Final BTL

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 33

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


🙞···☼···🙜

BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC


ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI. ĐÁNH GIÁ VIỆC PHÁT HUY TINH THẦN
ĐOÀN KẾT CÁC TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LỚP L03--- NHÓM 10--- HK 221
NGÀY NỘP 6/11/2022
Giảng viên hướng dẫn: An Thị Ngọc Trinh

Sinh viên thực hiện Mã số sinh viên Điểm số


Huỳnh Tuấn Khanh 2011378
Phạm Văn Khánh 2013462
Trần Đăng Khánh 2011394
Phạm Tấn Khiêm 2013486
Lê Tử Kiên 2010358
Nguyễn Đăng Kiên 2011464

Thành phố Hồ Chí Minh – 2022


DANH SÁCH THÀNH VIÊN VÀ KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHÓM

STT Họ và tên MSSV Nhiệm vụ được % Điểm Điểm Ký tên


phân công BTL BTL

1 Huỳnh Tuấn Khanh 2011378 Phần mở đầu, tổng 100%


hợp báo cáo

2 Phạm Văn Khánh 2013462 2.4 100%

3 Trần Đăng Khánh 2011394 Kết luận 100%

4 Phạm Tấn Khiêm 2013486 Chương 1 100%

5 Lê Tử Kiên 2010358 2.1 và 2.3.1 100%

6 Nguyễn Đăng Kiên 2011464 2.2 và 2.3.2 100%

Nhóm trưởng: Nguyễn Đăng Kiên MSSV: 2011464


Email: kien.nguyenlun2011464@hcmut.edu.Việt Nam SĐT:0332652772

Giảng viên Nhóm trưởng


(ký và ghi rõ họ, tên) (ký và ghi rõ họ, tên)

Nguyễn Đăng Kiên

2
MỤC LỤC

1. PHẦN MỞ ĐẦU …………………………………………………………………5

2. PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG Ⅰ: VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI

1.1 Chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo ………………………………………….


1.1.1 Bản chất của tôn giáo …………………………………………………..7
1.1.2 Nguồn gốc của tôn giáo …………………………………….…………10
1.1.3 Tính chất của tôn giáo …………………………………………………13
1.2 Nguyên tắc giải quyết các vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội …………………………………………………………………………………14
CHƯƠNG Ⅱ: ĐÁNH GIÁ VIỆC PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT CÁC
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam …………………………………………………18
2.2 Khái quát về chính sách đoàn kết tôn giáo của Đảng và Nhà
nước…………………………………………………………………………………..20
2.3 Đánh giá việc phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………………….21
2.3.1 Những thuận lợi trong việc thực hiện chính sách đoàn kết tôn giáo ở Việt
Nam hiện nay …………………………………………………………………………21
2.3.2. Một số khó khăn trong việc phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo
ở Việt Nam hiện nay ………………………………………………………………….24
2.4  Những  giải pháp khắc phục hạn chế trong việc thực hiện chính sách đoàn kết
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay …………………………………………………….. 29
3. KẾT LUẬN……………………………………………………………………….31
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………32

3
NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG TIỂU LUẬN
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CT & TT : Chính trị và tư tưởng
KT-XH: Kinh tế - Xã hội
XHCN: Xã hội chủ nghĩa

4
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài và ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài này đối với
thực tiễn

Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, luôn có ảnh hưởng nhất định đến đời
sống văn hóa, đạo đức, tinh thần, tâm linh và cả tư tưởng chính trị của nhiều cộng
đồng dân cư trên toàn thế giới. Trong lịch sử hình thành và phát triển, tôn giáo đã trải
qua nhiều thăng trầm và biến đổi. Đã có nhiều cách lý giải về sự ra đời và tồn tại của
tôn giáo, tuy nhiên, chỉ đến khi chủ nghĩa C.Mác - VI Lênin ra đời thì nguồn gốc
KT-XH, bản chất của tôn giáo trong xã hội loài người mới được vạch chỉ một cách xác
đáng và tác động trở lại của tôn giáo đối với xã hội cũng được làm rõ.

Có một thời gian dài, nhiều người nhìn nhận không đúng về vai trò, vị trí của
tôn giáo. Họ cho rằng cùng với sự phát triển chín muồi của CNXH, tôn giáo sẽ nhanh
chóng mất đi. Nhưng thực tế, tôn giáo không những không mất đi mà trong những năm
tháng cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI, tôn giáo ở nhiều nơi đã hồi sinh trở lại và
phát triển mạnh mẽ, kèm theo đó là những vấn đề phức tạp cần được giải quyết như:
những xung đột dân tộc, tôn giáo liên quan đến xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa, giữ
gìn truyền thống văn hóa của các cộng đồng dân tộc quốc gia. Đã xuất hiện nhiều hiện
tượng tôn giáo cuồng tín, phản động dẫn đến những khủng bố mang tính huỷ diệt,
khiến cả thế giới phải sửng sốt. Ở nhiều quốc gia, các tổ chức tôn giáo ngày càng
muốn tham dự sâu hơn vào đời sống chính trị dưới nhiều hình thức khác nhau, gây ra
cuộc đấu tranh nội bộ, giành giật quyền lực không kém phần gay go, khốc liệt.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mối quan hệ giữa con
người với nhau, giữa con người với tự nhiên còn nhiều điều chưa thể đạt đến sự hợp
lý, đặc biệt mặt trái của cơ chế thị trường, như tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo,
những rủi ro, bệnh tật, môi trường bị hủy hoại,... vẫn còn là cơ sở khách quan cho tôn
giáo tồn tại và phát triển trên những phạm vi nhất định. Do đó, tôn giáo vẫn còn tồn
tại, khó có thể đoán định được "tuổi thọ” của tôn giáo, song chắc chắn rằng tôn giáo
vẫn là một thực thể tồn tại trong chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm độc đáo, đặc sắc, những cách
làm hiệu quả, thiết thực để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo ở

5
Việt Nam. Những quan điểm và cách làm sáng tạo này tạo nên di sản quý báu mà Hồ
Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Cần phải biết kế thừa, phát huy qua các
giai đoạn cách mạng, nhất là ở những giai đoạn có nhiều thay đổi có tính chất bước
ngoặt, nhiều vấn đề xuất hiện về tôn giáo như hiện nay. Thực tế thực hiện công tác tôn
giáo ở nước ta, mặc dù đã đạt được nhiều thành tích đáng ghi nhận, nhưng chúng ta
cũng đang gặp phải không ít những khó khăn, hạn chế trong công tác tôn giáo, đặc biệt
là vấn đề đoàn kết tôn giáo trong bối cảnh mới. Những vấn đề nổi cộm này đòi hỏi
phải được nhận thức và giải quyết thấu đáo, nhất là từ phương diện lý luận. Vì thế
nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn
giáo, quán triệt sâu sắc tư tưởng này vào các chủ trương, chính sách và công tác tôn
giáo của Đảng, Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới là vấn đề có ý nghĩa lý luận và ý
nghĩa thực tiễn cấp bách. Xuất phát từ những lý do cấp thiết trên, nhóm chúng tôi đã
chọn đề tài “Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Liên hệ, đánh giá việc
phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.”

2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu về những vấn đề về tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Liên hệ, làm rõ các mặt, các vấn đề của việc phát huy tinh thần đoàn kết tôn giáo
ở nước ta trong thời kỳ ngày nay.

3. Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và liên hệ đến vấn đề
phát huy tinh thần đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.

4. Phương pháp nghiên cứu

Tìm hiểu, nghiên cứu về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, nhóm sử dụng một số phương pháp:

- Nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề tôn giáo

- Tham khảo các tài liệu, các bài báo trong và ngoài nước, các luận văn, bài
nghiên cứu về tôn giáo có liên quan đến vấn đề nghiên cứu và đưa ra các hướng giải
quyết.

6
- Khi thu thập tài liệu để nghiên cứu, tham khảo nhóm có tiêu chí rõ ràng để tìm
tài liệu, nguồn thông tin phù hợp và có độ tin cậy cao.

5. Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm phần mở đầu, kết luận, các tài liệu tham khảo cùng 2 chương, 6 tiểu
tiết:

- Chương 1: Vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Có 2 tiểu tiết.

- Chương 2: Đánh giá việc phát huy tinh thần đoàn kết các tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay. Có 4 tiểu tiết.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG Ⅰ. VẤN ĐỀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ


NGHĨA XÃ HỘI

1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo

1.1.1 Bản chất của tôn giáo

Trong khi các nhà duy tâm, thần học cho rằng tôn giáo có nguồn gốc siêu nhiên,
thế giới tự nhiên, xã hội loài người cũng như toàn bộ hoạt động của mỗi cá nhân con
người đều chịu sự chi phối, điều khiển của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh thì các
nhà duy vật, vô thần đã có quan điểm hoàn toàn đối lập. L.Phoiơbắc - nhà triết học duy
vật người Đức, trong Bản chất đạo Cơ đốc, đã khẳng định rằng, không phải thần thánh
sáng tạo ra con người mà con người sáng tạo ra thần thánh theo hình mẫu của mình;
rằng: “Thượng đế siêu hình không phải là cái gì khác mà là sự tập hợp, là toàn bộ
những đặc tính chung nhất rút ra từ giới tự nhiên, song con người, nhờ vào sức tưởng
tượng… lại đem giới tự nhiên biến thành một chủ thể hay một thực thể độc lập”1. Tuy
nhiên, Phoiơbắc chưa chỉ ra được bản chất thực sự của tôn giáo và ở khía cạnh này,
ông vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm khi chỉ phê phán thứ tôn giáo hiện thời
chứ không phê phán tôn giáo nói chung, càng chưa hề đề cập đến sự phê phán những
điều kiện hiện thực đã làm nảy sinh tôn giáo.

1
V.I.Lênin. (2005). Toàn tập, t.1. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7
Kế thừa và vượt lên trên quan điểm của Phoiơbắc và các nhà duy vật trước đó,
chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hư
ảo hiện thực khách quan. Thông qua sự phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội
trở thành siêu nhiên, thần bí. Ph. Ăngghen cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ
là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”2.

Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội - các tôn giáo cụ thể
(ví dụ: Công giáo, Tin Lành, Phật giáo...), với các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin sâu
sắc vào đấng siêu nhiên, đấng tối cao, thần linh để tôn thờ (niềm tin tôn giáo); có hệ
thống giáo thuyết (giáo lý, giáo luật, lễ nghi) phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan,
đạo đức, lễ nghi của tôn giáo; có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân sự, quản lý
điều hành việc đạo (người hoạt động tôn giáo chuyên nghiệp hay không chuyên
nghiệp); có hệ thống tín đồ đông đảo, những người tự nguyện tin theo một tôn giáo
nào đó và được tôn giáo đó thừa nhận.

Ph. Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước
bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”3. Chỉ
rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: Tôn giáo là một hiện
tượng xã hội - văn hóa do con người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tôn giáo vì
mục đích, lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ của họ.
Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc vào tôn giáo, tuyệt đối hóa và
phục tùng tôn giáo vô điều kiện. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật
chất và các quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển
của các hình thái ý thức xã hội, trong đó có tôn giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn
giáo, các tổ chức, thiết chế tôn giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ
những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo những thay đổi của cơ sở
kinh tế. Về phương diện thế giới quan, các tôn giáo mang thế giới quan duy tâm, có sự
khác biệt với thế giới quan duy vật biện chứng, khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Mặc dù có sự khác biệt về thế giới quan, nhưng những người cộng sản với lập trường

2
C. Mác và Ph. Ăngghen. (2004). Toàn tập, t.20. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3
C. Mác và Ph. Ăngghen. (2004). Toàn tập, t.1. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8
mác xít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân; ngược lại, luôn tôn trọng quyển tự do tín ngưỡng, theo hoặc
không theo tôn giáo của nhân dân. Trong những điều kiện cụ thể của xã hội, những
người cộng sản và những người có tín ngưỡng tôn giáo có thể cùng nhau xây dựng một
xã hội tốt đẹp hơn ở thế giới hiện thực. Xã hội ấy chính là xã hội mà quần chúng tín đồ
cũng từng mơ ước và phản ánh nó qua một số tôn giáo.

Tôn giáo và tín ngưỡng không đồng nhất, nhưng có giao thoa nhất định. Tín
ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự ngưỡng mộ, cũng như cách thức thế hiện niềm
tin của con người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh, linh
thiêng để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Tín ngưỡng thì chưa có hệ thống giáo lý mà
chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết... Tín ngưỡng mang tính chất dân gian,
gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian. Trong tín ngưỡng có sự hòa nhập giữa thế giới
thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán, chưa thành quy ước chặt
chẽ...Có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau như: tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên; tín
ngưỡng thờ anh hùng dân tộc; tín ngưỡng thờ Mẫu...

Mê tín là niềm tin mê muội, viển vông, không dựa trên một cơ sở khoa học nào.
Nói cách khác là niềm tin về mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, sự vật, hiện
tượng trên thực tế không có mối liên hệ cụ thể, rõ ràng, khách quan, tất yếu, nhưng
được bao phủ bởi các yếu tố siêu nhiên, thần thánh, hư ảo. Dị đoan là sự suy đoán,
hành động một cách tùy tiện, sai lệch những điều bình thường, chuẩn mực trong cuộc
sống.

Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng siêu nhiên, thần
thánh đến mức độ mê muội, cuồng tín, dẫn đến những hành vi cực đoan, sai lệch quá
mức, trái với các giá trị văn hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và
cộng đồng.

Các hình thức xem tướng số, bói toán: bói dáng người, bói chỉ tay, bói chân gà,
bói mai rùa, bói chữ viết, bói chữ ký, gieo lá số tử vi, bói bài... Những hình thức bói
toán xem tướng số làm cho người ta tin tưởng và khẳng định rằng mỗi người đều có
mệnh của riêng mình. Những “thông tin” do bói toán, đoán mệnh, quy định người này
có tướng làm quan, người có tướng giàu có, người hào hoa phong nhã, người phải chịu

9
phận ăn mày, nghèo khổ, người trộm cướp, lọc lừa... và khi đã có số mệnh như thế thì
không sao có thể xoay chuyển được.

Hiện nay, các hình thức bói chân gà - mai rùa - cỏ thi; bói vi tính - bói bài - bói
kiều: một loại thì cổ xưa phức tạp, khó hiểu; một loại thì có vẻ thiếu trang trọng nên có
ít người sử dụng hoặc chỉ xem nó như một trò chơi giải trí. Thế nhưng, một số hình
thức bói chỉ tay, bói dáng người, bói chữ viết, bói chữ ký... lại được nhiều người cho
rằng đó là khoa học hoặc “khoa học đang nghiên cứu”. Trong cái cảm giác mường
tượng vào khoa học đó, người ta vội vàng nghe theo lời phán bảo của “thầy bói”. Thực
ra đây là một sự nhầm lẫn vì lấy hiện tượng qui thành bản chất.

Chúng ta thấy rằng, bệnh tật quy định một số biểu hiện bên ngoài chứ các biểu
hiện bên ngoài không quy định bệnh tật, ví như “bệnh lao” quy định việc “gầy yếu”
chứ “gầy yếu” không quy định “bệnh lao” hoặc “bệnh gan” quy định “vàng mắt” chứ
“vàng mắt” không quy định “bệnh gan”. Cũng như vậy các đường chỉ tay rõ ràng,
tướng mạo đĩnh đạc, uy nghi là biểu hiện bên ngoài của một con người có sức khỏe, có
năng lực chứ không phải các hình thức ấy quy định số mệnh của anh ta, vì anh ta có
sức khỏe, có năng lực, có phẩm chất nên anh ta được trọng dụng. Do anh ta được trọng
dụng nên anh ta có tương lai tốt đẹp, tươi sáng. Việc người này có sức khỏe, có năng
lực, có phẩm chất hơn so với người khác trong xã hội không phải do số mệnh tiền
định.

1.1.2. Nguồn gốc của tôn giáo

Nguồn gốc tự nhiên, kinh tế - xã hội: Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo xuất
phát từ hiện thực khách quan và nguồn gốc quan trọng nhất của tôn giáo chính là điều
kiện kinh tế – xã hội. Trong lịch sử tiến hoá của mình, trước hết con người có nhu cầu
cải tạo tự nhiên để tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Do
lực lượng sản xuất chưa phát triển, trước thiên nhiên hùng vĩ tác động và chi phối
khiến cho con người cảm thấy yếu đuối và bất lực, không giải thích được, nên con
người đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực thần bí. Đó chính là cơ sở cho
sự nảy sinh các hiện tượng thờ cúng.

Theo Mác, sở dĩ tôn giáo ra đời và tồn tại là do chính cơ sở kinh tế quyết định
và do sự hạn chế trong mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự

10
nhiên. C.Mác viết: “Các cơ cấu sản xuất xã hội đó được quyết định bởi trình độ phát
triển thấp kém của những sức sản xuất của lao động và tính chất hạn chế tương ứng
của các quan hệ của con người trong khuôn khổ quá trình sản xuất ra đời sống vật chất,
tức là tính chất hạn chế của tất cả các mối quan hệ giữa người với nhau và với thiên
nhiên. Và về mặt tư tưởng, tính chất hạn chế thực tế đó đã phản ánh vào trong tôn giáo
cổ đại, thần thánh hóa thiên nhiên, và vào trong tín ngưỡng của nhân dân”4.

Bên cạnh lực lượng tự nhiên lại có những lực lượng xã hội tác động vào càng
gây nên nhiều nỗi áp bức, bất công mà có lúc họ không giải thích được nguyên nhân
của sự bất bình đẳng đó. C.Mác viết: “…chẳng bao lâu, bên cạnh những lực lượng
thiên nhiên, lại còn có cả những lực lượng xã hội tác động - những lực lượng này đối
lập với con người, một cách cũng xa lạ, lúc đầu cũng không thể hiểu được đối với họ,
và cũng thống trị họ với cái vẻ tất yếu bề ngoài giống như bản thân những lực lượng tự
nhiên vậy”5.

Đặc biệt, khi xã hội có sự phân chia và áp bức giai cấp thì các mối quan hệ xã
hội càng phức tạp, một bộ phận người dân rơi vào tình thế cùng quẫn, bất lực trước các
thế lực thống trị. Thêm vào đó, những yếu tố tự phát, ngẫu nhiên, rủi ro bất ngờ nằm
ngoài ý muốn của con người gây ra cho họ sự sợ hãi, lo lắng, mất cảm giác an toàn. Đó
cũng là nguyên nhân khiến người ta tìm đến và dựa vào sự che chở của tôn giáo.

Nguồn gốc nhận thức: Ở một giai đoạn lịch sử nhất định, sự nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình là có giới hạn. Khi mà khoảng cách
giữa “biết” và "chưa biết” vẫn tồn tại, khi những điều mà khoa học chưa giải thích
được, thì điều đó thường được giải thích thông qua lăng kính các tôn giáo. Ngay cả
những vấn đề đã được khoa học chứng minh, nhưng do trình độ dân trí thấp, chưa thể
nhận thức đầy đủ, thì đây vẫn là điều kiện, là mảnh đất cho tôn giáo ra đời, tồn tại và
phát triển. Ví dụ như ma trơi, thầy đồng, bà bóng,…tất cả chỉ là hiện tượng được giải
thích dựa trên khoa học hoặc là trò lừa bịp nhưng đều được siêu nhiên hóa.

Thần thánh, cái siêu nhiên, thế giới bên kia… là sản phẩm của những biểu
tượng, sự trừu tượng hoá, sự khái quát dưới dạng hư ảo. Nói như vậy có nghĩa là tôn

4
C. Mác và Ph. Ăngghen. (2004). Toàn tập, t.23. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5
C. Mác và Ph. Ăngghen. (2004). Toàn tập, t.20. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11
giáo chỉ có thể ra đời ở một trình độ nhận thức nhất định, đồng thời nó phải gắn với sự
tự ý thức của con người về bản thân mình trong mối quan hệ với thế giới bên ngoài.
Khi chưa biết tự ý thức, con người cũng chưa nhận thức được sự bất lực của mình
trước sức mạnh của thế giới bên ngoài, do đó con người chưa có nhu cầu sáng tạo ra
tôn giáo để bù đắp cho sự bất lực ấy.

Nguồn gốc nhận thức của tôn giáo gắn liền với đặc điểm của của quá trình nhận
thức. Đó là một quá trình phức tạp và mâu thuẫn, nó là sự thống nhất một cách biện
chứng giữa nội dung khách quan và hình thức chủ quan. Những hình thức phản ánh thế
giới hiện thực càng đa dạng, phong phú bao nhiêu thì con người càng có khả năng
nhận thức thế giới xung quanh sâu sắc và đầy đủ bấy nhiêu. Nhưng mỗi một hình thức
mới của sự phản ánh không những tạo ra những khả năng mới để nhận thức thế giới
sâu sắc hơn mà còn tạo ra khả năng “xa rời” hiện thực, phản ánh sai lầm nó.

Nguồn gốc tâm lý: Ngay từ thời cổ đại, các nhà duy vật đã nghiên cứu đến ảnh
hưởng của yếu tố tâm lý (tâm trạng, xúc cảm) đến sự ra đời của tôn giáo. Họ đã đưa ra
luận điểm “Sự sợ hãi sinh ra thần thánh”.

Các nhà duy vật cận đại đã phát triển tư tưởng của các nhà duy vật cổ đại – đặc
biệt là L.Phoiơbắc – và cho rằng nguồn gốc đó không chỉ bao gồm những tình cảm tiêu
cực (sự lệ thuộc, sợ hãi, không thoả mãn, đau khổ, cô đơn…) mà cả những tình cảm
tích cực (niềm vui, sự thoả mãn, tình yêu, sự kính trọng…), không chỉ tình cảm, mà cả
những điều mong muốn, ước vọng, nhu cầu khắc phục những tình cảm tiêu cực, muốn
được đền bù hư ảo.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã giải quyết vấn đề nguồn gốc
tâm lý của tôn giáo khác về nguyên tắc so với các nhà duy vật trước đó. Nếu như các
nhà duy vật trước Mác gắn nguyên nhân xuất hiện tôn giáo với sự sợ hãi trước lực
lượng tự nhiên thì chủ nghĩa Mác lần đầu tiên vạch được nguồn gốc xã hội của sự sợ
hãi đó. Sự sợ hãi trước những hiện tượng tự nhiên, xã hội, hay trong những lúc ốm
đau, bệnh tật; ngay cả những may, rủi bất ngờ xảy ra, hoặc tâm lý muốn được bình yên
khi làm một việc lớn (ví dụ: ma chay, cưới xin, làm nhà, khởi đầu sự nghiệp kinh
doanh...), con người cũng dễ tìm đến với tôn giáo. Thậm chí cả những tình cảm tích
cực như tình yêu, lòng biết ơn, lòng kính trọng đối với những người có công với nước,

12
với dân cũng dễ dẫn con người đến với tôn giáo (ví dụ: thờ các anh hùng dân tộc, thờ
các thành hoàng làng...).

1.1.3 Tính chất của tôn giáo

Tính lịch sử của tôn giáo: Con người sáng tạo ra tôn giáo. Mặc dù tôn giáo còn
tồn tại lâu dài, nhưng nó chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo không phải xuất hiện
cùng với sự xuất hiện của con người. Tôn giáo chỉ xuất hiện khi khả năng tư duy trừu
tượng của con người đạt tới một mức độ nhất định.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử, nghĩa là nó có sự hình thành,
tồn tại và phát triển và có khả năng biến đổi trong những giai đoạn lịch sử nhất định để
thích nghi với nhiều chế độ chính trị - xã hội. Khi các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử
thay đổi, tôn giáo cũng có sự thay đổi theo. Trong quá trình vận động của các tôn giáo,
chính các điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử cụ thể đã làm cho các tôn giáo bị phân liệt,
chia tách thành nhiều tôn giáo, hệ phái khác nhau.

Đến một giai đoạn lịch sử, khi những nguồn gốc sản sinh ra tôn giáo bị loại bỏ,
khoa học và giáo dục giúp cho đại đa số quần chúng nhân dân nhận thức được bản chất
các hiện tượng tự nhiên và xã hội thì tôn giáo sẽ dần dần mất đi vị trí của nó trong đời
sống xã hội và cả trong nhận thức, niềm tin của mỗi con người. C. Mác đã nói: Tôn
giáo sẽ mất đi khi mà "con người không chỉ mưu sự, mà lại còn làm cho thành sự nữa,
- thì chỉ khi đó, cái sức mạnh xa lạ cuối cùng hiện nay vẫn còn đang phản ánh vào tôn
giáo mới sẽ mất đi, và cùng với nó bản thân sự phản ánh có tính chất tôn giáo cũng sẽ
mất đi, vì khi đó sẽ không có gì để phản ánh nữa"6.

Tính quần chúng của tôn giáo: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội phổ biến ở tất
cả các dân tộc, quốc gia, châu lục. Tính quần chúng của tôn giáo không chỉ biểu hiện ở
số lượng tín đồ rất đông đảo, đến “87% dân số thế giới”7; mà còn thể hiện ở chỗ, các
tôn giáo là nơi sinh hoạt văn hóa, tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Dù
tôn giáo hưởng con người vào niềm tin hạnh phúc hư ảo của thế giới bên kia, song nó
luôn luôn phản ánh khát vọng của những người lao động về một xã hội tự do, bình
đẳng, bác ái. Mặt khác, nhiêu tôn giáo có tính nhân văn, nhân đạo và hướng thiện, vì

6
C. Mác và Ph. Ăngghen. (2004). Toàn tập, t.20. Nxb: Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7
Schaefer Richard T. (2005). Xã hội học. Nxb: Thống kê.

13
vậy, được nhiều người ở các tầng lớp khác nhau trong xã hội, đặc biệt là quần chúng
lao động tin theo.

Tính chính trị của tôn giáo: Khi xã hội chưa có giai cấp, tôn giáo chỉ phản ánh
nhận thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới xung quanh
mình, tôn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chất chính trị của tôn giáo chỉ xuất hiện
khi xã hội đã phân chia giai cấp, có sự khác biệt, sự đối kháng về lợi ích giai cấp.
Trước hết, do tôn giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế - xã hội, phản ánh lợi
ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh
dân tộc, nên tôn giáo mang tính chính trị. Mặt khác, khi các giai cấp bóc lột, thống trị
sử dụng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai cấp lao động
và tiến bộ xã hội, tôn giáo mang tính chính trị tiêu cực, phản tiến bộ.

Mác đã vạch ra một trong những tính chất cố hữu và cực kỳ quan trọng của tôn
giáo đó là tính chất chính trị, là mối quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước khi ông viết
“phê phán tôn giáo biến thành phê phán pháp quyền, phê phán thần học biến thành phê
phán chính trị”. Mác chỉ ra rằng, khi một tôn giáo ra đời, giai cấp thống trị của xã hội
ấy, thời đại ấy đều thường tìm cách tranh thủ, lợi dụng nó vào mục đích chính trị của
mình, tuyên truyền theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Ngược lại, các tôn giáo cũng
thường nương mình vào các giai cấp thống trị để tồn tại và phát triển; rằng tôn giáo
buộc mỗi phong trào xã hội và chính trị phải mang hình thức thần học, muốn tạo ra
một phong trào như vũ bão, cần phải đưa ra cho quần chúng (mà tình cảm được nuôi
dưỡng bằng tôn giáo) những lợi ích thiết thân của họ dưới bộ áo tôn giáo. Sự nương
tựa vào nhau giữa tôn giáo và chính trị phản ánh xu hướng thẩm thấu tất yếu, sự chi
phối lẫn nhau không thể cưỡng lại được giữa các hình thái ý thức xã hội. Mặt khác, nó
cũng nêu lên tính chất đặc thù của tôn giáo và của chính trị, đó là sự chi phối và lợi
dụng lẫn nhau để thực hiện lợi ích của mình.

Vì vậy, cần nhận rõ ràng, đa số quần chúng tín đồ đến với tôn giáo nhằm thoả
mãn nhu cầu tinh thần; song, trên thực tế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị -
xã hội lợi dụng thực hiện mục đích ngoài tôn giáo của họ.

1.2 Nguyên tắc giải quyết vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội

14
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tôn giáo vẫn còn tồn tại, tuy đã có sự
biến đổi trên nhiều mặt, vì vậy, khi giải quyết vấn đề tôn giáo cần đảm bảo các nguyên
tắc sau:

- Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân
dân.

Tín ngưỡng, tôn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao, đấng
thiêng liêng nào đó mà họ tôn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó, tự do tín
ngưỡng và tự do không tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của nhân dân. Việc
theo đạo, đổi đạo, hay không theo đạo là thuộc quyền tự do lựa chọn của mỗi người
dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kế cả các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội...
được quyền can thiệp vào sự lựa chọn này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo
đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều xâm phạm đến
quyền tự do tư tưởng của họ.

Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tôn trọng quyền con người, thể hiện
bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa không can
thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín ngưỡng, quyền
lựa chọn theo hay không theo tôn giáo của nhân dân. Các tôn giáo và hoạt động tôn
giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục vụ nhằm thoả mãn nhu cầu
tín ngưỡng của người dân được nhà nước xã hội chủ nghĩa tôn trọng và bảo hộ.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, không được chống tôn giáo mà chỉ chống những hành vi lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Tuyệt đối không được nóng vội, chủ quan trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo. Về
vấn đề này, V.I.Lênin đã nhấn mạnh: “Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy
tâm, những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô
chính phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho
họ ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh thậm chí đi đến chống lại công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục

15
chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật cho toàn dân, trong đó có những tín
đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao trình độ kiến thức cho toàn dân”8.

- Khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Nguyên tắc này khẳng định, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ hướng vào giải quyết
những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo đối với quần chúng nhân dân mà không chủ
trương can thiệp vào công việc nội bộ của các tôn giáo. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra
rằng, muốn thay đổi ý thức xã hội, trước hết cần phải thay đổi bản thân tồn tại xã hội;
muốn xóa bỏ ảo tưởng nảy sinh trong tư tưởng con người, phải xóa bỏ nguồn gốc sinh
ra ảo tưởng ấy. Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội nên về nguyên tắc, nó chỉ thay
đổi khi bản thân tồn tại xã hội được thay đổi, nó chỉ được giải quyết khi bản thân hiện
thực nảy sinh tôn giáo được cải tạo.Điều cần thiết trước hết là phải xác lập được một
thế giới hiện thực không có áp bức, bất công, nghèo đói và thất học... cũng như những
tệ nạn nảy sinh trong xã hội. Đó là một quá trình lâu dài, và không thể thực hiện được
nếu tách rời việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Việt Nam hiện nay đi trên con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội - một xã hội "dân giàu, nước mạnh, công bằng,
bình đẳng,văn minh", thực hiện tiêu chí đó để người dân sẽ bỏ đi những ảo tưởng,
những tư tưởng xa vời, tiêu cực, cực đoan như minh hôn trong các gia đình nhà giàu
có con, tảo hôn, tục bắt vợ, …lỗi thời, lạc hậu.

- Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng của tôn giáo trong quá trình giải quyết
vấn đề tôn giáo.

Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Đây là việc cần thiết, bởi bản thân tôn giáo nào cũng gồm hai mặt này và phân
biệt để tránh hai khuynh hướng hữu khuynh hoặc tả khuynh trong giải quyết vấn đề
tôn giáo. Thực chất của việc phân biệt mặt chính trị và mặt tư tưởng trong tôn giáo là
phân biệt hai mâu thuẫn tồn tại trong bản thân tôn giáo: mâu thuẫn chính trị và mâu
thuẫn nhận thức. Mâu thuẫn chính trị phản ánh lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, giữa
giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, giữa quần chúng nhân dân lao động và những kẻ
lợi dụng tôn giáo vì mục đích phản động- đây là mâu thuẫn đối kháng. Mâu thuẫn này

8
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2006). Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb: Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

16
hiện nay được biểu hiện ở việc một số phần tử phản động đội lốt tôn giáo chống lại sự
nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân.

Mâu thuẫn nhận thức phản ánh mâu thuẫn nội bộ giữa người có đạo và người
không có đạo, giữa những người theo các tín ngưỡng tôn giáo khác nhau- đây là mâu
thuẫn không đối kháng, nó được thể hiện ở tín ngưỡng của con người. Vì vậy, cách
giải quyết hai mâu thuẫn này khác nhau. Với mâu thuẫn chính trị (mặt chính trị) phải
bằng biện pháp tổng hợp: giáo dục, thuyết phục, hành chính, mệnh lệnh, cưỡng chế,
thậm chí cả bạo lực khi việc lợi dụng tôn giáo vì mục đích chính trị rõ ràng. Với mâu
thuẫn nhận thức (mặt tư tưởng) phải kiên trì, lâu dài, gắn với quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào có tín ngưỡng

Trong xã hội công xã nguyên thủy, tín ngưỡng, tôn giáo chỉ biểu hiện thuần túy
về tư tưởng. Nhưng khi xã hội đã xuất hiện giai cấp thì dấu ấn giai cấp - chính trị ít
nhiều đều in rõ trong các tôn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị và tư tưởng thường thể hiện
và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo và bản thân mỗi tôn giáo.

Mặt chính trị phản ánh mối quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản ánh
mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu thuẫn giữa
những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với lợi ích của nhân
dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niêm tin, mức độ tin giữa những
người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không theo tôn giáo, cũng như những
người có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, phản ánh mâu thuẫn khống mang tính đối
kháng.

Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo thực
chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại trong bản thân
tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này trong thực tế không đơn giản, bởi
lẽ, trong đời sông xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai lệch bản chất, mà vấn đề
chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào nhau. Mặt khác, trong xã hội
có đối kháng giai cấp, tôn giáo thường bị yếu tố chính trị chi phối rất sâu sắc nên khó
nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng thuần túy trong tôn giáo. Việc phân biệt hai
mặt này là cần thiết nhằm tránh khuynh hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng
xử những vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

17
- Quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo.

Tôn giáo không phải là một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại nó luôn luôn
vận động và biến đổi không ngừng tuỳ thuộc vào những điều kiện kinh tế - xã hội -
lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có quá trình tồn tại và phát triển
nhất định, ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có sự khác biệt. Vì vậy, cần phải
có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá và ứng xử đối với những vấn đề có
liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn giáo cụ thể. Ví dụ: Ở triều đại phong kiến,
Phật giáo được truyền vào Việt Nam để hình thành giá trị văn hóa chùa, làng. Còn
ngày nay, đạo Phật không chỉ giữ gìn văn hóa đền chùa mà còn tổ chức rất nhiều buổi
tọa đàm giảng dạy,khóa tu, các lễ thiền, lễ phóng sanh, siêu độ cho các vong linh mới
qua đời,...

CHƯƠNG Ⅱ. ĐÁNH GIÁ VIỆC PHÁT HUY TINH THẦN ĐOÀN KẾT CÁC
TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1 Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam

- Thứ nhất, Việt Nam là một quốc gia có nhiều tôn giáo:

Nước ta hiện nay có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo đã được công nhận và cấp đăng ký
hoạt động với khoảng 57.000 chức sắc, 157.000 chức việc và hơn 29.000 cơ sở thờ tự.
Các tổ chức tôn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác nhau. Có tôn giáo du nhập từ bên
ngoài , với những thời điểm, hoàn cảnh khác nhau, như Phật giáo, Công giáo, Tin
Lành, Hồi giáo, có tôn giáo nội sinh, như Cao Đài , Hòa Hảo.

- Thứ hai, tôn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hòa bình ,và
không có xung đột , chiến tranh tôn giáo

Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa thế giới. Các tôn giáo ở Việt Nam
có sự đa dạng về nguồn gốc và truyền thống lịch sử. Mỗi tôn giáo ở Việt Nam có quá
trình lịch sử tồn tại và phát triển khác nhau nên sự gắn bó với dân tộc cũng khác nhau.
Tín đồ của các tôn giáo khác nhau cùng chung sống hòa bình trên một địa bàn, giữa họ
có sự tôn trọng niềm tin của nhau và chưa từng xảy ra xung đột, chiến tranh tôn giáo.

18
Thực tế cho thấy, không có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam mà không mang
dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn hóa Việt Nam

- Thứ ba, tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có
lòng yêu nước, tinh thần dân tộc.

Tín đồ các tôn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao động, có lòng yêu nước,
tinh thần dân tộc.

Tín đồ các tôn giáo Việt Nam có thành phần rất đa dạng, chủ yếu là người lao
động. Đa số tín đồ các tôn giáo đều có tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm, tôn
trọng công lý, gắn bó với dân tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong các giai đoạn lịch sử, tín đồ các tôn giáo
cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên những thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân tộc và
có ước vọng sống “ tốt đời, đẹp đạo”

- Thứ tư, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo có vai trò, vị trí quan trọng trong
giáo hội, có uy tín ,ảnh hưởng tới tín đồ

Chức sắc tôn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo, họ tự nguyện
thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin
theo. Về mặt tôn giáo, chức năng của họ là truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ
nghi , quản lý tổ chức của tôn giáo, duy trì, củng cố ,phát triển tôn giáo, chuyên chăm
lo đến đời sống tâm linh của tín đồ.

Trong giai đoạn hiện nay, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở Việt Nam luôn chịu
sự tác động của tình hình chính trị- xã hội trong và ngoài nước, nhưng nhìn chung xu
hướng tiến bộ trong hàng ngũ chức sắc ngày càng phát triển.

- Thứ năm, các tôn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ chức cá nhân
tôn giáo ở nước ngoài.

Nhìn chung, các tôn giáo ở nước ta không chỉ các tôn giáo ngoại nhập, mà cả
tôn giáo nội sinh đều có quan hệ với các tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngoài hoặc
các tổ chức tôn giáo quốc tế.

19
Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã thiết lập quan hệ
ngoại giao với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn thế giới .Đây chính là điều
kiện gián tiếp củng cố và phát triển mối quan hệ giữa các tôn giáo ở Việt Nam với tôn
giáo ở các nước trên thế giới. Vì vậy, việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam phải
đảm bảo kết hợp giữa mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế với việc bảo đảm độc lập, chủ
quyền, không để cho kẻ địch lợi dụng dân chủ , nhân quyền, tự do tôn giáo để chống
phá ,can thiệp vào công việc nội bộ của Nhà nước Việt Nam nhằm thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình” đối với nước ta.

2.2 Khái quát về chính sách đoàn kết tôn giáo của Đảng và Nhà nước

Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Đảng đã nêu 5 quan điểm về tôn
giáo, chính sách tôn giáo và công tác tôn giáo, trong đó nhấn mạnh: đồng bào các tôn
giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thực hiện nhất quán chính sách
đoàn kết dân tộc; công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị; vấn đề
theo đạo và truyền đạo phải tuân thủ quy định của pháp luật. Các Văn kiện Đại hội X,
XI, XII của Đảng đều nhất quán quan điểm trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), khẳng định “tôn
trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của
Nhân dân theo quy định của pháp luật”9. Nhấn mạnh cần phát huy những giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước, nâng cao năng
lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác tôn giáo.

Trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ: thực hiện đoàn kết tôn giáo
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc là mục tiêu trong thực hiện công tác tôn giáo.
Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay, chính tinh
thần đoàn kết để dựng nước và giữ nước, người có đạo khác nhau, giữa người có đạo
và không có đạo ở Việt Nam luôn có sự tôn trọng, chung sống hòa hợp. Thế nên, Đảng
ta đặt mục tiêu của công tác tôn giáo là đoàn kết tôn giáo trong mục tiêu chung đại
đoàn kết toàn dân tộc là phù hợp, kế thừa, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc, phản ánh đúng ý chí, khát vọng của người Việt Nam hiện nay, trong đó có đồng
bào có đạo. Để quán triệt mục tiêu, quan điểm cần khắc phục các biểu hiện như phân
9
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
2011)

20
biệt đối xử đố kỵ mặc cảm vì lý do tín ngưỡng tôn giáo và kiên quyết chống âm mưu
thủ đoạn lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Qua đó, những nội dung liên quan đến tôn giáo, chính sách tôn giáo, công tác
tôn giáo được đề cập trong các Văn kiện Đại hội nhất là trong Văn kiện Đại hội XIII
thể hiện Đảng ta đã kế thừa, bổ sung, tiếp thu những đóng góp quý báu từ các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước, nhất là nguyện vọng của đồng bào có đạo, phù hợp với
thực tiễn sinh động của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta. Đây là cơ sở định
hướng trong nhận thức và thực hiện có hiệu quả công tác tôn giáo, tiếp tục phát huy
các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình
hình mới, đồng thời đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực thù
địch, phản động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá cách mạng nước ta

2.3 Đánh giá việc phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo ở Việt Nam hiện
nay

2.3.1 Những thuận lợi trong việc thực hiện chính sách đoàn kết tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang
và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
tôn giáo có thể đồng hành cùng nhà nước pháp quyền

Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tôn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khẳng định đó mang tính khoa học và cách
mạng, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận chủ quan, tả khuynh khi cho rằng có thể
bằng các biện pháp hành chính, hay khi trình độ dân trí cao, đời sống vật chất được
bảo đảm là có thể làm cho tín ngưỡng, tôn giáo mất đi; hoặc duy tâm, hữu khuynh khi
nhìn nhận tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng bất biến, độc lập, thoát ly với mọi cơ sở
KT-XH, thể chế chính trị.

Vì vậy, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín
ngưỡng, theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, quyền sinh hoạt ín
ngưỡng, tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong
khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.

21
Thứ hai, Đảng, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết
dân tộc. chính sách tôn giáo tiến bộ của Nhà nước Việt Nam

Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn
giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Nhà nước XHCN, một mặt, nghiêm cấm mọi
hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; mặt khác,
thông qua quá trình vận động quần chúng nhân dân tham gia lao động sản xuất, hoạt
động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao trình độ kiến
thức... để tăng cường sự đoàn kết vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”, để cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Mọi công dân
không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc.

Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn
vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, nghiêm cấm lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái pháp luật và chính
sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm
an ninh quốc gia.

Thứ ba, có sức ảnh hưởng ,tác động mạnh mẽ tới quần chúng.

Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao
tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua việc thực
hiện tốt các chính sách KT-XH, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh
thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo.

Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tôn giáo,
nhằm nâng cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, làm cho quần chúng nhân
dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, tích cực, nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, trong đó có
chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ tư, phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo

Tư tưởng về đoàn kết tôn giáo là nội dung quan trọng nhằm xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân rộng lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ điều kiện thực

22
tiễn Việt Nam và sự nhìn nhận giá trị nhân văn, tốt đẹp của tôn giáo. Hồ Chí Minh
không chỉ đã nêu lên và quán triệt chỉ đạo xây dựng khối đoàn kết tôn giáo, mà chính
Người là tấm gương, là ngọn cờ quy tụ khối đại đoàn kết dân tộc, trong đó có chức sắc
và đồng bào các tôn giáo.

Đoàn kết tôn giáo là một nội dung quan trọng trong chiến lược đại đoàn kết dân
tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với Người, đại đoàn kết dân tộc, trong đó có đoàn kết
tôn giáo là vấn đề xuyên suốt, cốt yếu của cách mạng, không phải là một thủ đoạn
chính trị nhất thời. Như vậy, mục tiêu của đoàn kết là nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu
nước, phát huy tối đa sức mạnh các nguồn lực để giành lại độc lập cho dân tộc và tự
do, hạnh phúc cho nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết là nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp cách mạng”.

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, vì vậy vấn đề đoàn kết tôn giáo có ý
nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội và tác động mạnh mẽ đến tiến trình cách
mạng. Giải quyết vấn đề này không chỉ là thực hiện đoàn kết giữa đồng bào có đạo và
không có đạo, mà còn cần thực hiện đoàn kết trong nội bộ các tôn giáo, đoàn kết giữa
đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau.

Trong điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương không tiến hành cuộc đấu
tranh trực diện với giáo lý của các tôn giáo, tránh việc kẻ địch sẽ lợi dụng để vu khống,
để tuyên truyền luận điệu “cộng sản là vô thần”, “cộng sản nắm chính quyền sớm
muộn gì cũng sẽ tiêu diệt tôn giáo”. Người chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt; đề
cao, phát huy những điểm tương đồng giữa giữa giáo lý tôn giáo và chủ nghĩa cộng
sản; ghi nhận, động viên, khích lệ những đóng góp đồng bào các tôn giáo trong sự
nghiệp cách mạng của dân tộc. Người nêu rõ: “Mục đích Chính phủ ta theo đuổi là
chiến đấu vì nền độc lập và đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Song, để đạt tới hạnh
phúc đó cho mọi người thì cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là sự phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, thể hiện tư duy
rộng mở và tinh thần nhân văn cao cả của Hồ Chí Minh.

Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đối xử bình đẳng với các tôn
giáo: Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, nhân dân có quyền tự do lựa chọn, tin hoặc
không tin, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; các tôn giáo bình đẳng với nhau

23
không phân biệt lớn nhỏ, không vì đề cao niềm tin tôn giáo của mình mà nhạo báng,
coi khinh tôn giáo của người khác.Tôn trọng các chức sắc tôn giáo và quan tâm đến
giáo dân, hướng họ vào các hoạt động lợi ích chung của toàn dân tộc.

Thứ năm, các cống hiến của các tôn giáo góp phần vào khối đại đoàn kết tôn
giáo ở Việt Nam.

Các tôn giáo ở Việt Nam góp phần làm giàu nền văn hóa của đất nước ta từ bao
đời nay. Một số cống hiến điển hình như :

- Phật giáo, Phật giáo góp phần đào tạo một phần tầng lớp trí thức, các nhà sư
truyền dạy các giáo lý sống, hướng nhân dân cống hiến với đời, ngoài ra Phật giáo mở
đầu cho các dòng văn tự Hán được du nhập từ Trung Quốc sang, với việc du nhập
ngôn ngữ , Việt Nam có thể tiếp cận với nền tảng triết lý khác như Nho giáo, Đạo giáo,
hay là một phương tiện để giao tiếp với các nước phía Bắc. Ngoài ra, tự thời Lý- Trần
cùng với sự phát triển thịnh vượng của Phật giáo, các công trình đền chùa, mang đậm
dấu ấn rồng thiêng hay những lễ hội khuyến khích tăng nông sản cũng được áp dụng.

- Thiên chúa giáo, với sự du nhập của Thiên chúa giáo vào Việt Nam ở những
thế kỷ XVII và sự phát triển mạnh mẽ của đạo vào thế kỉ XIX. Với việc truyền giáo
của các giáo sĩ thời đó, đây là cây cầu nối đầu tiên cho sự giao thương của nền văn hóa
và ngôn ngữ giữa Việt Nam với các nước Phương Tây, giúp phần nào đất nước ta hội
nhập vào dòng lịch sử thế giới lâm thời. Công giáo còn góp phần xây dựng chữ quốc
ngữ của Việt Nam dưới dạng chữ viết la-tinh và được sử dụng rộng rãi cho đến hiện
nay, hệ thống chữ viết “ hiện đại” này góp phần truyền bá nền văn hóa của Việt Nam
ra các nước khác. Các cấu trúc nhà thờ từ thời Pháp như Nhà Thờ Đức Bà.. đã làm đa
dạng, phong phú nến kiến trúc Việt Nam hay các lễ rửa tội , các lễ cầu nguyện hằng
tháng giúp người dân điều chỉnh lại nhịp sống cũng như đáp ứng nhu cầu trao đổi văn
hóa, góp phần gắn kết nhân dân lại với nhau.

2.3.2. Một số khó khăn trong việc phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay
- Thứ nhất, các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá nhà nước,
ra sức gây chia rẽ các tôn giáo

24
Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo. Những năm qua, cùng với đẩy mạnh phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, Đảng, Nhà
nước ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách về tôn giáo, được đa số chức sắc, tín
đồ các tôn giáo trong nước và các tổ chức quốc tế đồng tình hưởng ứng và thừa nhận.
Trong quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng, Nhà nước ta vừa tuyên truyền, giáo
dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, vừa quan tâm tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các tôn giáo hoạt động, phát
triển bình đẳng trong khuôn khổ pháp luật.

Thế nhưng, các thế lực thù địch đã không chỉ phủ nhận kết quả đó, mà còn lợi
dụng tôn giáo, coi tôn giáo là vũ khí lợi hại để chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta, với nhiều chiêu thức thâm độc, tinh vi, xảo quyệt; khi thì bí mật, lúc thì
trắng trợn, công khai. Chúng luôn lợi dụng danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”,
đặc biệt là quyền về tự do tín ngưỡng, tôn giáo để đưa ra những đánh giá phiến diện,
sai lệch, các luận điệu xuyên tạc, bóp méo, vu cáo hòng can thiệp vào công việc nội bộ
của Việt Nam. Một số phương thức thường được các thành phần xấu sử dụng như
chúng tìm mọi cách để đưa giáo hội tôn giáo vào các cuộc chiến chính trị, xúi giục các
giáo hội đòi lập khu tôn giáo tự trị, khơi dậy, khoét sâu những mâu thuẫn, những vấn
đề tôn giáo và dân tộc. Đặc biệt, họ thường lợi dụng vấn đề tôn giáo và quyền tự do
tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ, nhằm mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.

Biểu hiện cụ thể của những người này là tìm cách mua chuộc, lôi kéo, ép buộc
đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên trái phép, gây mất ổn
định chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu khống Việt Nam đàn áp các
dân tộc, các tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô lập, làm suy yếu cách mạng
Việt Nam. Họ tuyên truyền đạo trái phép để “tôn giáo hoá” các vùng dân tộc, lôi kéo,
tranh giành đồng bào dân tộc, gây đối trọng với Đảng, chính quyền.
Ví dụ, vào năm 2019 tại xã Quảng Hợp (huyện Quảng Trạch) diễn ra tình trạng
linh mục tuyên truyền, chỉ đạo các giáo dân có con em theo học mầm non và tiểu học
không cho các cháu đến trường với lý do phản đối các khoản thu nộp đầu năm. Những
vị linh mục cực đoan này lợi dụng con em đồng bào công giáo, để yêu cầu các trường

25
học phải làm việc với giáo xứ, giáo họ về các khoản thu nộp cũng như chương trình
giảng dạy.
Không chỉ gây cản trở việc học tập của con em, trên mạng xã hội, một số tài
khoản cá nhân của các linh mục còn đăng tin bài tuyên truyền, kích động bà con giáo
dân phản đối việc triển khai công trình thủy lợi Rào Nan (xã Quảng Sơn, thị xã Ba
Đồn) cũng như quá trình xây dựng một số mô hình “Xứ họ đạo bình yên, gia đình hoà
thuận”; chia sẻ, bình luận các thông tin với nội dung nói xấu Đảng, Nhà nước, phản
đối một số chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh…

Ngoài ra, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục cấu kết, móc nối với các đối tượng
cực đoan trong tôn giáo và đối tượng cơ hội chính trị lợi dụng các vấn đề nổi cộm như:
đất đai, môi trường, phòng chống dịch Covid-19… Từ đó, dụ dỗ, lôi kéo người dân
khiếu kiện, kích động gây rối, gắn vào vấn đề tôn giáo để vu cáo các cơ quan các cấp
của Việt Nam, khiến cho chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo hoài nghi về chính sách
của của Đảng và Nhà nước.

26
- Thứ hai, các tổ chức tôn giáo tự xưng được thành lập, du nhập vào nước ta
hoạt động khi chưa được cho phép
Ở nước ta hiện nay, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, các thế lực thù địch,
phản động thực hiện mưu đồ lập ra tôn giáo riêng ở đồng bào dân tộc. Ngoài ra, một số
địa phương tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía Bắc, các phần tử
xấu còn lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới, tà đạo như Giê Sùa, Bà Cô Dợ, Hội
thánh Đức Chúa trời, Sề Chu Hà Ly Cha và một số hiện tượng tôn giáo liên quan đến
tục lễ thờ cúng các anh hùng liệt sĩ, người có công với cách mạng để tiến hành các
hoạt động gây rối an ninh, trật tự.
Chúng dựa vào đặc điểm địa lý, khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng
dân tộc thiểu số, tôn giáo để phát triển tôn giáo tà đạo nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Chúng đánh vào sự thiếu hiểu biết, thiếu thông tin, thiếu cân nhắc, tỉnh
táo khi quyết định hành vi ứng xử của người dân tộc thiểu số để nhằm mục đích chống
phá sự phát triển tốt đẹp, bình yên của đất nước chúng ta, chống phá chế độ và muốn
chúng ta đi chệch con đường mà Đảng ta, nhân dân ta đã lựa chọn, đó là con đường
CNXH.
Ví dụ, từ cuối năm 2017 một số kể đã tự xưng là kẻ cầm đầu của tổ chức tự đặt
tên là “Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ” hay “Hội Thánh Đức Chúa Trời”, đây thực chất
là một tổ chức tà đạo, hoạt động trái pháp luật và gây ảnh hưởng không nhỏ đến tình
hình an ninh trật tự tại nhiều địa phương ở nước ta. Những kẻ cầm đầu lôi kéo, dụ dỗ
những người nhẹ dạ cả tin nhất là nữ sinh viên và phụ nữ trẻ có chồng, chúng o ép,
mua chuộc, dụ dỗ họ, ngoài ra chúng còn dọa dẫm tín đồ nếu không theo, không đi
sinh hoạt, không từ bỏ gia đình, bàn thờ… sẽ không được làm “lễ vượt qua”, khi chết
sẽ bị đày xuống “hồ lửa”. Ngược lại nếu tin, làm theo, khi chết sẽ được lên “nước thiên
đàng, làm tiên, hoàng tử”. Với phương thức lôi kéo người vào hội núp dưới danh nghĩa
hoạt động doanh nghiệp tư nhân, hay cửa hàng giới thiệu sản phẩm, họ tổ chức cho
thành viên gia nhập nhanh chóng. Buộc mỗi người đã được làm lễ Báp Tem phải lôi
kéo thêm ít nhất một người vào tổ chức. Bên cạnh đó, các tín đồ bị ép buộc dâng hiến
1/10 thu nhập, nhưng đây lại là điểm họ không công khai, minh bạch về tài chính. Đây
là hành vi lợi dụng hành nghề mê tín để trục lợi bị pháp luật ngăn cấm. Việc xúi giục
tín đồ bỏ bàn thờ, ai thờ cúng tổ tiên, ông bà, người đã chết là thờ cúng ma quỷ, bất

27
kính cha mẹ, chỉ tin và thờ “Đức Chúa Trời Cha và Đức Chúa Trời Mẹ” là đi ngược lại
đạo đức và truyền thống văn hóa người Việt.

Hình ảnh một buổi sinh hoạt của “Hội Thánh Đức Chúa Trời”

- Thứ ba, hiện trạng mê tín dị đoan


Hiện nay, mê tín dị đoan đã và đang len lỏi vào cuộc sống của một bộ phận
người dân. Chính sự thiếu hiểu biết của người dân về những điều không có thật trong
cuộc sống đã tạo điều kiện cho các đối tượng xấu có cơ hội hoạt động, từ đây, nhiều hệ
lụy khôn lường đã xảy ra. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, niềm tin mù quáng, sự cuồng tín
của người dân một số kẻ xấu đã lừa bịp, dụ dỗ để trục lợi. Thậm chí hành vi mê tín dị
đoan còn núp bóng tín ngưỡng để dễ dàng lừa gạt, mê muội người dân. Hậu quả để lại
không chỉ gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng con người, hoang mang trong dư luận
xã hội mà còn ảnh hưởng đến những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc
Việt Nam. Đã không ít những hệ lụy đau lòng vì mê tín dị đoan, không ít gia đình đã
lâm vào cảnh ly tán, tan cửa nát nhà, suy kiệt về kinh tế. Bao cái chết thương tâm đã
xảy ra mà nguyên nhân là do người dân nhẹ dạ, cả tin vào thầy mo, thầy cúng.

28
Ví dụ, cuối tháng 11/2017, dư luận xã hội trong nước chấn động khi thông tin bé
gái hơn 20 ngày tuổi ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa bị hai kẻ lạ mặt dùng dao cướp trên tay
bà nội và chưa đầy hai ngày sau thi thể cháu bé được phát hiện tại bãi rác cách nhà
10km. Khi lực lượng công an vào cuộc, chân tướng sự việc nhanh chóng được làm rõ,
hung thủ không phải ai xa lạ mà chính là bà Phạm Thị Xuân (65 tuổi), bà nội của cháu.
Tại cơ quan điều tra, người bà độc ác này khai nhận do đi xem bói và được thầy phán
cháu nội mới sinh là “nghiệp chướng”, nếu bé sống thì bà ta sẽ phải chết và bé chết thì
bà ta mới sống. Lo sợ trước lời “sấm truyền” của thầy bói sẽ trở thành hiện thực, bà
Xuân đã quyết định sát hại chính đứa cháu ruột thịt của mình hòng giữ mạng sống.

2.4  Những  giải pháp khắc phục hạn chế trong việc thực hiện chính sách đoàn kết
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Để thực hiện được chính sách đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam hiện nay một cách
thành công, việc giải quyết những hạn chế còn tồn tại gây cản trở việc thực hiện chính
sách tôn giáo ở nước ta hiện nay có thể xem là mục tiêu hàng đầu. Để giải quyết những
hạn chế đó, nhóm đã tìm hiểu và thảo luận từ đó đưa ra một số giải pháp cụ thể như
sau :

- Thứ nhất là, giải quyết vấn đề còn tồn tại các thế lực thù địch lợi dụng tôn
giáo nhằm chống phá nhà nước, gây sự chia rẽ các tôn giáo. Đầu tiên, Đảng và Nhà
nước cần thắt chặt hơn việc thanh tra giám sát những tổ chức hay cá nhân có dấu hiệu
đáng nghi ngờ, phát hiện và ngăn chặn sớm những hành động của các đối tượng,
không để chúng bành trướng gây hậu quả nghiêm trọng. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước
cần xử lý thật mạnh tay những cá nhân hay tổ chức có hành vi lợi dụng tôn giáo để vi
phạm pháp luật. Bên cạnh đó thì việc đẩy mạnh tuyên truyền để người dân hiểu và
thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về
dân tộc , tôn giáo, về đại đoàn kết toàn dân tộc cũng rất quan trọng vì nếu dân hiểu,
dân biết thì những đối tượng lợi dụng tôn để vi phạm pháp luật sẽ rất khó để lợi dụng
người dân. Để làm đẩy mạnh được việc tuyên truyền thì Đảng và Nhà nước cần có
những phương pháp phù hợp, đặc biệt cần chú ý ở đây chính là những đồng bào dân
tộc thiểu số còn thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết thì cần phải gần gũi, chia sẻ, “cùng ăn,
cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”, kiên trì, nói đi đôi với làm để đồng bào

29
hiểu, tin và ủng hộ; tuyệt đối tôn trọng phong tục, tập quán của từng dân tộc, tránh sơ
hở, sai sót để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Đồng thời, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt để tuyên
truyền, vận động, nắm bắt tình hình tư tưởng, nguyện vọng của các dân tộc thiểu số,
nhất là các vùng trọng điểm về an ninh, quốc phòng[1].

- Thứ hai là, giải quyết vấn đề các tổ chức tôn giáo tự xưng được thành lập, du
nhập vào nước ta hoạt động khi chưa được cho phép. Việc những tổ chức tôn giáo tự
xưng, du nhập vào nước ta một cách tràn lan trái pháp luật gây ra những khó khăn rất
lớn trong việc quản lý và thực hiện chính chính sách của Đảng và Nhà nước. Để giải
quyết vấn đề này một cách triệt để thì Đảng và Nhà nước chủ động đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá của các thế lực
thù địch. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thường xuyên vạch trần âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chống phá
cách mạng Việt Nam; vận động đồng bào tin tưởng vào chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không tin, không nghe kẻ xấu. Chủ động,
kịp thời phát hiện, dập tắt mọi âm mưu, hành động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
kích động lôi kéo đồng bào tụ tập, gây bạo loạn. Đồng thời nhắc nhở người dân tuyệt
đối không tham gia và chủ động tố giác với lực lượng chức năng khi phát hiện những
tổ chức tôn giáo hoạt động bất hợp pháp với mục đích xấu. Khi xuất hiện điểm nóng,
Đảng và Nhà nước cần tìm rõ nguyên nhân, từ đó đưa ra biện pháp giải quyết kịp thời,
không để lan rộng, không để kẻ thù lấy cớ can thiệp; xử lý nghiêm minh theo pháp luật
những kẻ cầm đầu ngoan cố chống phá.

- Thứ ba là, giải quyết những vấn đề liên quan đến hiện trạng mê tín dị đoan
còn tồn tại ở một số bộ phận người dân. Đầu tiên để bài trừ tệ nạn mê tín dị đoan thì
người dân cần phân biệt rõ ràng giữa khái niệm tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan. Tự
do lựa chọn tín ngưỡng là quyền của công dân và quyền này được pháp luật bảo vệ.
Còn mê tín dị đoan là tệ nạn xã hội, làm con người trở nên mê muội, thiếu ý chí phấn
đấu, là ‘’vết tì’’ của sự phát triển đất nước. Nhưng do mập mờ chưa phân định rõ, đâu
là tự do tín ngưỡng được pháp luật bảo hộ, đâu là mê tín dị đoan đang bị bài trừ, mà
nhiều người dân đã vô tình tiếp tay cho những tổ chức mê tín dị đoan hoạt động. Do

30
đó, Đảng và Nhà nước cần có biện pháp để giúp những người dân theo đạo hay kể cả
những người không theo đạo phân biệt rõ tự do tín ngưỡng và mê tín dị đoan, để cả
nước ta đồng lòng bày trừ triệt để tệ nạn mê tín dị đoan – tệ nạn đe dọa sự phát triển
đất nước; tạo lòng tin cho các tín đồ để họ an tâm sống “tốt đời đẹp đạo”. Ngoài ra thì
việc nâng cao chất lượng cuộc sống, trình độ dân trí, đời sống tinh thần cho người dân
cũng là cách triệt mọi đường sống của tệ nạn mê tín dị đoan; vì đa số bộ phận người
dân còn tình trạng mê tín dị đoan thường là những người có hoàn cảnh sống còn khó
khăn, ở những vùng sâu vùng xa nên việc tiếp nhận những thông tin chính thực còn rất
hạn chế. Chính vì thế mà Đảng và Nhà nước cần quan tâm và hỗ trợ những người dân
có hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, đặc biệt là bà con đồng bào ở địa bàn miền
núi, vùng sâu vùng xa, đời sống của người dân còn nghèo, trình độ dân trí còn hạn chế,
cho nên trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của tệ nạn mê tín dị đoan.[2] Cuối
cùng là đề cao pháp luật nhà nước, tăng cường quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước.
Nhiều người chưa có hiểu biết rõ ràng về pháp luật, dẫn đến không chấp hành hoặc
xem thường những quy định của pháp luật. Đặc biệt là vấn đề tự do tín ngưỡng và mê
tín dị đoan.Trong xã hội nước ta, vẫn còn tồn tại một số thành phần bất hảo, những thế
lực thù địch trong và ngoài nước luôn tìm cách chống phá nhà nước ta. Chúng tìm mọi
cách, lợi dụng những “kẻ hở” của pháp luật nhà nước ta để gây rối.Do đó, đề cao pháp
luật tăng cường quản lý xã hội là một vấn đề cấp bách cần được thực hiện, để bài trừ tệ
nạn mê tín dị đoan ra khỏi xã hội nước ta.

3. KẾT LUẬN

Từ trước đến nay vấn đề tôn giáo trên thế giới vẫn luôn là một chủ đề nóng của
toàn cầu, không chỉ riêng đối với Chủ nghĩa xã hội. Chính vì điều đó việc giải quyết
các vấn đề tôn giáo lúc nào cũng phải được đặt ra như là một vấn đề cấp thiết và quan
trọng, đòi hỏi phải có những phương pháp giải quyết đúng đắn. Chủ nghĩa Mac –
Lênin đã chỉ ra rằng: “Chỉ những kẻ ngu ngốc mới tuyên chiến với tôn giáo”.

Như vậy có nghĩa là trong công tác tôn giáo thì tuyệt đối không bao giờ được
dùng vũ lực để giải quyết các vấn đề đặt ra mà phải dùng tổng hợp các biện pháp chính
trị, kinh tế, xã hội mà nòng cốt là công tác vận động quần chúng. Có thể nói, các nước
XHCN chưa bao giờ chống lại tôn giáo mà chỉ thực hiện các chính sách để chống lại

31
những kẻ lợi dụng tôn giáo nhằm mục đích chính trị phản động. Chỉ có quán triệt sâu
sắc và toàn diện nội dung quan điểm trên đồng thời vận dụng linh hoạt, khoa học vào
thực tiễn thì mới có thể đấu tranh có hiệu quả với hoạt động lợi dụng tôn giáo xâm
phạm đến an ninh Quốc gia, bảo vệ vững chắc an ninh Quốc gia trên lĩnh vực tôn giáo.
Mặc dù việc phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay còn gặp
một ít khó khăn trong việc quản lí các cá nhân, tổ chức lợi dụng vấn đề tôn giáo song
Đảng và Nhà nước đã và đang đẩy mạnh góp phần củng cố khối đoàn kết dân tộc, đảm
bảo lợi ích chung của đất nước mà trước hết là giữ vững cuộc sống bình yên của các
giáo xứ, của những người theo đạo. Tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động đúng tôn
chỉ mục đích và Hiến pháp, pháp luật.

Với quá trình tìm hiểu và chọn lọc, nhóm em đã cố gắng chỉ ra những nét chung
nhất về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên CNXH, qua đó liên hệ, đánh giá việc
phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, song bài tập lớn
này chắc hẳn còn rất nhiều thiếu sót, nhóm em rất mong được giáo viên hướng dẫn chỉ
bảo thêm. Chúng em xin chân thành cảm ơn.

4. TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội Khoa học (K-2021)

2. Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
tr.236.

3. C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, Sđd, t.20, tr.437

4. C. Mác và Ph. Ăngghen. Toàn tập, Sđd., t.1, tr.815.

5. Chính sách tôn giáo trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam
.https://tcnn.Việt Nam
/news/detail/35569/Chinh_sach_ton_giao_trong_Nha_nuoc_phap_quyen_xa_h
oi_chu_nghia_o_Viet_Namall.

6. Tôn giáo ở Việt Nam và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
https://Việt Nam
doc.com/ton-giao-o-viet-nam-va-chinh-sach-ton-giao-cua-dang-nha-nuoc-ta-hi
en-nay-253807

32
7. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo trong Văn kiện Đại hội
XIII https://binhdinh.dcs.Việt Nam
/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/-/view-content/124150/van-du
ng-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii

8. V.I.Lênin. (1981). Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, tr.71.

9. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011).

10. Ban Tôn giáo Chính phủ: Công tác tôn giáo 2021, Nxb. Tôn giáo, H, 2021,
tr.44-66.

11. Th.sĩ Nguyễn Ngọc Hương. (10/9/2021). Quan điểm của Đảng ta về tôn giáo
trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Truy cập từ:
https://sonoivu.namdinh.gov.Việt Nam
/qlnn-ve-ton-giao/quan-diem-cua-dang-ta-ve-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-d
ai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-1879

12. Tạp chí Tuyên giáo. (21/2/2022). Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
tôn giáo trong Văn kiện Đại hội XIII. Truy cập từ: https://binhdinh.dcs.Việt
Nam
/hoc-tap-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-ho-chi-minh/-/view-content/124150/van-d
ung-tu-tuong-ho-chi-minh-ve-doan-ket-ton-giao-trong-van-kien-dai-hoi-xiii

13. Nguyễn Dung. (5/11/2021). Phát huy tinh thần đoàn kết của các tôn giáo góp
phần xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Truy cập từ:
https://tuyenquang.dcs.Việt Nam
/DetailView/55118/38/Phat-huy-tinh-than-doan-ket-cua-cac-ton-giao-gop-phan-
xay-dung-dat-nuoc-phon-vinh-hanh-phuc.htm

33

You might also like