- Vẫn nổi bật hình ảnh ông đồ với mực tàu, giấy đỏ bên hè phố ngày Tết, nhưng tất cả đã khác xưa. Ông đồ “vẫn ngồi đấy”, giữa phố xá đông người qua lại nhưng lẻ loi, lạc lõng, không ai biết, không ai hay. - Biện pháp nhân hóa: “Giấy đỏ buồn không thắm Mực đọng trong nghiên sầu” Đã nói lên một cách thấm thía nhất, đắt nhất nỗi buồn tủi, xót xa của nhà nho buổi thất thế. Nỗi buồn tủi thấm đẫm lên cả những vật vô tri, vô giác. Ông đồ “ngồi đấy” chứng kiến và nếm trải tấn bi kịch của cả một thế hệ. Đó là sự tàn tạ suy sụp hoàn toàn của nền Nho học. - Biện pháp tả cảnh ngụ tình: không gian ảm đạm, thê lương, cảnh vật tàn tạ. 3. Khổ thơ cuối: Ông đồ “người muôn năm cũ”. - Hoa đào vẫn nở, Tết vẫn đến, quy luật thiên nhiên vẫn tuần hoàn nhưng người thì không thấy nữa: “Không thấy ông đồ xưa”. Tứ thơ: cảnh cũ còn đó, người xưa ở đâu và hình ảnh “người muôn năm cũ” gợi lên trong lòng người đọc niềm thương cảm, tiếc thương vô hạn. - “Người muôn năm cũ”, trước tiên là các thế hệ nhà nho và sau đó còn là “bao nhiêu người thuê viết” thời đó. Vì vậy, “hồn” ở đây vừa là hồn của các nhà nho, vừa là linh hồn của nét sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp đã từng gắn bó thân thiết với đời sống của người Việt Nam hàng trăm nghìn năm qua. - Hai câu thơ cuối là câu hỏi nhưng không để hỏi mà như một lời tự vấn. Dấu chấm hỏi đặt ở cuối bài thơ rơi vào im lặng mênh mông nhưng từ đó dội lên bao nhiêu nỗi niềm. Đó là nỗi day dứt, tiếc nhớ, thương xót ngậm ngùi của tác giả và cũng là của cả một thế hệ các nhà thơ Mới. Đó là nỗi mong ước tìm gặp lại vẻ đẹp của một thời đã qua. III. TỔNG KẾT 1. Nội dung: - Bài thơ thể hiện sự trân trọng với một lớp người tài hoa, nghệ sĩ. - Bài thơ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm cảm thương, tiếc nuối của tác giả với một lớp người, một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. 2. Nghệ thuật: - Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng, khai thác của hiệu quả nghệ thuật cao. - Kết cấu đầu cuối tương ứng, góp phần làm nổi bật chủ đề của bài thơ: thể hiện tình cảnh thất thế, tàn tạ, đáng buồn của ông đồ, sự sụp đổ của nền Nho học, sự mai một của một giá trị văn hóa cổ truyền. - Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, đồng thời hàm súc, dư ba. ÔNG ĐỒ (Vũ Đình Liên) Câu 1. - Hình ảnh ông đồ ngồi viết chữ Nho ngày Tết trong 2 khổ thơ đầu: + Không gian: Phố đông người qua. + Thời gian: Tết đến, xuân về. + Nét bút: “như phượng múa rồng bay”. + Thái độ mọi người: chen chúc xin chữ, tấm tắc khen ngợi - Hình ảnh ông đồ khổ 3 và 4: + Không gian: mỗi năm mỗi vắng + Thời gian: Tết đến, xuân về + Nét bút: không còn cùng ông thảo những nét “phượng múa rồng bay” mà “Giấy đỏ buồn không thắm/Mực đọng trong nghiên sầu”. + Thái độ của mọi người: Vắng vẻ, thưa thớt dần => Tình cảnh của ông đồ: Ông đồ và nét chữ của ông trở thành tâm điểm của này Tết. Khi ấy, ông được tôn vinh và tục xin chữ ngày Tết trở thành một nét văn hóa đẹp vào ngày Tết. Nhưng dần dần, ông đồ và thú vui chơi chữ ấy đã bị lãng quên và đang bị vùi lấp bởi những giá trị khác. Câu 2. Tâm tư của nhà thơ thể hiện qua bài thơ: Nỗi niềm tiếc nuối, cảm thương chân thành trước lớp người đang tàn tạ và nỗi tiếc nhớ cảnh cũ người xưa của nhà thơ. Câu 3. Những điểm hay của bài thơ: - Cách dựng cảnh tương phản: Thời đắc ý và thời lụi làn. - Kết cấu đầu cuối tương ứng: Vẫn là thời gian ngày tết, hoa đào nở, không gian đường phố quen thuộc. Nhưng hình ảnh ông đồ cứ nhạt nhòa dần. Cuối cùng rơi vào quên lãng. - Bài thơ làm theo thể năm chữ: Ngôn ngữ giản gị mà cô đọng, nhiều dư vị Câu 4. Phân tích để làm rõ cái hay của những câu thơ sau: - “Giấy đỏ buồn không thắm; Mực đọng trong nghiên sầu” ... “Lá vàng rơi trên giấy Ngoài trơi mưa bụi bay” Đây là những câu thơ tả cảnh ngụ tình. Hai câu thơ trên, “giấy đỏ, mực” như người bạn theo ông đồ qua thời huy hoàng, bây giờ cũng buồn như thân phận của ông. Hai câu sau, cảnh vật hiu hắt, vắng vẻ, bởi lòng người buồn, một quá khứ đẹp đẽ đã đi qua.