Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 24

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA HÌNH SỰ

BÀI THẢO LUẬN DÂN SỰ LẦN 5


TÊN ĐỀ TÀI: QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ
GVHD: ĐẶNG LÊ PHƯƠNG UYÊN

THÀNH VIÊN THỰC HIỆN


LỚP: HS46A2

Lâm Thảo Hiền – 2153801013089 Phạm Thị Mai – 2153801013147


Hiao Hiêng – 2153801013091 Trần Minh Trúc Mai – 2153801013148
Nguyễn Hoàng Huy – 2153801013097 Đoàn Hoàng Thảo Minh – 2153801013149
Võ Quang Huy – 2153801013098 Lê Tuấn Minh – 2153801013150
Chu Thị Ngọc Huyền – 2153801013099 Trần Công Minh – 2153801013153
Phạm Ánh Thu Huyền – 2153801013104 Trần Viết Lâm – 1953801015101

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 4 NĂM 2022


MỤC LỤC

VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ............................................................................................1


Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phố Vĩnh
Yên tỉnh Vĩnh Phúc..............................................................................................................1
Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.................1
Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.............................................................................................................................. 2
Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?..................................................3
Câu 3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của người quá cố
có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.................................................................................................................................... 4
Câu 4: Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có câu trả lời?.........4
Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về
diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.........................................5
Câu 6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn N là
bao nhiêu? Vì sao?................................................................................................................6
Câu 7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?............................................................................6
Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện
tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K......................................................................6
Câu 9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho
tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia không? Vì
sao?....................................................................................................................................... 7
Câu 10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?.....................................................................................................8
Câu 11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?................8
Câu 12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?................8
VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN............................................................................................9
Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-ST ngày 10/06/2020 về việc tranh chấp quyền quản lý di
sản thừa kế............................................................................................................................ 9
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/07/2020 về việc tranh chấp lối đi......10
Câu 1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản của ông Đ
và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?...........................................10
Câu 2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người quản lý di sản
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..................................................................................11
Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản lý di sản
có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................................11
Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa lại di sản
như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời............................................12
Câu 5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác
quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con trai) không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời...........................................................................................................12
Câu 6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi
trả lời.................................................................................................................................. 13
VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ.............................................13
Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu cầu chia
di sản thừa kế là bất động sản:............................................................................................13
Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam...............................14
Câu 2: Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản không?.........15
Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của Quyết
định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?....................................................16
Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?.............................16
Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di sản
của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có
cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?................................................17
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên..........................................17
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU....................................................................................19
Yêu cầu 1: Anh/chị hãy liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp
luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2017 đến
nay...................................................................................................................................... 19
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên......................................21
VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ

Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành
phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
Nguyên đơn là ông Trần Văn Hoà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về
thừa kế tài sản với bị đơn là anh Trần Hoài Nam và chị Trần Thanh Hương.Tài sản
ông Hoà và bà Mai (vợ ông Hoà) gồm 01 ngôi nhà 3 tầng, sân tường bao quanh và
một lán bán hàng xây dựng năm 2006 trên diện tích đất 169,5 m2 (trong đó 84 m2 đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn 85,5 m2 còn lại thì chưa nhưng hộ
ông Hoà đã sử dụng ổn định, ranh giới các hộ xung quanh đều rõ ràng và không có
tranh chấp, không thuộc diện phải quy hoạch di dời). Anh Nam, chị Hương yêu cầu
xác định diện tích đất 85,5 m2 là tài sản chung của gia đình nhưng Hội đồng xét xử
không chấp thuận. Đối với diện tích đất tăng 85,5 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, Hội đồng xét thấy đây vẫn là tài sản của ông Hoà, bà Mai, chỉ có
điều là đương sự phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Tài sản được hình
thành trong thời gian hôn nhân nên được chia đôi cho ông Hoà, bà Mai. Do trước khi
chết bà Mai không để lại di chúc nên di sản của bà Mai chia cho mỗi người được
hưởng 1/3 di sản thừa kế của bà Mai. Diện tích đất 38,4 m2 và 47,1 m2 chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông Hoà và anh Nam sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước sẽ liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đề
nghị cấp giấy chứng nhận. Chị Hương được quyền sở hữu số tiền cho thuê nhà chị
đang quản lý và anh Nam phải thanh toán chênh lệch về tài sản cho ông Hoà và chị
Hương.

Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

Tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, gia đình Phùng Văn N (gọi tắt: ông N),
Phùng Thị G (gọi tắt: bà G) sinh được sáu người con là Phùng Thị H1 (gọi tắt: chị H1),
Phùng Thị N1 (gọi tắt: chị N1), Phùng Thị P (gọi tắt: chị P), Phùng Thị H2 (gọi tắt: chị
H2), Phùng Văn T (gọi tắt: anh T) và Phùng Thị N2 (gọi tắt: chị N2). Vợ chồng ông N,
bà G tạo lập và sinh sống trên một mảnh đất diện tích 398 m², Năm 1984, ông N chết,
không để lại di chúc, mảnh đất được sử dụng để sinh sống bởi bà G và vợ chồng con
trai là anh T và Phùng Thị H3. Năm 1991, bà G sang nhượng một phần mảnh đất cho
Phùng Văn K (gọi tắt: ông K), sinh sống trên phần đất còn lại. Sau đó, bà G liên lạc với

1
con gái mình là chị H1, bàn bạc để lại một phần đất cho chị H1 dưới dạng di chúc
trước khi qua đời năm 2010.

Thời gian sau, chị H1 yêu cầu tiến hành di chúc, đòi mảnh đất được mẹ chia theo di
chúc, tuy nhiên vợ chồng anh T là người đang sử dụng đã không đồng ý. Gia đình anh
chị em ruột chia thành hai bên, bốn chị em cùng ủng hộ chị H1, trong khi em út ủng
hộ anh trai T. Từ đây, ngày 02 tháng 04 năm 2011, nguyên đơn Phùng Thị H1, Phùng
Thị N1, Phùng Thị P, và Phùng Thị H2 khởi kiện bị đơn Phùng Văn T, đệ đơn gửi
Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, về việc yêu cầu đòi di sản thừa kế. Vụ án được
giải quyết sơ thẩm rồi phúc thẩm tại Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, giám đốc thẩm
tại Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao để đi đến nhận định cuối cùng.

Câu 1: Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

“Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài
sản chung với người khác” theo điều 612 BLDS 2015

Di sản có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố. Theo Điều 615 BLDS 2015 Thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:

1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm
vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được
người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm
vi di sản do người chết để lại.

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì
cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá
nhân.

2
Câu 2: Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?

- Thứ nhất, Nếu việc di sản đó được thay thế bởi nguyên nhân khách quan

Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân con người không biết trước, không
lường trước được hậu quả, nằm ngoài tầm kiểm soát của con người như là hỏa hoạn,
lũ lụt, động đất, bão tố hay các thảm họa tự nhiên khác...Những yếu tố này tác động
vào di sản thừa kế làm cho nó bị hư hỏng và thay vào đó là di sản mới, di sản cũ
không còn giá trị hiện thực.Trường hợp này để đảm bảo quyền lợi của những người
thừa kế tài sản mới thay thế cho di sản thừa kế đó sẽ có hiệu lực pháp luật, phần tài
sản mới này sẽ được chia theo pháp luật

- Thứ hai, Được thay thế bởi nguyên nhân chủ quan

Nguyên nhân chủ quan được xác định có sự tác động phần nào đó bởi yếu tố con
người.

Trường hợp này xác định thay thế vì mục đích gì, đó là nhằm chiếm đoạt toàn
bộ di sản thừa kế cũ đó hay nhằm mục đích khác. Sự thay thế do tự bản thân cá
nhân nào muốn thay thế hay đó là sự thay thế được sự đồng thuận bởi tất cả
những người thừa kế và được pháp luật thừa nhận.

Nếu nhằm mục đích chiếm đoạt toàn bộ di sản thừa kế ban đầu đồng thời thay
thế bởi một tài sản khác khi đó tài sản mới này sẽ không được coi là di sản thừa
kế.

Tại thời điểm mở thừa kế di sản được quy định còn tồn tại thì di sản đó được
chia theo quy định của pháp luật

Tuy nhiên,nếu vì lý do chủ quan mà di sản thừa kế bị làm hư hỏng hoặc bị bán
mà không có sự đồng ý của các đồng thừa kế thì giá trị phần di sản vẫn được
coi là di sản thừa kế và người làm thất thoát di sản có trách nhiệm trả lại phần
giá trị làm thất thoát để chia thừa kế.

3
Câu 3: Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

=> Câu trả lời là có.

Theo điều 612 BLDS 2015 : “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài
sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.

- Vậy di sản phải là tài sản của người chết

Theo điều 105 BLDS 2015 :

1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài
sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.

- Đất đai được coi là bất động sản ( Theo Điều 107 BLDS 2015 )

Theo khoản 1 Điều 95 Luật Đất đai năm 2013 có quy định:

Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người được giao đất để
quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thực hiện theo
yêu cầu của chủ sở hữu.

- Vậy để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất của
người quá cố cần phải được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Câu 4: Trong Bản án số 08, Tòa án có coi diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán án có
câu trả lời?

=> Câu trả lời là có.

4
Trong đoạn : Đối với diện tích đất tăng 85,5m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất …. Phần đề nghị này của Đại diện Viện Kiểm Sát không được Hội Đồng
xét xử chấp nhận.

Câu 5: Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số
08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Hướng xử lý nêu trên của Tòa án trong Bản án số 08 về diện tích đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hoàn toàn thuyết phục.

Thứ nhất, theo điểm b tiểu mục 1.3 phần II của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP thì
trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại
giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là
nhà ở, vật kiến trúc khác gắn liền với quyền sử dụng đất đó thì nếu có văn bản của Ủy
ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy
hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà Án giải quyết yêu
cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Tuy Ủy ban nhân dân
phường Đống Đa chưa có văn bản cho biết rõ là việc sử dụng đất đó có vi phạm quy
hoạch hay không, nhưng theo ông Nguyễn Ngọc Thu đại diện theo pháp luật của
UBND phường Đống Đa trình bày: "Hộ ông Hòa đang sử dụng diện tích đất tăng ổn
định, không thuộc diện quy hoạch di dời, không tranh chấp", nên có xem xét để giao
quyền sử dụng đất do không vi phạm quy hoạch.

Thứ hai, như ông Thu đã đề cập thì ông Hòa đã sử dụng diện tích đất tăng ổn định, các
hộ liền kề cũng không có tranh chấp về việc hộ ông Hòa sử dụng diện tích đất tăng
này nên có thể ngầm hiểu họ cũng công nhận quyền sử dụng đất của ông. Có ý kiến
cho rằng: “về bản chất “cái” được coi là di sản có giá trị tài sản là quyền sử dụng đất
hợp pháp, chứ không phải giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thực ra chỉ là một hình thức pháp lý, Nhà nước công nhận một ai
đó có quyền sử dụng đất hợp pháp, chứ nó không phải là căn cứ xác lập quyền sử
dụng đất. Do đó, nếu có chứng cứ chứng minh người quá cố là người sử dụng hợp
pháp đích thực quyền sử dụng đất thì nên coi đó là di sản”. Vì đã có chứng cứ chứng
5
minh ông Hòa là người sử dụng đất hợp pháp, do đó, Tòa án đã coi diện tích đất tăng
85,5 m2 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản nếu các đương
sự thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.

Câu 6: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao?

1/2 diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất chung của vợ chồng là phần di sản
của ông Phùng Văn N. Sở dĩ, Tòa án xem xét phần di sản của ông Phùng Văn N trong
phần tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N có diện tích 398 m2 chỉ là 133,5
m2 vì Tòa án cho rằng việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K
các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của
bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con.
Từ đó xác định vì mục đích chăm lo đời sống cho gia đình nên phần tài sản bà Phùng
Thị G bán cho ông K được tính vào phần tài sản chung của vợ chồng mặc dù thực tế
thời điểm bà G định đoạt phần tài sản chung này thì ông Phùng Văn N đã chết. Việc
quyết định của Tòa án như vậy là hợp tình và hợp lý.

Câu 7: Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?

Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia vì việc bà G chuyển nhượng đất cho ông K các con
bà đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà G có lời khai bà G
bán đất để lo cuộc sống của bà và các con; đồng thời, ông K cũng đã được cơ quan
nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên phần diện tích đất này không
được coi là di sản để chia là có căn cứ.

Câu 8: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến
phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.

Theo em, hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã
chuyển nhượng cho ông K là hợp lý. Vì ông K đã mua lại mảnh đất nói trên vào năm
1991 từ bà G mà không có bất kỳ sự phản đối hay tranh chấp nào từ phía các con bà G

6
mặc dù họ cũng đã được biết về việc này và phần tiền từ việc chuyển nhượng này
cũng đã được các con bà G xác nhận là dùng để lo cho gia đình. Bên cạnh đó thì ông
K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
phần đất này nên phần đất này không được xem là di sản để chia của gia đình bà G là
hợp lý.

Câu 9: Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà
dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản
để chia không? Vì sao?

Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà dùng tiền
đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó không được coi là di sản để chia. Vì:

Phần tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G là 398m2 đất, sau khi ông N mất mà
không để lại di chúc thì tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi theo quy định
của pháp luật (căn cứ vào điều 33 và điều 66 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014).
Bà G và các con chung của mình thuộc hàng thừa kế thứ nhất được quy định tại điểm
a khoản 1 điều 651 BLDS 2015: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ
đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết” nên bà G và các con chung
được chia thừa kế và có quyền ngang nhau đối với di sản mà ông N để lại. Trường
hợp bà G tự ý bán 131m2 đất cho ông K mà không có sự đồng ý của các con và bà G
sử dụng số tiền này cho mục đích của riêng mình thì có thể xem là bà G đã bán một
phần đất thuộc phần tài sản chung của 2 vợ chồng (196m2), việc bà G bán một phần
đất không ảnh hưởng gì tới phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng và di
sản của ông N (196m2) sẽ được chia đều cho bà G và các con.

Điều này hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ bà G có quyền định đoạt phần tài sản của mình
trong khối tài sản chung của hai vợ chồng, căn cứ vào khoản 1 điều 218 BLDS 2015:
“Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần quyền sở hữu của mình”.
Từ đó có thể khẳng định, bà G bán phần đất thuộc khối tài sản chung của hai vợ chồng
(196m2) để sử dụng cho mục đích cá nhân là không trái với pháp luật và không được
coi là di sản để chia do số tiền từ giao dịch được sử dụng cho lợi ích cá nhân (không
vì lợi ích các đồng thừa kế khác).

7
Câu 10: Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện
tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?

Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà trong diện tích đất trên là 133,5m2
ứng với 267m2 trong khối tài sản chung của vợ chồng. Vì 267m2 đứng tên bà Phùng
Thị G, được hình thành trong thời gian hôn nhân, nên phải được xác định là tài sản
chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia. Bà G chỉ có
quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m2 đất thuộc tài sản chung
của vợ chồng bà. Do đó, di sản của bà G để lại là ½ khối tài sản (133,5m2).

Câu 11: Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không?
Vì sao?

Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m2 là không
thuyết phục vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là
267m2 :2 = 133,5m2 sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo điểm a
khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà G nhận được
là: 133,5:7 = ~19,07m2.

Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là:
133,5m2 + 19,07m2 - 90m2 = 62,57m2.

Đây không phải là nội dung của Án lệ 16 vì án lệ này chỉ có nội dung xoay quanh
việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.

Câu 12: Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì
sao?

Việc Tòa án quyết định “còn lại 43,5m2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là không
thuyết phục. Vì phần đất 43,5m2 còn lại là phần di sản được chia theo pháp luật, đáng
ra phải được chia đều cho 06 người con thuộc hàng thừa kế thứ nhất, tức bao gồm cả
chị Phùng Thị H1. Việc chị Phùng Thị H1 được bà Phùng Thị G chia di sản theo di
8
chúc không hề ảnh hưởng đến quyền thừa kế của chị, bởi vậy Tòa án quyết định chỉ
chia cho 05 người con còn lại là không đảm bảo quyền lợi cho chị Phùng Thị H1.

Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nội dung của Án lệ số 16
nằm ở đoạn 2 phần Nhận định của Tòa án, là về việc công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển
nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số
tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên
nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tức là về việc
bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng một phần quyền sử dụng đất cho ông Phùng Văn
K.

VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN

Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-ST ngày 10/06/2020 về việc tranh chấp quyền
quản lý di sản thừa kế.

Nguyên đơn là anh Phạm Tiến H, bị đơn là anh Phạm Tiến N. Anh Phạm Tiến N là
con trai của ông Phạm Tiến T. Ông T là anh em ruột với anh H và đang quản lý di sản
của bố mẹ anh là ông Phạm Tiến Đ và bà Đoàn Thị T để lại. Nhưng do phải đi chấp
hành án, ông T giao lại quyền quản lý di sản cho con trai ông là anh Nghĩa. Ông Hiệu
được các anh chị em giao cho việc tu sửa, quản lý thì bị anh Nghĩa ngăn cản. Tại Bản
án dân sự sơ thẩm số 23/2019/DS-ST ngày 12/11/2019, Tòa án quyết định chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Hiệu, buộc anh Nghĩa bàn giao toàn bộ nhà và đất đang
quản lý cho ông Hiệu. Không đồng tình với quyết định của Bản án, ngày 20/11/2019
anh Nghĩa có đơn kháng cáo. Tại Bản án phúc thẩm Tòa án chấp nhận một phần
kháng cáo của anh Nghĩa, sửa Bản án dân sự sơ thẩm trước đó xác định quan hệ pháp
luật tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là “tranh chấp quyền quản lý di sản thừa
kế”; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hiệu, giao cho anh Hiệu quyền quản lý di
sản thừa kế.

9
Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/07/2020 về việc tranh chấp lối
đi.

Nguyên đơn là ông Trà Văn Đạm và bị đơn là ông Phạm Văn Sơn Nhỏ. Ông Đạm có
thửa đất số 528 do ông đứng tên nằm phía trong thửa đất số 525 của ông Ngót do ông
Nhỏ quản lý, sử dụng. Ông Đạm và ông Nhỏ có thỏa thuận mở một lối đi từ đất của
ông Đạm qua đất của ông Ngót và ông Đạm sẽ chịu chi phí thi công. Khi ông Đạm
thực hiện xong thỏa thuận thì kiện ông Nhỏ và các đồng thừa kế. Tại Bản án dân sự sơ
thẩm số 120/2017/DS-ST ngày 06/09/2017, Tòa án nhân dân huyện Cái Bè quyết định
chấp nhận yêu cầu của ông Trà Văn Đạm, buộc ông Nhỏ và các đồng thừa kế cho ông
Đạm mở lối đi chiều rộng 1,5m và chiều dài 20m. Sau đó ông Nhỏ kháng cáo. Tại
Bản án dân sự phúc thẩm số 22/2018/DS-PT ngày 11/01/2018, Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang quyết định không chấp nhận yêu cầu kháng cáo và chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông Đạm buộc ông Nhỏ và các đồng thừa kế cho ông Đạm mở lối đi. Không
đồng ý với quyết định của Bản án, ông Chơi, ông Nhỏ, bà Quý có đơn đề nghị xem
xét Bản án theo thủ tục giám đốc thẩm. Sau khi xem xét Tòa án quyết định hủy toàn
bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2018/DS-PT ngày 11/01/2018, giao hồ sơ vụ án cho
Tòa án nhân dân xét phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật.

Câu 1: Trong Bản án số 11, Tòa án xác định ai là người có quyền quản lý di sản
của ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục không, vì sao?

Theo Bản án số 11, Tòa án xác định ông Phạm Tiến H là người có quyền quản lý di
sản của ông Đ và bà T. Tôi cảm thấy Tòa án đã được ra quyết định hợp lý và hoàn
toàn thuyết phục.

Xét thấy việc ông T là người con trai cả đã ở nhà (hiện đang là di sản) khi bà T mất và
quản lý tài sản mà không có sự nhất chí trên văn bản của các đồng thừa kế chỉ mang
tính quản lý tạm thời theo khoản 2 Điều 616 BLDS 2015. Nhưng khi ông T bắt đầu đi
chấp hành án thì việc quản lý tạm thời này chấm dứt và ông không có quyền ủy quyền
lại cho con trai anh là Phạm Tiến N. Sau đấy xét thấy anh N và các đồng thừa kế khác
cũng không có ở lại nhà để chăm lo quản lý nhà nên di sản là căn nhà không có ai ở
nên được xét là di sản chưa có ai quản lý.

10
Sau khi ông Phạm Tiến H chấp hành án về và nhận được sự nhất trí trao quyền quản
lý di sản của các đồng thừa kế (trừ ông T) nhưng căn cứ theo khoản 1 Điều 616 cùng
bộ luật trên: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do
những người thừa kế thỏa thuận cử ra”, thì ông H đã thỏa đủ điều kiện để được xác
lập là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T. Vì vậy nên quyết định của
Tòa là hợp lý và thuyết phục theo ý kiến của tôi.

Câu 2: Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là người
quản lý di sản không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Theo bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án là người quản lý di sản nhưng
chỉ mang tính tạm thời, không chính thức.

Vì ông Thiện không có sự nhất trí trên văn bản của các đồng thừa kế nhưng xét thấy
việc ông Thiện thuộc hàng thừa kế thứ nhất và ông cũng đã ở căn nhà hiện là di sản
khi bà T mất năm 2012 trước khi đi chấp hành án nên căn cứ theo khoản 2 Điều 616
BLDS 2015: “Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những
người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng,
quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được
người quản lý di sản.” thì ông Phạm Tiến T sẽ là người quản lý di sản là căn nhà đó
trong khi ông còn ở trong căn nhà hiện là di sản hoặc trước khi các đồng thừa kế nhất
trí đưa ra được người quản lý di sản chính thức theo pháp luật quy định.

Câu 3: Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiệu (Tiến H) quyền quản
lý di sản có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Việc tòa án giao cho anh Hiệu quyền quản lý di sản là thuyết phục vì:

Cả hai ông bà Đ và T chết mà không để lại di chúc đối với khối di sản và cũng không
chỉ định người quản lý khối di sản là ai. Anh H cũng được các chị em ủy quyền. Như
vậy anh H có thể được coi là người quản lý di sản theo trường hợp quy định tại khoản
1 Điều 616 BLDS 2015: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc
hoặc do những người thừa kế cử ra” . Trong trường hợp này, các chị, em của anh H -
Những người thừa kế đã cử anh H làm người quản lý di sản và vì thế nên anh H là
người quản lý di sản. Mặt khác, cho dù anh H là người đang chấp hành án, tuy nhiên
anh H không vi phạm hay bị kết án về các hành vi liệt kê tại điều 621 BLDS 2015 quy
11
định về người không được quyền hưởng di sản nên không thể phủ nhận quyền quản lý
di sản của anh H.

Về phía anh N và anh T, anh N xuất trình giấy ủy quyền từ anh T là không có giá trị
pháp lý. Căn cứ theo khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 người quản lý di sản là người do
những người thừa kế cử ra. Vì giấy ủy quyền chỉ đến từ phía anh Thiện, ông Đ bà T
cũng không lập di chúc để lại cho anh Thiện cho nên quyền ủy quyền cho người quản
lý di sản không thuộc về riêng anh Thiện mà đã được những người thừa kế khác ủy
quyền cho anh H trước đó.

Câu 4: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tôn tạo, tu sửa
lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

Khi là người quản lý di sản thì có quyền tôn tạo lại di sản vì:

Anh H là người quản lý di sản theo trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 616 BLDS
2015 và vì vậy anh H cũng sẽ có nghĩa vụ bảo quản di sản như theo điểm b khoản 1
Điều 617 BLDS 2015: “1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều
616 của Bộ luật này có nghĩa vụ sau đây: b) Bảo quản di sản; không được bán, trao
đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu
không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”, việc anh H tôn tạo, tu sửa di
sản có thể được xem là đang thực hiện nghĩa vụ bảo quản di sản

Câu 5: Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại cho
người khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho con
trai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.

- Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản không có quyền giao lại cho người
khác quản lý di sản. Bởi

+ Căn cứ vào Điều 616 BLDS 2015: “Người quản lý di sản là người được chỉ định
trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra”.

- Khi người quản lý di sản muốn giao lại quyền quản lý di sản cho người khác thì
thông qua thỏa thuận với các người thừa kế, cụ thể là ông Thiện trong Bản án số 11
muốn giao lại quyền quản lý di sản cho con trai là anh Nghĩa thì phải thông báo cho
các đồng thừa kế và phải được các đồng thừa kế đồng ý.
12
Câu 6: Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền
tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phục không? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.

- Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý không có quyền tự thỏa
thuận mở lối đi cho người khác qua di sản là có thuyết phục. Vì

+ Theo điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 quy định người quản lý di sản quy
định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có nghĩa vụ: “Bảo quản di
sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hoặc định đoạt tài sản
bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản”.

- Ông Nhỏ chỉ là người quản lý di sản của các đồng thừa kế phần di sản của ông Ngót
và bà Chơi, vì vậy ông không có quyền định đoạt trong việc mở lối đi cho người khác
đi qua di sản, mà phải cần thông qua sự đồng ý của các đồng thừa kế.

VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu yêu
cầu chia di sản thừa kế là bất động sản:

*Khái quát nội dung án lệ:

- Tình huống án lệ:

Người để lại di sản thừa kế là bất động sản chết trước ngày công bố Pháp lệnh
Thừa kế ngày 30-8-1990. Tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm, Bộ luật Dân sự số
91/2015/QH13 đang có hiệu lực pháp luật.

- Giải pháp pháp lý:

Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di
sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990. Thời hiệu yêu cầu
chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự số
91/2015/QH13.

13
**Nội dung án lệ (đoạn số 5, 6, 7 của án lệ):

“Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di
sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với
giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời hiệu
được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.  

Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp
dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với
trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36
Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường hợp này
thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định
của pháp luật.”

Câu 1: Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.

Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015, có 3 loại thời hiệu trong lĩnh
vực thừa kế:

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất
động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời
hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được
giải quyết như sau:

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy
định tại Điều 236 của Bộ luật này;

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy
định tại điểm a khoản này.

14
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm
mở thừa kế.

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Câu 2: Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản
không?

- Hiện nay, pháp luật Trung Quốc có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di sản
được quy định tại điều 8, chương 1, Luật thừa kế của nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa.

- (Nguyên tác) 第八条 继承权纠纷提起诉讼的期限为二年,自继承人知道或


者应当知道其权利被侵犯之日起计算。但是,自继承开始之日起超过二十年
的,不得再提起诉讼。1

- (Tạm dịch tiếng Anh) Article 8: The time limit for institution of legal
proceedings pertaining to disputes over the right to inheritance is two years,
counting from the day the became or should have become aware of the violation
of his right to inheritance. No legal proceedings, however, may be instituted after
the expiration of a period of 20 years from the day succession began.2

- (Tạm dịch tiếng Việt) Điều 8: Thời hạn của tổ chức tố tụng liên quan đến tranh
chấp về quyền thừa kế là 2 năm, kể từ ngày người kế nhiệm trở thành hoặc nhận
thức được quyền của mình bị vi phạm. Tuy nhiên, không có thủ tục tố tụng nào có
thể được thiết lập sau khi hết thời hạn 20 năm kể từ ngày kế vị bắt đầu.

- Đa số các quốc gia ở Châu Âu, Châu Mỹ thì không có áp đặt yêu cầu về thời
hiệu yêu cầu chia di sản. Vì nhiều nhà nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho rằng
việc áp đặt thời hiệu sẽ dẫn tới nhiều bất cập khi nó được thực thi trong thực tế

1 http://www.npc.gov.cn/wxzl/wxzl/2000-12/06/content_4457.htm

2 https://www.fmprc.gov.cn/ce/cgny/eng/lsqz/laws/t42224.htm

15
cuộc sống như làm phức tạp hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thừa kế, xét theo
góc độ lý luận hay thực tiễn đều có thể làm ảnh hưởng, đến quyền thừa kế của các
cá nhân liên quan. Nói cách khác, tự chúng ta áp đặt thời hạn yêu cầu chia di sản
và tự chúng ta phải đối mặt với những khó khăn do chính thời hạn này làm phát
sinh.3

Câu 3: Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào của
Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?

- Thời điểm mở thừa kế với di sản của cụ T là năm 1972

- Đoạn tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời “Như vậy kể từ ngày
BLDS 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp dụng quy định tại Điều 623 BLDS
2015 để xác định thời hiệu đối với trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-
2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều 36 pháp lệnh thừa kế ngày 30-08-1990
và BLDS năm 2015, trong trường hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ
T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo quy định của pháp luật”.

Câu 4: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự năm
2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản là các quy định tại điểm d khoản 1 Điều
688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ
thể:

Điều 688. Điều khoản chuyển tiếp

“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật
này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như
sau:

[…] d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật
này.”

3http://baochinhphu.vn/Lay-y-kien-nhan-dan-ve-du-thao-Bo-luat-dan-su-sua-doi/De-xuat-bo-Thoi-hieu-khoi-kien-yeu-
cau-chia-di-san-thua-ke/224465.vgp

16
Điều 623. Thời hiệu thừa kế

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối
với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở
thừa kế”.4

=> Như vậy, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho di sản của cụ T là thuyết phục vì cách giải quyết này phù hợp với
những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Câu 5: Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của BLDS 2015 cho di
sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế năm 1990
được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không? Vì sao?

Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự năm
2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa kế
năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản là quy định tại khoản 4 Điều 36 Pháp
lệnh thừa kế ngày 30/8/1990. Cụ thể:

Điều 36. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

“[…] 4. Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành
Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều
này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”5

Như vậy, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân
sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh
thừa kế năm 1990 được công bố là rất thuyết phục vì nó phù hợp với quy định của
pháp luật hiện hành.

Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.

- Án lệ số 26/2018/AL tồn tại một số điểm bất hợp lý như sau:

4 Bộ luật Dân sự năm 2015 số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.

5 Pháp lệnh thừa kế năm 1990.

17
+ Viện dẫn điểm d khoản 1 Điều 688 BLDS 2015: “ Thời hiệu được áp
dụng theo quy định của bộ luật này.” Nhưng khoản 1 Điều 688 được áp
dụng đối với “ giao dịch dân sự”. Mà theo Điều 116 BLDS 2015 thì: “
giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc là hành vi pháp lý đơn phương làm
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.” Trong vụ án
tranh chấp “ thừa kế tài sản và chia tài sản chung” mà HĐTP đang xem
xét không có “Giao dịch dân sự” nào cả. Vậy nên viện dẫn điều này làm
căn cứ pháp lý là bất hợp lý.

+ Viện dẫn tới khoản 4 Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990,
nhưng lại bỏ quên Nghị quyết số 02/1990/NQ-HĐTP ngày 19/10/1990
hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế 1990, theo đó
tại điểm b Điều 10 Nghị quyết số 02 đã quy định rõ như sau:

“Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu
khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:

– Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu
chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế
của người khác:

– Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh
toán các chi phí từ di sản.”

Nhưng HĐTP lại áp dụng Điều 623 BLDS 2015 để hồi tố lại quyền khởi
kiện đối với các trường hợp mở thừa kế trước ngày 10/09/1990 lại tạo ra
sự bất công bằng trong xã hội.

18
VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

Yêu cầu 1: Anh/chị hãy liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản
và pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ
đầu năm 2017 đến nay.

Trả lời yêu cầu:

Sau đây là một số bài viết mà nhóm tìm được:

1. Đỗ Văn Đại, “Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ luật
Dân sự năm 2015 có hiệu lực.”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số
02(123)/2019 – 2019, từ tr.65 đến 73;

2. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm
phạm”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số 08(111)/2017 – 2017, từ tr.34
đến 41;

3. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Chứng minh tổn thất tinh thần khi tài sản bị xâm phạm
theo pháp luật Hoa Kỳ - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.”, tạp chí “Khoa học
Pháp lý Việt Nam”, số 05(117)/2018 – 2018, từ tr.32 đến 37;

4. Ngô Thị Anh Vân – Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung của
vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số
06(127)/2019 – 2019, từ tr.24 đến 36;

5. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định được
chủ sở hữu”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số 01(113)/2018 – 2018, từ
tr.33 đến 38;

6. Nguyễn Văn Hợi, “Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác gây
ra”, tạp chí Kiểm sát, số 17/2018, từ tr.31 đến 40;

7. Nguyễn Nam Hưng, “Một số vướng mắc về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015”, tạp chí Kiểm sát, số 11/2018, từ tr.39 đến 42;

8. Lê Thị Loan, “Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, tạp chí Luật học, số 3
năm 2018, từ tr.92 đến 104;

19
9. Tưởng Duy Lượng, “Vai trò của đăng kí và cung cấp thông tin tài sản trong giải
quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại tòa án”, tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (366) kì 2 tháng 7 năm 2018, từ tr.36 đến 42;

10. Nguyễn Xuân Quang và Trần Ngọc Tuấn, “Quy định thu giữ tài sản thế chấp để
xử lí theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị”, tạp chí Dân chủ và pháp luật,
số tháng 9 (318) năm 2018, từ tr.18 đến 26;

11. Đặng Phước Thông, “Quyền tài sản Bộ Luật dân 2015 hoàn thiện pháp luật đăng
kí tài sản”, Tạp chí luật học, số năm 2018, tr.74 đến 86;

12. Đào Thị Ngọc Thuận, “Kiểm sát việc giải vụ án dân có yêu cầu hủy hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất”,
Tạp chí kiểm sát, số 20/2018, tr.43 đến 49;

13. Lê Thị Giang, “Nhận diện hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của pháp luật
Việt Nam”, tạp chí Luật học, số 9 năm 2018, từ tr.14 đến 22;

14. Phan Phương Nam, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định
được chủ sở hữu”, tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 (213) năm 2018, từ tr.33-38;

15. Phan Thị Hồng, “Áp dụng pháp luật giải tranh chấp thừa kế”, Nghề luật, Học
viện Tư pháp, Số năm 2018, từ tr.28 đến 35;

16. Phan Duy Nhật, “Thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế: Giải pháp pháp lý án lệ
số 26/2018/AL”, Sinh viên khoa học pháp lý, Số 27 năm 2019, từ tr.19 đến tr.42;

17. Cao Nguyễn Bảo Liên, “Thời hiệu thừa kế theo quy định Bộ luật Dân 2015 thực
tiễn áp dụng”, Sinh viên khoa học pháp lý, Số 27 năm 2019, từ tr.15 đến tr.28;

18. Nguyễn Viết Giang, “Bàn vấn đề thừa kế thừa kế vị riêng bố dượng, mẹ kế theo
quy định Bộ luật Dân năm 2015”, Tòa án nhân dân tối cao, Số năm 2020, từ tr.23
đến tr.25;

19. Nguyễn Thanh Phúc, “Thời hiệu thừa kế theo quy định Bộ luật dân sự”, Dân chủ
pháp luật, số tháng năm 2018 (xây dựng pháp luật), tr.10 đến tr.15;

20
20. Hoàng Thị Loan, “Những vấn đề lí luận di chúc hiệu lực di chúc”, Tạp chí luật
học, số năm 2018, tr.31 đến 41

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.

Trả lời yêu cầu:

- Thông thường thì để tìm kiếm những bài viết có nội dung như đề bài thì ta phải
lên thư viện tìm kiếm. Việc tìm kiếm thủ công sẽ rất mất thời gian và công sức,
trong khi lượng bài biết có nội dung như đề bài yêu cầu tìm thấy sẽ rất ít. Thế
nên ta dựa vào trang web trực tuyến của thư viện trường
(http://library.hcmulaw.edu.vn/), tra cứu tìm kiếm được dễ dàng hơn. Dựa vào
việc tìm kiếm - tra cứu tên tác giả, tên bài viết, theo chủ đề, quốc gia, nhan đề, từ
khóa, nhà xuất bản, năm xuất bản,...

- Đồng thời, sự xuất hiện của trang web trực tuyến Tạp chí Khoa học Pháp lý
(http://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/), nên phần nào tìm kiếm nội dung cần tìm
tạp chí được phần dễ dàng hơn. Và những bài viết liên quan đến pháp luật về tài
sản và pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật
từ đầu năm 2018 đến nay mà nhóm đã nêu ở Yêu cầu 1 cũng không là ngoại lệ.
Phần nhiều tìm được bài viết thông qua hai trang web trên.

21

You might also like