Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

TÍNH CHẤT, PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH, KỸ THUẬT PHÁP

LÝ, SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ HOÀNG


VIỆT LUẬT LỆ
SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT TRUNG HOA VÀ THỜI LÊ
THÁNH TÔNG

- TÍNH CHẤT CỦA BỘ HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ


→ Hoàng Việt luật lệ mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc toàn diện từ bộ Đại
Thanh luật lệ nhưng vẫn có những giá trị tích cực với những điều luật,
điều lệ thể hiện sự nhân đạo trong việc xử lý mối quan hệ giữa con người
với con người. Những giá trị tích cực của Hoàng Việt luật lệ .Những giá
trị tích cực của Hoàng Việt luật lệ được kế thừa gián tiếp từ Quốc triều
hình luật của nhà Lê và Đại Minh luật của nhà Minh (Trung Quốc) và kế
thừa trực tiếp của Đại Thanh luật lệ.

- PHẠM VI ĐIỀU CHỈNH CỦA BỘ HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ


Tuy chưa thật triệt để, nhưng hàng trăm điều luật đã được các nhà làm
luật phân loại và sắp xếp theo trình tự nhất định. Phần đầu có quy định
về những vấn đề chung, những nguyên tắc chung.Các chương/ quyền tiếp
theo tập hợp các điều luật về từng lĩnh vực. Ngoài ra, các điều luật còn
lại được đưa vào tạp luật
– Cấu trúc bộ luật: Bộ Hoàng Việt luật lộ gồm 398 điểu, chia thành 22
quyển. Việc chia quyền đã bước đầu có sự phân ngành, tạo điều kiện
thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật. Mở đầu bộ luật in lời Tựa của
đương kim Hoàng đế Gia Long khẳng định tư tưởng chính trị pháp lí cơ
bản của triều Nguyễn là: ‘Thánh nhân cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp
để xử tội dùng đạo đức để giáo hóa họ, hai điều ấy không thiên bên nào
bỏ bên nào ” “pháp luật là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”.
Tiếp sau là Tổng mục về luật, lộ của vua Việt Nam. Phần Danh lộ và Bản
điều được sắp xếp như sau:
– Giới thiệu các quyển luật
● Quyển 1, 2, 3: Ghi mục lục về luật các biểu đổ giá chuộc; năm hình
phạt, nguồn gốc, ý nghĩa của hình phạt; đổ hình cụ, tang chế. Giải
thích một số điểm trọng yếu của luật, cách xử lí tài sản bất hợp
pháp. Danh lệ về thập ác và chủ yếu là những điều luật quy định về
nguyên tắc chung (45 điều).
● Quyển 4, 5: Luật Lại, quy định về chức chế và công vụ (27 điều).
● Quyển 6, 7, 8: Luật Hộ, quy định về hộ tịch, điền trạch, đăng bạ,
của cải, thuế điền thổ, trốn thuế. Điều chỉnh về hôn nhân, thu chi,
cho vay, chợ, cửa hàng (66 điều).
● Quyển 9: Luật Lễ, quy định về lễ nghi triều đình, tế tự, lăng tẩm,
nhà cửa, y phục (26 điều).
● Quyển 10, 11: Luật Binh, chủ yếu nhằm bảo vệ nhà vua, cung cấm
điều chỉnh lĩnh vực quân sự, kiểm soát lưu thông, vấn đề biên giới,
lưu chuyển công văn, trạm dịch (58 điều).
● Quyển 12 đến quyển 20: Luật Hình (bao gồm cả hình sự và tố
tụng), quy định về các nhóm tội phạm cụ thể và thủ tục khiếu tố
kiện tụng, xét xử, giam giữ, thi hành án (166 điều).
● Quyển 21: Luật Công, chủ yếu quy định về những vi phạm trong
lĩnh vực xây dựng các công trình công cộng, kho chứa, đê điều, cầu
đường (10 điều).
● Quyển 22: Ghi mục lục Tổng loại và Tỉ dẫn điểu luật. Trong quyển
này các nhà làm luật dự liệu 30 trường hợp so sánh để áp dụng
tương tự.
– Cấu trúc các điều luật: Thông thường, điều luật thường có cấu trúc:
Tên tội, điều luật, giải thích, điều lệ, một số điều còn có thêm phần tập
chú. Tuy nhiên, không phải điều nào cũng có cấu trúc đó.
- KỸ THUẬT PHÁP LÝ CỦA BỘ HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ
● Vua Gia Long sau khi lên ngôi để có cơ sở về luật pháp, lệnh cho
Nguyễn Văn Thành, Vũ Trinh, Trần Hựu dựa vào Đại Thanh luật
lệ và Luật Hồng Đức làm cơ sở soạn bộ luật cho triều Nguyễn có
tên gọi là Hoàng Việt luật lệ (còn được gọi là Luật Gia Long), gồm
22 quyển và 398 điều sau đó vua Gia Long cho ban hành chính
thức vào năm 1815. Bộ luật này gần như lấy nguyên mẫu là luật
nhà Thanh Trong 398 điều thì chỉ có 2 điều là rút từ Quốc triều
Hình luật thời Hậu Lê, vài chục điều luật khác biệt chút ít về từ
ngữ so với luật của nhà Thanh, các điều luật còn lại đều sao chép
lại nguyên xi tên gọi lẫn nội dung kể cả các tiểu chú của các điều
luật trong “Đại Thanh luật lệ”
● Giống như “Đại Thanh luật lệ”, Hoàng Việt luật lệ ngoài quyển
đầu là mục lục các điều luật, bảng (hay đồ), thể lệ về phục tang,
diễn giải thuật ngữ, các quyển còn lại được chia thành 6 thể loại,
tương ứng với việc của 6 bộ: Lại, Bộ, Lễ, Binh, Hình, Công. Ngoài
ra, cách trình bày in ấn của “Hoàng Việt luật lệ” cũng giống với bộ
luật nhà Thanh. Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” đã
lược bỏ, thay đổi một số tiểu tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp
với cách gọi tại Việt Nam (Một số điều luật thay đổi đơn vị hành
chính "tỉnh" của Trung Quốc thành "doanh, trấn" của Việt Nam,
chức danh lý trưởng của Trung Quốc bằng xã trưởng của Việt
Nam).
● Hoàng Việt luật lệ được sử dụng trong suốt thời nhà Nguyễn rồi
dùng tiếp ở Trung Kỳ trong thời Thực dân Pháp chiếm đóng Việt
Nam.
- SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BỘ HOÀNG VIỆT LUẬT
LỆ
Trong lời tựa khi ban hành Bộ Hoàng Việt luật lệ, Hoàng đế Gia long đã
viết:
“…sống trong xã hội, con người với những ham muốn vô bờ, nếu không
có luật pháp để ngăn ngừa thì không có cách gì để dẫn dắt người ta vào
đường giáo hóa mà biết được đạo đức. Cho nên lời xưa có nói: Luật pháp
là công cụ giúp cho việc cai trị thêm tốt đẹp”
Nhờ có những nhận thức đúng đắn trên đây, các nhà vua và các nhà nước
đã rất quan tâm đến việc biên soạn và ban hành pháp luật. Để tổ chức
biên soạn và ban hành các bộ luật tổng hợp có nội dung phức tạp, các nhà
vua đã lựa chọn những viên quan tài giỏi, có hiểu biết rộng và nhiều kinh
nghiệm thực tế. Chẳng hạn: để biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ, hoàng đế
Gia Long đã chọn và giao nhiệm vụ cho 3 viên quan là Nguyễn Văn
Thành (giữ chức Tổng trấn Bắc thành), Vũ Trinh (từng giữ chức Thượng
thư Bộ Lễ) và Trần Hựu (Đông các học sĩ). Để biên soạn một bộ luật tổng
hợp có tính quốc gia, các nhà vua đều yêu cầu những người biên soạn
phải sưu tập các điều luật từ đời trước, tham khảo pháp luật Trung Quốc,
trên cơ sở đó mới lựa chọn và bổ sung cho phù hợp. Các điều luật cũng
phải được chia thành môn, loại và sắp xếp theo trật tự. Điều đó thể hiện
cách xây dựng luật nghiêm túc và khoa học. Vì vậy, mặc dù có những hạn
chế do điều kiện lịch sử, nhưng các nhà nước phong kiến đã để lại cho
hậu thế một di sản pháp luật khá đồ sộ và có nhiều giá trị.
- So sánh với Quốc triều Hình luật
● So với Luật Hồng Đức thì Luật Gia Long của triều Nguyễn hà khắc hơn,
nhưng nội dung và cách áp dụng rõ ràng hơn. Điều này thể hiện qua việc
ban hành các nguyên tắc: Nguyên tắc luật định; nguyên tắc so sánh luật;
nguyên tắc xét xử theo luật mới; nguyên tắc chiếu cố; nguyên tắc người
thân thuộc được che giấu tội cho nhau; nguyên tắc truy cứu trách nhiệm
hình sự; nguyên tắc luận tội theo tang vật; nguyên tắc chuộc tội bằng tiền.
● Luật còn nghiêm cấm sử dụng các bản án chưa được biên soạn vào Bộ
luật để làm chuẩn cho việc xét xử. Trong luật cũng quy định, nếu quan lại
cố tình bao che hoặc bẻ cong sự thật, thì bị ghép vào tội vô ý hay cố ý
thêm bớt tội cho người và phải thẩm xét cho rõ ràng và cải chính ngay.
● So với các bộ luật trước đó, bộ luật này có sự nét đặc sắc riêng là tiến bộ
và nhân đạo. Điều dễ thấy nhất trong bộ luật là các cực hình trong luật
nhà Thanh như: Tru di tam tộc, Lăng trì, Yêm,… đều hoàn toàn bị loại bỏ
trong bộ Hoàng Việt luật lệ này.
● Ngoài ra, tính nhân đạo của bộ luật còn thấy rõ qua từng phiên tòa mở
trong năm (trừ các tội Mưu phản, Đại phản nghịch, Đạo tặc…). Theo luật,
các phiên xử thường tổ chức vào đầu mùa thu chứ không mở vào đầu
mùa hè vì theo luật, mùa hè, thời tiết nóng, sẽ ảnh hưởng xấu đến việc
buộc tội của các phán quan. Nếu phiên tòa xử trong mùa thu năm nay mà
chưa có phán quyết cuối cùng thì phải đợi đến mùa thu năm tới mới quyết
án chung thẩm (gọi là Thu thẩm). Trường hợp gặp tội nhân bị án tử hình
(giam chờ – đợi để chống án hoặc xin ân xá hay chờ thỉnh ý vua) thì cũng
phải đợi đến mùa thu khi có phiên tòa mới xử chung thẩm. Việc mở phiên
tòa vào mùa thu là một điểm đáng chú ý của bộ luật này, mà đến nay
chưa có bộ luật nào ngay cả luật các nước khác có được. Đây là đặc điểm
và tính nhân đạo nổi bật của Hoàng Việt Luật Lệ.
● Bên cạnh đó, các điều luật trừng phạt kẻ có tội, trong bộ luật này được
phân định rõ ràng, hình phạt nghiêm minh, nhất là đối với quan lại nắm
luật pháp.
● Chằng hạn, điều luật về quan lại phạm tội ăn đút lót, điều luật ghi:
“Người có ăn lương nhà nước (người được lương mỗi tháng 1 thạch trở
lên) lạm dụng luật pháp ăn đút lót của nhiều chủ, buộc tội chung nhận của
người mắc tội mà xử cong luật quẹo pháp, nhận tiền của một người thì
phạt trọn việc đó. Như nhận tiền của 10 người một lúc, việc đổ bể, tính
chung một chỗ, xử trọn một tội. Còn tội phạm hai việc trở lên, một chủ
trước bị phát giác và xử tội, tội sau bị phát giác nhẹ hơn, cũng bị xử. 1
lượng trở xuống phạt 70 trượng, 1 lượng đến 5 lượng phạt 80 trượng, 10
lượng phạt 90 trượng, 10 đến 15 lượng phạt 100 trượng…80 lượng đúng,
phạt treo cổ.
● Không lạm dụng luật pháp, ăn đút lót của nhiều chủ, tính chung xử tội
theo nửa số đó. Tuy có nhận tiền của người nhưng không xử cong quẹo,
song nhận cùng lúc tiền của 10 chủ, việc đổ bể, tính gộp chung xử phân
nửa tội, một chủ cũng xử phân nửa tội. 1 lượng trở xuống phạt 60 trượng,
1 lượng đến 10 lượng, phạt 70 trượng, 20 lượng phạt 80 trượng, 30 lượng
phạt 90 trượng, 40 lượng phạt trăm trượng,…120 lượng trở lên treo cổ.
● Luật Gia Long quy định rất ngặt và xử lý nghiêm các trường hợp tham
nhũng nhận tiền của hối lộ, bắt dân phải nộp tiền…nếu như ai bị mắc vào
mức nào thì căn cứ vào luật mà xử đoán. Những viên quan nào đến mức
bị tước bỏ bằng, sắc, cáo của vua ban và bị xóa tên trong sổ bộ quan là bị
bãi chức hoàn toàn. Còn lại tùy thuộc vào số lượng tiền của nhận hay
chưa nhận mà có hình thức trách tội khác như lưu đày, đồ, bãi nhiệm,
đánh đòn…
● Ngày nay, nghiên cứu Hoàng Việt Luật Lệ và tham khảo từ các sách
khác, chúng ta mới thấy được phần đóng góp và sáng tạo của các tác giả
bộ luật này, nhất là của vị Tổng tài Nguyễn Văn Thành.
- So sánh với Đại Thanh luật lệ
Kết cấu và tên gọi của bộ luật
● Xét về kết cấu, các điều khoản trong “Hoàng Việt luật lệ” chia làm
luật và lệ. Kết cấu này mô phỏng bộ luật của nhà Thanh ở Trung
Quốc, không giống với kết cấu của bộ “Quốc triều hình luật” nhà
Lê trước đó. Theo quan niệm của người Trung Hoa, luật là “thường
pháp muôn đời”, tức là các điều khoản chép từ các bộ luật cổ, được
coi như khuôn vàng thước ngọc không thể bỏ được, dù có thể các
điều luật ấy đã trở lên lỗi thời, không còn phù hợp với thực tiễn xã
hội nữa
● Cách kết cấu điều khoản thành hai phần luật và lệ vừa bảo đảm
được tính ổn định của luật pháp, vừa thể hiện sự linh hoạt trong
quá trình thực hiện các quy định pháp luật, thuận tiện cho người thi
hành và người chấp hành luật. Đây được đánh giá là bước tiến mới
trong lịch sử lập pháp của nhà Minh – Thanh ở Trung Hoa. Do vậy,
việc nhà Nguyễn tiếp thu cách kết cấu của bộ luật nhà Thanh cũng
phần nào dễ lý giải.
● Vì kết cấu bộ luật mô phỏng của nhà Thanh nên tên gọi của bộ luật
nhà Nguyễn không phải là Hình thư như nhà Lý, nhà Trần hoặc
Quốc triều hình luật của nhà Lê mà là “Hoàng Việt luật lệ”, như
luật nhà Thanh là “Đại Thanh luật lệ”.
● Trong từng phần Lại luật, Công luật, Hộ luật, Lễ luật, Binh luật,
Hình luật thì các đề mục cũng giống hoàn toàn với bộ luật nhà
Thanh.
● Ngoài ra, cách trình bày in ấn của “Hoàng Việt luật lệ” cũng giống
với bộ luật nhà Thanh. Ngoài các điều luật, điều lệ còn có mấy
điểm đáng lưu ý sau đây:
– Ở trên đầu trang giấy có những điều chú thích in bằng chữ nhỏ để
cho biết nguồn gốc của các điều luật, hoặc cho biết những bản án
có liên quan đến điều luật ấy.

– Trong mỗi điều luật, điều lệ in chữ lớn thường có in xen chữ
nhỏ để chú thích các lời lẽ hoặc danh từ trong điều luật.

– Sau các điều luật còn có những điều chú giải chính văn, theo
đó, các câu văn trong luật được trình bày lại dưới một hình thức
khác cho dễ hiểu.

Sự giống nhau về mặt hình thức như vậy dĩ nhiên sẽ đem đến
những ảnh hưởng về mặt nội dung của bộ “Đại Thanh luật lệ” đối
với bộ “Hoàng Việt luật lệ”.
Số lượng tên gọi và nội dung các điều luật
● Về số lượng điều luật, “Hoàng Việt luật lệ” ít hơn “Đại Thanh luật
lệ” 38 điều
● Về tên gọi của các điều luật, đại bộ phận các điều luật trong luật
nhà Nguyễn đều có tên gọi giống với các điều luật trong luật Thanh
● Trong số những điều luật khác tên kể trên thì có hai điều (điều luật
thứ 74 “Ẩn lậu dân đinh” và điều luật thứ 164 “Trở nhân gia sự”)
là của riêng nhà Nguyễn, không tham khảo, sao chép luật nhà
Thanh.
● Về nội dung của các điều luật, nếu làm một phép so sánh tỉ mỉ giữa
“Hoàng Việt luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ” thì thấy, ngoại trừ
những điều kể trên, còn khoảng vài chục điều trong luật Nguyễn
không sao chép nguyên xi mà mô phỏng lại trên tinh thần giữ lại
tên gọi và những nội dung cơ bản của các điều luật nhà Thanh có
cải biến chút ít.
● Những điều luật thay đổi một chữ viết nhưng âm đọc và nghĩa vẫn
giống nhau.
● Cùng một chữ trong “Đại Thanh luật lệ” nhưng được viết thành
nhiều chữ khác nhau trong “Hoàng Việt luật lệ”.
● Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” đã lược bỏ, thay đổi
một số tiểu tiết của luật nhà Thanh cho phù hợp hơn với Việt Nam.
● Một số điều luật trong “Hoàng Việt luật lệ” lược bớt một số câu
chữ trong luật nhà Thanh.
● Hình phạt trong một số điều luật của “Hoàng Việt luật lệ” có thay
đổi chút ít so với luật Thanh.
● Sự khác biệt lớn nhất về mặt nội dung trong các điều luật của
“Hoàng Việt luật lệ” và “Đại Thanh luật lệ” chính là ở phần tiểu
chú. Các điều luật của nhà Nguyễn về cơ bản đều kế thừa tiểu chú
của luật Thanh, nhưng trong những trường hợp nhất định có thêm,
bớt cho phù hợp hơn. Mục đích của việc này là làm sáng rõ thêm
nội dung của các điều luật chứ không nhằm thay đổi nội dung của
điều luật. Số lượng chữ trong các tiểu chú tăng lên không nhiều
nên không làm nội dung điều luật bị rườm rà.
Số lượng và nội dung các điều lệ
- So với “Đại Thanh luật lệ” thì số lượng điều lệ của “Hoàng Việt
luật lệ” ít hơn rất nhiều. “Hoàng Việt luật lệ” chỉ có 593 điều lệ,
trong khi “Đại Thanh luật lệ” có đến 1765 điều lệ [29]. Trong số
gần 600 điều lệ này, chỉ có khoảng trên dưới 50 điều lệ là của riêng
nhà Nguyễn, một số điều lệ có thay đổi chút ít về mặt nội dung hay
mức hình phạt. Còn lại, khoảng hơn 300 điều lệ là sao chép nguyên
xi từ “Đại Thanh luật lệ”.
Kết luận
Mặc dù kế thừa trực tiếp bộ Đại Thanh luật lệ nhưng Hoàng Việt luật lệ
vẫn chứa đựng những giá trị tích cực như:
- Bảo vệ quyền lợi của người già, cô quả, tàn tật và trẻ em: Người già, cô
quả, tàn tật và trẻ em khi phạm tội đều được hưởng ưu đãi của pháp luật,
cho phép được nộp tiền chuộc để giảm nhẹ hình phạt khi thi hành hoặc
miễn thi hành hình phạt.
- Bảo vệ quyền lợi nhất định của những người phạm tội: Những người
dân khi đã phạm tội và trở thành tù nhân tùy từng trường hợp cụ thể cũng
được hưởng những ưu tiên của pháp luật, như: dân thường khi đã phạm
tội, nếu xét thấy hoàn cảnh gia đình đặc biệt thì cho phép ở nhà nuôi
dưỡng người thân, được xét ân xá thường kỳ, người tù bị mắc bệnh thì
không được tiến hành tra khảo, không được đánh tù nhân vô cớ…
- Bảo vệ dân thường: Những người dân thường có hoàn cảnh khó khăn
(nghèo khó,bệnh tật...) đều được pháp luật bảo vệ, các quan lại và người
dân ở địa phương thiếu trách nhiệm biết mà không trình báo lên trên đều
bị trừng trị nghiêm khắc. Pháp luật cũng bảo vệ những người dân thường
và tầng lớp dưới (như nô tì)... chống lại sự ức hiếp, sách nhiễu của cường
hào, quan lại.Đặc biệt, người phụ nữ trong xã hội đã dành được một vị trí
nhất định trong bộ luật.Về nghĩa vụ, người phụ nữ phạm tội phải chịu sự
trừng phạt theo quy định của pháp luật.Nhưng, khi thực thi hình phạt, phụ
nữ có thể nộp tiền chuộc để giảm nhẹ mức hình phạt hoặc thay thế cho
việc thi hành hình phạt. Trước pháp luật, người phụ nữ cũng được bảo vệ
những quyền lợi cơ bản, như quyền bảo vệ thân thể, quyền thừa kế tài
sản, quyền tự do hôn nhân, quyền từ bỏ hôn ước và quyền li dị
chồng . ..Những quy định trên thể hiện tính tích cực của Hoàng Việt luật
lệ trong việc giải quyết và điều hòa mối quan hệ giữa con người với con
người, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Những điểm tích cực này
thực tế đã kế thừa gián tiếp từ Quốc triều hình luật của nhà Lê trước đó

You might also like