Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 18

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
---------------⁂---------------

MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


ĐỀ TÀI
VĂN HÓA TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.
HIỆN TRẠNG VĂN HÓA TRONG GIỚI TRẺ

GVHD: ĐINH THỊ ĐIỀU


MÃ HP: 221TT0103
Nhóm 2:
Phùng Ngọc Bích- K224060769
Huỳnh Bảo Châu- K22406770
Nguyễn Thị Hồng Diễm- K224060772
Trịnh Trần Phương Linh- K224060790
Nguyễn Hữu Lộc- K224060791
Huỳnh Mẫn Mẫn- K224060797
Hoàng Thị Thanh Tâm- K224060810
Lạc Thu Thủy- K224060814
Đỗ Thị Minh Thư- K224060815
Nguyễn Thanh Thúy Tiên- K224060816

Tp. HCM, 10/2022

1
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ 1 NĂM HỌC 2022-2023
Mã học phần: 221TT0103
Nhóm: 2 (Lớp thứ 7 - tiết 4-6)
Tên đề tài:
Văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện trạng văn hoá trong giới trẻ.
Đánh giá mức độ hoàn thành của các thành viên:

TÊN MSSV MỨC ĐỘ HOÀN


THÀNH
Phùng Ngọc Bích K224060769 100%

Huỳnh Bảo Châu K22406770 100%

Nguyễn Thị Hồng Diễm K224060772 100%

Trịnh Trần Phương Linh K224060790 100%

Nguyễn Hữu Lộc K224060791 100%

Huỳnh Mẫn Mẫn K224060797 100%

Hoàng Thị Thanh Tâm K224060810 100%

Lạc Thu Thủy K224060814 100%

Đỗ Thị Minh Thư K224060815 100%

Nguyễn Thanh Thúy Tiên K224060816 100%

Trưởng nhóm: Đỗ Thị Minh Thư

2
Nhận xét của giáo viên
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
ĐIỂM:............................................................................................................

KÝ TÊN

3
MỤC LỤC
PHẦN 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ,
CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA
1.1. Văn hóa là gì?..........................................................................................5
1.2. Vị trí của văn hóa....................................................................................5
1.3. Vai trò của văn hóa.................................................................................6
1.3.1. Văn hoá là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng……...6
1.3.2. Văn hoá là một mặt trận.…………………...................................6
1.3.3. Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân…...................................6
1.4. Chức năng của văn hóa:……….............................................................6
1.4.1. Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp…. ...............7
1.4.2. Mở rộng hiểu biết nâng cao dân trí…………...............................7
1.4.3 Bồi dưỡng phẩm chất phong cách và lối sống tốt đẹp lành mạnh
hướng con người đến chân thiện mỹ để hoàn thiện bản thân..............8
PHẦN 2: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HOÁ GIÁO DỤC,
VĂN HOÁ ĐỜI SỐNG
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục………………….9
2.1.1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục ……………………………….....9
2.1.2. Phải tiến hành cải cách giáo dục…………………………………9
2.1.3. Học phải đi đôi với hành..............................................................10
2.1.4. Phương pháp giáo dục phải phù hợp với mục tiêu giáo
dục……………………………….……………………………………...10
2.1.5. Cần chú trọng xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có đạo
đức cách mạng, yêu nghề, giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương
pháp…………………………………………………………………….10
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá đời sống……………...11
2.3. Tác động tích cực đến mỗi người, mỗi cá nhân khi thực hiện tốt
các quan điểm văn hoá trên……………………………………………..12
PHẦN 3: BIỂU HIỆN VÀ TÁC HẠI CỦA NHỮNG HÀNH VI THIẾU
VĂN HÓA TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CON CÁI VỚI BỐ MẸ, GIỮA
SINH VIÊN VỚI THẦY CÔ GIÁO
3.1. Biểu hiện và tác hại của những hành vi thiếu văn hóa trong mối
quan hệ giữa con cái với bố mẹ…………………………………………..14
3.1.1. Biểu hiện………………………………………………...………14
3.1.2. Tác hại………………………………………………..…………15
3.2. Biểu hiện và tác hại của những hành vi thiếu văn hóa trong mối
quan hệ giữa sinh viên với thầy cô giáo…………………………………16
3.2.1. Biểu hiện……………………………………………………...….16
3.2.2. Tác hại…………………………………………………………...16
4
NỘI DUNG

PHẦN 1: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VỊ TRÍ, VAI


TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA VĂN HÓA.

1.1. Văn hóa là gì?

Trước khi tìm hiểu về các vấn đề của văn hoá, chúng ta cần nắm rõ văn hóa là
gì:
Văn hóa vốn là một khái niệm được hiểu theo rất nhiều nghĩa. Tùy theo từng
thời kỳ lịch sử, văn hóa lại hiểu theo những ngữ nghĩa khác nhau. Ở bài tiểu luận này,
chúng tôi sử dụng khái niệm văn hóa theo định nghĩa của Trần Ngọc Thêm (1999, 10):
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần, do con người sáng
tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn”. Theo đó, có thể hiểu văn hóa là
những giá trị vật chất như trống đồng Đông Sơn, di tích Cố Đô Huế, quần thể di tích
Óc Eo… hay những giá trị tinh thần như những câu ca dao, tục ngữ, dân ca quan họ
Bắc Ninh, đờn ca tài tử Nam Bộ… được con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình
sống. Song, không phải tất cả những gì do con người tạo ra đều được xem là văn hóa.

1.2. Vị trí của văn hóa.

Văn hoá đóng vai trò quan trọng tạo bước nhảy vọt triệt để trong tư duy, hành
động của con người và của các dân tộc bị áp bức, bị tha hoá đến vương quốc của con
người phát triển tự do và toàn diện. Bàn về văn hoá, người ta còn cho rằng, đó là sự
hiểu biết, phát triển nội tại bên trong của một con người, một dân tộc, tạo ra lối ứng
xử, biểu hiện trình độ “người” trong các quan hệ.

Hồ Chí Minh cho rằng, văn hoá có tác dụng “sửa đổi tham nhũng, lười biếng,
phù hoa, xa xỉ, sửa xã hội cũ, xây xã hội mới”. Văn hoá tạo sức mạnh để chiến thắng
ngoại xâm theo tinh thần “văn minh thắng bạo tàn”. Kinh tế nâng cao đời sống vật
chất, còn văn hoá có tác dụng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cũng đã nhận định, văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ

5
tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát
triển được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và mục tiêu của sự phát
triển. ( http://thachlong.thachthanh.thanhhoa.gov.vn )

1.3. Vai trò của văn hóa.

1.3.1. Văn hoá là mục tiêu, động lực của sự nghiệp cách mạng.

Động lực là mong muốn hành động để phục vụ mục tiêu. Văn hoá là động lực,
có chức năng đặc thù thể hiện qua các phương diện như văn hóa chính trị soi đường
cho quốc dân đi, văn hóa văn nghệ nâng cao lòng yêu nước, văn hóa giáo dục đào tạo
con người, văn hóa đạo đức nâng cao phẩm giá, văn hóa pháp luật bảo đảm kỷ cương.
Văn hoá cũng đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, là độc lập dân tộc cùng
với chủ nghĩa xã hội.

1.3.2. Văn hoá là một mặt trận.

Văn hoá cùng với kinh tế, chính trị, xã hội là bốn mặt trận chính của đời sống,
có nội dung trải dài qua nhiều lĩnh vực như tư tưởng, đạo đức… Mặt trận văn hoá là
chiến đấu trên lĩnh vực văn hoá, vì vậy, các anh chị em văn nghệ sĩ là các chiến sĩ anh
hùng, phải ngày càng nỗ lực để cho ra đời các tác phẩm xứng đáng với dân tộc Việt
Nam anh hùng và thời đại vẻ vang.

1.3.3. Văn hoá phục vụ quần chúng nhân dân.

Hạnh phúc của nhân dân được thể hiện rất rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Người, nhân dân phải được hưởng thụ các giá trị văn hoá và mọi hoạt động văn
hoá phải gắn liền với đời sống thực tại, phản ánh đúng tư tưởng và khát vọng của họ.

1.4. Chức năng của văn hóa.

Về chức năng của văn hóa, Hồ Chí Minh cho rằng: chức năng của văn hóa rất
phong phú, đa dạng nhưng có 3 chức năng chủ yếu.

6
1.4.1. Là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.

Tư tưởng và tình cảm là 2 vấn đề chủ yếu nhất của đời sống tinh thần con
người. Văn hóa có tác dụng rất lớn trong việc xây dựng nhân cách giáo dục và bồi
dưỡng tình cảm cho con người. Chức năng cao quý của văn hóa là nêu cao tư tưởng
đúng đắn và tình cảm cao đẹp, loại bỏ những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư
tưởng mỗi người. Tư tưởng và tình cảm rất phong phú, văn hóa phải đặc biệt quan tâm
đến những tư tưởng và tình cảm lớn, chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của
cả dân tộc. Chính vì vậy Hồ Chí Minh đã chỉ ra chức năng hàng đầu của văn hóa là
phải làm cho ai cũng có lí tưởng tự chủ độc lập tự do, phải làm ai cũng có tinh thần vì
nước quên mình, vì lợi ích chung quên lợi ích riêng.

Tình cảm lớn theo Hồ Chí Minh là lòng yêu nước thương dân thương yêu con
người, yêu tính chân thành, trung thực, thủy chung ghét những thói hư tật xấu sa đọa
biến chất... tình cảm đó được thể hiện trong mối quan hệ với gia đình quê hương bạn
bè, anh em, đồng chí.

Chức năng này phải được tiến hành thường xuyên vì tư tưởng tình cảm con
người luôn có sự chuyển biến theo thực tiễn xã hội.

1.4.2. Mở rộng hiểu biết nâng cao dân trí.

Nói đến văn hóa là nói đến dân trí. Đó là trình độ hiểu biết là vốn kiến thức con
người. Mục tiêu nâng cao dân trí là làm cho dân giàu nước mạnh..., biến một nước
xuất phát từ nghèo khổ thành một nước có nền văn hóa cao.

Để thực hiện chức năng này thì cán bộ đảng viên phải rèn luyện các phẩm chất
đạo đức theo tiêu chuẩn đạo đức của Việt Nam trong gia đình mới. Học sinh sinh viên
phải rèn luyện động cơ học tập nếp sống lành mạnh, trung thực, tiết kiệm, đoàn kết,
gương mẫu, thực hiện nếp sống văn minh và tham gia phòng chống tệ nạn xã hội. Đối
với văn nghệ sĩ phải tìm kiếm và tuyên dương cái mới, cái tiến bộ, lên án những hiện
tượng tiêu cực trong xã hội.

7
1.4.3. Bồi dưỡng phẩm chất phong cách và lối sống tốt đẹp lành mạnh
hướng con người đến chân thiện mỹ để hoàn thiện bản thân.

Phẩm chất và phong cách được hình thành từ đạo đức, lối sống từ thói quen của
cá nhân và phong tục tập quán của cả cộng đồng. Con người trong chế độ mới phải có
những phẩm chất tốt đẹp bởi nó làm nên giá trị con người. Mỗi người phải biến tư
tưởng tình cảm lớn thành phẩm chất cao đẹp của mỗi cá nhân.

Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, Hồ Chí Minh đã đề ra những phẩm
chất và phong cách cần thiết để mỗi người tự tu dưỡng. Đối với cán bộ đảng viên Hồ
Chí Minh đặc biệt chú trọng đến phẩm chất đạo đức chính trị. Bởi nếu không có
những phẩm chất này thì ko thể hoàn thành nhiệm vụ cách mạng, không thể biến lí
tưởng thành hiện thực.

Văn hóa giúp con người có phẩm chất lối sống lành mạnh. Thông qua phân biệt
cái đẹp lành mạnh với cái xấu xa hư hỏng, cái tiến bộ với cái lạc hậu bảo thủ từ đó
giúp con người phấn đấu, giúp cho cái đẹp lành mạnh ngày càng nhiều, cái lạc hậu
bảo thủ ngày càng giảm, vươn tới chân thiện mỹ. Với ý nghĩa đó Hồ Chí Minh chỉ rõ
phải làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm lí quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi
được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.

8
PHẦN 2: QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN
HOÁ GIÁO DỤC, VĂN HOÁ ĐỜI SỐNG

2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá giáo dục.
2.1.1. Mục tiêu của văn hóa giáo dục.
Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện ba chức năng của văn hóa bằng
​việc dạy và học. ​Dạy và học không chỉ giúp cải thiện trình độ dân trí, trau dồi thêm
kiến thức; tiếp thu tư tưởng đúng đắn mà còn giúp hình thành, phát triển những phẩm
chất cao quý và phong cách tốt đẹp cho con người, đồng thời đào tạo mỗi cá nhân
thành người có ích cho xã hội. Không chỉ tạo những con người mới vừa có đức, có tài,
vừa là những công dân biết làm chủ, để rồi từ đó đóng góp vào việc xây dựng và bảo
vệ tổ quốc giàu mạnh. Mục tiêu đó được Bác nhấn mạnh: Học để làm việc, làm
người, làm cán bộ.
Việc học với mục đích cải thiện trình độ dân trí phải khởi đầu từ việc làm thế
nào để người dân Việt Nam không chỉ biết đọc, viết, mà còn có cả thoát khỏi nạn mù
chữ mà bọn thực dân đã gây ra, nhờ đó có được những kiến thức quan trọng nhầm
đóng góp vào hoạt động lao động sản xuất đồng thời xây dựng cuộc sống mới. Bên
cạnh đó, Hồ Chí Minh đã tuyên truyền phong trào “bình dân học vụ”, “bổ túc văn
hóa” rộng khắp nước ta, từ đó mang đến những kết quả có ý nghĩa đặc biệt.

2.1.2. Phải tiến hành cải cách giáo dục.


Việc cải cách nhằm xây dựng một hệ thống trường lớp, chương trình, nội dung
khoa học và phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Bên cạnh đó, khi Người đang trong quá
trình xây dựng nền văn hóa giáo dục mới ở nước ta, Người đã đề xuất phương hướng
và nội dung học tập của đại học, trung học và cả tiểu học. Người đặc biệt lưu ý sự cần
thiết của việc học chính trị. Học chính trị nghĩa là học chủ nghĩa Mác – Lênin và
đường lối quan điểm của Đảng nhằm hiểu rõ hơn nhiệm vụ cách mạng, đồng thời bản
thân mình sẽ tiếp thu thêm nhận thức đúng đắn trước những khó khăn trong cuộc
sống, để rồi có thêm niềm tin vào lý tưởng cách mạng, hạn chế những sai lầm vấp ngã.
Ngoài ra, việc học còn cần phải khoa học từ đó mới có thể bắt kịp và phát triển trong
thời đại mới, đó là nơi cuộc cách mạng khoa học của nhân loại và công nghệ kỹ thuật
đang ngày càng vươn cao, phát triển.
9
​2.1.3. Học phải đi đôi với hành.
Khi xây dựng nền văn hóa giáo dục mới, Người đã đề nghị phải tẩy sạch tàn dư
của giáo dục nô dịch. Hồ Chí Minh cho rằng nhà trường không phải là nơi để nhồi
nhét quá nhiều kiến thức vô nghĩa, cũng không phải là nơi thiếu đi những kiến thức
thiết yếu đóng góp vào việc xây dựng kinh tế, quản lý xã hội và cả hình thành con
người Việt Nam mới. Người nhấn mạnh phương châm học đi đôi với hành, lý luận
phải gắn kết chặt chẽ với thực tế, đồng thời học tập còn phải đi đôi với lao động; phải
đặc biệt kết hợp ba khâu: gia đình, nhà trường và xã hội; quan trọng hơn nữa là phải
thực hiện dân chủ bình đẳng trong giáo dục.

2.1.4. Phương pháp giáo dục phải phù hợp với mục tiêu giáo dục.
Hồ Chí Minh cho rằng cách dạy không chỉ phải phù hợp với trình độ người học
mà còn với lứa tuổi, đồng thời phải kết hợp học tập với vui chơi, giải trí lành mạnh, và
dùng biện pháp nêu gương kết hợp với phong trào thi đua. Người khuyên rằng học ở
mọi lúc, mọi nơi, học mọi người, học suốt đời, coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào
tạo lại.

2.1.5. Cần chú trọng xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có đạo đức
cách mạng, yêu nghề, giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp.
Người yêu cầu cán bộ, đảng viên “phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa
Mác – Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác – Lênin mà
tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc
điểm của nước ta. Có như thế chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát
triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi
cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. “Cán bộ
chính trị phải chú trọng học tập kinh tế, kỹ thuật để lãnh đạo sản xuất được tốt. Cán bộ
chính trị phải biết kỹ thuật, không biết, chỉ chính trị suông không lãnh đạo được”. Hồ
Chí Minh đã ra những chỉ dẫn hết sức quan trọng đối với những người cán bộ, đảng
viên, từ đó họ có thể phát huy trí tuệ trong hoàn cảnh nước ta đang bước vào nền kinh
tế thị trường cùng với định hướng xã hội chủ nghĩa và nền văn minh nhân loại đang
vươn cao vượt bậc. ( https://truongchinhtri.kontum.gov.vn )

10
2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hoá đời sống.
Theo nghĩa rộng, Hồ Chí Minh cho rằng văn hoá là toàn bộ những giá trị vật
chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra. Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị
tinh thần, văn hoá cũng có thể được hiểu đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con
người được đánh giá bằng học vấn phổ thông.
Văn hóa đời sống là hiện thân của văn hóa. Đây là một đặc điểm quan trọng
của con người Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới. Văn hóa đời sống thực chất là
nếp sống mới, có ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo
đức mới có vai trò quan trọng nhất. Bởi vì, có dựa trên đạo đức mới thì mới xác lập
được lối sống, mới thể hiện được lối sống, đạo đức mới trong lối sống, cách sống.
+ Đạo đức mới:
Đạo đức mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trung với nước, hiếu với dân, cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nghĩa tình và tinh thần quốc tế trong sáng. Đây là
bốn phẩm chất cơ bản và chung nhất.
Việc xây dựng đạo đức mới trước hết phải được thực hiện thông qua sự giáo
dục của gia đình, nhà trường, xã hội và nhất là tư cách, chuẩn mực đạo đức tập thể
liên quan đến hoạt động của mỗi người. Một vấn đề quan trọng trong giáo dục đạo đức
là phải thấm nhuần những giá trị đạo đức lành mạnh trong mọi người, để mọi người có
ý thức tự giác thực hiện trách nhiệm đạo đức của mình.
Đạo đức mới lật đổ khuôn mẫu đạo đức cũ của giai cấp thống trị, áp bức, bóc
lột nhân dân lao động. Nền đạo đức mới đã xóa bỏ những chuẩn mực đạo đức phong
kiến ​vốn luôn bó buộc vào nếp sống của nhân dân lao động. Nó đối lập hoàn toàn với
đạo đức tư sản, tiểu tư sản, vốn giam cầm con người trong những lợi ích tư nhân hẹp
hòi, phiến diện, gia trưởng. Điều đó lại càng không phù hợp với đạo đức tôn giáo,
luôn thuyết phục mọi người kiên trì, cam chịu số phận, chấp nhận số phận của thế gian
mà không biết tự vùng lên giải thoát chính mình.
+ Lối sống mới:
Là lối sống có đạo đức, có sức tưởng tượng, kết hợp truyền thống tốt đẹp của
dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại để tạo nên lối sống văn minh, tiên tiến. Trước
hết về cơ bản, văn hóa không phụ thuộc vào quần áo nhiều hay ít, sang trọng hay giản
dị mà phụ thuộc vào cách sống của mỗi người có hay không có văn hóa. Theo quan
điểm của Người, cần phải xây dựng lối sống giản dị, khiêm tốn, chừng mực, bài bản,
vừa sức, hợp vệ sinh, yêu lao động, quý trọng thời gian, không tham lam vật chất,
11
mưu cầu quyền lực, danh lợi. Chân thành, cởi mở, tôn trọng, đối với mình cũng như
đối với người khác.
Xây dựng lối sống mới trong công việc - phong cách, tác phong.Theo Người:
“Cách làm việc, phải siêng năng, có ngăn nắp, có tinh thần phụ trách, đã làm việc gì,
thì làm cho kỳ được, làm đến nơi đến chốn. Chớ làm dối”. Thể hiện ở việc tuân thủ
nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân chịu trách nhiệm; thực
hành dân chủ, lắng nghe ý kiến ​của đảng viên, quần chúng, “trọng trách”; thường
xuyên tổ chức kiểm tra, kiểm soát đối với những chức vụ cụ thể ”. có mặt tại chỗ và
xem nó ”.
Xây dựng lối sống mới trong sinh hoạt. Người yêu cầu cách ăn mặc phải gọn
gàng, sạch sẽ, giản dị, không sang trọng, không lòe loẹt. Mọi người thường ăn mặc
đơn giản, nhưng vẫn lịch sự và trang nhã. Về chỗ ở, yêu cầu mọi người phải sạch sẽ,
ngăn nắp, trật tự. “Vườn trong nhà và ngoài trời luôn sạch sẽ, ngăn nắp”, một cuộc
sống giản dị gần gũi với thiên nhiên.
Xây dựng lối sống mới là công việc của mọi người dân, bất kỳ ai, ở địa vị nào
cũng phải tham gia xây dựng đời sống mới, lối sống mới. Phương pháp xây dựng lối
sống mới chính là tuyên truyền lặp đi lặp lại đến khi nào lối sống mới được thiết lập
hoàn toàn, đồng thời chính bản thân phải làm gương cho người khác bắt chước.
+ Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới là hình thành những thói quen, phong
tục sống tốt đẹp, kế thừa và tiếp nối những thuần phong mỹ tục cũ của dân tộc. Tất
nhiên, không phải cái gì cũ cũng vứt đi, cái gì cũng trở nên mới, Bác từng nói “Đời
sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì mới cũng làm hết. Cái gì
cũ mà xấu, thì phải bỏ”. Cần kế thừa và phát triển những phong tục tập quán trong
sáng, đồng thời phải biết cập nhật những phong tục tập quán cũ thành những yếu tố
tiến bộ mà trước đây chưa có. Người ta tin rằng không phải tất cả những điều cũ đều
xấu. Cũ và tốt phải phát triển hơn nữa. Ví dụ như tinh thần yêu thương, trung thành và
thấu hiểu lẫn nhau. Phát triển một nếp sống mới là điều kiện kiên quyết để ta có thể
thiết lập nên một đời sống mới.

2.3. Tác động tích cực đến mỗi người, mỗi cá nhân khi thực hiện tốt các
quan điểm văn hoá trên.
Văn hóa giáo dục và văn hóa đời sống luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng
trong mọi quốc gia, mọi thời đại. Nó là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực và
12
mục tiêu của sự phát triển. Nhận thức rõ được vai trò, cũng như là tầm quan trọng của
những quan điểm về giáo dục văn hóa và giáo dục đời sống nên ta cần phải thực hiện
tốt những quan điểm trên. Đối với mỗi chủ thể khác nhau thì sự ảnh hưởng tích cực
cũng sẽ là khác nhau.
+ Đối với cá nhân mỗi người, khi thực hiện tốt những quan điểm về văn hóa
giáo dục sẽ góp phần thúc đẩy, bồi dưỡng và phát triển tri thức cũng như giúp mỗi
người chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn, nhìn cuộc sống dưới góc độ đa chiều hơn. Khi
ta có tri thức thì chất lượng cuộc sống sẽ được cải thiện hơn và chỉ số hạnh của của
mỗi người sẽ tăng lên. Còn đối với văn hóa đời sống sẽ giúp cho ta có thể hoàn thiện
nhân cách một cách toàn diện nhất. Giúp ta nhận thức đúng đắn về các chuẩn mực đạo
đức, các lối sống lành mạnh. Dù các chuẩn mực đạo đức hay lối sống không mang
tính cưỡng chế hay bắt buộc nhưng nó thể hiện giá trị và cách làm người của mỗi
người chúng ta. Khi ta thực hiện tốt các quan điểm của văn hóa thì trình độ nhận thức
và xử lý các vấn đề trong cuộc sống sẽ dễ dàng, ta sẽ nhìn chúng với một tư duy cởi
mở hơn không còn tính gò bó, bắt buộc. Chính những điều đó càng làm ta biết sống tự
lập hơn, kỷ luật hơn, có trách nhiệm hơn đối với bản thân, gia đình, xã hội.
+ Đối với xã hội, thông qua các hoạt động, suy nghĩ của các cá nhân mà góp
phần thay đổi bộ mặt của xã hội, hàn gắn vết thương, xóa bỏ những rào cản tồn tại
giữa người với người. Sự ảnh hưởng tích cực khi thực hiện tốt các quan điểm về văn
hóa giáo dục cũng như văn hóa đời sống đã tạo nên một xã hội văn minh, tiến bộ,
công bằng. Tiến bộ xã hội là sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các
quan hệ xã hội công bằng và dân chủ. Sự tiến bộ xã hội còn thể hiện ở sự công bằng
xã hội; ở mức sống của con người tăng lên; sự phân hóa giàu nghèo ít và sự chênh
lệch nhỏ về trình độ phát triển của các khu vực; thất nghiệp ít hoặc được loại trừ; các
loại phúc lợi xã hội, dân trí,...... tăng lên. Bên cạnh đó còn nâng cao trình độ nhận thức
về các giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức xã hội " chân, thiện, mỹ " nói chung. Với
sự ảnh hưởng tích cực đang góp phần làm giàu bản sắc văn hóa Việt Nam. Tạo điều
kiện cho việc xây dựng các mối quan hệ xã hội tích cực và xây dựng một môi trường
văn hóa lành mạnh, phù hợp. Văn hóa giáo dục và đời sống đóng vai trò hết sức to lớn
đối với sự ổn định, phát triển và tiến bộ của xã hội.Vì vậy mà chúng ta phải luôn nỗ
lực phấn đấu giữ gìn và phát huy những quan điểm tốt đẹp của nền văn hóa giáo dục
và văn hóa đời sống.

13
PHẦN 3: BIỂU HIỆN VÀ TÁC HẠI CỦA NHỮNG HÀNH VI
THIẾU VĂN HÓA TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA CON CÁI
VỚI BỐ MẸ, GIỮA SINH VIÊN VỚI THẦY CÔ GIÁO

3.1. Biểu hiện và tác hại của những hành vi thiếu văn hóa trong mối quan
hệ giữa con cái với bố mẹ.

3.1.1. Biểu hiện.


Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, từ ngàn xưa vẫn là mối quan hệ thiêng
liêng, bền vững nhất trong các mối quan hệ con người nói chung, con người và gia
đình nói riêng. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập, quan hệ đó đã có một số biến đổi
theo chiều hướng xấu. Khi chủ nghĩa cá nhân phát triển, nhiều người chỉ biết vun vén
cho quyền lợi ích kỷ của mình. Không ít gia đình, bố mẹ mải mê kiếm tiền hay theo
đuổi ham muốn cá nhân mà bỏ rơi con cái. Họ chỉ biết đem tiền về cho ô sin, vú nuôi,
hay phó mặc con cho nhà trường và xã hội. Những đứa trẻ lớn lên thiếu thốn tình yêu
và sự dạy bảo, chăm sóc của cha mẹ - người thầy đầu tiên của đời mình - đã mất đi
những nền tảng cơ bản của việc hình thành nhân cách tốt đẹp, nhiều em sinh ra đua
đòi, hư hỏng, thậm chí trở thành tội phạm. (https://www.tapchicongsan.org.vn/)

Mặt khác, hiện nay có không ít người con bất hiếu với cha mẹ. Hiện tượng con
cái bỏ rơi cha mẹ lúc tuổi già, không chăm nom, tính toán tiền bạc, chia ngày tính
tháng nuôi cha mẹ không phải là chuyện lạ trong xã hội.

Thường thấy nhất là hễ con không chăm học, điểm kém, sút hạng, làm đổ vỡ,
hư hỏng đồ đạc, không vâng lời dạy bảo... thì cha mẹ oang oang quát mắng cho hả cơn
giận bằng những từ ngữ như “đồ ngu”, “con quỷ”, “dốt như bò”... hay khi cha mẹ làm
việc nặng nhọc, mệt mỏi hoặc bực tức điều gì đó thì lại cứ tuôn ra những lời nói cộc
cằn, thô thiển. (https://baovinhlong.vn/)

Họ không ý thức được đó là hành vi thiếu văn hóa trong đối xử với con cái. Rồi
khi các con văng tục, chửi thề, đánh bạn, chọc phá người khác thì cha mẹ cho là
“hỗn”, là “vô lễ”, “mất dạy”... mà không thấy trách nhiệm của mình trong việc khuyên
răn giáo dục.
14
Dùng uy quyền để áp đặt, bắt buộc con làm theo mệnh lệnh của mình; nếu trẻ
không nghe thì dùng biện pháp trừng phạt từ thấp đến cao, như: bắt đứng cả đêm khi
trẻ lấy trộm tiền, cho nhịn ăn khi về muộn, không cho tiền tiêu vặt, viết kiểm điểm…
Một số bậc phụ huynh vì thiếu hiểu biết hoặc không kiềm chế được bản thân đã xâm
hại con về mặt tinh thần như: dùng lời lẽ cay độc, mắng chửi khiến trẻ bị tổn thương,
thậm chí coi việc hành hạ, đánh đập hoặc dùng các nhục hình với trẻ như là quyền của
họ. (http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/)

3.1.2. Tác hại.


Khi bước vào tuổi dậy thì, con luôn muốn khẳng định mình là người trưởng
thành. Vì vậy, việc thể hiện uy quyền để áp đặt con cái sẽ khiến trẻ có hành vi chống
đối và phá phách. Ngoài ra, một số trẻ sẽ thể hiện sự chống đối một cách ngấm ngầm.
Tình trạng này sẽ tạo ra khoảng cách giữa cha mẹ và con cái, đồng thời sẽ khiến cho
trẻ cảm thấy ngột ngạt và tù túng trong chính gia đình của mình.
(https://tamly.com.vn/)

Khi lớp trẻ tiếp thu thiếu tính chọn lọc; lối sống vì lợi ích cá nhân, vì cái tôi sẽ
làm mai một ít nhiều giá trị đạo đức truyền thống như sự hiếu thảo, tương thân tương
ái; làm nảy sinh những tệ nạn như: lối sống đua đòi, quen hưởng thụ, ma túy… Bởi
vậy, nếu gia đình không có một phương pháp giáo dục đúng đắn thì hậu quả mà gia
đình nói riêng và xã hội nói chung phải gánh chịu không sao lường trước được.
(http://giadinh.bvhttdl.gov.vn/)

Những hành vi đó đều vô tình đẩy con họ vào thế đối lập, nghĩ rằng cha mẹ
không thương yêu mình; thậm chí có thể khiến trẻ bị khủng hoảng tâm lý, tự ti, khó
hòa nhập; nhiều em trở nên hung hãn, lì lợm, xa lánh mọi người và căm ghét gia đình.
Trẻ thường xuyên bị cha mẹ quát mắng, đánh đập sẽ xuất hiện những cảm xúc bực
dọc, tâm trạng căng thẳng, dần dần chuyển sang trạng thái thô bạo và chống lại uy
quyền của cha mẹ…

15
3.2. Biểu hiện và tác hại của những hành vi thiếu văn hóa trong mối quan
hệ giữa sinh viên với thầy cô giáo.
3.2.1. Biểu hiện.
+ Văn hóa giao tiếp: Không ít những bạn sinh viên là một trong những số đó.
khi tới trường có thái độ bất kính với thầy cô giáo, phát ngôn thiếu văn hóa, thiếu tôn
trọng thầy cô. Các bạn ăn nói một cách vô tội vạ, không biết kính trên nhường dưới,
ăn nói ngang hàng với thầy cô như bạn bè của mình. Những ví dụ cụ thể như: các bạn
tân sinh viên thường có những thắc mắc về cách thức nhập học nên các bạn thường
hay gửi mail đến Phòng Đào tạo tuy nhiên các bạn lại gửi mail đó với nội dung cộc
lốc như “nhập học trường mình kiểu gì vậy ạ?’’ , “bao giờ thì đi học ạ?’’,.. hay là việc
các bạn miệt thị, xem thường thầy cô, thường nói những lời không hay về thầy cô với
bạn bè.

+ Văn hóa hành động: Khi tới trường có thái độ bất kính với thầy cô giáo,
phát ngôn thiếu văn hóa, có những hành xử thiếu tôn trọng người khác. Chỉ vì một
chút lỗi lầm bị thầy cô nhắc nhở cũng vì thế mà lên mạng xã hội nói những điều
không hay. Hoặc là những hành động làm ảnh hưởng đến không chỉ là thầy cô, mà cả
các bạn xung quanh như là khi không thích môn học này, một số bạn trẻ không tập
trung nghe thầy cô giảng nhưng bạn lại làm việc riêng, gây ra tiếng ồn ảnh hướng đến
mọi người.

+ Bên cạnh đó trong giáo dục còn tồn tại một vấn đề đáng lo ngại là giữa sinh
viên và giáo viên tồn tại một mối quan hệ bất chính, vì lợi ích cá nhân riêng của mình
để duy trì mối quan hệ này. Ví dụ sinh viên tìm đến giáo viên để bỏ tiền ra mua điểm
số, sinh viên thực hiện các nhu cầu cá nhân của giáo viên để đạt được kết quả cao,
được qua môn,....

3.2.2. Tác hại.

Khi càng duy trì thói quen xấu này thì chắc chắn bạn đang biến mình thành một
con người không có giáo dục. Khi các bạn không tôn trọng người khác thì đương
nhiên các bạn cũng sẽ không được người khác tôn trọng. Bản thân con người ứng xử
thiếu văn hóa chính là đang tự hạ thấp nhân cách, đánh mất phẩm chất đạo đức của
mình, bị mọi người coi thường, khinh chê và bị xã hội lên án, đào thải. Xã hội càng có

16
nhiều hành vi ứng xử thiếu văn hóa sẽ trở thành một xã hội mất ổn định, suy đồi,
xuống cấp và mục nát, không có cơ hội phát triển. Bởi trong xã hội, yếu tố con người
là quan trọng nhất, cốt lõi nhất, con người bị đào thải, mất hết giá trị vì ứng xử thiếu
văn hóa thì xã hội đó cũng sẽ bị suy vong và đào thải. Giải pháp tối ưu nhất và khẩn
cấp nhất cho trường hợp này chính là ý thức của con người trong văn hóa ứng xử, mỗi
cá nhân phải tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mình sao cho phù hợp với chuẩn mực
đạo đức, hợp đạo lý và lòng người, luôn đặt sự tôn trọng nhau lên hàng đầu, bên cạnh
đó, cần mở rộng tấm lòng bao dung và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh cuộc sống.
(vusta.vn)

17
18

You might also like