Tài Liệu Đất Nước

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 32

♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥

——————————————————————————————————————————————

CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG


Thân tặng tài liệu.
____________________

Đoạn trích ĐẤT NƯỚC – Nguyễn Khoa Điềm


(Trích Trường ca “Mặt đường khát vọng”)
Cô Trần Thùy Dương
1. Tác giả
- Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ
trưởng thành trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức
tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.
Mở rộng ý (học sinh chý ý nghe giảng): “Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, cảm xúc
lắng đọng, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân
dân” – Có lẽ, đây chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến “Tư tưởng Đất Nước của Nhân
dân” mà nhà thơ gửi gắm vào đứa con tinh thần của mình. Nếu những nhà thơ khác từ thời
đại trước đến những năm tháng kháng chiến hào hùng chống Pháp và chống Mĩ đều nhìn
đất nước từ khía cạnh khách quan hay định nghĩa đất nước thuộc quyền sở hữu của một
triều đại vua chúa thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn đất nước từ cái nhìn rất gần gũi, quen
thuộc và gắn liền với những gì thuộc về nhân dân. Bởi lẽ, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
trực tiếp tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân, cùng nhân dân đứng lên bảo vệ Tổ
quốc, cùng nhân dân cầm súng, cùng nhân dân đấu tranh nên ông thấu hiểu những hi sinh
mất mát nhà nhân dân hứng chịu, những khó khăn gian khổ, những mong muốn của nhân
dân. Chính vì vậy, đoạn trích “Đất Nước” nói riêng và trường ca “Mặt đường khát vọng” nói
chung đã tập trung thể hiện những gì thuộc về nhân dân. Và nó như một khúc tráng ca để
nhân dân hòa vang thể hiện niềm tự hào về những gì Nhân dân đã cống hiến cho Đất Nước.
2. Tác phẩm
- Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V, của trường ca “Mặt đường khát
vọng” viết năm 1971, là một trong những đoạn thơ đặc sắc, thể hiện những cảm nhận riêng,
độc đáo của nhà thơ về Đất Nước. Ở đó, nguồn cảm hứng chi phối mạch thơ là “Tư tưởng
Đất Nước của Nhân dân” về các phương diện: lịch sử, địa lý, văn hóa, đời sống tinh thần,....

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 1 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở thành thị các
vùng tạm chiếm miền Nam: Họ nhận thức rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ. Chính vì vậy,
văn học giai đoạn này nói chung và thơ Nguyễn Khoa Điềm nói riêng đã hướng về nhân
dân, đất nước, khi họ ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình và đứng dậy xuống đường đấu
tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
∙ Định nghĩa đơn thuần về “Đất nước”:
+ “Đất nước” là toàn bộ vùng lãnh thổ bao gồm vùng trời, vùng đất, vùng biển; là nơi cư
trú của một cộng đồng dân tộc có ranh giới biên cương, lãnh thổ phân chia.
+ Để đất nước tồn tại và phát triển là nhờ vào sự gắn kết sâu sắc giữa các thế hệ về văn
hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống lịch sử,…
3. Bố cục bài thơ
Phần 1. Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa đến nhận thức,
trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.
❖ Vấn đề 1. (9 câu thơ đầu): Lý giải cội nguồn của Đất nước có từ rất lâu đời và rất gần gũi,
thân thương đối với mỗi con người (từ huyền thoại, cổ tích đến truyền thống yêu nước, lao
động cần cù, thuần phong mĩ tục và lối sống tình nghĩa thủy chung...)
“Khi ta lớn lên....
..... có từ ngày đó....”
❖ Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác giả từ nhiều
phương diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
“Đất là nơi anh....
...... cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
❖ Vấn đề 3. (13 câu thơ tiếp theo): Đất nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi con người,
chúng ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương,
xứ sở bằng những nhận thức và hành động cụ thể (gắn bó, san sẻ, hóa thân...)
“Trong anh và em hôm nay...
....Đất Nước muôn đời”
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng hình Tổ quốc; làm
ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần...; Nhân dân làm ra thần thoại, cổ tích, ca
dao dân ca...

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 2 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
❖ Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất nước được tạo dựng từ những địa danh,
thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phận, tính cách, tâm hồn của nhân dân (từ tình nghĩa
thủy chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất của con người; từ cội nguồn thiêng liêng
cho đến truyền thống hiếu học, non sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần...)
“Những người vợ nhớ chồng....
....... đã hóa núi sông ta”
❖ Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp theo): Nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử Đất nước, không ai khác
chính Nhân dân là người làm ra lịch sử dân tộc.
“Em ơi em....
.....đã làm ra Đất Nước”
❖Vấn đề 6. (17 câu thơ cuối): Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”, bởi Nhân dân là người tạo
dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, tinh hoa cuộc sống cho đến ca dao thần thoại, cổ
tích, ca dao dân ca...
“Họ giữ và truyền cho ta.....
.....trên trăm dáng sông xuôi.”
4. Những nét độc đáo và đặc sắc nghệ thuật được thể hiện trong bài thơ “Đất Nước”
4.1. Thể thơ tự do
+ Thể thơ tự do gần như văn xuôi giúp từng ý thơ trong bài đều vận động bằng chiều
sâu trong triết lý trí tuệ; không véo von cầu kì, không bó buộc khuôn khổ, không ràng buộc
cảm xúc khi thể hiện.
+ Có những đoạn câu thơ chỉ có ba chữ, có những đoạn câu thơ giãn ra đến mười hai,
mười bốn chữ; cách gieo vần, hợp âm biến tấu linh hoạt: khi vần chéo, vần lưng, không
vần,... Cách ngắt nhịp theo ý thơ, nhạc điệu có nhiều âm sắc hiện đại...
4.2. Giọng thơ đậm chất trữ tình có sự đan xen giữa triết luận và chất chính luận.
+ Mượn hình thức tự sự trữ tình thông qua cuộc trò chuyện tâm tình giữa anh và em,
mang tính giãi bày, bộc bạch, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về tổ quốc, lồng vào đó suy nghĩ về
trách nhiệm và nghĩa vụ của thế hệ mình đối với đất nước. Chính chất tư duy logic và chất
thơ đã làm cho việc lý giải các vấn đề triết luận, gửi gắm tình cảm chung, tình cảm thiêng
liêng, lớn lao về đất nước trở nên sâu sắc.
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và triết lý suy tư, giữa trữ tình và chính
luận: giúp giọng thơ thêm phần tha thiết, đằm thắm, thủ thỉ, nhẹ nhàng và sâu lắng; làm
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 3 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
cho những định nghĩa mang tầm triết học về đất nước trở nên dung bị, giản đơn, dễ hiểu,
dễ nhớ mà thấm thía, quen thuộc và gần gũi.
4.3. Sự cảm nhận về Đất Nước một cách toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều phương diện.
+ Trong chiều dài của lịch sử: Từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ đến thời các vua Hùng;
từ thời trung đại đến hiện đại; từ quá khứ, hiện tại đến tương lai...
+ Trong chiều rộng của không gian địa lý: từ Bắc – Trung – Nam đến vùng núi, đồng
bằng, vùng biển; từ không gian sinh hoạt đến không gian riêng tư của tình yêu đôi lứa; từ
không gian hùng vĩ của núi cao, sông dài đến rừng vàng, biển bạc... Từ cụ thể đến khái quát,
từ gần gũi, thân thuộc đến cao cả, thiêng liêng...
+ Trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống, tâm hồn và tính cách dân tộc...
Khẳng định: Ba phương diện này được thể hiện trong sự gắn bó mật thiết với cuộc sống
của nhân dân. Bởi bất kì đâu, bất kì thời điểm nào, đất nước cũng hiện hữu ba phương diện
trên và nó từ nhân dân mà có. Vậy nên, tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là hệ quy
chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng, là cốt lỗi trong quan niệm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
muốn nhắn gửi trong đứa con tinh thần của mình. Nhờ phát hiện mới mẻ này mà nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đã làm sâu sắc hơn ý niệm về Đất Nước trong thơ ca kháng chiến thời
chống Mĩ, làm nổi bật sự quan trọng của tầng lớp nhân dân, tư tưởng “Đất nước của Nhân
dân”: Bởi Đất Nước có trong đời sống mọi mặt của Nhân dân, do Nhân dân làm ra, do Nhân
dân gìn giữ, do Nhân dân lưu truyền; Đất Nước sẽ trường tồn bất diệt cùng Nhân dân, được
nói bằng tiếng nói của Nhân dân, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ con cháu trong
Nhân dân...
Khác với quan niệm của các nhà cách mạng, các nhà thơ thời đại trước khi họ tập
trung nhấn mạnh vào quyền sở hữu, quyền làm chủ đất nước: coi đất nước là của Vua:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở) trong bản tuyên ngôn được
coi là đầu tiên khẳng định chủ quyền của người Việt trên lãnh thổ của mình. Hay Trần
Quốc Tuấn trong “Hịch tướng sĩ” cũng nói những vấn đề liên quan đến quyền sở hữu “thái
ấp của ta, bổng lộc các người”. Đến giai đoạn sau, có nhiều tiến bộ hơn về sự quan trọng của
nhân dân nhưng không khẳng định “Đất Nước là của Nhân dân”: Nguyễn Trãi nói “Có lật
thuyền mới thấy dân như nước”; Lênin nhận định “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”;
Nguyễn Đình Chiểu trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” cũng đề cao sức mạnh của nhân
dân... Nhưng phải đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm mới có cái nhìn nhận rõ ràng,
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 4 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
chi tiết, mới mẻ là: Đất Nước không của ai hết, không thuộc quyền sở hữu của thế lực cầm
quyền nào mà “Đất Nước của Nhân dân”.
4.4. Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian.
+ Vận dụng một cách sáng tạo, không trích nguyên văn những câu da dao dân ca hay
thành ngữ, tục ngữ, không kể lể dài dòng mà chỉ nắm bắt lấy cái hồn của văn hóa dân gian
để gợi liên tưởng, tạo suy ngẫm cho độc giả, tạo cảm giác vừa mới lạ vừa thân thuộc.
+ Chất liệu văn hóa lấy từ đời sống dân gian vừa gợi ra thế giới cổ tích vừa mang tính
chất trang trọng, thuyết phục phù hợp với mọi đối tượng: từ người trí thức, người có trình
độ văn hóa đến những người nông dân chân lấm tay bùn đều có thể hiểu, đều phải liên
tưởng tìm tói, đồng sáng tạo cùng tác giả.
4.5. Tư duy nghệ thuật hiện đại.
+ Mượn những nghịch lí để diễn tả những khám phá, tư tưởng mới mẻ của mình. Không
vay mượn hay dùng những từ ngữ sáng tạo để thể hiện ý thơ mà dùng những từ ngữ rất
quen thuộc, dân dã, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày.
+ Trong một câu thơ thường hay xuất hiện hai đại lương trái ngược: bên này cái nhỏ
bé, bên kia cái lớn lao: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”; “Đất Nước là nơi ta
hò hẹn”; “Đất là nơi Chim về”; “Nước là nơi Rồng ở”….
4.6. Ngôn ngữ
+ Tác giả viết hoa danh từ “Đất Nước” thể hiện sự trân trọng, thành kính, trang nghiêm
khi nói về Đất Nước của mình.
+ Ngôn ngữ mộc mạch, giản dị, chân thành, gần gũi như lời ăn tiếng nói hằng ngày
nhưng cũng đầy mãnh liệt gợi về nguồn cội xa xăm.
+ Giọng thơ, nhịp điệu lúc tha thiết lúc trang nghiêm, sâu lắng; lúc trầm lặng, suy tư
đậm chất chính luận; lúc lại như nhắm nhủ, thầm thì, thủ thỉ, tâm sự….

PHÂN TÍCH CHI TIẾT


Phần 1: Cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất Nước từ cội nguồn, định nghĩa đến nhận thức,
trách nhiệm trong mỗi cá nhân con người.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 5 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Vấn đề 1. (9 câu câu đầu): Nhà thơ lý giải cội nguồn của Đất Nước có từ rất lâu đời và rất
gần gũi, thân thương đối với mỗi con người: từ huyền thoại, cổ tích đến truyền thống yêu
nước, lao động cần cù, thuần phong mĩ tục và lối sống tình nghĩa thủy chung…
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
- Câu thơ đầu: Viết theo thể khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
+ Câu thơ mộc mạc, chân thành, giản dị như một lời chuyện trò cất lên từ sâu thẳm
trái tim nhà thơ muốn gửi đến người đọc, ta cũng có thể hiểu đó như một lời thì thầm tâm
sự, thủ thỉ giữa người anh với người em của mình, hay giữa chàng trai nói với cô gái....
+ Đại từ nhân xưng “ta” là một đại từ vô định, không xác định rõ là ai chỉ biết rằng bất
cứ người dân nào sinh ra trên mảnh đất cong cong hình chữ S, mang trong mình dòng máu
dân nước Việt đều ngay lập tức được bao bọc và nâng niu, được mang quốc tịch, được nuôi
dưỡng và che chở trong chiếc nôi mang tên Đất nước Việt Nam.
+ Điều đặc biệt ta thấy, danh từ “đất nước” thường là danh từ chung, không phải danh
từ riêng hay tên riêng nhưng ở đây, trong bài thơ của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
viết hoa danh từ “Đất Nước” như một thứ cảm xúc thiêng liêng, thành kính, trân trọng,
nâng niu của ông dành cho “Đất Nước Việt Nam” thân yêu, đất nước máu thịt của mình.
+ Cách nói: “Khi ta lớn lên...” là để chỉ sự trưởng thành của con người: Khi ta còn thơ
bé, có thể nhận thức về cuộc sống xung quanh, nhận thức về đất nước, về trách nhiệm của
mình đối với Tổ quốc vẫn còn non dại. Nhưng khi đã “lớn lên” nghĩa là khi đã trưởng thành,
đã biết suy nghĩ và nhận thức thì phải ý thức trách nhiệm được xứ mệnh của mình đối với
quê hương, đất nước, với nơi chôn rau cắt rốn của mình.
+ Ba chữ “đã có rồi” vừa là lời khẳng định vừa là lời bộc lộ niềm tự hào mãnh liệt về sự
trường tồn của đất nước. “Đã có” nghĩa là đất nước đã trường tồn qua mấy ngàn năm lịch
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 6 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
sử dựng nước và giữ nước, sẵn có trong mọi mặt, trong đời sống của người dân, trong văn
hóa, trong truyền thống hình thành và phát triển bao đời.
- 3 câu thơ tiếp theo: Lý giải sự hình thành và phát triển của Đất Nước “có trong” huyền
thoại, cổ tích; Đất Nước “bắt đầu” với thuần phong mĩ tục và “lớn lên” với truyền thống yêu
nước của người dân nước Việt.
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
❖ Sự tồn tại của Đất Nước có trong huyền thoại, cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa...” Để nói về lịch
sử trường tồn của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không bắt đầu bằng việc đưa các
dữ liệu sử thi hay các mốc lịch sử vàng son mà gợi nhắc về những điều rất gần gũi, quen
thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta, đó là những chất liệu văn học dân gian có trong huyền
thoại, cổ tích:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa…” thường được dùng trong câu mở đầu của những câu
truyện cổ tích: “Ngày xửa ngày xưa, ở quận Cao - Bình có hai vợ chồng tuổi già mà chưa có
con. Nhà họ nghèo hàng ngày phải lên rừng chặt những bó củi về đổi lấy gạo nuôi thân. Họ
ham giúp người như đắp đường khơi cống, đỡ đần kẻ già người yếu mà không nề hà gì cả...”
(Truyện cổ tích Thạch Sanh); “Ngày xửa ngày xưa, có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị tên là
Tấm, em tên là Cám. Mẹ Tấm mất sớm, sau đó mấy năm cha Tấm cũng qua đời,....” (Truyện
cổ tích Tấm Cám); “Ngày xửa ngày xưa, trị vì cõi đất Âu - Lạc có một ông vua tên là An Dương
Vương. Vua có một nàng công chúa tên là Mị Châu...” (Truyền thuyết về An Dương Vương)...,
gợi ý niệm đất nước có từ rất lâu đời, rất xa xưa trong lịch sử. “Đất Nước có trong...” truyện
cổ tích, tức là Đất Nước có trước cả sự ra đời của truyện cổ tích nên mới xuất hiện trong
lời “... mẹ thường hay kể”.
+ Cụm từ “ngày xửa ngày xưa...” còn như một bản nhạc du dương đưa ta về thế giới với
vầng trăng đưa nôi, với những câu hò điệu hát đong đầy trong lời ru của mẹ khi ta còn thơ
bé. Nó như dòng sữa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn ta thêm trong sáng, vun đắp cốt
cách con người như những hạt giống xanh tốt vươn lên đón ánh nắng bình minh của cuộc
đời. Chính những bài học sâu sắc từ truyện cổ tích đã chăm bẵm cho ta về cái “chân – thiện
– mĩ” để ta biết yêu quê hương, đất nước, con người. Nói về ý nghĩa của truyện cổ tích, nó
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 7 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
không chỉ là lời ru, tiếng hát; là bài học, là sự giáo dục mà còn là đời sống tinh thần trong
mỗi con người.
+ Qua đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền thống
cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm văn hiến. Trong bốn ngàn năm
đó, không chỉ là công cuộc khai hoang bờ cõi, gìn giữ biên cương mà còn là công cuộc giáo
dục thế hệ con cháu đạo lý ân tình ân nghĩa, cái thiện cái ác, lịch sử dân tộc thông qua các
câu truyện huyền thoại cổ tích.
❖ Sự khởi đầu của Đất Nước là bắt đầu từ thuần phong mĩ tục: “…bắt đầu miếng trầu bây giờ
bà ăn…”
Không chỉ định hình Đất Nước “...có trong cái ngày xửa ngày xưa...”, mà nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu của Đất Nước qua một nét sống giản dị nhưng đậm
đà bản sắc dân tộc của những người bà, người mẹ Việt Nam. Đó là phong tục “ăn trầu”:
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
+ Hình ảnh “miếng trầu” gợi cho ta nhớ về “Sự tích trầu cau”, một câu chuyện cổ tích
mang ý nghĩa nhân văn nhân bản sâu sắc và được xem là truyện xưa nhất trong những câu
truyện cổ. Tục lệ “ăn trầu” cũng từ câu truyện này mà nên – một phong tục rất riêng mang
bản sắc của người Việt xưa nay, thấm vào miếng trầu dung dị ấy là bốn nghìn năm lịch sử,
bốn nghìn năm ông bà ta gìn giữ phong tục ăn trầu.
+ Hình ảnh “miếng trầu” thủy chung, chia sẻ mọi vui buồn, thăng trầm, sự kiện quan
trọng trong đời sống người dân, nó còn gợi về mối quan hệ tình nghĩa truyền thống tốt đẹp
của người Việt Nam: Trong tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng
thành của con cháu dâng gửi đến ông bà, những bậc tiền bối đã khuất, là nhịp cầu giao cảm
với tiền nhân. “Miếng trầu” còn gợi ra huyền sử tình yêu, tượng trưng cho mối quan hệ vợ
chồng thủy chung, son sắt. Và cũng có lẽ vì thế mà “miếng trầu” đã trở thành vật biểu
tượng cho tình yêu, hôn nhân và gia đình.
+ Ý thơ đã đánh thức trong chúng ta một điều tưởng chừng như đơn giản nhưng lại
vô cùng thấm thía: Muốn có được những điều lớn lao (có được Đất Nước) đừng coi thường
những vật phẩm quen thuộc (hình ảnh “miếng trầu”), bởi trong mỗi vật phẩm quen thuộc
có thể chứa đựng những điều hết sức thiêng liêng (“miếng trầu” là văn hóa, là phong tục,
tập tục của người dân, từ đó hình thành văn hóa cho một đất nước). Điều đó cho thấy, đất

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 8 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
nước này sở dĩ có được ngày hôm nay, tồn tại đến tận bây giờ và mãi mãi về sau là nhờ vào
sự sống bền bỉ của nó với những vật tưởng như rất bình thường, nhỏ nhoi và đơn giản.
❖ Sự trưởng thành của Đất Nước là từ truyền thống yêu nước thương nòi: “... lớn lên khi dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Nếu Đất Nước “tồn tại” từ trong những câu truyện cổ tích “cái ngày xửa ngày xưa”, “khởi
đầu” từ lịch sử và là sự kết tinh từ tâm hồn văn hóa Việt thì để Đất Nước “trưởng thành”
được như ngày hôm nay chính là từ nhận thức của mỗi cá nhân mang trong mình dòng
máu Lạc Hồng với truyền thống yêu nước thương nòi, đánh giặc giữ nước:
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
+ Giới phê bình văn học nhận định: Thơ Nguyễn Khoa Điềm hấp dẫn vởi sự kết hợp
giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, quả đúng không
sai. Và ngay trong ý thơ này, ta cũng nhận thấy rất rõ điều đó khi ông viết “Đất Nước lớn
lên…”, “lớn lên” nghĩa là trưởng thành, mà con người muốn trưởng thành phải có nhận thức
và nhận thức đó lại là nhận thức về truyền thống dân tộc thì còn gì ý nghĩa, thiêng liêng,
cao cả hơn?
+ Câu thơ còn gợi nhắc cho ta nhớ về truyền thuyết Thánh Gióng – chàng trai làng
Phù Đổng Thiên Vương đã nhổ tre đôi bờ làng Ngà mà đánh giặc; chàng trai với tiếng nói
đầu đời là khao khát đánh đuổi giặc ngoại xâm. Điều đó gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi
trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất, anh dũng, hi sinh chỉ với mong muốn giữ làng, giữ
nước, giữ mái nhà tranh, giữ nền độc lập,… )
+ Song song với những tấm gương hi sinh thân mình vì đất nước còn là hình ảnh cây
tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê, gắn bó mật thiết với đời sống con người,
là sự đồng hiện cho những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất
phác, đôn hậu thủy chung, yêu chuộng hòa bình nhưng cũng rất kiên cường bất khuất
trong đấu tranh. Tre đứng thẳng, hiên ngang bất khuất, “tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà
tranh, giữ đồng lúa chín…”; tre cùng gánh vân mệnh chung của dân tộc, chia sẻ khó khăn
trong chiến đấu: “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ” hay:
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
⮚ Qua ba câu thơ, ta thấy: Sự hình thành, tồn tại và trưởng thành của Đất Nước là dựa
vào ba tài sản lớn về văn hóa tinh thần của người dân : Đó là những câu truyện cổ tích, ca
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 9 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
dao dân ca, thành ngữ, tục ngữ; thói quen, tập tính, phong tục và truyền thống đánh giặc
của người dân nước Việt. Chính những điều nhỏ nhoi, bình dị không thể thiếu trong cuộc
sống hàng ngày ấy lại làm nên bộ mặt văn hóa khi ta hô vang hai tiếng Việt Nam.
- 4 câu thơ tiếp : Những yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục, lối sống thủy chung son
sắt, đức tính cần cù lao động, chịu thương chịu khó của con người Việt Nam.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xây, giã, giần, sàng
- Ý thơ: Tóc mẹ thì bới sau đầu
+ Nét văn hóa đầu tiên được nhắc đến trong bốn câu thơ này là vẻ đẹp giản dị của
người phụ nữ Việt Nam với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho
người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu). Không phải ngẫu nhiên mà hình ảnh người
phụ nữ lại được nhà thơ nhắc đến ngay đầu tiên với vẻ đẹp giản dị này, bởi lẽ hình ảnh
người bà, người mẹ tần tảo sớm hôm với mái tóc được búi gọn đằng sau đã đi sâu từng ký
ức của mỗi người con khi nhớ về quê hương, nhớ về bà, về mẹ.
+ Nét đẹp ấy cũng đi vào những câu ca dao dân ca một cách nhẹ nhàng, sâu lắng : Tóc
ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh

hay Tóc em dài em cài hoa lí


Miệng em cười có ý anh thương.

hoặc Em đi khắp bốn phương trời


Chẳng đâu lịch sự bằng người ở đây
Gặp người má đỏ hây hây
Răng đen rưng rức tóc mây rườm rà.
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
+ Nét đẹp văn hóa tiếp theo mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắn gửi đó là đạo
lí ân tình ân nghĩa, thủy chung son sắt ngàn đời của dân tộc, là sự gắn kết giữa các đấng
sinh thành, của cha, của mẹ. Chính tình nghĩa ấy đã tạo nên mái ấm gia đình cho con khôn
lớn, cho con trưởng thành từng ngày.
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 10 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
+ Thành ngữ “Gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách sâu sắc: Gừng càng già
càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau càng lâu càng tình nghĩa
càng đong đầy, càng thấu hiểu, càng dung hòa với nhau. Hình ảnh ấy gợi ta nhớ tới câu ca:
Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
+ Tình cảm chân thành ấy là nguồn gốc của mọi tình yêu thương như suối nguồn chảy
qua bao thế hế, đó là sự gắn kết giữa đời này với đời sau.
Cái kèo cái cột thành tên
+ Câu thơ gợi nhắc một nét văn hóa của người Việt, đó là truyền thống làm nhà “kèo –
cột” (Các “kèo” có hình tam giác cân, trong kiến trúc cổ là hệ thống gỗ kết nối các đầu cột
để đỡ hai mái dốc cho chắc chắn; Các “cột” đẩy mái nhà lên cao, kèo giữ cái cột lại với nhau
làm nên sự bền vững, kiên cố cho khung nhà).
+ Cũng chính từ gian nhà tình nghĩa ấy, thói quen đặt tên con bằng những vật dụng
quen thuộc cũng ra đời như cái Đục, cái Bè, cái Na, thằng Tít,…
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
+ Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp của người bà, người mẹ hay tình nghĩa thủy chung,
phong tục tập quán mà đất nước còn đẹp rạng ngời với truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó của người dân sớm hôm tần tảo với nền văn minh lúa nước.
+ Thành ngữ “một nắng hai sương” lại một lần nữa được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
sử dụng một cách đầy tinh tế. “Một nắng hai sương” gợi lên sự tầm tảo, lam lũ, cần cù, chịu
thương chịu khó của người nông dân chân lấm tay bùn.
+ Để có được hạt gạo trắng ngần ta trồng ngày hôm nay là quá trình gìn giữ nét văn
hóa từ đời cha ông để lại với nền văn minh trồng lúa nước. Và để có được bát cơm dẻo thơm
ta thưởng thức hàng ngày trong mỗi bữa cơm người nông dân phải trải qua bao nắng sương
vất vả gieo, cấy, xay, giã, giần, sàng… Thấm vào trong từng hạt gạo bé nhỏ ấy là vị mặn của
giọt mồ hôi với những nhọc nhằn của người dân.
+ Ý thơ cũng khéo léo nhắc nhở chúng ta về đạo lý ân tình ân nghĩa: Ăn quả nhớ kẻ
trồng cây, Uống nước nhớ nguồn… Ăn hạt gạo dẻo thơm ngày hôm nay phải biết nhớ đến
công lao người làm ra nó.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 11 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
- Câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định chắc nịch đầy tự hào Đất Nước có từ ngày đó…
+ “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn đó là ngày ta có truyền thống,
có phong tục tập quán, có nền văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có Đất Nước.
⇨ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm điểm lại các di sản văn hóa gần gũi, quen thuộc (huyền
thoại, cổ tích; truyền thống yêu nước; lối sống thủy chung, tình nghĩa; đức tính cần cù, lao
động…) của ông cha để lại chứ không phải là những công trình kì vĩ, những thi phẩm văn
hóa kiệt tác, những đền đài mếu mạo… Một kiểu tóc của bà, của mẹ cũng là một giá trị văn
hóa hay một cái tên thường nhật cũng là một giá trị văn hóa hoặc một cái yêu nhau nên
duyên vợ chồng cũng thuộc về phạm trù văn hóa; một đức tính cần cù lao động cũng là một
phương diện văn hóa. Hoặc đơn giản là những câu ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, huyền
thoại còn được lưu truyền trong kí ức cũng chính là tài sản về văn hóa.
Những nét dung dị, giản đơn quen thuộc mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhắn gửi qua
9 câu thơ đầu làm ta nhớ đến lời Bác dặn trước lúc đi xa: “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải
yêu những câu hát dân ca”. Ca dao, dân ca là nét đặc trưng văn hóa của người dân Việt Nam,
muốn yêu Đất Nước trước hết phải thấm nhuần, phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà.
Bởi văn hóa chính là Đất Nước.
Nghệ thuật: thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu
văn hóa dân gian như tập tục ăn trầu, búi tóc, truyền thống đánh giặc, nền văn minh lúa
nước… Nhà thơ vận dụng linh hoạt các thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân ca vào các ý thơ một
cách sâu sắc. Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần và luôn được viết hoa thể hiện sự
trân trọng, nâng niu, tình cảm trân quý của nhà thơ đối với Tổ quốc… Tất cả làm nên một
đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ
nhàng mang âm hưởng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm tính triết lý sâu lắng.
Vấn đề 2. (20 câu thơ tiếp theo): Sự cắt nghĩa khái niệm Đất Nước của tác giả từ nhiều phương
diện (địa lý, lịch sử, văn hóa)
Phương diện 1. Phương diện địa lý ( Đất là nơi anh…. dân mình đoàn tụ). Phương diện địa lý
được nhìn nhận từ bốn khía cạnh không gian:
+ Không gian gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi người
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Không gian của tình yêu đôi lứa.
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 12 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
+ Không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng lãnh thổ.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hoàn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
+ Không gian sinh tồn thiêng liêng của dân tộc.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
- Không gian gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
+ Đất Nước được tách ra thành hai thành tố: Đất và Nước. Đất Nước ở đây đã gắn với
những kỉ niệm thân thuộc trong ký ức của mỗi người ngày còn thơ ấu cắp sách tới trường.
+ Thành tố “đất” – để chỉ con đường anh tới trường hàng ngày, là ngôi trường cung
cấp hành trang, tri thức cho chúng ta tự tin bước vào đời; là nơi những cánh chim non
thêm chắc đôi cánh vươn tới những chân trời mới… Thành tố “nước” là dòng sông nơi em
thả mình tắm mát mỗi trưa hè, dòng sông chở nặng phù sa vun đắp những cánh đồng thơm
ngát, những bãi mía, nương ngô…
+ “Đất” là con đường đến trường; “Nước” là dòng sông chở nặng phù sa, đó là không
gian quen thuộc, gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của mỗi con người. Không
ai trong số chúng ta có thể quên được những kỉ niệm gắn với con đường cắp sách đến
trường và cũng không ai trong số chúng ta có thể quên được hình ảnh dòng sông quê
hương với những câu hò. Dòng sông tươi mát ấy làm tôi nhớ đến bài hát “Khúc hát sông
quê” của ca sĩ Anh Thơ với những câu hát say đắm lòng người: “Qua nửa đời phiêu dạt, con
lại về úp mặt vào sông quê. Ơi con sông dạt dào như lòng mẹ, chở che con qua chớp bể mưa
nguồn. Từng hạt phù sa tháng ba tháng bảy, từng vị heo may trên má em hồng. Ơi con sông
quê con sông quê, con sông quê…”
- Không gian của tình yêu đôi lứa:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 13 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
+ Đất Nước chia tách cho anh và em có không gian riêng tư, nhưng khi ta hò hẹn Đất
Nước lại hòa nhập là một và trở thành không gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Không gian
ấy sẽ là nơi nâng bước và minh chứng cho tình yêu của hai đứa với những lời thề nguyện
thủy chung son sắt, những lời hẹn ước yêu đương…
+ “Nơi ta hò hẹn” gợi cho về không gian của làng quê thanh bình, yên ả với tiếng gió vi
vu ngoài đồng ruộng, tiếng ếch nhái kêu ran theo gió nhẹ đưa vào, giếng nước, gốc đa, sân
đình hay chiếc cầu nhỏ xinh nối đôi bờ mương đầu xóm… tất cả đều đẹp, đều bình dị, hài
hòa mà nồng thắm. Chính ở mảnh đất yên bình đó đã gắn kết nhịp đập của hai trái tim khi
họ yêu nhau. Trong tình yêu ấy, Đất Nước như một phần không thể thiếu trong nỗi nhớ
thầm của anh dành cho em, của em gửi đến anh.
+ Hình ảnh “chiếc khăn” chính là biểu tượng tình yêu, của nỗi nhớ thương. Bởi chẳng
ai yêu mà không nhớ như Xuân Diệu đã từng viết : “Làm sao sống được mà không yêu - Không
nhớ không thương một kẻ nào” hay nữ hoàng thơ tình Xuân Quỳnh cũng viết trong Sóng :
“Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Ý thơ còn làm ta nhớ đến những vầng ca dao
lay động lòng người, bồi hồi xao xuyến trước tình cảm chân thành của những trái tim
đương thời say đắm :
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
- Không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng lãnh thổ :
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hoàn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
+ Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã mượn chất liệu dân ca là câu hò Bình Trị - Thiên để
cảm nhận Đất Nước trên phương diện không gian tráng lệ, rộng lớn, giàu đẹp của vùng
lãnh thổ. Nguyên văn câu hò : “ Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư
ông móng nước ngoài khơi – Gặp nhau đây xin phân tỏ đôi lời – Kẻo mai kia con cá về sông
vịnh, con chim nọ đổi dời về non xanh”.
+ Không gian tráng lệ, rộng lớn ấy có thể hiều là núi sông, bờ cõi; là ba miền Bắc –
Trung – Nam một dải nối liền. “Hòn núi bạc” như dãy Trường Sơn hùng vĩ, sừng sững, hiên
ngang ; “Biển bạc” là biển Đông mênh mông sóng nước. Cách nói này, giúp ta hình dung đất
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 14 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
nước Việt Nam là một cường quốc giàu tài nguyên thiên nhiên – nhiều rừng vàng, biển bạc,
khoáng sản phong phú, đất dai màu mỡ.
+ Trên không gian rộng lớn ấy biết bao thế hệ đã nối tiếp nhau xây dựng và bảo vệ Đất
Nước. Nếu những câu thơ đầu đoạn trích, Đất Nước hiện lên với những hình ảnh quen thuộc
gần gũi thì đến với đoạn thơ thứ hai ta lại thấy hình ảnh Đất Nước hiện lên với không gian
vô cùng tráng lệ, hùng vĩ.
- Không gian sinh tồn thiêng liêng của dân tộc.
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
+ “Thời gian đằng đẵng” gợi ra quãng thời gian với bao lớp thế hệ cha ông thay nhau
nằm xuống để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước. “Không gian mênh mông” là mảnh đất thiêng
liêng chúng ta sinh sống và phát triển trong quãng thời gian dài “đằng đẵng” kia.
+ Dù trải qua biết bao thăng trầm lúc chia cắt, khi hợp khi tan thì không gian sinh tồn
Bắc – Trung – Nam một dải vẫn là “nơi dân mình đoàn tụ”. Hai từ láy “đằng đẵng”, “mênh
mông” kết hợp cùng ý thơ “nơi dân mình đoàn tụ” đã lột tả được một đất nước có truyền
thống từ lâu đời với tinh thần đoàn kết, cùng nhau phát triển, làm ăn sinh sống, gìn giữ và
bảo vệ Đất Nước.
+ Ý thơ làm ta nhớ đến những lời cuối trong bản “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và
của cái để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Phương diện 2: Phương diện lịch sử (chiều dài, chiều sâu và cội nguồn lịch sử của dân tộc)
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
+ Với tình yêu nồng nàn dành trọn cho Đất Nước thân yêu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
thể hiện tình cảm của mình vào ý thơ một cách đầy tự hào khi ông gợi lại huyền sử lung
linh về dòng dõi Lạc Hồng – dòng dõi con Rồng cháu Tiên của người dân nước Việt. Đó là
truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên : Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào ta trong bọc
trăm trứng nở trăm con, 50 theo cha lên rừng, 50 theo mẹ xuống biển, cùng khai thiên lập
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 15 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
địa – một truyền thuyết ra đời đã từ rất lâu, và cũng là truyền thuyết lý giải nguồn gốc
người Việt.
+ Từ truyền thuyết ấy, dân ta tự hào mình là con Rồng, cháu Tiên, là con cháu Vua
Hùng. Và cũng chính truyền thuyết ấy đã nhắc nhở chúng ta : Tất cả đều là anh em một
nhà, dù có lên rừng hay xuống biển, dù có ngoài đảo xa xôi hay đất liền thương mến thì
nguồn cội từ xa xưa vẫn được đẻ ra từ trong một bọc trứng, vì vậy hãy luôn biết yêu thương,
che chở, động viên, giúp đỡ lẫn nhau.
Phương diện 3 : Phương diện văn hóa gắn với những quan niệm, phong tục, tập quán – những
vẻ đẹp kết tinh tinh hoa tâm hồn người dân nước Việt.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
+ Câu chuyện về lớp lớp những thế hệ người dân Việt với “Những ai đã khuất” trong
quá khứ - là những con người sống giản dị, chết bình tâm, những người đã hi sinh thân
mình để dựng nước và giữ nước ; “Những ai bây giờ” trong hiện tại và tương lai – những thế
hệ người dân cứ nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác.
+ Tất cả đều ý thức sâu sắc về sứ mệnh của mình “Yêu nhau và sinh con đẻ cái” để duy
trì nòi giống, từ đó góp vào một nhiệm vụ to lớn, thiêng liêng và cao quý. Đó là “Gánh vác
phần người đi trước để lại”, thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước những tinh hoa dân tộc và “Dặn
dò con cháu chuyện mai sau”.
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
+ Đây chính là nét văn hóa gắn với quan niệm, phong tục, tập quán của người Việt . Đó
là đạo lý “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”… Sống ngày hôm nay, phải nhớ
ơn công lao sinh thành, dưỡng dục, khai thiên lập địa, gìn giữ đất nước của cha ông ta.
+ Qua đó, nhà thơ khéo léo dặn dò thế hệ sau phải ý thức về tổ tiên và cội nguồn dân
tộc với ngày lễ Quốc giỗ của người dân Việt Nam được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10
tháng 3 (âm lịch) tại đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Như Bác Hồ đã từng nói:
“Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Vậy nên:
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 16 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng Ba
Dù ai buôn bán gần xa
Nhớ ngày giỗ Tổ tháng Ba mùng mười
+ Hai chữ “cúi đầu” thể hiện niềm thành kính thiêng liêng mà cũng rất đỗi tự hào về
nguồn gốc cha ông. Cúi đầu để hướng về lịch sử, hướng về bao thế hệ đi qua đã góp công
dựng nên Đất Nước này. Người dân Việt Nam dù đi khắp bốn phương nhưng trong tâm linh
họ luôn có một mái nhà chung để quay đầu nhớ cố hương, đó chính là quê cha đất tổ Hùng
Vương : “Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về”, người dân
việt Nam là thế, lúc nào cũng thế, dù đi bốn bể năm châu thì cũng luôn hướng về quê
hương, hướng về cội nguồn, hướng về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Vấn đề 3. ( 13 câu thơ tiếp theo): Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi con người, chúng
ta phải có tinh thần cống hiến, có trách nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở bằng
những nhận thức và hành động cụ thể (gắn bó, san sẻ. hóa thân...)
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
⇨ Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi cá nhân. Đó là mối quan hệ giữa con
người và Đất Nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
⇨ Trách nhiệm gìn giữ và phát triển Đất Nước đối với thế hệ tương lai.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
⇨ Từ nhận thức dẫn đến hành động cụ thể: gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình đất nước.
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 17 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
❖ Nhận thức về trách nhiệm đối với Đất Nước trong mỗi cá nhân, cộng đồng.
Nhận thức trong cá nhân: anh và em
Nhận thức trong sự vẹn tròn của cộng đồng
Nhận thức về thế hệ tương lai
Sau những cảm nhận, suy ngẫm, đưa ra định nghĩa, tư duy mới mẻ trên nhiều phương
diện khác nhau thông qua cuộc đối thoại, trò chuyện tâm tình về Đất Nước. Nhà thơ Nguyễn
Khoa Điềm một lần nữa khẳng định một cách tinh tế của người tri thức đầy suy tư:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
+ Vì sao “trong anh và em” lại có một phần Đất Nước? Vì Đất Nước là nơi ta sinh ra,
nơi ta lớn lên, sinh hoạt và học tập. Đất Nước là chủ quyền, là lãnh thổ, là núi sông bờ cõi
do biết bao con người đã hi sinh mà gây dựng nên. Đất Nước là hơi thở, là máu thịt thiêng
liêng của chúng ta, chúng ta sống trong Đất Nước đều được thừa hưởng những giá trị vật
chất và tinh thần mà cha ông để lại. Vậy nên, trong ta luôn có một phần Đất Nước.
+ Và “Hôm nay” chính là sự kết tinh của ngày hôm qua, hôm qua là những chuỗi ngày
có sự hi sinh xương máu của biết bao thế hệ cha ông đã nằm xuống để bảo vệ từng tấc đất
này. Cho nên sự sống của mỗi cá nhân trong đó có anh và em là sự hiện thân, sinh động
hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam hôm nay đã thừa hưởng,
tiếp nối và cần phải phát triển những giá trọ văn hóa, tinh thần, vật chất của Đất Nước từ
hạt gạo ta ăn hàng ngày, miếng trầu trong những tục lễ đến cây tre, giếng nước, gốc đa
đầu làng hay tình yêu thương giữa cha và mẹ, giữa đôi lứa, anh và em.
Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn to lớn
+ Hành động “cầm tay” là một nghĩa cử cao đẹp: Khi hai đứa cầm tay là khi trong anh
và em đã có sự thấu hiểu, yêu thương, chia sẻ với nhau và Đất Nước từ đó cũng trở nên đẹp
hơn, hài hòa hơn, nồng thắm hơn. Nói cách khác, khi anh và em cầm tay là đã có sự giao
thoa cảm xúc, giao thoa tình yêu Đất Nước giữa hai trái tim.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 18 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
+ Ý thơ gợi cho ta về tinh thần đoàn kết giữa con người với con người: “Một cây làm
chẳng nên non – Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay đọa lý yêu thương, đùm bọc, che chở
lẫn nhau: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương – Người trong một nước phải thương nhau cùng”.
+ Nhất là trong những năm tháng Đất Nước bị chia cắt hai miền Bắc – Nam thì cái
“cầm tay” giữa mọi người thật ý nghĩa biết bao. Và điều đó giúp Đất Nước từ đó trở nên
“vẹn tròn, to lớn” hơn. Đó sẽ là nguồn sức mạnh vô cùng lớn lao để chúng ta vượt qua kháng
chiến trường kì đến với nền độc lập, tự do.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Dẫn dắt: sau khi nêu nhận thức về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đối với Đất Nước,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thể hiện niềm tin trọn vẹn của mình vào thế hệ tương lai –
những mầm non tương lai của đất nước.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
+ “Những ngày tháng mơ mộng” ở đây có thể hiểu là ngày dân ta được sống trọn vẹn
trong nền hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó còn là ngày Đất Nước ta hiên ngang sánh
vai với các cường quốc năm châu. Như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Non sông
Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai các cường quốc
năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập của các cháu”.
+ “Những ngày tháng mơ mộng” đó không chỉ là niềm mong mỏi của riêng nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm mà là niềm mong ước của hàng triệu, hàng chục triệu trái tim Việt
Nam. Điều đó chứng tỏ, dù sống trong bom đạn, trong chiến tranh ác liệt nhưng niềm tin
cũng như khát vọng, tinh thần “yêu hòa bình – chuộng tự do” trong chúng ta chưa bao giờ
dập tắt.
+ Qua đó, nhà trí thức yêu nước mang tên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo nhắc nhở
thế hệ trẻ hãy ý thức về sứ mệnh của mình để “mang Đất Nước đi xa”, kế tục truyền thống,
làm rạng danh Đất Nước, rạng danh quê hương xứ sở.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 19 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời
⇨ Từ nhận thức dẫn đến hành động cụ thể: gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình đất nước.
Vì sao phải có hành động cụ thể - Bởi đó mới chính là cống hiến thiết thực cho Đất Nước.
+ Bởi Đất Nước là sự kết tinh, hóa thân trong mỗi người, là máu xương, là tinh thần
trong mỗi con người. Chính vì thế con người, đặc biệt là giới trẻ phải có tinh thần trách
nhiệm đối với sự trường tồn của quê hương, xứ sở.
+ “Máu xương” là cụm từ ẩn dụ chỉ sự hi sinh, mất mát của biết bai thế hệ cha anh đã
ngã xuống trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, gìn giữ và bảo vệ Đất Nước; trong sự
hình thành, phát triển và tồn tại Đất Nước.
+ Điệp từ “Phải biết” cùng các động từ “gắn bó” – “san sẻ” – “hóa thân” giàu sức, thể
hiện tinh thần tự nguyện của chúng ta đối với sứ mệnh Đất Nước. “Gắn bó” là sự yêu
thương, là mối quan hệ mật thiết, bền chặt với đất nước; “San sẻ” là tinh thần trách nhiệm,
yêu thương, san sẻ niềm vui, nỗi buồn với vận mệnh dân tộc; “Hóa thân” là dâng hiến, cống
hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
+ Những lời nhắn nhủ chân thành, tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm làm tôi
nhớ đến những câu hát trong bài “Khát vọng tuổi trẻ”: “Đừng hỏi Tổ quốc đã làm gì cho ta,
mà phải hỏi rằng ta đã làm gì cho Tổ quốc hôm nay”, rồi lại day dứt với những khát vọng
cống hiến trong bài “Tự nguyện”:
Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng
Nếu là hoa tôi sẽ là một đóa hướng dương
Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”
Phần 2. Nhân dân chính là người làm ra Đất Nước: Nhân dân làm ra dáng hình Tổ quốc; làm
ra lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa, đời sống tinh thần…; Nhân dân làm ra thần thoại, cố tích, ca
dao dân ca…
Vấn đề 4. (12 câu thơ tiếp theo): Dáng hình Đất Nước được tạo dựng từ những địa danh,
thắng cảnh gắn với cuộc sống, số phần, tính cánh, tâm hồn của nhân dân (từ tình nghĩa thủy
chung, thắm thiết đến sức mạnh bất khuất của con người; từ cội nguồn thiêng liêng cho đến
truyền thống hiếu học, non sông gấm vóc tươi đẹp vô ngần…)
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 20 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
⇨ Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiêng liêng, gần gũi hơn
khi có sự hóa thân của nhân dân.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
⇨ Khái quát về đất nước, suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam.
8 câu thơ đầu: Phát hiện mới từ không gian địa lý: thiên nhiên đất nước trở nên thiên liêng,
gần gũi hơn khi có sự hóa thân của nhân dân.
- Sự hóa thân đó là sự hóa thân vào những địa danh, thắng cảnh tiêu biểu của Đất Nước in
đậm dấu ấn tâm hồn, lối sống của nhân dân.
+ Biện pháp nghệ thuật liệt kê, kết hợp cùng động từ “góp” để diễn tả hình ảnh nhân
dân đã hóa thân thành những danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp của Đất Nước. Các danh lam
thắng cảnh được liệt kê từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng mang bóng dáng của nhân dân. Ở
miền Bắc:
- Vẻ đẹp tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng chung thủy, son sắt, bền vững: Núi Vọng
Phu, hòn Trống Mái
+ Núi Vọng Phu: có hình người vợ chờ chồng ở Đồng Đăng tỉnh Lạng Sơn và nhiều nơi
khác trên đất nước ta. Nó gắn liền với tích nàng Tô Thị bồng con chờ chồng mà hóa đá.
+ Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa tương truyền do hai vợ chồng yêu nhau
hóa thân thành. Nó là sự kết thành từ hai tảng đá giống hình trống mái nằm trên một ngọn
núi và cũng xuất hiện ở nhiều nơi trên đất nước ta.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 21 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
⇨ Đó là những vẻ đẹp của tình cảm thủy chung son sắt, tình nghĩa vợ chồng đã trở thành
bất tử với mọi thách thức khắc nghiệt của thời gian. Bởi dù nắng mưa, sương gió thì những
ngọn núi kia vẫn sừng sững như vậy mà lưu truyền ý nghĩa của nó đến với các thế hệ sau.
- Vẻ đẹp tượng trưng cho truyền thống đánh giặc, gìn giữ đất nước và công cuộc xây dựng,
bảo vệ nền kiến thiết nước nhà.
+ Chứng tích “trăm ao đầm để lại” kéo dài từ huyện Đông Anh sang huyện Sóc Sơn (Hà
Nội) qua truyền thuyết người anh hùng làng Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân rồi bay về trời
+ Quần thể núi non hùng vĩ “chín mươi chín con voi” bao quanh núi Hi Cương (tỉnh
Phú Thọ) nơi đền thờ vua Hùng ngự trị, chính là đàn voi chín mươi chín con quây quần
chầu phục quanh đất Tổ.
+ Đó là tượng hình “con cóc, con gà quê hương” cùng góp mình cho Vịnh Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh trở “thành danh lam thắng cảnh” được UNESCO công nhận là Di sản thế giới
(năm 1994).
Ở miền Trung: ta về mảnh đất Quảng Ngãi để chiêm ngưỡng “núi Bút non Nghiên” do những
cậu học trò nghèo dựng nên - đó là biểu tượng của truyền thống hiếu học.
Ở miền Nam:
+ Dòng sông Cửu Long hiền hòa, tươi đẹp với: “Những con rồng nằm im góp dòng sông
xanh thẳm”. Và chính từ dòng sông này biết bao tấn thóc, tấn gạo được gieo trồng và được
xuất khẩu đi khắp các quốc gia.
+ Đó là “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, tên đất, tên làng đều mang bóng dáng
của nhân dân đã tôn tạo nên nét đẹp văn hóa, truyền thống, để hôm nay và mai sau con
cháu đời đời ngưỡng vọng biết ơn.
- Nhân dân – những con người bình dị, vô danh đã hóa thân vào đất nước; mỗi người lặng
lẽ góp phần mình làm nên vẻ kì thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thống.
Như vậy, từ Bắc vô Nam dọc khắp dải đất cong cong hình chữ S này, đâu dâu ta cũng thấy
sự hóa thân của nhân dân những con người bình dị, vô danh; mỗi cuộc đời đều lặng lẽ góp
phần mình làm nên vẻ kì thú của thiên nhiên và bề dày của truyền thống. Nhưng điều đặc biệt
và kì diệu trong thơ Nguyễn Khoa Điểm đó là có tên những danh lam thắng cảnh cho ta
hình dung chúng đang ở vị trí nào, ở miền Bắc hay miền Nam, ở Hưng Yên hay Phú Thọ, ở
Mũi Né hay Cà Mau nhưng tuyệt nhiên không có tên của một người nào rõ ràng để chúng
ta hồi tưởng. Điều đó đồng nghĩa với việc tất cả đều từ Nhân dân mà ra. Trải qua biết bao
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 22 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
năm tháng, họ đã lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng nên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu
ấn sâu đậm trên dáng hình quê hương xứ sở.
4 câu thơ sau: Sự khái quát về Đất Nước với những suy ngẫm có tính triết lý sâu sắc của nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
- Từ vẻ đẹp thiên nhiên đất nước, tác giả suy ngẫm về vẻ đẹp tâm hồn của con người, của
lịch sử truyền thống Việt Nam:
+ Hòn Trống Mái, Núi Vọng Phu gợi ra tình nghĩa thủy chung, son sắt của vợ chồng.
+ Từ dấu ấn “trăm ao đầm”, đất Tổ Hùng Vương gợi ra truyền thống đánh giặc chống
ngoại xâm, tình yêu quê hương đất nước, quyết tâm bảo vệ từng tấc đất.
+ Truyền thống hiếu học, mở mang tri thức luôn được khắc ghi thông qua hình ảnh
núi bút, non Nghiên.
+ Những tên xã, tên làng, tên đường, tên phố ngày nay… đều mang một câu chuyện
lịch sử gợi nhắc chúng ta phải ghi nhớ, đó là công ơn của những người đi trước đã hi sinh
cả cuộc đời vì vận mệnh dân tộc.
- Bốn câu thơ cuối nâng ý thơ lên một tầm khái quát mới dưới nhận thức của nhà thơ: Để có
được một Đất Nước tươi đẹp vô ngần sau bốn nghìn năm là do Nhân dân đã hóa thân vào
dáng hình Đất Nước. Nhân dân chính là người đã tạo dựng, đã đặt tên, đã ghi dấu cuộc đời
mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông trên khắp mọi miền đất nước.
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
+ Hai câu thơ đầu khẳng định dáng hình của Nhân dân trong không gian Đất Nước
“trên khắp ruộng đồng gò bãi”. Bóng hình ấy của nhân dân không chỉ làm cho đất nước thêm
phần tươi đẹp àm còn mang “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”… Nghĩa là
nhân dân không chỉ góp mình tạo danh lam thắng cảnh mà còn góp vào đó những giá trị
tinh thần, là phong tục, tập quán, là truyền thống văn hóa lưu dấu tới mai sau.
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 23 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
+ Hai câu thơ cuối: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”, “núi sông ta” sở dĩ có được là
nhờ “những cuộc đời” đã hóa thân để góp nên, mà cuộc đời đó không ai khác chính là nhân
dân. Nhân dân không chỉ góp tuổi, góp tên mà con góp cả cuộc đời và số phận của mình.
- Thông qua đoạn thơ, chủ thể trữ tình bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của cảnh quan thiên
nhiên kì thú, về những truyền thóng quý báu của dân tộc; thể hiện niềm nâng niu, trân
trọng và ngưỡng mộ trước những đóng góp lớn lao của nhân dân.
Nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ Đó là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm
xúc; là sự vận dụng sáng tạo thể thơ tự do với sự biến đổi linh hoạt của âm hưởng, nhịp
điệu; của các biện pháp liệt kê, trùng điệp…
+ Nhà thơ đã khéo léo sử dụng linh hoạt chất liệu truyện kể dân gian, chất liệu văn
hóa dân tộc để sáng tạo hình ảnh và thể hiện cách cảm nhận độc đáo về đất nước; cách
triển khai ý thơ đi từ cụ thể đến khái quát phù hợp với các suy tưởng chính luận.
+ Ngôn ngữ gần gũi với đời sống mà vẫn mới mẻ; hình ảnh quen thuộc gợi mở nhiều
liên tưởng sâu sắc trong lòng độc giả.
Vấn đề 5. (18 câu thơ tiếp): Nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước, tác giả khẳng định không ai
khác, chính Nhân dân là người làm ra lịch sử, truyền thống dân tộc, làm ra ĐN.
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
⇨ Đất Nước trong bốn nghìn năm là lớp lớp thế hệ con trai, con gái tự hào xung phong gìn giữ,
bảo vệ và phát huy truyền thống dân tộc.
Nhưng em biết không
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 24 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
⇨ Không ai khác, những người dân vô danh đã sống và chết để gìn giữ Đất Nước.
Mở đầu đoạn thơ là lời gọi đầy tha thiết, nồng nàn cất lên từ đáy lòng của nhà thơ:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước.
+ Đó là lời gọi cùng nhau hướng cái nhìn về bốn nghìn năm lịch sử, nhìn vào dòng chảy
xa xăm, sâu thẳm của dân tộc trong bốn nghìn năm ông cha ta đã gìn giữ và bảo vệ ĐN.
+ Nhìn vào bốn nghìn năm để quan sát và chiêm nghiệm về công sức của Nhân dân đã
dành cho Đất Nước trong suốt thời gian dài đằng đẵng ấy.
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái ở nhà nuôi cái cùng con
+ Trong bốn nghìn năm lịch sử ấy, chúng ta tự hào về những chàng trai, cô gái đã xung
phong ra mặt trận, tự hào về tuổi trẻ Việt Nam.
+ Cách dùng từ “năm tháng nào” kết hợp cùng điệp ngữ “người người lớp lớp” cho thấy
sự đông đảo thế hệ người dân trong lịch sử, họ đã cùng nhau, thay nhau, tiếp bước nhau
làm nên Đất Nước. Mỗi lớp người là một thế hệ với vô vàn những người con gái, con trai,
tất cả đều đã từng “bằng tuổi chúng ta” bây giờ, đều đẹp đẽ, trẻ trung, đều cần cù, chịu
thương chịu khó nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác.
+ Những phẩm chất tốt đẹp của người dân cũng được “lớp lớp” người “con gái con trai”
gợi lên qua những việc làm cụ thể của họ: Đó là truyền thống “cần cù lao động”, chịu thương
chịu khó. Bên cạnh đó còn là truyền thống yêu nước thương nòi. Khi Đất Nước có ngoại
xâm, họ mang trong mình truyền thống đánh giặc, người con trai trở thành Thạch Sanh,
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 25 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Thánh Gióng, xông pha trận mạc; người con gái trở về “nuôi cái cùng con”, đảm đang gánh
vác tăng gia sản xuất, hậu phương vững vàng.
+ Không chỉ có “người con trai ra trận” mà những người mẹ Việt Nam anh hùng cũng
“giỏi việc nước, đảm việc nhà” với truyền thống “giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh” làm ta
nhớ đến chị Út Tịch, chị Võ Thị Sáu...
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
+ Và cũng chính từ “lớp lớp người con gái con trai” đã xông pha mặt trận để trở thành
anh hùng, anh hùng trong công cuộc gìn giữ và bảo vệ Đất Nước.
+ Cả một đoạn thơ xuyên suốt chiều dài bốn nghìn năm lịch sử đất nước nhưng ta
không hề thấy xuất hiện một tên riêng của bất kì ai hay một thời đại nào, chỉ thấy điểm
chung các thế hệ. Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lừng lẫy đã có Tổ quốc
lưu danh, còn sự đóng góp của Nhân dân thì vô cùng vô hạn, là thầm lặng lớn lao, họ đã
lặng lẽ hiến dâng tất cả cho Đất Nước từ mồ hôi, xương máu đến tâm hồn, trí tuệ thì làm
sao có thể kể xiết!
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
+ Nhà thơ NKĐ nhấn mạnh: Nhân dân – họ là những con người vô danh tươi đẹp vô
ngần. Đó là tuổi trẻ, điệp ngữ “con gái, con trai” được lặp đi lặp lại trong mười tám dòng
thơ như một cách nhấn mạnh vẻ đẹp của thế hệ trẻ đã xả thân vì non sông đất nước.
+ “Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và
đối với cách nhìn nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì đó chính là lớp lớp thế hệ “con
gái, con trai” trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, đó là nhân dân, những lớp người
thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông đảo…
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
+ Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đề cập đến cách sống, cách nghĩ và khẳng định
công lao của Nhân dân. Nhân dân trong cách sống “giản dị”, và cách nghĩ rất “bình tâm”.
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 26 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
+ Bởi họ là những con người chân chất, thuần phác, đơn sơ, cần cù làm lụng trên những
mảnh ruộng cằn cỗi biễn chúng thành hoa thơm; họ là những người khi đất nước có ngoại
xâm, họ xung phong ra trận mạc, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi hết giặc, họ trở về với
cuộc sống thường nhật, bình tâm, thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, cứ lặng lẽ
“gánh vác phần người đi trước để lại – dặn dò con cháu chuyện mai sau”.
+ Tất cả họ đều vô danh “không ai nhớ mặt đặt tên – nhưng họ đã làm ra Đất Nước”, mỗi
người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của đời mình luôn có một phần đóng góp dù là
nhỏ bé để dựng nước hoặc giữ nước, hoặc phát triển hoặc để đất nước trường tồn.
+ Chính những đóng góp giản đơn nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ
đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con ngươi lại làm
nên sự trường tồn vô hạn của Đất Nước.
Nội dung 6: Đất Nước của Nhân dân – những người làm ra và lưu giữ ngôn ngữ, văn hóa, đời
sống tinh thần, ca dao thần thoại…
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
⇨ Nhân dân chính là người tạo dựng và lưu truyền ngôn ngữ, văn hóa, những giá trị trong đời
sống tinh thần.
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
⇨ Nhân dân chính là người tạo dựng nên ca dao dân ca, ca dao thần thoại, cổ tích.
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 27 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
⇨ Khúc ca dao thần thoại vang ca khắp mọi miền, ngân dài trong dáng hình Đất Nước.
Không chỉ là những con người vô danh bình dị, cống hiến cả cuộc đời mình cho Đất Nước,
mà Nhân dân còn giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh,
tinh thần và vật chất của Đất Nước.
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
+ Điệp đại từ “họ” mang đến cảm giác đông đảo, và đúng là như vậy vì quần chúng
Nhân dân không thể và không bao giờ có thể là một cá nhân nào đó.
+ Những câu thơ kết hợp với hệ thống các động từ mang tính chất lưu truyền “giữ…
truyền…” hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi
con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước. Đó là “gánh vác” việc thế hệ
trước giao phó, gìn giữ, duy trì và phát triển để rồi “dặn dò con cháu” nối tiếp.
+ Sau những động từ “giữ… truyền… gánh… đắp… be…” là những hình ảnh hữu hình
như “hạt lúa… lửa… hòn than…” hoặc vô hình “giọng điệu… tiếng nói… tên xã… tên làng…”, tất
cả đều là những giá trị tinh thần hoặc vật chất để làm nên Đất Nước và gắn bó mật thiết
với cuộc sống hàng ngày của Nhân dân.
Nhân dân đã lưu truyền nền văn minh lúa nước:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh lúa nước, nhân dân ta bao đời
nay sống bằng nghề trồng lúa. “Hạt lúa” – chính là thứ hạt ngọc chắt chiu tinh hoa của đất
trời, là kết quả của quá trình “một nắng hai sương”, “dãi nắng dầm mưa” của bao thế hệ. Nay
nó đã trở thành biểu tượng văn hóa đầy tự hào, trở thành biểu tượng cho truyền thống lao
động cần cù của người nông dân.
Nhân dân đã lưu truyền đời sống tinh thần:
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 28 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
+ Lửa chính là nguồn sống, ánh lửa hướng ta đến cuộc sống thịnh vượng, ấm no, hạnh
phúc, sung túc sum vầy… (Phân tích mở rộng: nghe hướng dẫn trong bài giảng)
+ Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân dân, trong sự vận động và phát triển theo
dòng lịch sử, là sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống mưu sinh hoặc khai
hoang bờ cõi… Trong những “chuyến di dân” như vậy, Nhân dân không chỉ mang theo đồ
đặc, lương thực mà còn “gánh” theo những giá trị tinh thần thiêng liêng, quí báu.
+ Động từ “gánh” làm cho tên xã, tên làng bỗng trở nên cụ thể và gợi cho ta nhớ về
những phong tục tập quán, những vùng đất với những cái tên mang thân thuộc.
Nhân dân còn xây dựng nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp:
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
+ Những cụm động từ “đắp đập”, “be bờ” gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc
hơn, đầy là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước dành cho con
cháu đời sau.
+ Câu thơ có cấu tứ tiểu vế giữa hai thế hệ “đời trước – đời sau” và tính chất công việc
“chuẩn bị - hưởng thụ” đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước:
Họ sẵn sàng và chấp nhận vất vả, lo lắng, làm lụng không mong muốn hưởng thụ nhưng
vẫn rất thanh thản, bình dị, mãn nguyện trong công việc với niềm tin con cháu hưởng
phúc, sung sướng, âm no từ sự hi sinh của họ.
+ Từ đó, tác giả còn nhắc nhở chúng ta về đạo lý: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước
nhớ nguồn”… Hưởng thụ thành quả ngày hôm nay phải nhớ đến công sức những con người
đã hi sinh cả cuộc đời mình, đã dày công vun đắp trái thơm quả ngọt cho ta hưởng thụ ngày
hôm nay.
Nhân dân đã lưu truyền ngôn ngữ, giọng điệu:
Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói
+ Tiếng nói là của cải tinh thần cũng là vật chất vô giá, là phương tiện giao tiếp quan
trọng nhất của cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản
sắc văn hóa của một dân tộc.
+ Và có ngôn ngữu, có tiếng nói là có sự khẳng định văn hóa riêng. Tiếng nói, giọng
điệu, ngôn ngữ ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm Bắc
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 29 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp tất cả những
âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược.
+ Giọng điệu, ngôn ngữ ta sử dụng ngày hôm nay, là tiếng nói của dân tộc là nhờ vào
công sức và tấm lòng của Nhân dân từ bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của
mẹ, qua những lời ca, câu ví dân gian, trong thế giới của những câu truyện cổ tích…
Mạch cảm xúc đầy suy ngẫm mang tính triết lý của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nhắn gửi
cứ thế dồn tụ đến cuối đoạn trích khiến độc giả càng đọc càng thích thú, càng đọc càng
thấy thấm thía tư tưởng “Đất Nước Nhân Dân – Đất Nước của ca dao thần thoại”:
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
+ Những danh từ chung “Đất Nước”, “Nhân dân” cũng trở thành danh từ riêng và được
viết hoa một cách trang trọng, và được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ cho thấy sự gắn
bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước.
+ Sau những vầng thơ ngọt ngào nêu rõ vai trò của Nhân dân, khẳng định công lao to
lớn của Nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ “Để Đất Nước này là Đất
Nước Nhân dân” đã giúp nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lý giải sâu sắc và thấm thía hơn tư
tưởng chủ đạo xuyên suốt toàn bài.
+ Không phải ngẫu nhiên mà từ đầu đến cuối đoạn trích, rất nhiều lần nhà trí thức tài
hoa của chúng ta lại nhắc nhiều đến ca dao thần thoại gắn với Nhân dân như vậy. Phải
chăng, đó là lời gợi mở cho ý thơ: “Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại”.
+ “Ca dao thần thoại” có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn hóa
dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm
hồn, tính cách của Nhân dân. Văn học dân gian do Nhân dân sáng tạo nên và nó là sản
phẩm phản ánh cuộc sống của Nhân dân.
+ Chính vì vậy, nhà thơ thể hiện tư tưởng “Đất Nước Nhân dân” là hoàn toàn có căn cứ
và là căn cứ không thể tranh cãi được bởi Đất Nước được tạo dựng, được gìn giữ, bảo vệ,
tồn tại và phát triển… là từ tình yêu và nỗi đau, từ mồ hôi, nước mắt, từ tính mạng và máu
xương của vô vàn những con người thầm lặng dâng hiến.
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 30 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Qua “ca dao thần thoại”, Nhân dân đã đem đến và lưu truyền cho biết bao thế hệ những
bài học đạo lí sâu sắc nhằm răn dạy chúng ta phải biết yêu thương, che chở, đùm bọc, cưu
mang lẫn nhau; biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết ở hiền gặp lành, tránh xa cái ác,
hướng tới điều thiện; biết kiên nhẫn phục thù, biết học cách làm người sao cho phải đạo….
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
+ Đây là phương diện đầu tiên nhà thơ muốn chúng ta khắc ghi, đó là tình cảm thủy
chung son sắt giữa con người với con người trong mọi mối quan hệ.
+ Ý thơ được lấy từ câu ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi – Em nằm em khóc anh ngồi
anh ru”, ý thơ khẳng định tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đong đếm được.
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
+ Phương diện thứ hai nhà thơ đề cập đến là tình nghĩa giữa con người với con người,
bởi nó là thứ nặng hơn nhiều lần mọi giá trị vật chất.
+ Quan niệm này được lấy từ ý ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông – Vàng rơi không tiếc,
tiếc công cầm vàng”. Ở đây chính là quan niệm sống đẹp mà Nhân dân muốn gửi gắm thông
qua những câu ca dao ngọt ngào, sâu lắng được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bởi
ca dao đã “dạy anh biết”: Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa.
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
+ Ý thơ lấy từ câu ca dao: “Thù này ắt hẳn còn lâu – Trồng tre thành gậy, gặp đâu đánh
què”, lại một lần nữa ta bắt gặp hình ảnh cây tre Việt Nam không chỉ mang cốt cách tâm
hồn người dân Việt mà còn luôn gắn bó với công cuộc gìn giữ đất nước.
+ Đánh giặc ngoại xâm bảo vệ non sông đất nước là truyền thống quý báu của dân tộc
ta, và với một người sâu sắc như nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm thì ông không thể quên thể
hiện điều đó trong ý thơ của mình. Và đó cũng là phương diện thứ ba mà Nhân dân đã dạy
ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu.
+ Ý thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của Nhân dân trong
công cuộc gìn giữ Đất Nước. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn
ngoại xâm, cuộc chiến nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, hàng
nghìn năm… Thử hỏi nếu không có kiên trì, bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt thì dân
tộc ta có thể vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát hi sinh đến ngày toàn thắng không?
____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 31 -
♥ TÀI LIỆU CÔ TRẦN THÙY DƯƠNG ♥
——————————————————————————————————————————————
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
+ Ý thơ gợi cho ta hình ảnh về những dòng sông, những dòng sông không biết bắt đầu
từ đâu, từ bến bờ nào nhưng khi đã chảy vào mảnh đất cong cong hình chữ S này sẽ hòa
chung một câu hát, một điệu hò.
+ Ý thơ này làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt
ngào trên sông Hương hay những âm thanh tha thiết của những câu hò ví dặm trên sông
Lam và cả những tiếng hò sâu lắng của những người “chèo đò, kéo thuyền vượt thác” trên
dòng sông khúc thượng nguồn vùng núi Tây Bắc… Đó là tiếng hát được lưu truyền từ đời
này sang đời khác, nó thể hiện tình yêu cuộc sống trong lao động, tình yêu quê hương đất
nước sâu đậm, cùng với đó là tinh thần lạc quan giúp chúng ta vững tin vào ngày mai.
+ “Dòng sông” ở đây có thể hiểu là dòng sông văn hóa, dòng chảy lịch sử. Và đó cũng
là sự hợp thành của dòng máu 54 dân tộc anh em. Dòng sông đó “trăm màu, trăm dáng” như
sự đa dạng và phong phú trong văn hóa của người người dân Việt Nam đã vun đắp phù sa
qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một Đất Nước đậm đà bản sắc dân tộc.

____________________________________________________________________________________________
- Tài liệu lưu hành nội bộ | Trang 32 -

You might also like