Professional Documents
Culture Documents
(123doc) Nghien Cuu Dac Diem Lam Sang Can Lam Sang Va Hinh Anh Sieu Am Gan o Benh Nhan Gut
(123doc) Nghien Cuu Dac Diem Lam Sang Can Lam Sang Va Hinh Anh Sieu Am Gan o Benh Nhan Gut
ĐẶT VẤN ĐỀ
Gút là bệnh khớp vi tinh thể, do rối loạn chuyển hóa các nhân purin, có
đặc điểm chính là tăng acid uric máu, gây lắng đọng tinh thể monosodium
urat (MSU) ở các mô[3]. Bệnh gây ra nhiều đau đớn và có thể có những biến
chứng nặng nề. bệnh gặp chủ yếu ở nam giới tuổi trung niên và một số có tính
chất gia đình. Bệnh có xu hướng ngày càng gia tăng cùng với sự cải thiện chất
lượng đời sống.
Theo nghiên cứu ở Anh tỷ lệ người mắc bệnh gút tăng từ 0,14% năm
1975 lên 1,4% năm 2005 [12]. Tại Việt Nam trong giai đoạn 1978-1989 tỷ lệ
bệnh gút chiếm 1,5% các bệnh cơ xương khớp và theo một nghiên cứu về mô
hình bệnh tật tại khoa cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai trong 10 năm từ
1991-2000 thì tỷ lệ gút chiếm tỷ lệ 8,75%[10].
Chẩn đoán bệnh gút hiện nay tại Viêt Nam thường sử dụng tiêu chuẩn
Bennet và Wood 1968, chủ yếu dựa vào đặc điểm cơn gút cấp và sự xuất hiện
hạt tophi. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định bệnh gút là tìm thấy tinh
thể urat trong dịch khớp hoặc trong hạt tophi. Tuy nhiên ở Việt Nam, đặc biệt
ở các tuyến cơ sở việc chọc hút tìm tinh thể urat rất khó nên chẩn đoán chủ
yếu dựa vào các tiêu chuẩn lâm sàng. Trong những năm gần đây các phương
pháp chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là siêu âm, rất có giá trị chẩn đoán bệnh
gút. Gần đây đã có một vài nghiên cứu chỉ ra rằng có biểu hiệu của bệnh gút
ngoài khớp là tổn thương viêm gân khá thường gặp và nhiều khi là dấu hiệu
sớm của bệnh[33].
Năm 2011, trong nghiên cứu của Carlos Pineda và công sự đã phát hiện
tổn thương gân trên siêu âm của các cá thể có tăng acid uric máu.
2
Ở Việt Nam đã có các nghiên cứu về siêu âm trong bệnh gút, tuy nhiên
chưa có nghiên cứu nào về siêu âm gân trong chẩn đoán bệnh gút giai đoạn sớm.
Với mục đích hỗ trợ cho việc chẩn đoán bệnh gút không điển hình giai đoạn
sớm, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng,
cận lâm sàng và hình ảnh siêu âm gân ở bệnh nhân gút” với hai mục tiêu:
1. X ác đ ịnh tỷ lệ viêm gân và mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và
hình ảnh siêu âm gân ở bệnh nhân gút
2. Khảo sát mối liên quan giữa các đặc điểm siêu âm gân với đặc điểm
lâm sàng trong bệnh gút.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
mg/dl và 4,9% với acid uric máu > 9 mg/dl. Bệnh thường gặp ở nam giới tuổi
trung niên, đỉnh khởi phát là 50 tuổi. Hơn 90% mắc bệnh gút nguyên phát là
nam giới. Ít gặp nữ giới mắc bệnh ở độ tuổi trước thời kỳ mãn kinh bởi
Estrogen được cho rằng làm tăng bài tiết acid uric [13].
Ở Việt Nam, nghiên cứu dịch tễ do chương trình hướng cộng đồng
kiểm soát các bệnh xương khớp của Tổ chức Y tế thế giới và hội Thấp khớp
học châu Á Thái Bình Dương (COPCORD) tiến hành bước đầu ở một số tỉnh
miền Bắc vào năm 2000 cho thấy tỷ lệ bệnh gút là 0,14% dân số [14].
1.1.3. Phân loại bệnh gút
1.1.3.1. Tăng acid uric máu
Tăng acid uric máu khi nồng độ AU vượt quá giới hạn tối đa của độ
hòa tan của urat trong huyết thanh
- Nam > 7,0mg/l (>420µmol/l)
- Nữ >6,0mg/l (>360µmol/l)
Tăng acid uric máu thường gặp với tỷ lệ dao động từ 2,6% đến 47,2%
trong các quần thể dân chúng khác nhau. Ở người trưởng thành, nồng độ urat
huyết thanh liên quan chặt chẽ với nồng độ ure, creatinin máu, khối lượng cơ
thể, chiều cao, tuổi, huyết áp và uống rượu. Cơ chế của nồng độ urat huyết
tương ở nữ thấp hơn ở nam là do tác dụng của hormon giới tính gây giảm tái
hấp thu urat ở ống thận, làm tăng bài tiết nhiều urat qua nước tiểu [3].
a. Gút nguyên phát
Đa số các trường hợp là bệnh gút nguyên phát chiếm >95% các trường
hợp tăng acid uric máu và gút.
Nguyên nhân còn chưa rõ. Loại này có tính chất gia đình. Khởi phát
thường do chế độ ăn quá nhiều đạm và uống nhiều rượu. Tăng sản xuất acid
uric chiếm 10% các trường hợp, 90% còn lại là do giảm bài tiết acid uric qua
ống thận, trong khi việc tạo acid uric là bình thường.
5
- Tăng acid uric và các rối loạn chuyển hóa khác: tăng Glucose máu,
rối loạn Lipid máu là các bệnh rối loạn chuyển hóa thường kết hợp với bệnh
gút. Tăng Cholesterol gặp trong khoảng 20% bệnh nhân gút, tăng Triglyceride
máu lên tới 40%.
- Yếu tố gia đình: có thể có yếu tố gen nào đó chưa được phát hiện
hoặc do thói quen sinh hoạt, chế độ ăn uống giống nhau trong gia đình.
- Thuốc: dùng kéo dài một số thuốc ảnh hưởng đến tăng tổng hợp hoặc
giảm thải acid uric dẫn đến tăng acid uric máu. Nhóm này gồm các thuốc: thuốc
lợi tiểu (Thiazid, Furosemid), Aspirin, thuốc chống lao (Pyrazynamid,
ethambutol),...
- Các bệnh lý liên quan
Một số các bệnh mạn tính có liên quan đến bệnh gút và tăng acid uric
máu, trong đó hay gặp là bệnh thận. Hầu hết tổn thương thận ở bệnh nhân
bệnh gút tiên phát là xơ hóa thận do tăng huyết áp. Tuy nhiên, tăng acid uric
máu có thể là nguyên nhân trực tiếp trong tiến triển của bệnh thận và tăng
huyết áp.
1.2. Bệnh nguyên
Sự xuất hiện bệnh gút có xu hướng liên quan với tình trạng tăng acid
uric máu mạn tính. Tuy nhiên chỉ có khoảng 25% các trường hợp tăng acid
uric máu sẽ dẫn đến bệnh gút. Con người là một trong số ít loài có men
uricase không hoạt động, kết quả là tăng nồng độ acid uric máu. Acid uric
máu bảo vệ cơ thể chống lại quá trình thoái hóa bằng cách hoạt động tương tự
chất chống oxy hóa. Khi nồng độ urat cao và trong các điều kiện nhất định sẽ
kết tủa thành các tinh thể MSU và khi những tinh thể này lắng đọng trong bao
hoạt dịch, dịch khớp hoặc các mô khác có thể dẫn đến bệnh gút. Do vậy, có
thể nói nguyên nhân chính gây bệnh gút là hậu quả của tình trạng acid uric
máu cao. Và vi tinh thể urat có vai trò chính trong cơ chế bệnh sinh của bệnh
gút [3].
7
Được gọi là tăng acid uric máu khi nồng độ acid uric vượt quá giới hạn
tối đa của độ hòa tan của urat trong dung dịch có cùng nồng độ natri như
huyết tương, cụ thể là: >7 mg/dl (420 mol/l) đối với nam giới và >6 mg/dl
(360 mol/l) đối với nữ giới [3], [15].
Các nguyên nhân gây tăng acid uric máu:
- Do rối loạn chuyển hóa một số enzyme tham gia vào quá trình chuyển
hóa acid uric. Thực ra, các rối loạn này hiếm gặp và thường dẫn đến các chứng
tăng acid uric bẩm sinh. Đó là sự thiếu hụt enzyme hypoxanthin phosphoribosyl
transferase (HPRT) hoặc tăng hoạt tính của enzyme phosphoribosyl-
pyrophosphat-synthetase (PRPP) dẫn đến tăng tổng hợp purine.
- Do tăng dị hóa các acid nhân nội sinh (tiêu tế bào)
- Do giảm thải trừ acid uric máu (nguyên nhân do suy thận)
Tuy nhiên, đa số các trường hợp mắc bệnh gút lại là gút nguyên phát.
Tình trạng tăng acid uric máu ở gút nguyên phát xảy ra do một bất thường nào
đó còn chưa rõ, mà nguồn thức ăn làm nặng thêm [3].
1.3. Cơ chế bệnh sinh
1.3.1. Cơ chế viêm khớp trong bệnh gút
Ở nồng độ dưới 7,0 mg/dl (420 mol/l) và pH bằng 7,4 acid uric gần
như hòa tan hoàn toàn dưới dạng ion dương urat. Khi nồng độ acid uric trong
máu lớn hơn 7,0 mg/dl, vượt quá nồng độ hòa tan tối đa, urat kết tủa thành
các vi tinh thể MSU [16].
Các yếu tố có vai trò trong đáp ứng viêm với vi tinh thể vẫn chưa được
hoàn toàn hiểu rõ. Tinh thể urat có thể trực tiếp làm khởi phát, phóng đại và duy
trì một đáp ứng viêm mạnh, gọi là cơn gút cấp, bởi vì nó có khả năng kích hoạt
thành phần viêm dịch thể và tế bào. Con đường gây viêm do tinh thể MSU như
sau: Đầu tiên tinh thể urat được phóng thích vào trong khoang khớp, gây kích
8
thích lớp màng hoạt dịch. Khả năng gây viêm của tinh thể liên quan đến khả
năng gắn vào các Immunoglobulin và Protein, đặc biệt là bổ thể và
Lipoprotein. Phức hợp này gắn vào cơ quan thụ cảm ở bề mặt đại thực bào và
dưỡng bào, dẫn đến hoạt hóa và giải phóng các cytokin, yếu tố hóa học và các
hoạt chất trung gian khác:
- Từ phản ứng viêm các bạch cầu sẽ tập trung tới, bạch cầu sẽ thực bào
các vi tinh thể urat rồi giải phóng các men tiêu thể của bạch cầu (lysozyme).
Các men này cũng là một tác nhân gây viêm rất mạnh.
- Phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh
nhiều acid lactic tại chỗ và làm giảm độ pH, môi trường càng toan thì urat
càng lắng đọng nhiều và phản ứng viêm ở đây trở thành một vòng xoắn bệnh
lý kéo dài liên tục [3].
Như đã biết từ nhiều năm nay, tinh thể urat kích thích bạch cầu mono
và đại thực bào bài tiết IL-1b [17]. Tuy nhiên, cho đến thời gian gần đây vai
trò quan trọng của IL-1b trong pha khởi phát và khuếch đại cơn gút cấp mới
được chứng minh. Yếu tố gây viêm NALP3 (cryopyrin) là một phức hợp
protein nội bào được hoạt hóa khi tiếp xúc với các kháng nguyên lạ như RNA
của vi khuẩn, chất độc, MSU,...[18]. Khi NALP3 hoạt hóa sẽ giải phóng
Caspase-1, cần cho việc phân cắt Pro IL-1 thành dạng hoạt động của IL-1.
Một báo cáo gần đây đã chỉ ra rằng NALP3 là yếu tố gây viêm cần thiết khởi
phát cơn gút cấp [34]. Một điều thú vị là Colchicine, một loại thuốc đặc hiệu
trong điều trị và phòng ngừa cơn gút cấp, có khả năng ức chế sự tạo thành IL-
1b do tinh thể urat trên thực nghiệm.
1.3.2. Sự hồi phục tự phát
Nếu không được điều trị, cơn gút cấp điển hình sẽ tự hồi phục sau 1-2
tuần. Có nhiều cơ chế feedback có xu hướng hạn chế phản ứng viêm như: bất
9
hoạt các yếu tố trung gian hóa học gây viêm, bất hoạt các tế bào gây viêm
hoặc các tế bào gây viêm chết, sự điều hòa các yếu tố trung gian chống viêm
như TGF - beta (transforming growth factor - beta), IL-1 RA (IL -1 receptor
antagonist), PPAR gama (peroxisome proliferator - activated receptor gama)
[19], [20]. Các tinh thể urat bị hòa tan bởi các sản phẩm của các tế bào thực
bào như superoxide cũng có tác dụng kìm hãm phản ứng viêm [21]. Tuy
nhiên sự hồi phục của cơn gút cấp thậm chí có thể xảy ra khi vẫn có mặt của
tinh thể urat. Thực ra, các sản phẩm do bạch cầu trung tính tiết ra ngăn cản
việc các IgG gắn với MSU do đó làm giảm phản ứng viêm [22]. Một yếu tố
quan trọng hơn có lẽ là do tăng apolipoprotein B (ApoB) chống viêm gắn với
MSU trong quá trình xảy ra cơn gút cấp [23].
Ở một số bệnh nhân gút tăng acid uric máu trong thời gian dài sẽ dẫn
đến hình thành hạt tôphi và hiện tượng hủy xương do lắng đọng tinh thể urat.
RANKL (Receptor Activator for Nuclear factor K B Ligand) và OPGL
(Osteoprotegrein Ligand) là các phân tử protein có trên bề mặt tế bào tạo
xương, cần thiết cho việc hoạt hóa tế bào hủy xương. Bất cứ hiện tượng nào
làm tăng sản xuất RANKL sẽ làm tăng tình trạng hủy xương. MSU không
trực tiếp kích thích tạo ra các tế bào hủy xương nhưng làm thay đổi cân bằng
RANKL / OPG trong tế bào đệm. Từ đó, các bạch cầu đơn nhân trong máu
ngoại vi của bệnh nhân gút có khả năng tạo ra các tế bào giống tế bào hủy
xương khi bị kích thích bởi RANKL và M-CSF. Một lượng lớn các tế bào này
được phân lập từ dịch khớp gối của bệnh nhân gút. Ngoài ra, còn có nhiều tế
bào giống tế bào hủy xương được tìm thấy trong hạt tôphi và giữa mô mềm và
xương. Tình trạng lắng đọng urat tại xương (hạt tôphi tại xương) cũng là một
nguyên nhân gây nên hình ảnh bào mòn xương [24].
10
Diễn biến tự nhiên của bệnh gút tiến triển qua ba giai đoạn [29]
1.4.2. Tăng acid uric không triệu chứng
Thời gian tăng acid uric máu đến khi xuất hiện cơn gút cấp là khoảng
10-30 năm, chưa có bằng chứng chứng tỏ có sự tổn thương của bất kỳ cơ
quan nào trong giai đoạn này. Tuy nhiên tại sao và khi nào cơn gút đầu tiên
xảy ra vẫn chưa được sáng tỏ [3].
11
- Hoàn cảnh xuất hiện: cơn xuất hiện tự phát hoặc sau một bữa ăn nhiều
chất đạm hoặc uống rượu quá mức, một chấn thương, một can thiệp phẫu
thuật, một đợt dùng thuốc: Aspirin, thuốc lợi tiểu (Thiazid hoặc Furosemid),
thuốc chống lao, thuốc gây hủy tế bào.
Tiền triệu
+ Rối loạn thần kinh: đau đầu, trạng thái kích thích, mệt mỏi
+ Rối loạn tiêu hóa: đau thượng vị, táo bón, ợ hơi
+ Đặc biệt là các triệu chứng tại chỗ: khó cử động chi dưới, nổi tĩnh
mạch, tê bì ngón chân cái
- Thời điểm khởi phát: cơn thường khởi phát đột ngột vào nửa đêm
- Tính chất: khớp đau dữ dội, bỏng rát, thường xuyên đau đến cực độ,
mất ngủ, tăng cảm giác đau của da. Đau chủ yếu về đêm, ban ngày có giảm
đau. Thường kèm theo cảm giác mệt mỏi đôi khi sốt 38-38,50C có thể kèm rét
12
run, đau tăng về đêm trong 5-6 đêm tiếp theo đó, ban ngày đau giảm dần có
thể hết đau hoàn toàn vào ban ngày.
- Triệu chứng thực thể: khớp bị tổn thương sưng, nóng, đỏ. Nếu là khớp
lớn thường kèm tràn dịch, khớp nhỏ thường phù nề.
- Đáp ứng với điều trị: nhạy cảm với Colchicin, các triệu chứng viêm
thuyên giảm hoàn toàn sau 48 giờ.
Có thể gặp béo phì, tăng huyết áp, đái tháo đường, tiền sử cơn đau quặn
thận, tiền sử dùng thuốc (các thuốc có thể làm khởi phát cơn đau kể trên), tiền
sử gia đình bị bệnh gút.
Khá thường gặp. Do vị trí tổn thương và đặc điểm của thể này mà vấn
đề chẩn đoán phân biệt phải đặt ra.
- Biểu hiện cạnh khớp cấp tính: biểu hiện chính là viêm gân do gút do sự
lắng đọng các tinh thể MSU ở gân. Nhiều khi đây là triệu chứng sớm của
bệnh mà nếu không chú ý thì sẽ dễ chẩn đoán nhầm với các loại viêm gân
khác. Về triệu chứng lâm sàng bệnh nhân có biểu hiện đau tại gân, vận động
hạn chế. Khám thực thể có sưng đỏ, ấn có thể có điểm đau chói ở gân hay
điểm bám gân. Siêu âm gân có hình ảnh viêm gân, viêm túi thanh mạc, hạt
tophi ở gân hay thậm chí có thể đứt gân. Có thể biểu hiện đơn độc hoặc kèm
theo cơn gút cấp có triệu chứng khớp điển hình. Hay gặp là viêm gân achilles,
viêm túi thanh mạc khuỷu tay hoặc có thể gặp viêm tĩnh mạch.
- Biểu hiện tại chỗ chiếm ưu thế: dễ nhầm với viêm khớp nhiễm khuẩn.
- Biểu hiện tràn dịch chiếm ưu thế: thường gặp ở khớp gối, diễn biến
bán cấp, dễ nhầm với lao khớp.
13
- Biểu hiện toàn thân là chính: cơ thể suy nhược, trong khi biểu hiện
viêm tại chỗ không đáng kể
- Biểu hiện viêm nhiều khớp cấp: viêm 3-4 khớp, thường là chi dưới.
Thể này thường gặp trong giai đoạn tiến triển của bệnh.
+ Acid uric máu tăng cao: nam > 7 mg/dl (420 mol/l), nữ > 6 mg/dl
(360 mol/l).
+ Có 40% số bệnh nhân có acid uric máu bình thường trong cơn gút
cấp, cần làm lại trong nhiều ngày liên tiếp và không nên dùng thuốc hạ AU
Xác định tình trạng tăng bài tiết urat (> 600 mg/24 giờ) hay giảm thải
tương đối (< 600 mg/24 giờ).
Đặc điểm của dịch khớp trong bệnh gút là dịch khớp viêm, rất giàu tế bào
(trên 50.000 bạch cầu/1mm3), chủ yếu là bạch cầu đa nhân không thoái hóa.
Nếu phát hiện được tinh thể urat, cho phép xác định chẩn đoán cơn gút.
Đó là các tinh thể nhọn hai đầu, số lượng có thể ít hay nhiều, nằm ở trong
hoặc ngoài bạch cầu. Dưới kính hiển vi phân cực, tinh thể này phân cực rõ.
Tinh thể bị phân hủy bởi enzyme uricase.
Cần phải thăm dò tổn thương thận và chức năng thận một cách có hệ
thống: ure, creatinin máu, protein niệu 24 giờ, tế bào niệu, pH niệu, siêu âm
thận… đôi khi chỉ phát hiện được sỏi thận khi làm UIV.
Cần thăm dò lipid máu, triglyceride máu, cholesterol máu, đường máu,
đường niệu vì các rối loạn chuyển hóa này thường kết hợp.
+ Tốc độ máu lắng thường tăng cao (có thể > 100 mm giờ thứ nhất)
+ Số lượng bạch cầu tăng trong đó bạch cầu đa nhân trung tính tăng
- X quang
Giai đoạn cơn gút cấp, hình ảnh X quang khớp nói chung bình thường.
- Chụp CT năng lượng kép: đây là phương pháp có giá trị chẩn đoán
cao với độ nhạy là 82% và độ đặc hiệu là 89%. Chụp CT năng lượng kép thấy
hình ảnh lắng đọng của các tinh thể MSU [35].
lũy urat ở mô. Bệnh gút mạn tính có các biểu hiện sau: hạt tôphi, bệnh khớp
mạn tính do muối urat, bệnh thận do gút.
- Hạt tôphi
Nguồn gốc của hạt là do tích lũy tinh thể MSU kết tuả trong mô liên
kết, tăng dần sau nhiều năm, tạo thành các khối nổi lên dưới da. Hạt có thể ở
tình trạng viêm cấp: da nóng, đỏ; hoặc chảy ra chất nhão và trắng như phấn
hoặc rỉ dịch vàng. Hạt thường là nguyên nhân gây biến dạng, vô cảm và hạn
chế vận động chức năng của bàn tay và bàn chân trong trường hợp tiến triển
lâu năm và bệnh nặng.
- Tổn thương khớp mạn tính
Do tích lũy muối urat trong mô cạnh khớp, trong sụn và trong xương
+ Lâm sàng:
Tổn thương khớp xuất hiện muộn, trong thể nặng, thể tiến triển, điều trị
chưa thích đáng. Chủ yếu ở các khớp đã bị tổn thương trong cơn gút cấp. Lúc
đầu thường ở chi dưới, sau đó tổn thương thêm các khớp chi trên, đặc biệt ở
khuỷu, bàn ngón tay…dễ nhầm với viêm khớp dạng thấp
+ X quang:
Có các khuyết và hốc rất gợi ý. Có thể là một hoặc nhiều hốc, có
thể rất lớn, làm cho các xương ống của đầu ngón có dạng móc
câu. Có những khuyết xương ở xa vị trí bám của màng hoạt
dịch. Có hình ảnh tân tạo xương, đôi khi có rất nhiều gai xương.
Khe khớp hẹp.Có thể gặp hoại tử vô khuẩn đầu xương đùi kết
hợp với bệnh gút.
+ Sỏi urat: Sỏi urat thường biểu hiện lâm sàng bằng cơn đau quặn thận,
hoặc chỉ đái máu. Hiếm gặp các đợt nhiễm trùng tiết niệu. Có thể biểu hiện
bằng biến chứng tắc nghẽn (vô niệu do sỏi). Sỏi không cản quang, chỉ thấy
được trên siêu âm và UIV, thường hai bên.
+ Tổn thương thận kẽ: Tổn thương thận kẽ do bệnh gút ít gặp. Bệnh có
thể độc lập, không kết hợp với sỏi thận. Triệu chứng: protein niệu không
thường xuyên và vừa phải; đái máu, bạch cầu niệu vi thể. Toan máu có tăng
Chlor máu biểu hiện khá sớm; thường kết hợp với tăng huyết áp.
+ Suy thận: Bệnh lý thận mạn tính gây ra bởi sự lắng đọng các vi tinh
thể urat trong nhu mô và tháp thận. Tăng huyết áp, đái tháo đường, nhiễm độc
chì mạn tính và xơ vữa động mạch là những yếu tố quan trọng góp phần gây
ra biến chứng này.
a. Hoặc tìm thấy tinh thể urat trong dịch khớp hay trong các hạt tophi
+ Tiền sử hoặc hiện tại có tối thiểu hai đợt sưng đau của một khớp với
tính chất khởi phát đột ngột, sưng đau dữ dội và khỏi hoàn toàn trong vòng
hai tuần.
+ Tiền sử hoặc hiện tại có một đợt sưng đau khớp bàn ngón chân cái
với các tính chất như trên.
+ Có hạt tophi
+ Đáp ứng tốt với Colchicin (giảm viêm, giảm đau trong vòng 48 giờ)
trong tiền sử hoặc hiện tại.
17
Chẩn đoán xác định khi có tiêu chuẩn a hoặc ít nhất hai yếu tố của
tiêu chuẩn b
Hình ảnh
Phát hiện lắng đọng tinh thể urat
Siêu âm khớp: đường viền đôi Không làm 0
hoặc DECT chứng minh urat lắng Có hình bào mòn 4
đọng
Hình ảnh bào mòn trên X quang
bàn tay hoặc bàn chân
Tổng điểm ≥ 8: gút
- Viêm mô tế bào
1.5.1. Điều trị cơn gút cấp hoặc đợt cấp của gút mạn [43]
Thuốc lựa chọn hàng đầu là colchicine (trong vòng 12 giờ sau khi khởi
phát) với liều nạp 1mg sau 1 giờ sau đó bằng 0,5mg vào ngày thứ nhất và /
hoặc NSAID (cộng với thuốc ức chế bơm proton nếu cần) Corticosteroid (30-
35 mg / ngày prednisolone tương đương trong 3-5 ngày). Cần tránh
Colchicine và NSAID ở bệnh nhân suy thận nặng. Không nên dùng Colchicin
cho những bệnh nhân dùng các chất ức chế CYP3A4 mạnh như glycoprotein,
Cyclosporin hoặc Clarithromycin
Ở những bệnh nhân có chống chỉ định đối với colchicin, NSAIDs và
corticosteroid (uống và tiêm), nên xem xét các thuốc chẹn thụ thể IL-1 để
điều trị bùng phát như canakinumab hay anakinra
Kiềm hóa niệu bằng các loại nước khoáng có kiềm hoặc nước kiềm
natribicarbonat 1,4% uống khoảng 250- 500mg/ngày.
Ăn chế độ giảm đạm. Thịt ăn không quá 150g/ngày. Tránh thức ăn giàu
Purin (phủ tạng động vật, tôm, cua, cá béo, thịt bê, đậu hạt các loại..). Có thể
ăn trứng sữa, hoa quả. Ăn nhiều rau xanh, hoa quả.
Mục tiêu điều trị là duy trì nồng độ AU máu dưới 6 mg/dl (360µmol/l)
Mục tiêu thấp hơn của AU <5 mg / dL (300 μmol / L) được khuyến cáo cho
những bệnh nhân bị gút nặng (tophi, bệnh thận mãn tính, các đợt tấn công
thường xuyên).
* Các thuốc ức chế tổng hợp AU
20
Mục đích tránh các cơn gút cấp, tránh tổn thương các tạng, thường phải
đạt được nồng độ AU máu dưới 360 micromol/ l (6mg /dL).
1.5.3.1. Chế độ ăn uống và kiếm hóa nước tiểu: tuân thủ chế độ ăn uống và
kiềm hóa nước tiểu như một cơn gút cấp
Điều trị tổn thương xương khớp mạn tính do gút:
Colchicin: với mục đích tránh các cơn gút cấp tái phát. Có thể dùng kéo
dài trong nhiều tháng liền hoặc duy trì thêm một tháng kể từ ngày hết viêm
khớp. Liều mỗi ngày ½ viên colchicin 1mg.
Thuốc chống viên không Steroid: có thể dùng kết hợp với Colchicin
trong trường hợp khớp sưng đau kéo dài.
1.5.3.4. Điều trị ngoại khoa
Nội soi rửa khớp như khớp gối, khớp vai mang lại hiệu quả tốt.
Có thể phẫu thuật cắt bỏ hạt tophi trong trường hợp hạt tophi ảnh
hưởng chức năng vận động và thẩm mỹ.
1.6. Siêu âm gân trong bệnh gút
1.6.1. Giải phẫu và sinh lý của gân [39]
Gân là mô gắn cơ với xương, là mô liên kết truyền lực cơ học của cơ
đén xương. Gân kết nối chắc chắn với các sợi cơ ở một đầu và đầu kia kết nối
với xương. Gân rất khỏe, là một trong những mô mềm có độ đàn hồi cao nhất.
Sức mạnh của nó cần thiết để chống lại các áp lực do sự co cơ, là do chúng có
cấu trúc phân cấp, xếp song song, và có thành phần của các dây chằng.
Một gân bao gồm các mô liên kết dày đặc cấu tạo chủ yếu là các sợi
collagen. Các sợi collagen nguyên sinh là các đơn vị cơ bản củ gân. Các sợi
cơ bản được bó gon thành các bó sợi sơ cấp (subfasicles). Các sợi sơ cấp bó
lại thành sợi thứ cấp. Nhiều bó sợi thứ cấp tạo thành các bó sợi bậc ba. Các bó
sơ cấp, thứ cấp và bậc ba được bao quanh bởi một vỏ các mô liên kết gọi là
endotenon., tạo thuận lợi cho việc các bó trượt lên nhau trong quá trình hoạt
22
động của gân. Endotenon tiếp giáp với epitenon, lớp tinh thể của mô liên kết
bao bọc gân. Ngoài cùng là mô liên kết lỏng lẻo gọi là paratenon, cho phép
gân chuyển động ngược lại với các mô lân cận. Gân được gắn vào xương
bằng các sợi collagen liên tiếp ở trong mô xương. Tế bào sơ cấp cấu tạo nên
gân la các nguyên bào sợi có khả năng sinh soi nảy nở và tham gia tổng hợp
collagen và các thành phần ngoại bào khác.
Trong y học thường dùng hai loại đầu dò là đầu dò hình cung với tần số
thấp thường dùng để thăm dò các cơ quan ở sâu, và đầu dò phẳng với tần số
cao hơn để thăm dò các cơ quan ở phần nông. Trong các thăm dò về cơ xương
khớp thì sử dụng đầu dò phẳng có tần số 7 - 12 MHz.
1.6.3. Ứng dụng siêu âm trong cơ xương khớp
Siêu âm là phương pháp thăm dò không xâm lấn, có tính chính xác cao,
chi phí thấp, không gây nhiễm xạ, có thể thực hiện được nhiều lần nên ngày
càng được sử dụng rộng rãi trong y học nói chung và trong các bệnh lý cơ
xương khớp nói riêng.
Trong chuyên ngành cơ xương khớp siêu âm được sử dụng để phát hiện
các tổn thương:
- Tổn thương gân (viêm gân, thoái hóa, đứt gân):
Bình thường gân biểu hiện tăng âm với độ dày nhất định, thấy rõ các
thớ sợi tăng âm đồng nhất và có viền âm sắc nét liên tục, rõ ràng. Mất các tính
chất này là biểu hiện của các tổn thương như: viêm gân (gân dày hơn bình
thường, tăng hoặc giảm âm, có thể có dịch trong bao gân), đứt gân (mất tính
liên tục vỏ bao gân và các thớ sợi gân bên trong).
- Thay đổi khoang khớp (tràn dịch khớp, dày màng hoạt dịch, u sụn
màng hoạt dịch).
- Tổn thương sụn khớp (thoái hóa khớp): siêu âm có thể phát hiện mất
độ trong suốt, giảm độ nét đường viền sụn, loét trợt sụn, giảm bề dày sụn,
calci hóa.
- Tổn thương cơ (viêm cơ, áp xe cơ, sarcoma cơ)
- Tổn thương xương, màng xương (bào mòn xương, gai xương)
- Các ổ dịch khu trú như: kén màng hoạt dịch, phân biệt với các tổn
thương khác như: u mạch, u phần mềm...
24
- Các dây thần kinh ngoại vi: các đầu dò tần số cao có (20MH) cho
phép thăm dò các dây thần kinh ngoại vi.
- Tổn thương da và phần mềm dưới da.
- Siêu âm can thiệp: siêu âm còn có thể định hướng can thiệp: sinh
thiết, chọc hút dịch, tiêm nội khớp...
Các nghiên cứu về siêu âm gân trong bệnh gút
- Trên thế giới: siêu âm được ứng dụng trong cơ xương khớp từ những
năm 1978 bởi tác giả Cooperberg và cộng sự cùng với việc mô tả viêm màng
hoạt dịch khớp gối trong viêm khớp dạng thấp. Năm 1994, Cooperberg đã
ứng dụng kỹ thuật doppler năng lượng trong siêu âm bệnh lý cơ xương khớp.
Hiện nay, siêu âm với tần số cao cho phép chúng ta quan sát cấu trúc các gân,
cơ, dây chằng, màng hoạt dịch một cách dễ dàng nên được xem là một cụng
cụ quan trọng trong chẩn đoán bệnh lý cơ xương khớp [25].
Trong bệnh gút, siêu âm có thể phát hiện được hình ảnh lắng đọng tinh
thể urat tại sụn khớp ở những cơn gút cấp đầu tiên hoặc ngay cả khi chưa có
triệu chứng trên lâm sàng, biểu hiện bằng hình ảnh đường đôi. Siêu âm có thể
phát hiện sớm các biến đổi ở gân như hình ảnh viêm gân, hình ảnh hạt tophi ở
gân.
Từ năm 1981 Mahoney PG đã đưa ra một trường hợp bệnh nhân nam
49 tuổi tiền sử bị gút nhiều năm đã bị đứt gân Achilles tự phát, sau đó bệnh
nhân được phẫu thuật sửa chữa gân và đã tìm thấy hạt tophi ở gân[30]. Năm
2008 Jerome JT đã báo cáo một trường hợp tổn thương gân ít gặp do gút là
đứt gân chày trước tự phát do có hạt tophi trong gân [28].
Năm 2012 Forbess LJ và Fields TR đã có bài thuyết trình về những
biểu hiện bất thường của bệnh gút liên quan tới đầu, cổ, da, nội tạng, xương,
dây chằng, dây thần kinh và cột sống. Thậm chí dấu hiệu đầu tiên của bệnh có
thể biểu hiện ở những vị trí không điển hình này. Vì vậy cần kết hợp các hình
25
thức chẩn đoán hình ảnh để tăng khả năng phát hiện và chẳn đoán gút chính
xác [33].
Nghiên cứu của de Avila Fernandes và cộng sự năm 2010 trên 31 bệnh
nhân bị gút mãn tính về mối quan hệ giữa gân và hạt tophi cho thấy hạt tophi
nằm trong cấu trúc gân là phổ biến nhất chiếm 45% [1].
Nghiên cứu của Carlos Pineda và cộng sự năm 2011 về tổn thương gân
trên siêu âm gợi ý bệnh viêm khớp gút không triệu chứng có tăng AU máu.
Nghiên cứu được tiến hành trên 50 người tăng AU không triệu chứng và 52
người bình thường cho thấy tổn thương gân bánh chè là 12% (so với 2,9% với
p = 0,001) và gân achilles là 17% (so với 1,9% với p = 0,0007) [7].
Nghiên cứu của Chhana và cộng sự năm 2014 đã chỉ ra rằng các tinh
thể MSU trực tiếp tương tác với các nguyên bào sợi trong gân làm giảm khả
năng sống sót và chức năng cưa tế bào, góp phần làm tổn thương gân trên
những bệnh nhân gút [26].
Nghiên cứu của Ryckaert và cộng sự năm 2015 đã đưa ra một trường
hợp gút không triệu chứng nhưng lại phát hiện thấy có hạt tophi ở gân
achilles [8].
Năm 2017 Hui Lu và cộng sự đã đưa ra một trường hợp có hội chứng
ống cổ tay do gút. Đó là bệnh nhân nam 44 tuổi có tiền sử gút 10 năm, đã bị 3
đợt gút cấp. Bệnh nhân cảm thấy cánh tay bên trái nặng nề dần trong 5 năm,
1
sau đó xuất hiện tê bì và ngứa vùng ngón tay cái, ngón trỏ, ngón giữa và 2
ngón nhẫn. Bệnh nhân dùng các thuốc chống viêm NSAID 1-2 ngày thì đỡ,
thậm chí hết triệu chứng. Sau đó các biểu hiện trên lại xuất hiện lần thứ 2 thị
bệnh nhân dược làm các thăm dò kiểm tra thì phát hiện có hạt tophi ở gân gấp
chung các ngóc chèn ép vào dây thần kinh giữa. Bênh nhân đã được phẫu
thuật lấy hật tophi ra khỏi gân và các triệu chứng của hội chứng ống cổ tay
không còn nữa [31].
26
Nghiên cứu của Stewart năm 2017 trên 22 người có hạt tophi ở tổ chức
gân chi dưới thì thấy hạt tophi ở gân Achilles là phổ biến nhất (36%). Và nghiên
cứu này cũng chỉ ra rằng sự hiện diện của hạt tophi đặc biệt ở gân Achilles cs
liên quan tới việc thiếu hụt cơ và yếu cơ ở chân trên bệnh nhân gút [32].
Năm 2017 Colberg và Geffenđưa ra một trường hợp bệnh nhân nam 73
tuổi đau khớp gối (T). Chụp cổng hưởng từ khớp gối thấy nhiều phần gân
bánh chè bị rách, siêu âm gân thấy nhiều vùng giảm âm nhỏ vớ bóng cản âm
phía sau nghĩ đến hạt tophi. Sau đó bệnh nhân được sinh thiết hạt đó dưới
hướng dẫn của siêu âm thì đó là các tinh thể urat [36].
Ở Việt Nam, năm 2009, có một nghiên cứu của Phạm Ngọc Trung về
hình ảnh siêu âm khớp bàn ngón chân một trong bệnh gút. Theo tác giả này, ở
giai đoạn gút mạn tính, siêu âm phát hiện được tình trạng tình trạng lắng đọng
tinh thể urat: dấu hiệu đường đôi (100%), hạt tô phi (92,3%), khuyết xương
(92,3%) và tình trạng viêm màng hoạt dịch: dày màng hoạt dịch (95,7%), dịch
khớp (66%). Tình trạng lắng đọng tinh thể urat được phát hiện trên siêu âm tốt
hơn X quang [27]. Năm 2011 có nghiên cứu của Phạm Hoài Thu về hình ảnh
siêu âm khớp cổ chân trong bệnh gút [37]. Nghiên cứu của Hoàng Thị Quỳnh
Thơ về hình ảnh siêu âm điểm bám gân trong bệnh viêm cột sống dính khớp.
Cho đến nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá tình trạng tổn thương gân trên
bệnh nhân gút bằng siêu âm, trong khi giá trị của nó trên thế giới đã được
khẳng định và áp dụng rộng rãi. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài này với mong
muốn bước đầu mô tả các hình thái tổn thương gân ở bệnh nhân gút.
27
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Bệnh nhân được chẩn đoán gút theo tiêu chuẩn của ACR/EULAR 2015
- Bệnh nhân được chẩn đoán gút nhưng có tổn thương gân do chấn
thương, nhiễm trùng, phẫu thuật
- Địa điểm nghiên cứu: khoa cơ xương khớp bệnh viện Bạch Mai
Phương pháp thu thập số liệu: theo bệnh án mẫu ( phần phụ lục)
2.3.2. Cỡ mẫu:
28
Chọn n là số bệnh nhân gút có viêm gân là 30 bệnh nhân. Ước tính tỷ lệ
bệnh nhân gút có viêm gân khoảng 5% nên số bệnh nhân gút cần lấy là 600
bệnh nhân.
2.3.3. Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện
2.3.4. Nội dung nghiên cứu
Mỗi đối tượng nghiên cứu đều được hỏi bệnh, thăm khám và làm các
xét nghiệm theo mẫu bệnh án nghiên cứu
Quy trình cụ thể như sau:
2.3.4.1. Khai thác các triệu chứng
- Đặc điểm chung: tên, tuổi, giới, nghề nghiệp, địa chỉ
- Tiền sử:
+ Bản thân:
* Thói quen uống rượu, bia (số lượng, thời gian, loại)
* Bệnh tật: bệnh thận tiết niệu, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu
* Dùng thuốc: thiazide, furosemide, ethambutol, pyrazinamide colchicin,
allopurinol, NSAID, corticoid, thuốc đông y.
+ Gia đình: tiền sử gia đình mắc bệnh gút, tăng huyết áp, đái tháo
đường, rối loạn mỡ máu
- Chẩn đoán bệnh tại thời điểm nghiên cứu:
+ Cơn gút cấp: Vị trí tổn thương
+ Đợt cấp gút mạn:
* Có hạt tophi.
* X quang khớp có hình bào mòn xương, hốc xương.
* Các biểu hiện của bệnh thận do gút
- Xác định mức độ đau theo thang điểm VAS (Visual Analog Scale)
29
Bệnh nhân nhìn vào một thước đo có biểu diễn các mức độ đau và chỉ
vào mức độ đau mà bệnh nhân cảm nhận được tại thời điểm đánh giá. Phần
mặt sau của thước chia thành 10 vạch, mỗi vạch cách nhau 10mm, thầy thuốc
xác định điểm tương ứng với điểm mà bệnh nhan vừa chỉ ở mặt trước của
thước. Cấu tạo thước đo VAS như sau:
Hình 2.1. Mặt trước của thước: bệnh nhân tự đánh giá mức độ đau
Hình 2.2. Mặt sau của thước: lượng hóa mức độ đau tương ứng với điểm
mà bệnh nhân vừa chỉ ở mặt trước của thước
Đánh giá mức độ đau theo thang điểm VAS theo 4 mức độ:
0 điểm : không đau
Từ 1 đến 3 : đau ít
Từ 4 đến 6 : đau vừa
Từ 7 đến 10 : đau nhiều
+ Sưng tại gân hoặc điểm bám gân
30
2.3.4.2. Siêu âm
- Các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu và nhóm chứng sẽ được siêu
âm và các điểm bám gân có triệu chứng đau chi tại khoa Cơ xương khớp bệnh
viện Bạch Mai bởi bác sĩ chuyên khoa và học viên.
- Thăm dò gân trên siêu âm qua 2 diện cắt: cắt ngang và cắt dọc, giữ
cho đầu dò song song và vuông góc với các sợi của gân, không gây áp lực
thăm dò lên các cấu trúc giải phẫu phía dưới.
+ Đánh giá sự thay đổi hình thái tại gân và điểm bám gân trên siêu âm
. Gân giảm âm: là hình ảnh mất các sợi nhỏ kèm theo vùng giảm độ hồi
âm rộng tại gân.
. Độ dày gân: đo tại vị trí dày nhất của gân bám vào xương rồi so sánh
với độ dày gân bên còn lại.
31
. Các tinh thể MSU lắng đọng trên gân hay điểm bám gân: là hình ảnh
tăng âm có bóng cản trên gân.
- Kết quả siêu âm được ghi lại bằng hình ảnh và lưu giữ bằng máy tính
Giai đoạn suy thận mạn Mức lọc cầu thận (ml/ phút/1,73m2)
Suy thận độ II 60 - 89
Suy thận độ IV 15 - 29
¦íc tÝnh møc läc cÇu thËn theo c«ng thøc cña Cockcroft vµ Gault
2.4. Xử lý số liệu
- Xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0 với các test thống kê thường dùng
trong y học.
- Kết quả nghiên cứu được coi là có ý nghĩa thống kê khi p< 0,05.
2.5. Đạo đức trong nghiên cứu
- Nghiên cứu được sự đồng ý của khoa cơ xương khớp bệnh viện Bạch
Mai, bộ môn Nội tổng hợp và phòng sau đại học trường Đại học Y Hà Nội.
Được bệnh nhân chấp nhận tham gia nghiên cứu; đối tượng nghiên cứu
hoàn toàn có quyền từ chối tham gia chương trình nghiên cứu.
33
Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Làm ruộng
Công nhân
Lái xe
Nghề khác
<39
40 – 49
50 - 59
60 – 69
>70
Bảng 3.9: Vị trí khớp viêm trong cơn gút đầu tiên
Vị trí n Tỷ lệ %
Khớp bàn ngón chân I
Khớp bàn ngón chân khác
36
Khớp cổ chân
Khớp gối
Khớp cổ tay
Khớp khuỷu
Khớp bàn ngón tay
Khớp ngón gần
Bảng 3.10: Phân bố vị trí gân bị đau trên lâm sàng
Vị trí gân n Tỷ lệ %
Gân Achilles
Gân bánh chè
Gân cơ tứ đầu đùi
Gân duỗi ngắn ngón chân I
Gân duỗi dài ngón chân I
Gân ở mỏm trâm quay
Gân ở mỏm trâm trụ
Gân ở lồi cầu ngoài xương cánh tay
Gân ở lồi cầu trong xương cánh tay
Bảng 3.11: Mức độ đau tại gân theo thang điểm VAS
Mức độ đau n Tỷ lệ %
Đau ít
Đau vừa
Đau nhiều
CRP 0,5
n % n % n %
Acid uric máu
Tăng
Bình thường
Nhóm tăng
Glucose (mmol/l)
Cholesterol TP (mmol/l)
Triglycerid (mmol/l)
GOT( U/l)
GPT ( U/l)
Bảng 3.16: Phân loại giai đoạn suy thận theo mức lọc cầu thận
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn V
Tổng
Tổng số
3.5. Đặc điểm hình ảnh siêu âm gân ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.18: Đặc điểm hình ảnh giảm âm trên siêu âm giữa các nhóm gân
Bảng 3.19: Đặc điểm hình ảnh dày gân trên siêu âm giữa các nhóm gân
Hình ảnh dày gân
n Tỷ lệ %
Gân
Gân Achilles
Gân bánh chè
40
< 10 mm
10-15 mm
>15 mm
1 hạt
2 – 3 hạt
>3 hạt
Bảng 3.21: Đặc điểm hình ảnh hạt tophi trên siêu âm giữa các nhóm gân
Bảng 3.22: Số lượng các tổn thương trên siêu âm tại các nhóm gân
3.5. Mối liên quan giữa hình ảnh siêu âm gân với đặc điểm lâm sàng
Bảng 3.23: Tỷ lệ tổn thương gân trên siêu âm trong nhóm bệnh nhân có
viêm gân trên lâm sàng
Siêu âm
Có tổn thương Không có tổn
n (%) thương n (%)
Lâm sàng
Số gân có viêm
Gân Achilles
Gân bánh chè
42
Bảng 3.25: Mối liên quan giữa hình ảnh hạt tophi tại gân trên siêu âm với
thời gian mắc bệnh
Có hạt tophi
tại gân n Tỷ lệ %
< 1 tuần
1 – 4 tuần
1 – 3 tháng
43
3 – 6 tháng
6 – 12 tháng
1 – 5 năm
>5 năm
Chương 4
DỰ KIẾN BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình ảnh siêu âm gân trên bệnh
nhân gút
4.1.1. Đặc điểm chung
Phân bố bệnh nhân theo giới, tuổi, nghề nghiệp, địa dư
4.1.2. Đặc điểm liên quan đến bệnh
Tỷ lệ bệnh nhân theo độ tuổi khởi phát, thời gian mắc bệnh, mức độ đau
theo thang điểm VAS, vị trí khớp khởi phát cơn gút cấp, các bệnh kết hợp
4.1.3. Đặc điểm cận lâm sàng
Tỷ lệ bệnh nhân có tăng AU máu, có biểu hiện viêm, có rối loạn trên các
chỉ số sinh hóa khác
4.1.4. Tỷ lệ viêm gân trong số bệnh nhân gút
4.1.5. Đặc điểm hình ảnh siêu âm gân ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Tỷ lệ các gân có tổn thương trên siêu âm
Tỷ lệ các dạng tổn thương gân trên siêu âm
4.2. Mối liên quan giữa hình ảnh siêu âm gân với đặc điểm lâm sàng
Tỷ lệ tổn thương gân trên siêu âm trong nhóm bệnh nhân có viêm gân
trên lâm sàng
44
Mối liên quan giữa số lượng tổn thương gân với thời gian mắc bệnh
Mối liên quan giữa hình ảnh hạt tophi tại gân trên siêu âm với thời gian
mắc bệnh
TÀI LIỆU THAM KHẢO
CRP mg/dl
Acid Uric mol/l
Creatinin mol/l
Ure mmol/l
Glucose mmol/l
Cholesterol mmol/l
Triglycerid mmol/l
HDL- chol mmol/l
LDL- chol mmol/l
GOT U/l
GPT U/l
xét nghiệm dịch khớp hoặc tổn thương nghi ngờ hạt tophi
có tinh thể urat □ không có tinh thể urat □
9. SIÊU ÂM THẬN – TIẾT NIỆU
Bình thường sỏi khác