Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

1.

Những thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân và những nội dung để xác
định khái niệm về giai cấp công nhân?
+ Giai cấp công nhân là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các
công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.
C.Mác và PhĂngghen chỉ rõ: “ Các giai cấp đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự
phát triển của nền đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản
thân nền đại công nghiệp” – C.Mác và PhĂngghen: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.2000,
tập4, tr.610
+ Giai cấp công nhân là những người lao động không có tư liệu sản xuất, phải bán
sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về giá trị thặng dư.
-Những biểu hiện mớicủa giai cấp công nhân ở các nước tư bản hiện nay:
Ngày nay, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân
hiện đại có nhiều thay đổi hơn trước:
Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn, xu hướng
“ tri thức hóa công nhân” ngày càng tăng, phần đông họ là những người vô sản
trần trụi với hai bàn trắng; đa phần làm thuê trong những ngành khác nhau của
nền sản xuất công nghiệp hiện đại, tự động hóa ngày càng cao…
+ Mặc dù có những biểu hiện mới, phát triển hơn trước, nhưng bản chất của giai
cấp công nhân vẫn không hề thay đổi theo hướng thuộc tính (tiêu chí) như Mác
đã chỉ ra.
+ Chính vì thế giai cấp công nhân vẫn là giai cấp đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến, quyết định sự thay đổi của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, cùng với
giai cấp công nhân ở các nước xã hội chủ nghĩa có sứ mệnh lãnh đạo và tổ chức
nhân dân lao động tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa cộng sản.
2. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về điều kiện khách
quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân có những nội dung sứ mệnh lịch sử nêu trên là donhững điều
kiện khách quan sau đây quy định:
3.1. Địa vị kinh tế – xã hội của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa tư bản
Trong mỗi hình thái kinh tế – xã hội, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và
luôn vận động phát triển do sự thay đổi không ngừng của công cụ lao động ở trình
độ ngày càng cao. Nhưng trình độ của công cụ lao động thay đổi được là kết quả
của hoạt động sáng tạo của con người.Trong chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội
với nền sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển, giai cấp công nhân trở
thành bộ phận quan trọng nhất, cách mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất. Lao động sống của giai cấp công nhân tạo ra phần lớn của cải vật
chất cho xã hội và đóng vai trò có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, do không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất, giai cấp công
nhân buộc phải bán sức lao động trở thành người làm thuê cho giai cấp tư sản và
bị giai cấp tư sản bóc lột nặng nề. Trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư sản chỉ có
thể bóc lột được giai cấp công nhân khi họ nắm giữ, chi phối tư liệu sản xuất của
xã hội. Do vậy, bằng mọi giá, giai cấp tư sản phải duy trì chế độ sở hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất. Mặt khác, giai cấp công nhân cũng chỉ được giải phóng khỏi mọi
sự áp bức, bóc lột khi xoá bỏ được chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và
thay thế vào đó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất.
Giai cấp tư sản bóc lột, song giai cấp công nhân là đối tượng bị bóc lột trực tiếp và
nặng nề nhất. Do vậy, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân đối lập trực tiếp với lợi
ích cơ bản của giai cấp tư sản.Giai cấp công nhân có lợi ích cơ bản thống nhất với
lợi ích của đại đa số nhân dân lao động, bởi vì muốn giải phóng mình khỏi mọi sự
áp bức, bóc lột, giai cấp công nhân phải đấu tranh xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Nếu điều này trở thành hiện thực thì giai cấp công nhân không
chỉ giải phóng mình mà còn giải phóng toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột.
Hơn nữa, do điều kiện làm việc và điều kiện sống chủ yếu là ở các khu công
nghiệp tập trung và ở các thành phố lớn, nên giai cấp công nhân có khả năng tập
hợp lực lượng, đoàn kết với các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động khác trong
cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và giải phóng toàn xã
hội.

3.2. Đặc điểm chính trị – xã hội của giai cấp công nhân
Do địa vị kinh tế - xã hội quy định khiến cho giai cấp công nhân có những đặc
điểm chính trị – xã hội mà những giai cấp và tầng lớp khác không thể có được. Đó
là những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Giai cấp công nhân có tính tiên phong và tinh thần cách mạng triệt để
nhất. Tính tiên phong của giai cấp công nhân thể hiện ở việc nó đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại. Do yêu cầu khách quan của việc đổi
mới liên tục công nghệ của sản xuất công nghiệp, nên giai cấp công nhân phải
không ngừng học tập, rèn luyện trau dồi tri thức chuyên môn kỹ thuật, nâng cao
tay nghề ở trình độ ngày càng cao.Giai cấp công nhân có hệ tư tưởng độc lập,
được trang bị bởi lý luận tiền phong là chủ nghĩa Mác-Lênin và là lực lượng đi đầu
trong mọi phong trào cách mạng xoá bỏ áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới tiến
bộ vì hạnh phúc của con người.Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để
nhất bởi vì lợi ích của họ mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Lợi ích
của giai cấp công nhân chỉ thực sự được đảm bảo khi xoá bỏ triệt để chế độ sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và các hình thức tư hữu khác. Trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân chỉ được giải phóng khi đồng thời giải phóng
toàn xã hội khỏi mọi sự áp bức, bóc lột. Tính triệt để cách mạng của giai cấp công
nhân còn được thể hiện trong tiến trình cách mạng không ngừng cho tới khi xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới.
Thứ hai: Giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao.Sản xuất công
nghiệp hiện đại theo dây chuyền và tính chuyên môn hoá cao độ đã khách quan
rèn luyện cho giai cấp công nhân có tính tổ chức kỷ luật cao trong quá trình lao
động sản xuất. Đồng thời, bản thân cuộc đấu tranh một mất một còn của giai cấp
công nhân chống lại giai cấp tư sản đã tôi luyện cho giai cấp công nhân phải có ý
thức tổ chức cao.
Thứ ba: Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Bản chất quốc tế của giai cấp
công nhân thể hiện ở địa vị kinh tế – xã hội, ở nội dung sứ mệnh lịch sử của họ
giống nhau trên toàn thế giới. Bản chất quốc tế của giai cấp công nhân có được
còn xuất phát từ yêucầu khách quan của sản xuất công nghiệp hiện đại ngày nay
đã mang tính quốc tế hoá và toàn cầu hoá rộng rãi. Hơn nữa, vì mục tiêu lợi
nhuận, giai cấp tư sản ở các nước phải liên kết với nhau trên phạm vi quốc tế. Do
vậy, muốn chiến thắng giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân ở
các nước phải đoàn kết lại tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ và trở thành
lực lượng quốc tế hùng mạnh.
3. Phân tích quan điểm của chủ nghĩa mác – Lênin về tính quy luật của sự ra
đời Đảng Cộng sản và mối quan hệ giữa Đảng và giai cấp công nhân
Sự lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vì vậy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là vấn
đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Nghị quyết
Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn
Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy
tín, ngang tầm nhiệm vụ”(5). Đảng ta chỉ rõ: “Kiên định những vấn đề có tính
nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng
và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả; bản lĩnh chính trị của
Đảng, của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng viên”(6). Vấn đề đặt ra hiện nay là,
mọi tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, cán bộ, đảng viên phải nắm
vững toàn bộ nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và
phương thức lãnh đạo; đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách và lề lối làm
việc thật sự dân chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm; quán triệt và thực hiện có hiệu
quả Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về: “Đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đó là
những vấn đề cơ bản, cấp thiết nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng. Kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với giai cấp, dân tộc và xã hội là
vấn đề chiến lược có tính nguyên tắc đã và đang đặt ra những yêu cầu mới và
toàn diện, song bên cạnh đó cũng còn nhiều khó khăn, thách thức. Với bản lĩnh đã
được tôi luyện trong thực tiễn cách mạng, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua và làm
tốt sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao phó. Mọi âm mưu, thủ đoạn
chống phá cách mạng của các thế lực thù địch nhằm làm mất uy tín, danh dự, phủ
nhận vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với giai cấp và xã hội chắc chắn sẽ vị
vạch trần và thất bại. Bởi vậy, Đảng cần kế thừa và phát huy những bài học kinh
nghiệm trong lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng cần tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên
cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng,
không ngừng bổ sung, hoàn thiện và nâng cao hiệu lực cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
nói riêng trong thời kỳ mới.
4. Phân tích những điều kiện để giai cấp công nhân làm tròn sứ mệnh lịch sử
của mình.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam với chính sách khai thác thuộc
địa của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam đã ra
đời từ đầu thế kỷ này, trước cả sự ra đời của giai cấp tư sản Việt Nam và là giai
cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp. Sinh ra và lớn lên ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự thống trị của đế quốc Pháp, một thứ chủ nghĩa
tư bản thực lợi không quan tâm máy đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc
địa, nên giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm.Mặc dù số lượng ít, trình độ
nghề nghiệp thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song
giai cấp công nhân Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò lãnh
đạo cách mạng ở nước ta do những điều kiện sau đây:- Giai cấp công nhân Việt
Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất chống
ngoại xâm. ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cọng với nỗi khổ vì ách áp
bức bóc lột của giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc
kết hợp làm một, khiến động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để
cách mạng của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.- Giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong không khí sôi nổi của một loạt
phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp liên tục nổ ra từ
khi chủ nghĩa đế quốc Pháp đặt chân lên đất nước ta: phong trào Cần Vương
5. Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa?
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự cải biến xã hội một cách căn bản về chất nhằm
thay thế chế độ tư bản chủ nghĩa bằng chế độ xã hội chủ nghĩa.
Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, kết
thúc bằng việc giai cấp công nhân giành được chính quyền và thiết lập nhà nước
chuyên chính vô sản.
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai giai đoạn: cách mạng
về chính trị với nội dung là giành chính quyền, thiết lập nhà nước chuyên chính vô
sản; tiếp theo là giai đoạn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội cho đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản.
6. Phân tích nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa
Nguyên nhân sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa chính là do mâu thuẫn
giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất trong lòng chủ nghĩa tư
bản. Đến chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã mang trình độ
xã hội hóa cao độ với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
biểu hiện ra về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
đã trở nên gay gắt. Mâu thuẫn này đặt ra yêu cầu khách quan là phải xoá bỏ quan
hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời để thiết lập một quan hệ sản xuất
mới phải mang trình độ xã hội hóa để phù hợp với trình độ xã hội hóa đã đạt
được của lực lượng sản xuất. Cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là một tất yếu lịch
sử nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó.
Hiện nay trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế, trình độ xã hội hóa của lực lượng
sản xuất hiện đại đã đạt đến mức cao độ khiến cho mâu thuẫn cơ bản trong lòng
chủ nghĩa tư bản hiện đại đã hết sức gay gắt và trở thành vật cản lớn của phát
triển. Biểu hiện ở quyền định đoạt tư bản; thao túng các nguồn tư bản lưu động
(thông qua thị trường chứng khóan); quyền khai thác, bóc lột tài nguyên và sức
lao động đến mức cạn kiệt và ô nhiễm môi trường trầm trọng; quyền sử dụng tư
liệu sản xuất vì mục tiêu lợi nhuận, nhiều khi bất chấp các giá trị nhân văn, tiến bộ
và phát triển; quyền phân phối sản phẩm lao động xã hội. Quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa hiện đại đã trở thành lực cản, kìm hãm, phá huỷ… lực lượng sản
xuất, thậm chí dẫn đến khủng hoảng kinh tế trầm trọng.
7. Phân tích mục tiêu và động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
a. Mục tiêu
Mục tiêu giai đoạn thứ nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giành chính quyền
về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Mục tiêu giai đoạn thứ hai của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân
phải tập hợp, tổ chức quần chúng nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới về mọi mặt.
Mục tiêu lâu dài và cao nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là giải phóng xã hội,
giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
b. Động lực
Giai cấp công nhân vừa là động lực cơ bản chủ yếu, vừa là người tổ chức và lãnh
đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thông qua đội tiên phong của mình là Đảng
cộng sản.
Ở các nước nông nghiệp, nông dân còn chiếm số đông trong dân cư thì giai cấp
nông dân là một lực lượng cách mạng hết sức to lớn. Vì vậy, giai cấp công nhân
cần phải liên minh với giai cấp nông dân để hợp thành động lực to lớn trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đánh
giá vai trò của giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh
từng nói: nông dân là lực lượng to lớn, “nếu khéo tổ chức, khéo lãnh đạo thì lực
lượng này sẽ làm xoay trời chuyển đất” 1.

Trí thức là một bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ của đất nước, có vai trò hết sức quan
trọng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đánh giá tầm quan trọng của trí thức đối
với cách mạng xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh chỉ rõ: chỉ có chủ nghĩa xã hội mới
biết trọng trí thức và chỉ có trong cách mạng xã hội chủ nghĩa trí thức mới được
phát huy hết năng lực sáng tạo của mình.

Động lực tổng hợp của cách mạng xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân
trên cơ sở liên minh công – nông – trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
của giai cấp công nhân; đồng thời đoàn kết rộng rãi các lực lượng tiến bộ, dân
chủ, yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới cùng hướng tới mục tiêu: độc lập tự
do, dân chủ, tiến bộ, hoà bình và chủ nghĩa xã hội.

c. Nội dung
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng có nội dung toàn diện, diễn ra trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
– Trên lĩnh vực chính trị: Giai cấp công nhân trước hết phải đập tan nhà nước của
giai cấp bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, đưa những người lao động từ địa vị nô lệ làm thuê lên địa vị làm chủ nhà
nước và xã hội.

Bước tiếp theo là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, mà thực chất là thu hút
nhân dân lao động tham gia ngày càng đông đảo vào việc quản lý nhà nước, quản
lý xã hội, phát huy tính tích cực chính trị – xã hội của nhân dân bằng nhiều hình
thức phong phú do chính nhân dân sáng tạo ra.

– Trên lĩnh vực kinh tế: Cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến hành xoá bỏ chế độ sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xác lập sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới nhiều hình
thức thích hợp nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội; thực
hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và một số hình thức phân phối khác (ví
dụ phân phối theo những đóng góp khác…) nhằm nâng cao đời sống vật chất cho
nhân dân và thực hiện công bằng xã hội. Đây là nội dung cơ bản của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, đồng thời là điểm để phân biệt cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
với các cuộc cách mạng khác.

– Trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: Cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng – văn hóa là
sự biến đổi căn bản trong phương thức sinh hoạt tinh thần của xã hội; giải phóng
nhân dân lao động khỏi mọi xiềng xích nô lệ về mặt tinh thần, đồng thời, tạo điều
kiện để nhân dân lao động hưởng thụ và sáng tạo các giá trị văn hóa; kế thừa,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu các
giá trị văn hóa tiên tiến của thời đại. Làm cho thế giới quan Mác-Lênin và nhân
sinh quan cộng sản chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.

d. Lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác-Lênin:


Trong lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa, lý luận cách
mạng không ngừng giữ một vị trí quan trọng.

– Theo quan niệm của Mác và Ph.Ăngghen, cách mạng không ngừng là tiến trình
cách mạng gồm hai giai đoạn nhưng phát triển liên tục, mỗi giai đoạn có những
mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể. Hoàn thành mục tiêu của giai đoạn thứ nhất để tiến
tới mục tiêu cuối cùng.

Các ông cho rằng: Ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình, cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân cần liên kết chặt chẽ với giai cấp nông dân và các lực
lượng tư sản để lật đổ chế độ phong kiến, giành mục tiêu dân chủ. Sau đó, giai
cấp công nhân liên minh với giai cấp nông dân để tiếp tục đấu tranh chuyển sang
chống lại giai cấp tư sản và tiến tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

– V. I.Lênin đã phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của C.Mác và
Ph.Ăngghen thành lý luận cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới. Theo V.I.Lênin,
trong cuộc cách mạng này, giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo, liên minh
với giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động nhằm cô lập giai cấp tư
sản phản động, lật đổ chế độ phong kiến, thiết lập chuyên chính cách mạng của
công – nông, tạo ra những tiền đề để chuyển sang thực hiện nhiệm vụ của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Hoàn thành giai đoạn thứ nhất (giành chính quyền, giành mục tiêu dân chủ)
không phải là mục tiêu cuối cùng, mà phải tiếp tục “cách mạng không ngừng” –
tức là chuyển ngay sang thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu của giai đoạn cách mạng
xã hội chủ nghĩa.
Muốn thực hiện “cách mạng không ngừng”, chủ nghĩa Mác-Lênin nêu ra ba điều
kiện:

Một là: Giai cấp công nhân và Đảng của nó phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh
đạo ở cả hai giai đoạn cách mạng kế tiếp nhau liên tục.

Hai là: Phải tổ chức được liên minh công – nông phù hợp với từng giai đoạn cách
mạng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của giai cấp công nhân.

Ba là: Củng cố vững chắc chính quyền dân chủ cách mạng để hoàn thành những
nhiệm vụ của giai đoạn thức nhất, đồng thời chuẩn bị những điều kiện để chuyển
sang giai đoạn thứ hai – giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận cách mạng không
ngừng, đặc biệt là lý luận cách mạng tư sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác-Lênin vào
điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thể hiện ở chỗ: Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân của nước ta do giai cấp công nhân lãnh đạo thông qua đội tiên phong là
Đảng cộng sản Việt Nam đã giành thắng lợi vào tháng 8/1945. Sau đó, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao động tiếp tục cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và giành thắng lợi vào năm 1954. Sau
năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, miền
Bắc chuyển ngay sang thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa; miền Nam kiên trì đấu tranh để hoàn thành nốt cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, tiến tới thống nhất đất nước (1975). Sau năm 1975, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu khách quan.

5. Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao
động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
a. Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các
tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Liên minh giai cấp là một trong những nguyên lý quan trọng của học thuyết Mác-
Lênin, đồng thời là vấn đề có tính nguyên tắc của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Điều này được thể hiện rõ khi C.Mác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của
các cuộc cách mạng vô sản diễn ra ở Pháp giữa thế kỷ XIX. Mác viết: giai cấp vô
sản không thể tiến lên được và cũng không thể đụng đến một sợi tóc của chế độ
tư sản chừng nào họ chưa lôi kéo được nông dân và các tầng lớp lao động khác đi
theo và ủng hộ.

Vận dụng và phát triển tư tưởng này của C.Mác và Ph.ăngghen trong giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, nhất là trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau
cách mạng tháng Mười năm 1917, V.I.Lênin đã nhiều lần khẳng định sự cần thiết
phải thực hiện liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác, xem đó như là “nguyên tắc cao nhất của chuyên chính
vô sản”. Trong các tầng lớp lao động đó, Người đặc biệt chú ý đến tầng lớp trí
thức bởi họ đại diện cho trí tuệ của dân tộc và đóng vai trò quan trọng trong việc
sáng tạo tri thức mới và vận dụng những thành tựu của khoa học vào các quá
trình phát triển kinh tế – xã hội. Do đó, thực hiện liên minh công – nông – trí thức
chính là để tạo ra động lực to lớn và sức mạnh tổng hợp để tiến hành thắng lợi
cách mạng xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin viết: “Trước sự liên minh của các đại biểu
khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng
vững được” .

Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
xuất phát từ yêu cầu khách quan của sản xuất. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội đặt ra yêu cầu khách quan phải xây dựng một nền kinh tế quốc dân thống
nhất bao gồm các lĩnh vực chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, khoa học – công
nghệ và các lĩnh vực khác của đời sống để tạo thành cơ sở vật chất – kỹ thuật cần
thiết cho chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình sản xuất, mỗi ngành kinh tế có vị trí,
vai trò riêng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Song nếu từng ngành kinh tế
không nhận được sự hỗ trợ của các ngành kinh tế khác, không liên kết, hợp tác
được với nhau thì không chỉ việc sản xuất của từng ngành đình trệ, hiệu quả thấp
mà toàn nền kinh tế quốc dân vì thế cũng không thể phát triển được, nhất là ở
những nước nông nghiệp lạc hậu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó phải
đặc biệt coi trọng sự gắn kết chặt chẽ, khăng khít các ngành kinh tế với nhau.

Từ yêu cầu khách quan của sản xuất như vậy nên các chủ thể của nó là nông dân,
công nhân, trí thức và các tầng lớp lao động khác cũng phải gắn bó, liên minh chặt
chẽ với nhau để cùng thực hiện những nhu cầu và lợi ích kinh tế chung của mình.

Xét về mặt chính trị – xã hội, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, cần phải
có lực lượng, trong đó, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức là
ba lực lượng không chỉ chiếm số đông trong dân cư, mà còn là lực lượng cơ bản
để thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, do đó phải thực hiện liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp nhân dân
lao động để tạo thành cơ sở của nhà nước, của khối đại đoàn kết toàn dân.

b. Nguyên tắc cơ bản và nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện tốt
những nội dung của liên minh trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa cần bảo
đảm những nguyên tắc cơ bản sau:

Thứ nhất: Phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội
tiên phong là Đảng cộng sản đối với khối liên minh. Điều này là do địa vị kinh tế,
xã hội, chính trị khách quan của giai cấp công nhân quy định. (Giai cấp công nhân
đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến; có hệ tư tưởng độc lập, khoa học và
cách mạng).
Thứ hai: Phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện và kết hợp đúng đắn các lợi ích của
các chủ thể trong khối liên minh. Suy đến cùng, liên minh giai cấp được hình
thành là nhằm thoả mãn những nhu cầu và lợi ích chung của các chủ thể trong
khối liên minh. Nói cách khác, sự thống nhất về lợi ích của giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động là cơ sở và là điều kiện căn bản nhất để
thực hiện và tăng cường khối liên minh. Vì vậy, trong quá trình phát triển, nếu lợi
ích của lực lượng nào bị vi phạm sẽ rất dễ dẫn đến những rạn nứt hoặc làm ảnh
hưởng đến tính bền vững của khối liên minh. Vì vậy, quá trình thực hiện liên minh
vừa phải trên tinh thần tự nguyện; đồng thời là quá trình liên tục phát hiện ra
mâu thuẫn và kịp thời giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh, nhằm bảo đảm lợi
ích thiết thực của các bên. Có như vậy, khối liên minh mới không ngừng được
củng cố và tăng cường.

Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng
lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

– Liên minh trên lĩnh vực chính trị: Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
nhằm tập hợp lực lượng giành lấy chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động; trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, các lực lượng này liên
minh chặt chẽ cùng xây dựng nhà nước, xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và những thành quả của cách mạng. Trong quá trình thực hiện nội dung
chính trị của liên minh, phải đảm bảo giữ vững lập trường chính trị – tư tưởng của
giai cấp công nhân đối với khối liên minh.

– Liên minh trên lĩnh vực kinh tế: Là nội dung cơ bản và có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Thực hiện liên minh về kinh tế giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân là vừa phải bảo đảm lợi ích của nhà nước, của xã hội, vừa phải quan tâm đến
lợi ích của giai cấp nông dân. Muốn vậy, phải coi trọng xây dựng hệ thống chính
sách kinh tế – xã hội phù hợp đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Đồng
thời thông qua liên minh nhằm thỏa mãn những nhu cầu và lợi ích chung của các
chủ thể trong khối liên minh. Nói cách khác, sự thống nhất về lợi ích của giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động là cơ sở và là điều kiện căn
bản nhất để thực hiện và tăng cường khối liên

– Liên minh trên lĩnh vực văn hóa, xã hội: Là một nội dung quan trọng trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện nội dung liên minh này đòi hỏi phải nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; nâng cao trình độ văn hóa cho công
nhân, nông dân và nhân dân lao động khác. Xây dựng xã hội nhân văn, nhân đạo,
tiến bộ và phát triển bền vững vì con người; các dân tộc đoàn kết, hữu nghị,
tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển.

You might also like