành vi phạm tội thường có sự
chuẩn bị trước; người phạm tội có kiến thức, trình độ
chuyên môn kỹ thuật cao; tội phạm thường câu kết
với một số cán bộ thoái hóa trong cơ quan chức năng
và chính quyền địa phương để được che chở, lách
luật hoặc tìm cách cản trở hoạt động của lực lượng
Cảnh sát môi trường và cơ quan chức năng. Nghiêm
trọng hơn là sự câu kết giữa tội phạm môi trường
trong nước với cá nhân, tổ chức ở nước ngoài tìm mọi
kẽ hở của pháp luật và sơ hở trong công tác quản lý
để nhập khẩu vào nước ta công nghệ, thiết bị lạc
hậu; phế liệu có lẫn chất thải độc hại, dần biến nước
ta thành bãi rác thải công nghiệp của các nước phát
triển (trong lĩnh vực xuất nhập khẩu)(4).

Hậu quả do tội phạm và vi phạm pháp luật về môi


trường gây ra không xác định mức độ được ngay mà
có tính tích lũy theo thời gian. Do đó các cơ quan
thực thi pháp luật thường có tâm lý chủ quan, xem
nhẹ, thiếu quyết liệt trong đấu tranh, xử lý. Quá trình
điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về môi trường, các
cơ quan chức năng thường bị nhiều yếu tố tác động,
thậm chí bị đối tượng vi phạm cản trở bằng thủ đoạn
như thông qua các hội nghề nghiệp, phương tiện
thông tin đại chúng và các cơ quan chức năng để
bao biện, do đó rất khó khăn cho công tác xử lý.

Trong một số lĩnh vực như xuất nhập khẩu, các đối
tượng lợi dụng chính sách “tạm nhập, tái xuất” và sơ
hở trong công tác kiểm tra, giám sát, làm giả giấy tờ
các cơ quan chức năng trong và ngoài nước, sử dụng
“thủ đoạn trá hình” như kê khai hải quan gian dối
hoặc kê khai hàng miễn kiểm, nguyên liệu sản xuất,
thiết bị chuyển giao công nghệ, dự án phát triển kinh
tế…, câu kết với các tổ chức nước ngoài để đối phó
với cơ quan chức năng Việt Nam, khi bị phát hiện thì
khai là “gửi nhầm hàng” và xin được chuyển trả…

Trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên, bảo vệ rừng, lợi


dụng việc giải phóng mặt bằng, các dự án tái định
cư, phát quang biên giới, chuyển đổi “rừng nghèo”
trồng cao su… trong điều kiện địa bàn rộng, hiểm trở,
lực lượng quản lý lỏng lẻo để hoạt động khai thác
vận chuyển lâm sản, săn bắt động vật rừng, khai
thác khoáng sản trái phép… Đối với lĩnh vực sản xuất
công nghiệp, khi lập dự án, doanh nghiệp không có
báo cáo đánh giá tác động môi trường, không đăng
ký sổ chủ nguồn thải chất thải nguy hại để tránh bị
giám sát, kiểm tra và quan trắc môi trường định kỳ;
không đầu tư vốn để xây dựng, vận hành hệ thống xử
lý chất thải; có hệ thống xử lý chất thải nhưng không
vận hành hoặc chỉ vận hành đối phó khi có thanh tra,
kiểm tra.

Trong lĩnh vực y tế, lợi dụng những kẽ hở trong các


văn bản quy định về công tác quản lý chất thải y tế,
sự lỏng lẻo trong quản lý của các cơ quan chức
năng, một số bệnh viện hoặc cán bộ, nhân viên bệnh
viện thu gom chất thải để bán cho tư thương nhằm
thu lợi nhuận. Trong hoạt động dịch vụ xử lý chất
thải, các tổ chức, cá nhân ký hợp đồng với các đối
tượng không có chức năng thu gom, vận chuyển, xử
lý chất thải, hoặc có chức năng nhưng do không
kiểm tra giám sát nên đã sử dụng phương tiện vận
chuyển không chuyên dụng, không xử lý, phân loại
chất thải sau khi thu gom, chôn lấp xuống đất không
đúng quy trình, chôn lẫn rác thải nguy hại với rác
thải thông thường…

Dự báo xu hướng vận động của tội


phạm về môi trường
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm và vi
phạm pháp luật về môi trường diễn biến rất phức
tạp, phổ biến trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Tội phạm môi trường đã làm cạn kiệt nguồn tài
nguyên thiên nhiên, biến đổi khí hậu, chất lượng môi
trường suy giảm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe cộng đồng và sự phát triển bền vững của
đất nước. Trên một số địa bàn, lĩnh vực, hoạt động tội
phạm và vi phạm pháp luật về môi trường gây phức
tạp tình hình an ninh trật tự, có thể dự báo được xu
hướng vận động của tội phạm về môi trường được
thể hiện ở một số khía cạnh như sau:

Thứ nhất, TPMT trong thời gian tới sẽ diễn biến


phức tạp, gia tăng, ảnh hưởng tới hầu hết các
lĩnh vực môi trường

TPMT được EIA đánh giá là một trong những hình


thức tội phạm thu lợi nhuận lớn nhất, lên tới hàng
chục tỉ đô la mỗi năm. Sự gia tăng đột biến của TPMT
cũng do đặc thù của loại tội phạm này không giống
như những tội phạm bạo lực khác, các giao dịch
cũng như hành vi nguy hiểm cho xã hội thường bị
nhầm tưởng và đánh giá thấp hậu quả ảnh hưởng tới
xã hội của nó(5).

Các lĩnh vực mà các TPMT đã và đang tác động đến


đó là: lĩnh vực công nghiệp, xây dựng cơ bản, môi
trường đô thị; lĩnh vực tài nguyên khoáng sản; lĩnh
vực bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn, làng nghề; lĩnh vực thương
mại, xuất nhập khẩu và quản lý chất thải nguy hại;
lĩnh vực môi trường y tế và an toàn vệ sinh thực
phẩm… Qua thực tiễn cho thấy, các loại tội phạm
này diễn ra ngày càng có tính phổ biến, khó nhận
biết và kiểm soát nhưng hậu quả lại tác động xấu rất
lớn đến môi trường.

Trong những năm tới, tình trạng ô nhiễm môi trường,


biến đổi khí hậu, suy giảm đa dạng sinh học, suy
thoái đất, tài nguyên nước, môi trường biển… tiếp
tục là vấn đề mang tính toàn cầu, làm thay đổi hệ
sinh thái tự nhiên, đời sống kinh tế – xã hội trên toàn
thế giới, trở thành một trong những thác thức lớn
nhất. Các TPMT ngày càng đa dạng, nhất là trong
các lĩnh vực ô nhiễm hóa chất và kim loại nặng, ô
nhiễm chất thải điện tử, ô nhiễm không khí do biến
đổi khí hậu… sẽ hình thành những TPMT mới, mang !
tính quốc tế cần phải phòng ngừa.

Thứ hai, các tội phạm về môi trường tại Việt


Nam có tính chất ngày càng tinh vi, khó phát
hiện

Tính ẩn của TPMT khiến nó dường như khó phát hiện


hơn các loại tội phạm khác, vì về bản chất, tội phạm
có xu hướng chung là che giấu hành vi vi phạm pháp
luật của mình(6).

Tính chất tinh vi, khó phát hiện của TPMT tại Việt Nam
còn thể hiện ở chỗ, nó có thể bị che giấu thông qua
các hình thức hợp pháp, ví dụ giấy phép khai thác
khoáng sản, giấy phép nhập khẩu hàng hóa, hồ sơ
hải quan giả mạo cũng như việc cấu kết giữa người
phạm tội với người có thẩm quyền trong cơ quan nhà
nước thông qua các hành vi tham nhũng. Yếu tố
tham nhũng có thể coi là một trong những nguyên
nhân khiến TPMT phát triển tinh vi và khó phát hiện.
Bởi người có thẩm quyền có thể ngăn chặn thông tin,
sự thật và che giấu mức độ phạm tội của TPMT trong
khi nếu đánh giá đúng, có thể giải quyết hiệu quả
hoặc ngăn chặn tội phạm hình thành. Không xử lý
được TPMT, các đối tượng phạm tội càng thu được lợi
nhuận lớn, càng gia tăng sự giàu có và tiếp tục sử
dụng tiền phi pháp để mua chuộc, gây khó khăn cho
các cơ quan thực thi pháp luật môi trường.

Báo cáo của Interpol và Liên hợp quốc tại 70 quốc


gia trên thế giới đã tập trung vào liên kết TPMT toàn
cầu có trị giá lên tới 258 tỉ đô la hàng năm với các
loại tội phạm khác đã chỉ ra rằng: 60% quốc gia cho
thấy TPMT mới phát sinh và ngày càng tinh vi với
những phương thức hiện đại, có sự liên kết xuyên
quốc gia; 84% các quốc gia được khảo sát trong báo
cáo cho thấy TPMT có mối quan hệ với tội phạm
nghiêm trọng khác như tham nhũng, giả mạo, ma
túy, tội phạm mạng và tội phạm tài chính(7). Tại nhiều
quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á, do
nhu cầu kinh tế, nhiều người dân đã tham gia vào
đường dây TPMT để khai thác tài nguyên một cách
trái phép(8). Những điển hình mà báo cáo này nêu ra
cũng là những vấn đề mà Việt Nam sẽ phải đối mặt.
Với tình hình TPMT có liên kết với những tội phạm
nghiêm trọng khác, nhất là tham nhũng, cho thấy
tình hình TPMT ngày càng phức tạp và tinh vi, với
những thủ đoạn và sự lôi kéo thông qua các nguồn
lợi bất chính khổng lồ. Điều này cảnh báo, nếu không
có những phương thức đa ngành và kiên quyết, thì sẽ
khó có thể đấu tranh phòng, chống TPMT hiệu quả.

Trong thời gian tới, dự báo tình hình TPMT tiếp tục
diễn biến phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về
số lượng, quy mô và phương thức, thủ đoạn phạm
tội. Tình trạng trên đây sẽ là những thách thức lớn
đối với công tác bảo vệ môi trường ở nước ta, đòi hỏi
các cơ quan chức năng phải có những biện pháp
ngăn chặn, xử lý kịp thời. Trong điều kiện hệ thống
pháp luật vẫn đang được sửa đổi, bổ sung sẽ có
những sơ hở hoặc khoảng trống pháp lý mà các đối
tượng lợi dụng thực hiện, che giấu các hành vi vi
phạm.

Thứ ba, các tội phạm về môi trường có yếu tố


nước ngoài có xu hướng gia tăng và Việt Nam
trở thành nước trung chuyển của một số loại
TPMT xuyên quốc gia

Trong những năm gần đây, chính sách hội nhập kinh
tế quốc tế của Nhà nước ta đã cởi mở và tạo điều
kiện hơn cho người nước ngoài nhập cảnh vào Việt
Nam đề đầu tư, du lịch, kinh doanh… Bên cạnh yếu
tố tích cực như thúc đẩy các nguồn lực kinh tế để xây
dựng và phát triển đất nước, tình hình tội phạm có
yếu tố nước ngoài gia tăng với tính chất nghiêm
trọng và phức tạp, trong đó có TPMT(9). Ngoài ra,
theo đánh giá của EIA, TPMT có bản chất là xuyên
biên giới và trở thành các tập toàn tội phạm quốc tế.
Trong thời đại tự do thương mại toàn cầu, giao tiếp
có nhiều phương thức dễ dàng và dễ dàng vận
chuyển hàng hóa, tiền bạc, càng tạo điều kiện cho
các nhóm TPMT hoạt động(10). Là một quốc gia đang
phát triển, Việt Nam cũng không tránh khỏi những sự
tác động này khiến tình hình TPMT mang tính quốc tế
tăng lên. TPMT có yếu tố nước ngoài thể hiện ở một
số lĩnh vực sau: xử lý chất thải công nghiệp; nhập
khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, phế liệu; buôn bán
động vật hoang dã, quý hiếm; khai thác khoáng sản.

Thứ tư, xu hướng toàn cầu hóa tác động đến


lĩnh vực bảo vệ môi trường và tình hình TPMT

Không phải bây giờ các nhà nghiên cứu mới cảnh
báo về mặt trái của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa là xu
hướng tất yếu trong thế giới hiện đại mà không quốc
gia nào có thể nằm ngoài sự vận động đó. Toàn cầu
hóa kéo theo một chuỗi phản ứng tiêu cực, đó là sự di
tản của các công ty đa quốc gia nơi nền kinh tế phát
triển, quy định về môi trường ngặt nghèo tới các
quốc gia đang phát triển với nhân công rẻ, pháp luật
bảo vệ môi trường còn lỏng lẻo. Đó là hệ quả của
toàn cầu hóa, cái giá phải trả cho những quốc gia
đánh đổi để phát triển kinh tế trước mắt là môi
trường bị hủy hoại. Toàn cầu hóa là một xu thế tất
yếu, song mang lại cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
Thế giới ngày càng có tính liên kết, liên tác động bởi
các bệnh dịch, thương mại, chủ nghĩa khủng bố, du
lịch, di cư, truyền thông, internet, và cả nạn ô nhiễm
– trong đó có vấn đề khí nhà kính và sự biến đổi môi
trường toàn cầu, kết quả là sự liên kết về các vấn đề
sức khỏe, sự sống và rủi ro môi trường cần được
chung tay dự báo và khắc phục.

Từ những phân tích trên đây, có thể thấy được xu


hướng vận động của TPMT trong thời gian tới tập
trung vào các vấn đề sau: i) TPMT sẽ tăng cao, nhiều
hành vi xâm phạm môi trường mới xuất hiện với sự
tinh vi, khó đánh giá hành vi nguy hiểm cho xã hội,
cho môi trường cũng như hậu quả nguy hiểm của nó;
ii) tội phạm môi về trường quốc tế (hay TPMT xuyên
quốc gia) sẽ hình thành các đường dây chuyên
nghiệp và rõ nét hơn, với sự tham gia của nhiều cá
nhân, tổ chức trong nước cũng như nước ngoài; iii)
TPMT trong nước sẽ phức tạp hơn, nhất là với các
pháp nhân thương mại, tổ chức khác liên quan đến
thể chế chính sách của Nhà nước.

Có thể thấy, TPMT được nhìn nhận trên phương diện


là tội phạm phi truyền thống, loại tội phạm mới khó
nhận diện, khó kiểm soát vì tính chất, diễn biến phức
tạp, kéo dài có tính liên vùng, liên lãnh thổ. Chính vì
vậy, dự báo được tình hình về TPMT và xu hướng vận
động của TPMT đã phần nào kiểm soát được sự gia
tăng của loại tội phạm mới – phi truyền thống nhưng
đặt ra những thách thức lớn trong thời gian tới trong
công tác phòng ngừa và xử lý.

Ghi chú
(1) Cục Cảnh sát phòng chống TPMT, Báo cáo tổng kết công
tác, phòng chống TPMT năm 2015 đến năm 2020.
(2) Tòa án nhân dân tối cao, Vụ Thống kê (2019), Thống kê xét
xử các vụ án về môi trường từ năm 2009 đến năm 2020.
(3) Cục Cảnh sát phòng chống TPMT, Báo cáo tổng kết công
tác, phòng chống TPMT từ năm 2015 đến năm 2020.
(4) Ngô Ngọc Diễm & Trần Thị Hoài Anh (2016), “Bàn về tội vi
phạm quy định về quản lý chất thải nguy hại trong Bộ luật
Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân dân, tr 1-5.
(5) Stettan Barrett (2017), “Disrupting environmental crime at
the local level: an operational perspective”, Human Social
Sciences, Vol3, (2), pp.7-10.
(6) Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình tội phạm học, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội, tr 45.
(7) EPA, USEPA, Environmental protection and environmental
crimes, America
(8) Cong Ma (2014), Problems of Chinese Environmental
Criminal Law and Its Developing Trend, International
Conference on Global Economy, Commerce and Service
Science (GECSS 2014), p. 182-187.
(9) Ngô Ngọc Diễm (2019), “Tội phạm môi trường có yếu tố
nước ngoài – Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
phòng ngừa và biện pháp xử lý”, Tạp chí Công thương, tr. 27-
31.
(10) Stettan Barrett (2017), “Disrupting environmental crime
at the local level: an operational perspective”, Human Social
Sciences, Vol3, (2), p.7-10.

Rate this post

     

This entry was posted in Hình sự, Tạp chí Luật sư Việt Nam.
Bookmark the permalink.

Tin cùng chuyên mục:

Bảo vệ quyền trẻ em bằng pháp luật trước những tác


phẩm âm nhạc mang tính dẫn dắt, kích động, tình dục
và bạo lực
Tháng Năm 9, 2022

BÀN VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI TRONG TỐ TỤNG


HÌNH SỰ VIỆT NAM
Tháng Tư 25, 2022

Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy


định tại Điều 599 Bộ luật Dân sự
Tháng Tư 15, 2022

Một số vấn đề về quyền thu thập chứng cứ của người


bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Tháng Tư 14, 2022

Một số vấn đề về chủ thể của tội phạm tình dục trong
pháp luật hình sự hiện nay
Tháng Tư 12, 2022

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ THỦ TỤC TRUY CỨU TRÁCH


NHIỆM HÌNH SỰ ĐỐI VỚI PHÁP NHÂN THƯƠNG MẠI PHẠM
TỘI VỀ MÔI TRƯỜNG
Tháng Ba 28, 2022

Quyền con người về môi trường và việc bảo đảm thực thi
Tháng Ba 14, 2022

Chúc mừng Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/02


Tháng Hai 27, 2022


Trả lời

You might also like