Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 13

THU HÀ KHOA VĂN HỌC - CHÚC CÁC BẠN THI TỐT

CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, là một trạng thái tiến bộ được thể hiện ở hai mặt vật chất và
tinh thần được con người và xã hội loài người sáng tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội. Trái với
văn minh là dã man, hoang dã, lạc hậu,…
Ví dụ: Văn minh phương Tây, văn minh phương Đông, văn minh Trung Hoa,…
Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế) . Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương Tây đô thị.
Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện). Tuy nhiên, có những thành tựu
văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn minh đều mang tính chất tiến bộ ở đỉnh cao. Văn
minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
Lịch sử văn minh là sử dụng phương pháp khoa học lịch sử, hệ tư tưởng quan điểm khoa học lịch sử, nghiên
cứu các quá trình phát sinh, phát triển của các hiện tượng văn minh, các nền văn minh và các thời đại văn
minh. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng phương pháp luận của trường phái sử học Mác -
Lênin là lý thuyết kết hợp giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, vận dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong nhận thức đời sống xã hội và toàn bộ lịch sử nhân loại.
Một số phương pháp cụ thể như:
Phương pháp lịch sử: Là phương pháp xem xét và trình bày quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng
lịch sử theo một trình tự liên tục và nhiều mặt, có lớp lang sau trước, trong mối liên hệ với các sự vật, hiện
tượng khác. Yêu cầu đối với phương pháp lịch sử là đảm bảo tính liên tục về thời gian của các sự kiện; làm rõ
điều kiện và đặc điểm phát sinh, phát triển và biểu hiện của chúng, làm sáng tỏ các mối liên hệ đa dạng của
chúng với các sự vật xung quanh.
Phương pháp logic: Là phương pháp xem xét, nghiên cứu các sự kiện lịch sử dưới dạng tổng quát, nhằm vạch
ra bản chất, khuynh hướng tất yếu, quy luật vận động của lịch sử. Có nghĩa là trình bày các sự kiện một cách
khái quát trong mối quan hệ đúng quy luật, loại bỏ các chi tiết không cơ bản.
Phương pháp đồng đại: Thực chất là xác định các hiện tượng, quá trình khác nhau xảy ra cùng một thời điểm
(có liên quan đến nhau). Phương pháp này giúp chúng ta bao quát được toàn vẹn và đầy đủ quá trình lịch sử ;
so sánh được cái gì đã xảy ra trong cùng một thời gian, ở các nước khác nhau, cũng như so sánh các quá trình
có tính chất khác nhau xảy ra trên cùng một lãnh thổ (Ví dụ : phong trào công nhân, nông dân, trí thức, quân
đội,...).
Phương pháp lịch đại: Cho phép nghiên cứu quá khứ lần theo các giai đoạn phát triển trước kia của nó. Dựa
vào quan niệm của chủ nghĩa Mác Lênin về sự thống nhất giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, dựa vào quan
niệm biện chứng cho rằng trong một quá trình phát triển mỗi giai đoạn tiếp sau đều mang trong mình nó
những đặc điểm và những yếu tố của giai đoạn trước.
Phương pháp liên ngành: Do Lịch sử văn minh đề cập đến các lĩnh vực của rất nhiều ngành khoa học khác
(ngôn ngữ học, triết học, tôn giáo,...), phải nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo các tri thức khoa học
liên ngành để nghiên cứu lịch sử văn minh.
Ngoài ra còn cần sử dụng nhiều phương pháp khác như phương pháp khảo sát, nghiên cứu thực địa, phân kỳ,
...
Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành tựu phát triển đỉnh cao, góp
phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,…

PAGE 1
CÁCH TIẾP CẬN LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Văn minh là trạng thái tiến bộ cả về hai mặt vật chất và tinh thần của xã hội loài người, tức là trạng thái phát
triển cao nhất của nền văn hoá. Trái với văn minh là dã man, hoang dã, lạc hậu,…
Ví dụ: Văn minh phương Tây, văn minh phương Đông, văn minh Trung Hoa, văn minh Hy Lạp,…
Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế). Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương Tây đô thị.
Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện). Tuy nhiên, có những thành tựu
văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn minh đều mang tính chất tiến bộ ở đỉnh cao. Văn
minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
So sánh văn hoá với văn minh
Văn hoá dùng để chỉ những giá trị về vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để góp phần vào sự ổn
định, tô điểm, làm đẹp cho cuộc sống của con người và xã hội.
Đặc trưng của văn hoá: Là cái để phân biệt con người với động vật, là đặc trưng riêng của xã hội loài người.
Không được kế thừa về mặt sinh học (di truyền) mà phải học tập, giao lưu. Là cách ứng xử đã được mẫu thức
hoá.

Văn hóa Văn minh


Có bề dày quá khứ. Là lát cắt đồng đại.
Mang tính dân tộc. Mang tính siêu dân tộc.
Xuất hiện khi có con người Xuất hiện khi có Nhà nước
Văn hóa là sự khác biệt Văn minh thể hiện sự cao thấp
Xu hướng tìm đến cái riêng Xu hướng cái chung, cái phổ biến
Thường liên quan đến tinh thần Thường liên quan đến khoa học – công nghệ - kĩ
thuật

Thế nào là một nền văn minh?


Nền văn minh có thể hiểu như là văn hoá của một xã hội phức tạp, thể hiện phẩm chất tiên tiến từ một xã hội
thống nhất. Các nền văn minh có nền tảng văn hoá đa dạng, bao gồm văn học, hội hoạ, kiến trúc, tôn giáo, tín
ngưỡng,… được kết hợp hài hoà. Nền văn minh có bản năng mở rộng ra khu vực khai sinh ban đầu, vươn xa
và ảnh hưởng đến những vùng đất xa xôi khác. Một nền văn minh hình thành trong một không gian địa lý nhất
định, có một thời gian tồn tại nhất định và có chủ nhân riêng.
Một nền văn minh gồm 3 yếu tố: Chức năng sản xuất ra của cải vật chất., chức năng điều chỉnh tổ chức và
phát triển xã hội, chức năng tạo ra các sản phẩm tinh thần.
Những cơ sở hình thành nền văn minh
Điều kiện tự nhiên :
Vị trí địa lý – Khí hậu :
Thuận lợi: thời tiết ổn định, nguồn lao động dồi dào, giàu tài nguyên khoáng sản,…
Khó khăn: thời tiết bất thường (bão, lũ lụt, hạn hán,…), chiến tranh,…
Điều kiện kinh tế: nền tảng vật chất của nền văn minh (nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn,
sự giao lưu buôn bán,…)
Điều kiện chính trị: trình độ tổ chức, quản lí xã hội.
Điều kiện xã hội: sự phân hoá và kết cấu giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Điều kiện cư dân: Cư dân là chủ nhân của nền văn minh, cộng đồng cư dân tạo ra nền văn minh.
Lịch sử hình thành và phát triển: làm rõ quá trình hình thành, phát triển, suy vong, phục hưng của các nền

PAGE 2
văn minh trong một tiến trình lịch sử cụ thể…
Trình độ tổ chức sản xuất (kinh tế): trình độ sử dụng tư liệu sản xuất và tổ chức các quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, cách phân chia kết quả lao động giữa các thành phần dân
cư,…
Trình độ kiểm soát, quản lý xã hội: xem kết cấu hạ tầng xã hội như thế nào, mối quan hệ, mâu thuẫn giữa
các giai tầng xã hội, cách tổ chức kiến trúc thượng tầng xã hội…
Nội dung của lịch sử văn minh thế giới :
Trình độ sản xuất vật chất: Thể hiện trình độ kiểm soát, chiếm lĩnh của con người với thế giới tự nhiên, thông
qua các hoạt động sản xuất ra của của vật chất, các sinh hoạt kinh tế trong mỗi nền văn minh.
Trình độ kiểm soát, quản lí xã hội: Thể hiện trình độ tổ chức và quản lí xã hội thông qua bộ máy nhà nước, hệ
thống pháp luật, các thể chế xã hội (giai cấp, tư tưởng, tập quán xã hội, cộng đồng,…)
Trình độ chiếm lĩnh thế giới tư duy và sáng tạo văn hoá: Bao gồm tổng thể tri thức về thế giới khách quan
được sáng tạo, khám phá (nghệ thuật, tư tưởng, tôn giáo, khoa học,…)
Tám yếu tố của thành tựu văn minh bao gồm:
Chữ viết: là hệ thống các kí tự đặc biệt ghi lại tiếng nói của con người, là phương tiện để truyền tải thông tin
qua không gian và thời gian.
Ví dụ: chữ tượng hình (Ai Cập), chữ Brami (Ấn Độ), chữ Lệ (Trung Hoa),…
Văn học: những sáng tác văn học thể hiện niềm tin, ý chí, tình cảm của bộ phận dân cư sang tại ra nền văn
minh.
Sử học: quá trình hình thành nền sử học cùng những nhận xét, nhận định về các sự kiện trong tiến trình lịch
sử.
Nghệ thuật: hội họa, điêu khắc,kiến trúc,…
Khoa học tự nhiên: các phát minh về toán học, vật lý, hóa học, sinh học,..xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.
Triết học: hệ thống tư tưởng quan điểm của bộ phận dân cư đó về cuộc sống, con người, xã hội…
Tôn giáo, tư tưởng: Các niềm tin và tín ngưỡng (Hoàn cảnh, tích truyện, hệ thống thế giới quan, nhân sinh
quan, sự thờ phụng và cuộc sống đạo đức)
Luật pháp: hệ thống quy tắc tổ chức, quản lý xã hội.
Phân loại văn minh
Theo nền văn minh: Alvin Toffler đã phân kỳ lịch sử theo 3 đợt sóng văn minh: văn minh nông nghiệp, văn
minh công nghiệp, văn minh tin học.
Theo khu vực :
Phương Đông: các trung tâm văn minh nằm trên lưu vực các dòng sông lớn ở châu Á, Đông Bắc châu Phi như
sông Ấn, sông Hằng, sông Hoàng Hà, sông Trường Giang,… Thời cổ đại có các trung tâm như Ai Cập, Lưỡng
Hà, Ấn Độ, Trung Quốc. Thời trung đại có các trung tâm như Trung Quốc, Ấn Độ, Ả rập.
Phương Tây: các trung tâm văn minh nằm ở các đảo, bán đảo. Thời cổ đại có các trung tâm như Hy Lạp,
Roma. Thời trung đại có trung tâm văn minh Tây Âu.
Vai trò của Lịch sử văn minh thế giới
Động lực thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, giúp nhân loại đạt đến những thành tựu phát triển đỉnh cao, góp
phần ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người,…

PAGE 3
THÀNH TỰU KHOA HỌC TỰ NHIÊN CỦA AI CẬP CỔ ĐẠI
Cơ sở hình thành : Bầu trời Ai Cập quanh năm trời quang mây tạnh do vậy dễ quan sát. Mực nước lên xuống
của sông Nile, có hai mùa nước dâng hạ. Nhu cầu về nông nghiệp, xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc
ruộng đất, tính toán thuế khoá. Nhu cầu về tôn giáo, những người phục vụ cho tôn giáo thường quan sát bầu
trời để đưa ra lễ, luật cúng tế.
Toán học : Toán học Ai Cập ra đời từ rất sớm, bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực tế cuộc sống của người
Ai Cập, phát triển khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực số học, đại số và hình học. Do nhu cầu thực tiễn, nhu cầu
của sản xuất nông nghiệp, tính toán vật liệu xây dựng các công trình kiến trúc, đo đạc,… là những nguyên
nhân thúc đẩy toán học ra đời.
Thiên niên kỷ III trước Công nguyên xuất hiện từng bước quan niệm trừu tượng về các con số.
Thiên niên kỷ II trước Công nguyên: phát triển thành công hệ đếm, nhưng vẫn chưa sáng tạo ra số 0, cho nên
khi đếm đến 10, họ đã lấy một đoạn dây thừng để ghi nhớ, đến 1000 thì vẽ cái cây
Hệ số thập phân: cơ số 10, chưa có số 0, biết làm các phép cộng và trừ, còn nhân và chia thì thực hiện bằng
cách cộng và trừ liên tiếp.
Đại số: giải phương trình bậc nhất, tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân
Hình học: Tính diện tích hình vuông, chữ nhật, hình thang, tam giác, tứ giác, diện tích hình cầu,... Tính được
số π = 3,16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương…
Số học: Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị
và chưa tìm ra con số 0. Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu là công trừ liên tiếp Biết căn
cứ khả năng nhân đôi của một số . Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số.
Thiên văn học :
Để nắm vững được thời tiết và khai thác nguồn thuỷ lợi của sông Nile phục vụ cho canh tác nông
nghiệp, ở Ai Cập đã sớm ra đời Thiên văn học và lịch pháp. Với những dụng cụ hết sức thô sơ như sợi dây
dọi, mảnh ván có khe hở, ngồi trên nóc các đền miếu để quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, theo dõi sự lên
xuống của mực nước sông Nile .
Thông qua đó họ cũng xác định được bản đồ của 12 cung hoàng đạo có từ thời Vương triều XIV, vẽ được
chòm sao Bắc cực và biết đến hành tinh trong Thái Dương hệ. Đặc biệt để có thể xác định thời gian ban ngày,
người Ai Cập đã sáng tạo được cái để đo thời gian ban ngày gọi là Nhật Khuê, giúp người Ai Cập biết được
thời gian chính xác hơn.
Họ biết được các hành tinh khác như Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Sớm phát hiện ra các chòm sao, soạn ra bản
đồ các thiên thể, nó được vẽ lên trần của các đền đài cổ. Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát
minh ra đồng hồ mặt trời, đồng hồ nước là những thành tựu quan trọng ở thời Tân vương quốc. Tuy nhiên, nó
cũng có hạn chế khi trong thời gian ban đêm và trời mưa (không có nắng) vì vậy vào ban đêm họ sử dụng
dụng cụ để đo thời gian gọi là đồng hồ nước, nó khắc phục hạn chế của Nhật Khuê (người Trung Quốc là
Trích lậu hộ).
Lịch pháp (sự ra đời của hệ thống lịch Ai Cập) :
Là kết quả từ quá trình quan sát thiên văn qua quá trình quan sát bầu trời và mực nước sông Nile họ phát hiện
ra một mối quan hệ giữa mực nước sông Nile và sao Thiên Lang. Một buổi sáng sớm một ngày mùa hè khi
ngôi sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân trời đó là thời điểm nước sông Nile lên cao, chu kỳ này của sao
Thiên Lang là khoảng 365 lần mặt trời mọc xuất hiện. Từ mối quan hệ trên người Ai Cập đã lấy 365 ngày tính
làm thời gian cho 01 năm. Dựa vào 12 tháng hoàng đạo, 1 năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng 60 ngày,

PAGE 4
còn dư 5 ngày xếp vào cuối năm làm ngày lễ. Năm mới của Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nile bắt đầu
dâng , họ chia 1 năm thành 3 mùa : Mùa nước lên, mùa ngũ cốc, mùa thu hoạch, mỗi mùa bốn tháng.
Lịch Ai Cập tương đối chính xác. Năm 45 trước công nguyên Julius Ceasae cho mời nhà thiên văn Sasigene
từ Ai Cập về Roma để cải cách lịch La Mã trên cơ sở lịch Ai Cập, hình thành lịch Julien.
Y học
Do tục ướp xác thịnh hành nên người Ai Cập cổ đại hiểu biết khá sớm về cấu tạo cơ thể người, điều đó đã
tạo điều kiện cho y học phát triển và khá nổi tiếng với các nước láng giềng. Họ có trình độ chuyên môn cao
về răng, đầu, mắt, bụng và các bệnh nội thương. Người Ai Cập nhận thức được rằng nguyên nhân của bệnh tật
không phải do ma quỷ hay phù thủy gây ra mà do sự không bình thường của mạch máu. Nhận thức được óc và
tim là hai bộ phận quan trọng của cơ thể con người, tay nghề và sự tài giỏi của thầy thuốc được đánh giá bằng
sự hiểu biết về trái tim.

HI LẠP : NHỮNG THÀNH TỰU VỀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN VÀ KĨ THUẬT


Cơ sở hình thành
Nền kinh tế phát triển cao, đời sống vật chất của giai cấp thống trị Hy Lạp được nâng cao, do đó thúc đẩy nhu
cầu nâng cao không chỉ đối với đời sống vật chất mà còn cả về đời sống tinh thần. Tư duy khoa học của người
Hy Lạp cổ đại đã vươn tới trình độ khái quát hóa cao, hình thành những tiền đề, định lý, nguyên lý có giá trị.
Đây là nơi sản sinh ra những nhà khoa học khổng lồ, kiến thức uyên bác và để lại nhiều thành tựu lớn lao
trong kho tàng khoa học của nhân loại, đặc biệt là các lĩnh vực như toán học, vật lý, thiên văn,....
Thiên văn và địa lý
Thales: Được ghi nhận là “Nhà toán học đầu tiên, nhà thiên văn học đầu tiên”. Ông du lịch nhiều nơi và tiếp
thu các thành tựu của Babilon và Ai Cập. Ông đã học tập và kế thừa những thành tựu thiên văn học của Lưỡng
Hà. Là người dự báo chính xác về hiện tượng Nhật thực và Nguyệt thực.
Ông là người đã đặt nền móng cho khoa học và triết học, là người đã khai sinh ra nền thiên văn học Hy Lạp cổ
đại và là người hình thành trường phái khoa học Milet. Ông sinh ra trong một gia đình thương nhân giàu có ở
Milet (Tiểu Á), nhưng có quá trình sống và làm việc khá lâu ở Ai Cập trước khi về quê hương thành lập
trường phái khoa học Milet. Nhưng ông sai lầm khi cho rằng trái đất nổi trên nước, vòm trời có hình bán cầu
úp trên mặt đất.
Pitago : Nhà toán học, lý học, triết học, thiên văn học nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại, quê ở đảo Xamốt (thuộc
biển Egiê). Ông cho rằng mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều có quy luật của nó. Về thiên văn học, ông có
tiến bộ hơn Talét, ông nhận thức được quả đất hình cầu và chuyển động theo quỹ đạo nhất định (Sau này
Copecnic, nhà bác học người Ba lan đã phát triển thành thuyết "nhật tâm" nổi tiếng). Là người đầu tiên dùng
danh từ Cosmos để chỉ vũ trụ.
Aristarque : Người đầu tiên nêu ra thuyết hệ thống mặt trời, ông tính toán khá chính xác thể tích, khối lượng
của mặt trời, quả đất, mặt trăng và khoảng cách của các thiên thể ấy. Ông khẳng định “Không phải mặt trời
xoay quanh Trái đất mà chính Trái đất xoay quanh Mặt trời và mỗi ngày tự quay quanh nó một vòng”.
Ératosthène : Ông là người đầu tiên tính được độ nghiêng của trục quay Trái đất là 23’27. Ông cũng là người
đầu tiên tính toán khá chính xác chu vi của Trái đất bằng cách đo độ dài của đường xích đạo là 39 700 km,
gần bằng con số ngày nay tính được.
Hecataus: Sống cùng thời với Thales, là người đầu tiên vẽ được bản đồ thế giới, đây là bản đồ địa lý sớm nhất
trong lịch sử địa lý học phương Tây.
Euclid : Là người đứng đầu các nhà toán học của Alếchxăngđri, trên cơ sở tổng kết các thành tựu nghiên cứu
của người đi trước, ông soạn thành sách Toán học sơ đẳng, là cơ sở của môn toán hình học, trong đó có định
đề Oclít nổi tiếng.
Clauda Ptolémée : Là nhà thiên văn học , toán học, địa lý học, ông soạn sách Địa lý học (Géographie) gồm 8
chương, trong đó ông vẽ bản đồ thế giới.

PAGE 5
Toán học
Thales: Là người đầu tiên phát biểu định lý tỷ lệ thức (định lý Thales), dựa vào công thức này ông đã tính
được chiều cao của Kim tự tháp bằng cách đo bóng của nó. Ông chứng minh được 2 góc đáy của tam giác cân
bằng nhau, xác định tam giác bởi 1 cạnh và 2 góc kề bù hoặc tính khoảng cách của 1 vật mà không đến gần
được, mọi đường kính thì chia đôi một đường tròn, góc nội tiếp trong nửa hình tròn là một góc vuông.
Pithagore : Đem lại nhiều biến đổi cho nền toán học thế giới . Ông cùng các học trò của mình đã tổng kết
những tri thức về số học, thiết lập nhiều công thức, định lý và chứng minh chúng bằng suy luận logic chứ
không phải bằng trực giác. Một số đóng góp của ông:
Chứng minh quan hệ giữa 3 cạnh của tam giác vuông. Định lý Pythagore : “Tổng hai cạnh góc vuông bằng
bình phương của cạnh huyền trong một tam giác vuông”.
Chứng minh: tổng các góc trong một tam giác bằng 180 độ.
Đưa ra những định nghĩa về điểm, đường, số vô cực, số vô tỷ.
Độ cao âm thanh của một sợi dây căng hai đầu khi cho dao động sẽ phụ thuộc vào chiều dài của sợi dây ấy.
Chiều dài sợi dây giảm đi một nửa thì âm thanh sẽ tăng lên một quãng 8.
Được coi là bậc thầy về những con số. Ông phân biệt các số chẵn, lẻ và số không chia hết đã, đưa ra những
nghiên cứu thú vị về các con số như số chẵn thì xấu, không may; số lẻ thường đem lại may mắn; "số anh em",
"số bạn bè"… Đặc biệt ông dùng tư duy về các con số nhằm chứng minh một số luận điểm triết học.
Ông có đóng góp về bảng tính nhân, thập phân.
Euclide: Được xem là một trong những người sáng lập trường toán học thuộc "Đại học" Alecxandri. Ông
cũng đã để lại cho hậu thế những công trình nghiên cứu bất hủ. Những tác phẩm tiêu biểu của ông:
Catropque hay hình học những tia phản chiếu
Những dữ kiện
Phép chia các hình
Quang học
Đặc biệt là bộ Elements - Những khái niệm cơ bản: Gồm 13 tập, trong đó ông đã sắp xếp một cách hợp lý,
hoàn chỉnh, sáng tạo thêm, chứng minh chặt chẽ hơn tất cả 465 mệnh đề không chỉ về hình học mà cả lý
thuyết số và đại số sơ cấp trên tinh thần của hình học, trong đó có tiên đề mang tên ông - Tiên đề Euclite. Hệ
thống định đề của ông làm nền tảng xây dựng môn hình học phẳng hay còn gọi là hình học Euclide.
Bộ sách Cơ bản gồm 13 cuốn vẫn được giữ đến ngày nay (phần lớn chương trình hình học ở phổ thông ngày
nay sử dụng lại hầu như toàn bộ 6 cuốn trong bộ Cơ bản của ông). Trong lịch sử Toán học, đây là tác phẩm
khoa học duy nhất đã tồn tại 2000 năm mà giá trị không hề giảm sút.
Archimede : Ông được sinh ra trong một gia đình giàu có ở thành bang Siracure trên đảo Xixin, là người có
quan hệ bà con với vua Herion của thành bang này. Ông đã từng lưu học tại trường Alecxandri - Ai Cập.
Niềm say mê khoa học cùng với kiến thức uyên bác, ông đã để lại cho nhân loại những tri thức khoa học vô
giá về lý luận, thực tiễn trong toán học và cơ học.
Về toán học : Tính được số pi bằng 1 trị số chính xác và sớm nhất trong lịch sử phương Tây. Ông đưa ra
phương pháp tính diện tích hình nón, hình cầu, tìm được mối liên hệ giữa diện tích toàn phần và thể tích hình
cầu nội tiếp trong hình trụ.
Một số tác phẩm tiêu biểu:
Về trạng thái cân bằng: Nghiên cứu về trọng tâm, hình bình hành, hình tam giác.
Cầu phuơng hình parabol: Cho lời giải về cơ học và cả lời giải toán học.
Về trạng thái cân bằng (tập 2): Nghiên cứu về trọng tâm của đới parabol.
Bàn về hình cầu và hình viên trụ (tập 1 & 2).

PAGE 6
Bàn về cá hình xoắn.
Đo đường tròn.
Nghiên cứu về các vật nổi.
Arénaire: Về hệ đếm các số lớn.
Có nhiều truyền thuyết liên quan đến Archimede trong cuộc chiến của Siracure chống lại La Mã gương hội tụ,
máy bắn đá và việc tìm tỉ lệ vàng trong vương miện nhà vua...
Về vật lý : Ông là người đặt nền móng cho ngành cơ học và ứng dụng của nó vào việc giải phóng sức lao
động của con người như: đòn bẩy, ròng rọc, chân vịt (dùng để hút nước). Ông phát minh ra nguyên lý đòn bẩy
và nguyên lý về thủy lực, định luật về vật nổi. Ông được coi là người phát minh ra ròng rọc, đòn bẩy, máy
bơm nước, máy bắn đá, bánh xe răng cưa, đường xoáy trôn ốc, nguyên lý hội tụ ánh sáng của gương cầu lồi,

Clauda Ptolémée : Trên cơ sở đúc kết các kiến thức về thiên văn học của Ai Cập, Babilon va Hy Lạp, ông
soạn bộ sách Tổng hợp – kết cấu toán học (Composition mathématique).
Eurathosthène: Ông từng làm giám đốc thư viện Alecxandri ở Ai Cập nên có điều kiện tiếp cận các tri thức
khoa học trước đó. Ông là người đầu tiên tính được độ dài của kinh tuyến trái đất bằng 39.000km (con số tính
toán của khoa học ngày nay là 39.700km, giảng về phương pháp tính toán).
4. Y học
Y học Hy Lạp cổ đại đã có những thành  tựu  rất to lớn về lý luận và thực hành trong việc chăm sóc sức khỏe
và chữa bệnh. Hy Lạp cổ đại đã sản sinh ra những danh y và địa điểm hành nghề của họ được coi là thủy tổ
của y khoa phương Tây sau này, đồng thời là 1 tiền đề quan trọng của sự phát triển nền tríêt học của Hy Lạp.
Danh y đầu tiên có thể kể đến là Etculatét, người đã đề xuất những phương pháp trị bệnh đơn giản nhưng hiệu
nghiệm. Đặc biệt Hypôcrát người đầu tiên đặt cơ sở ban đầu cho sự phát triển của y học phương Tây, được coi
là ông tổ của khoa học y dược. Ông được sinh ra trong một gia đình có truyền thống y khoa ở đảo Corse.
Chính ông đã gạt bỏ những quan niệm tôn giáo và mê tín thần bí, đề ra những phương pháp trị bệnh hiệu quả
bằng khoa học. Quan điểm của ông về đạo đức, trách nhiệm của người thầy thuốc hết sức đặc biệt vì nó liên
quan đến sức khỏe và tính mạng con người. Do đó, không được dùng nghề nghiệp chuyên môn của mình để
trục lợi, tác động của môi trường đối với cơ thể, về dịch thể, điều trị bệnh nhi khoa và phụ nữ, bệnh gãy
xương…  cho đến ngày nay vẫn còn giá trị. Bộ sách giáo khoa mười tập do ông để lại cho hậu thế là kho tàng
vô giá về kiến thức y học đã được Littre – nhà ngôn ngữ học người Pháp, dịch xong năm 1861.  Để tôn vinh
những cống hiến của ông, ở phương Tây, các bác sỹ khi ra trường đều phải đọc “Lời thề Hypôcrát”.
Ngoài ra, nền y học Hy Lạp cổ đại còn có Hêracơlít – nổi tiếng trong việc phẫu thuật ở Hy Lạp . Đầu TK III
Trước công nguyên nhà giải phẫu học Hêcrôpin đã chứng minh rằng não là khí quan tư duy, cảm giác do hệ
thần kinh truyền đạt, xem mạch mạnh yếu nhanh chậm có thể biết được tình hình sức khỏe. Ông là người đầu
tiên nêu lên vấn đề dùng thuốc mê trong phẫu thuật. Ý tưởng này của ông mãi đến năm 1840 người ta mới
dùng ete gây mê, năm 1861 dùng morphine giảm đau.

PAGE 7
HOÀN CẢNH RA ĐỜI, QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ, PHÁT TRIỂN CỦA ĐẠO PHẬT Ở ẤN ĐỘ
Bối cảnh ra đời của đạo Phật
Xã hội : Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I  Trước công nguyên, Ấn Độ xưa đã hình thành hàng loạt tiểu quốc.
Các vương quốc hai bên bờ sông Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu quốc). Các vương quốc có điều
kiện tự nhiên khác nhau , kinh tế, xã hội, chính trị phát triển không đều nhau. Do vậy, các vương quốc luôn
mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính nhau làm tình hình chính trị bất ổn, tâm lý dân chúng bất an.
Đến thế kỷ V Trước công nguyên chỉ còn 4 quốc gia: Kashi, Koshala, Magadha, Virigis.
Mâu thuẫn đẳng cấp tăng lữ, quý tộc và sự phân hoá giai cấp mạnh mẽ, trở thành nỗi bức xúc lớn trong xã hội
bấy giờ.
Tăng lữ (Brahman) thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng nộp thuế cao
và nghĩa vụ khác.
Quý tộc (Ksatria) bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò quyết định trong chiến tranh nhưng
địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp tăng lữ.
Dân thường (Vaisya) có cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa nhưng thuế không giảm và những
áp lực của tôn giáo đè nặng.
Nô lệ (Soudra) là kẻ thấp hèn, có một số dân thường bị phá sản trở thành nô lệ, một số phải đi ăn xin. Họ chịu
cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lí chán nản, tuyệt vọng.
Kinh tế : Công cụ bằng kim loại đã làm thay đổi bản chất của sản xuất. Nhiều ngành kinh tế đã ra đời và ngày
càng mở rộng, làm xuất hiện tầng lớp mới, trong đó có thương nhân. Thương nhân là tầng lớp có tiềm lực về
kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp. Tầng lớp này lúc đầu không được xếp vào đẳng
cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp nô lệ, đẳng cấp thấp hèn nhất.
Tôn giáo : Cuộc sống khổ cực càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột mình, oán
ghét chế độ đẳng cấp, không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những nghi lễ phức tạp, những nghĩa vụ phiền
toái, giáo lí ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giáo này. Trong bối cảnh đó vào thế
kỷ VI Trước công nguyên ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo, triết học mới chủ trương xa lánh
thực tại, khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỉ nhưng có 1 điểm chung là trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của
đạo Bàlamôn.
Tiền đề tư tưởng - chính trị : Đạo Bà La Môn đã xác lập được vai trò vững chắc ở Ấn Độ, chi phối đời sống
tư tưởng chính trị của các đẳng cấp khác trong xã hội Ấn Độ .
Người sáng lập : Do thái tử Xitđacta Gôtama, hiệu Thích Ca Mâu Ni khởi xướng.
Quá trình truyền bá và phát triển : Đạo Phật ra đời ở Ấn Độ khoảng giữa thiên niên kỷ I Trước công
nguyên, vào thời điểm rất hưng thịnh của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp. Với giáo lý đề cao lòng từ bi của
con người với đồng loại, chống lại chế độ đẳng cấp, với tinh thần bác ái, đạo Phật nhanh chóng chinh phục
được đông đảo các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến nhân dân lao động nên sau khi ra đời đạo Phật
nhanh chóng được truyền bá ở miến Bắc Ấn Độ.
Từ thế kỷ V trước công nguyên đến thế kỷ V sau công nguyên là quá trình truyền bá và phát triển đạo Phật, từ
khi Đức Phật viên tịch cho đến khi đạo Phật không còn phổ biến ở Ấn Độ. Quá trình đó trải qua 4 hội nghị kết
tập :
Hội nghị kết tập lần 1
Ngay sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, để tránh sự sai biệt, bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn
vẹn. Được tổ chức tại Vương xá thuộc Magada vào thế kỷ V Trước công nguyên . Có 500 đại biểu tham dự,
PAGE 8
kéo dài trong 7 tháng. Kết thúc hội nghị hình thành bộ Kinh tạng và Luật tạng.
Nội dung thống nhất được 2 phần:
Pháp: gồm những lời thuyết giáo của Phật được nhớ lại theo ký ức của các đệ tử lúc bấy giờ.
Luật: là quy chế của hội Phật giáo do Đại hội thảo ra.
Hội nghị kết hợp tập lần 2
Sau 100 năm có nhiều người muốn thay đổi một số điều chi tiết trong giới luật.
Diễn ra vào khoảng thế kỷ IV Trước công nguyên với 700 tăng ni tham dự, diễn ra trong 8 tháng.
Trong Đại hội này, một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại luật, họ bị Đại
hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng gọi là Đại chúng bộ, là mầm móng của phái Đại thừa sau này.
Hội nghị kết tập lần 3
Diễn ra vào khoảng thế kỉ III Trước công nguyên với 1000 tăng ni tham dự trong 9 tháng. Hội nghị thảo luận
và hình thành phần Luận tạng. Với sự giúp đỡ của vua Asoka, nhiệm vụ chính là chấn chỉnh lại tổ chức và
giáo lý của giáo hội, đồng thời đặt ra kinh kệ và các nghi thức . Asoka cho xây dựng nhiều chùa tháp, thành
lập nhiều tăng đoàn, khuyến khích việc truyền bá đạo Phật đến nhiều vùng đất trên báo đảo Ấn Độ và một số
quốc gia khác (Sri Lanka, Mianma,...) Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật Giáo, đã thống nhất được Tam Tạng
Kinh. Tuy nhiên sau khi vương quốc Magada tan rã, đạo Phật cũng suy yếu dần.
Hội nghị kết tập lần 4
Diễn ra vào thế kỷ I SCN với sự giúp đỡ của vua Kanisca với 500 tăng ni tham dự ở Casmia.
Thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách và phái Phật giáo này được gọi là phái Đại thừa để phân biệt với
phái Phật giáo cũ (gọi là phái Tiểu Thừa). Phái Tiểu thừa nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hoặc “con đường cứu vớt hẹp”,
cho rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt.
Quan niệm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh, gắn với giác ngộ sáng suốt, không còn phiền não khổ đau, không
còn nhân quả luân hồi, cũng tức là hư vô. Phật Thích Ca là người đầu tiên đạt đến cảnh giới Niết bàn lúc 35
tuổi. Phái Đại Thừa nghĩa là “cỗ xe lớn” hoặc “con đường cứu vớt rộng”, cho rằng không chỉ những tu hành
mà cả những người quy y cũng được cứu vớt. Quan niệm Niết bàn như thiên đường, tức là vương quốc của
các vị Phật, cũng tức là nơi Cực lạc.
Đề cao vai trò của tầng lớp tăng ni, coi họ là trung gian giữa tín đồ và Bồ tát.
Điểm giống nhau giữa Phật giáo Đại thừa và Tiểu thừa là cùng mục đích tôn chỉ.
Điểm khác nhau giữa Phật giáo Đại thừa và tiểu thừa:
Tiểu thừa trung thành với quan điểm ban đầu của đạo Phật, chủ trương tu luyện và giải thoát theo từng quy
mô nhỏ mang tính cá nhân tự giác.
Đại thừa mở rộng giáo lý Phật giáo trong nhiều bộ kinh khác nhau, chủ trương giải phóng đông đảo cho
nhiều người. Phát triển toàn bộ kinh thánh đồ sộ, tôn vinh Phật Thích Ca thành giáo chủ Phật giáo.
Nguyên nhân Phật giáo được chấp nhận ở Ấn Độ:
Giai cấp cầm quyền cho rằng Phật giáo không làm tổn hại đến lợi ích của họ, đồng thời cũng không hài lòng
với địa vị ưu đãi của những người theo đạo Bàlamôn nên họ ủng hộ đạo Phật.
Học thuyết Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với nguyện vọng của nhân dân nên được quần chúng hoan nghênh.
Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ: Sau những thế kỉ rất thịnh đạt trong khoảng 1000 năm, từ triều
đại GUPTA (TK 5 sau TC) đạo Phật có biểu hiện suy thoái, đó là không thống nhất về học thuyết và tổ chức.
Chỉ phát triển trong thành phố, những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ
rất lâu, bám rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn.
Trong 3 thế kỷ,Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã hội.
Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật giáo nên dần thu hút
dân chúng. Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà vua chết, đạo
Phật cũng dần mất vị trí. Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi
đã suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.

PAGE 9
Nội dung tư tưởng của Phật Giáo
Nội dung 1: Chỉ ra con đường ở giữa 2 cực đoạn ( đam mê và khổ hạnh) là con đường trung đạo. Con
đường làm cho thân trí sáng suốt, giác ngộ, buông bỏ được dục vọng đạt cảnh giới Niết Bàn.
Nội dung 2: Tứ Diệu Đế - Giáo lí cơ bản của đạo Phật là Tứ diệu đế (bốn điền suy xét kì diệu):
Khổ đế: Suy xét về sự khổ cực, luân hồi, nghiệp báo của chúng sinh.
Nhân đế -Tập đế: Nguyên nhân của sự khổ là dục tức lòng ham muốn, nguyên nhân nỗi khổ từ nỗi khổ vật
chất đến nỗi khổ tinh thần, đây là luận đề mang tính chất lý luận, chứa đựng hầu hết những luận thuyết cơ
bản của Đức Phật. Nỗi khổ của con người do 10 nguyên nhân: tham, sân, si, mạn, nghi, kiến…
Diệt đế: Con đường tiết dục, diệt dục để trừ nghiệp báo, cách diệt trừ tận gốc nỗ khổ của con người, loại bỏ
vô minh, đạt tới sự hiểu biết, sáng suốt, nhận ra chân lý và đi tới giác ngộ. Chế ngự bản năng của con người,
từ bỏ 10 nguyên nhân nỗi khổ, Quy y Phật, Quy y Pháp, Quy y Tăng, tránh vòng luân hồi, tránh nghiệp nhân
quả.
Đạo đế: Con đường, cách thức để giải thoát khỏi sự luân hồi, nghiệp báo, con đường trung đạo, Quy y Phật,
Pháp, Tăng.
Đức Phật còn đề ra tám con đường chính trực để tu hành - Bát chánh đạo:
1. Chánh kiến: là sự nhìn thấy đúng đắn về bản chất của tất cả các sự vật hiện tượng đang hiện hữu như
chính nó đang là.
2. Chánh tư duy: Sự nhìn thấy đúng đắn từ chánh kiến đưa người Phật tử đến sự suy nghĩ đúng, từ sự nhìn
thấy đúng và suy nghĩ đúng sẽ dẫn đến sự hiểu biết đúng, từ sự hiểu biết đúng sẽ giúp cho người Phật tử có
cuộc sống đúng. Theo lời Phật dạy, để có một đời sống đúng đắn và tốt đẹp cho mình, cộng đồng và xã hội,
người Phật tử cần phải có:
3. Chánh ngữ: tức là lời nói chân thật và thương yêu, có lợi cho mình và tất cả mọi người, không gây chia rẽ
và đau khổ cho nhau.
4. Chánh nghiệp: Là nghề nghiệp, việc làm của mỗi người phải lương thiện, đúng lẽ phải, không phạm pháp,
không làm việc gì trái với đạo đức, trái với lương tâm.
5. Chánh mạng: vì lòng từ bi vô hạn nên người Phật tử phải quý sinh mạng chúng sanh như sinh mạng của
mình, nên không được sát sanh hại vật, lấy máu thịt các loài động vật cấp thấp để nuôi sống huyễn thân. làm
như thế sẽ tạo thêm ác nghiệp, nghiệp ác sẽ theo nhau lưu chuyển không ngừng, làm cho oán thù ngày càng
chồng chất không làm sao xóa bỏ được.
6. Chánh tinh tấn: muốn thực hành theo lời Phật dạy một cách có hiệu quả, người Phật tử phải nỗ lực tinh tấn
không ngừng mới mong đạt được kết quả tốt đẹp.
7.Chánh Niệm: là luôn nhớ và nghĩ đến những điều hay lẽ phải được xem là đúng đắn và cố gắng sống sao
cho phù hợp với những gì đã nghĩ.
8. Chánh Định: là tập trung tư tưởng để tư duy, quán chiếu thật sâu sắc về một vấn đề mà bản thân chưa thật
sự hiểu biết rõ ràng, nhằm có được một cách nhìn tổng thể, một ý nghĩ chân thực, một quan điểm khách quan
và phù hợp với chân lý.
Về mặt thế giới quan, nội dung cơ bản của đạo Phật là thuyết duyên khởi. Do quan niệm duyên khởi sinh ra
vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã, Vô thường:
Vô tạo giả Quan niệm thế giới này không do một đấng tối cao nào tạo ra, tự nhiên mà có và vô cùng vô
tận. Như vậy là đạo Phật không dựa vào một đấng tối cao nào để giải thích về sự xuất hiện thế giới như các
tôn giáo khác.
Vô ngã Không có những thực thể vật chất tồn tại một cách cố định. Con người cũng chỉ là tập hợp của
Ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) chứ không phải là một thực thể tồn tại lâu dài.
Vô thường Vạn vật trong thế giới này biến đổi không ngừng, không có gì là vĩnh cửu cả.
Qua những giáo lí ban đầu của đạo Phật như vậy, ta thấy lúc đầu đạo Phật chỉ là một triết lí về nhân
sinh quan. Đạo Phật sơ khai lúc đầu không thời bất cứ một vị thần thánh nào. Ngay cả Phật tổ Thích Ca Mâu
Ni cũng không tự coi mình là thần thánh. Tuy Phật tổ Thích Ca Mâu Ni có tổ chức các tăng đoàn Tỳ Kheo
(đoàn thể những tăng lữ khất thực) để đi truyền bá đạo Phật ở khắp nơi nhưng đó không phải là một tổ chức

PAGE 10
tôn giáo có hệ thống chùa tháp như ngày nay.
Trong hoàn cảnh xã hội đầy rẫy bất công do chế độ đẳng cấp gây ra, thì đạo Phật lại chủ trương không phân
biệt đẳng cấp, kêu gọi lòng thương người (từ bi hỉ xả), tránh điều ác, làm điều thiện. Những lời kêu gọi sự
công bằng, lòng nhân đức đó đã được đông đảo người dân hưởng ứng.
Ngày nay Phật giáo giữ vai trò quan trọng trong việc giữ gìn hòa bình, giữ gìn nếp sống tốt đẹp, nhân ái,
thương yêu của nhân loại, tổng số tín đồ Phật Giáo trên thế giới ước tính 487.540.000 người chiếm 7,1% dân
số thế giới. Tại Việt Nam ước tính có hơn 14 triệu tín đồ Phật Giáo chiếm 16,4 % dân số….

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN, TRUYỀN BÁ THIÊN CHÚA GIÁO


Bối cảnh ra đời
Cơ sở kinh tế - xã hội : Năm 63 Trước công nguyên , tại Palestin nơi người Do Thái sống xảy ra một cuộc
nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã . Pompei - một trong ba nhân vật trong chế độ
tam hùng lần thứ nhất trong lịch sử La Mã đem quân chinh phục vùng đất này, trực tiếp cai trị hoặc chỉ định
hoàng tử Palestin cai trị theo chủ trương, quyền lợi của người La Mã .
Nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công đều phải gánh chịu cuộc sống cực khổ, bất công, bị áp bức, cuộc sống không
lối thoát.
Vì thế, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra chống lại sự thống trị, bóc lột của nhà nước - chủ nô La Mã đặc biệt là
người Zealot, nhưng đều bị đàn áp hết sức dã man. Khối quần chúng nhất là nô lệ, dân nghèo nảy sinh tâm lý
bi quan, chán nản, tuyệt vọng, mất niềm tin vào tự do, hạnh phúc trong cuộc sống hiện thực. Họ tìm lối thoát
trong ảo tưởng về tôn giáo, trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu nhiên có thể giúp họ thoát khỏi
ách thống trị, xây dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng. Do vậy, Kitô giáo trở thành tôn giáo của
những người bị áp bức, như nô lệ, dân nghèo, thợ thủ công,...
Cơ sở tư tưởng, tôn giáo :
Hình thành dựa trên thần thoại của các tôn giáo cổ phương Đông. Vùng đất Palestin là vùng đất sinh
sống chủ yếu của người Do Thái phải chịu nhiều bất hạnh trong lịch sử của mình. Tổ tiên của họ là người
Hebre, một tộc người sống du mục nay đây mai đó. Khoảng giữa thế kỷ XIII  Trước công nguyên, dưới sự dẫn
dắt của Moises, người Do Thái đã từ Ai Cập trở về Palestin và lập nên quốc gia Do Thái vào khoảng cuối
thiên niên kỷ II  Trước công nguyên. Cũng kề từ đó, người Do Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần -
thờ vị thần duy nhất đó là Chúa Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ tin rằng dân tộc Do thái là dân
được Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với người Do Thái thông qua Sứ giả của Người là Moises. Năm 586,
quốc gia Do thái bị Tân Babilon cai trị, nền độc lập của quốc gia này đã không còn tồn tại trong một thời gian
dài sau đó. Trong bối cảnh như vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên truyền rằng sẽ có một
vị Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ của
con người, giải cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân.
Về tư tưởng triết học: Từ giữa thế kỷ I  Trước công nguyên trở đi, nhà nước La Mã chuyển dần từ hưng
thịnh sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy trì trật tự xã hội. Do vậy triết học  La Mã
chuyển dần sang duy tâm luận, quay về với trường phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy
Lạp khoảng cuối thế kỷ IV Trước công nguyên. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của
Seneque và Philo.
Seneque : Ông muốn thiết lập một hệ thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và nhẫn nhục. Ông
cho rằng thể xác là gánh nặng của linh hồn, là sự trừng phạt đối với linh hồn. Cuộc sống trần gian chỉ là khúc
dạo đầu cho thế giới bên kia của linh hồn - thế giới con người sau khi chết. Cái thế giới bên kia ấy, nô lệ -
nghèo khó, giàu có - quý tộc đều có thể đạt được như nhau, nếu con người biết nhẫn nhục, nhường nhịn, chịu
đựng gian khổ, lấy sự phục tùng làm đức tính tốt đẹp nhất của con người.
Philo: thế giới vật chất, trong đó có cả con người là can nguyên của tội lỗi, thể xác là ngục thất của linh
hồn. Giữa thể xác và linh hồn có một vực thẳm không thể đến với nhau được và trung gian của vực thẳm đó là
cái mà ông gọi là Thiên Đạo - Đấng Cứu Thế. Con người muốn được giải thoát chi cần có niềm tin và một
cuộc sống đạo đức.
PAGE 11
Quá trình truyền bá và phát triển
Giai đoạn 1 (từ thế kỷ I đến thế kỷ IV Sau công nguyên): Đây là giai đoạn Kitô giáo bị đàn áp rất khốc
liệt, chỉ có một bộ phận tín đồ ở Palestine tham gia. Sau cái chết của Chúa Jesus, các tông đồ đã bắt đầu đem
giáo lý của ngài truyền bá ra ngoài Palestine. Năm 62, thánh Paulo sang Roma để truyền đạo thì thấy ở đây đã
có nhiều tín đồ Kitô giáo.
Ban đầu giới cầm quyền La Mã giữ thái độ khoan dung đối với Kitô giáo. Nhưng Chúa Jesus cho rằng đế
quốc La Mã là một "mụ đàn bà đầy tội lỗi – tức lên án tầng lớp giàu có, thống trị và đế quốc La Mã sẽ sớm bị
diệt vong", tín đồ Kitô giáo sẽ được sống trong vương quốc của Chúa. Đây chính là những yếu tố mới phủ
nhận sự tồn tại của chế độ và nhà nước chiếm hữu nô lệ La Mã. Điều đó khiến giới cầm quyền và quý tộc căm
ghét Kito giáo, cho rằng tín đồ Kitô là lũ phiến loạn và tiến hành đàn áp khốc liệt, đẫm máu nhất là vụ đàn áp
vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông. Cho dù càng đàn áp thì Kitô giáo vẫn càng phát triển.
Nguyên nhân : Chế độ chiếm hữu nô lệ càng phát triển thì sự phân hoá giai cấp trong xã hội càng sâu sắc, sự
bần cùng hoá, áp bức, đàn áp, bóc lột càng tăng lên. Kitô là tôn giáo duy nhất mà giới lao động và những
người nghèo khổ có thể tìm thấy được con đường giải phóng.
Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ
lẫn nhau trong cuộc sống. Họ giúp người lao động, người nghèo tìm công ăn việc làm. Đến thế kỉ II, các công
xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội. Cuộc vận động Kito giáo trong buổi đầu mang một ý nghĩa xả hội rất
tích cực: Đó là cuộc vận động của dân nghèo chống chế độ áp bức.
Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức không
dính dáng đến chính trị. Sau hơn 200 năm truyền bá, Kitô giáo đã tạo được một thế lực hết sức chặt chẽ, chủ
yếu tại các thành phố lớn . Trước sự phát triển này và đàn áp mãi không được, giới cầm quyền La Mã quyết
định “sống chung” , thay đổi chính sách đối với Kito giáo.
Giai đoạn 2 (trong thế kỷ IV sau Công nguyên): Năm 311, Hoàng đế Galerius đình chỉ việc sát hại các tín đồ
Kitô giáo. Năm 313, Hoàng đế Constantin xác định địa vị hợp pháp của giáo hội Kitô, nâng Kitô giáo lên địa
vị quốc giáo.
Năm 325, Hoàng đế Constantin ra lệnh triệu tập Đại hội Kitô giáo lần thứ nhất tại Nicée. Đại hội đã giải quyết
được 2 vấn đề lớn:
Thống nhất lại cuối cùng nội dung của Kinh thánh : Chọn ra 4 phần tương đối trùng khớp, ít mâu thuẫn,
loại bỏ bớt yếu tố mê tín dị đoan, thống nhất rồi đưa vào Tân ước
Chấn chỉnh tổ chức giáo hội.
Sau đại hội này, Kitô giáo trở thành một bộ phận trong bộ máy của giai cấp thống trị La Mã
Năm 337, Constantin là hoàng đế La Mã đầu tiên theo Kitô giáo. Các quan lại cũng đua nhau theo Đạo. Ngân
quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp ra các tầng lớp
xã hội quanh Địa Trung Hải. Đến giai đoạn này, tính chất tiến bộ ban đầu của Kito giáo không còn nữa, các
giáo sĩ dần dần trở thành các quan lại của nhà nước, giáo hội trở thành công cụ trong tay giai cấp thống trị. Do
bất đồng trong sự giải thích thuyết “tam vị nhất thể” và cả việc đụng chạm nhau về khu vực truyền đạo nên
đến năm 1054, giáo hội Kitô ở La Mã đã bị chia làm hai : giáo hội Thiên chúa (giáo hội ở phương Tây, giáo
hội La Mã) và giáo hội Chính thống ( giáo hội ở phương Đông, giáo hội Hy Lạp).
Về ý nghĩa lịch sử, Kitô giáo ra đời là biểu hiện phong trào phản kháng của đông đảo quần chúng bị áp búc
sau đó lan rộng ra các tầng lớp khác trong xã hội. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, Kitô giáo từ chỗ là tôn giáo
của những người nghèo, chống lại chính quyền cai trị, đã trở thành chỗ dựa vững chắc về tinh thần, vật chất
của chính quyền Rôma và là một bộ phận của chính quyền thống trị La Mã. Kito giáo ra đời là một sự kiện
lịch sử rất lớn lao vì sau này nó đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng của
người Châu Âu.

PAGE 12
PAGE 13

You might also like