Bai Giang KTCT M-L Chuong 3 - Phan 1 - SV

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 16

Chương 3

GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


Lý luận giá trị thặng dư của C.Mác được trình bày chủ yếu trong tác phẩm “Tư
bản” có nội dung vô cùng rộng lớn, bao gồm sự luận giải khoa học sâu sắc về những
điều kiện căn bản để hình thành, các quy luật vận động, xu hướng phát triển của nền
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, biểu hiện trong toàn bộ các khâu của quá trình tái
sản xuất, trong đó những vấn đề quan trọng hàng đầu là nguồn gốc và bản chất của giá
trị thặng dư.

Nội dung chương 3 gồm:


3.1. Lý luận về sản xuất giá trị thặng dư
3.1.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư
3.1.2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư
3.1.3. Bản chất của giá trị thặng dư
3.1.4. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư

3.2. Lý luận về tiền công dưới chủ nghĩa tư bản


3.2.1. Bản chất của tiền công
3.2.2. Các hình thức của tiền công
3.2.3. Các loại tiền công

3.3. Tích lũy tư bản


3.3.1. Bản chất và hình thức của tích lũy tư bản
3.3.2. Những nhân tố góp phần làm tăng quy mô tích luỹ
3.3.3. Một số hệ quả của tích luỹ tư bản

3.4. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường

3.3.1. Lợi nhuận

3.3.2. Lợi tức

1
3.3.3. Địa tô tư bản chủ nghĩa

3.1. Lý luận về sản xuất giá trị thặng dư


Nhưng lưu ý để nghiên cứu nội dung này:
- Phải hiểu được phương pháp trừu tượng hóa khoa học trong nghiên cứu với các giả
định khoa học
- Khi nghiên cứu đi từ hiện tượng đến bản chất, từ cái đơn giản nhất, quen thuộc nhất,
cơ bản nhất, điển hình nhất để tìm ra cái chung nhất, cái quy luật chi phối sự vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng.
- Chỉ có lao động sản xuất mới có tính chất hai mặt, vừa cụ thể, vừa trừu tượng. Lao
động trừu tượng mới tạo ra giá trị mới còn lao động cụ thể chỉ chuyển toàn bộ giá trị cũ
vào trong sản phẩm.
- Trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất, được
thực hiện trong lưu thông. Tư bản sản xuất sẽ trực tiếp tạo ra giá trị thặng dư sau đó “ăn
chia” hay “nhường lại” cho các nhà tư bản không sản xuất khác.

3.1.1. Nguồn gốc của giá trị thặng dư (Giá trị thặng dư từ đâu mà có? Giá trị thặng dư
do ai tạo ra?)
3.1.1.1. Công thức chung của tư bản
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hoá, đồng thời là hình thái xuất hiện
đầu tiên của tư bản.
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H - T - H. Tiền
trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo công thức: T - H - T’.
So sánh hai công thức:
Điểm giống nhau của hai công thức lưu thông nói trên là đều cấu thành bởi hai yếu
tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập nhau là mua và bán; đều biểu hiện
quan hệ kinh tế giữa người mua và người bán.

2
Điểm khác nhau giữa hai công thức đó là: Lưu thông hàng hóa giản đơn bắt đầu
bằng hành vi bán (H - T) và kết thúc bằng hành vi mua (T - H); điểm xuất phát và điểm
kết thúc đều là hàng hóa, tiền chỉ đóng vai trò trung gian, mục đích là giá trị sử dụng.
Ngược lại, lưu thông của tư bản bắt đầu bằng hành vi mua (T - H) và kết thúc bằng hành
vi bán (H - T’); tiền vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc, còn hàng hóa đóng vai
trò trung gian... Mục đích của lưu thông tư bản là giá trị, và giá trị lớn hơn. Tư bản vận
động theo công thức T-H-T’, trong đó T’ = T + ∆T; ∆T là số tiền trội hơn được gọi là giá
trị thặng dư và ký hiệu bằng m. Còn số tiền ứng ra ban đầu với mục đích thu được giá trị
thặng dư trở thành tư bản. Như vậy, tiền chỉ biến thành tư bản khi được dùng để mang lại
giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
Công thức:
T – H – T’ với T’ = T + m được gọi là công thức chung của tư bản. Mọi tư bản
đều vận động như vậy nhằm mục đích mang lại giá trị thặng dư. Tư bản là tiền tự lớn lên
hay giá trị sinh ra giá trị thặng dư.
3.1.1.2. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản
Số tiền trội hơn (∆T) hay giá trị thặng dư (m) được sinh ra từ đâu?
Thoạt nhìn, hình như giá trị thặng dư sinh ra trong lưu thông. Vậy có phải do lưu
thông mà tiền tăng lên và giá trị thặng dư được hình thành?
Nếu mua - bán ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái của giá trị: từ tiền thành
hàng hoặc từ hàng thành tiền. Còn tổng số giá trị trong tay mỗi người tham gia trao đổi
trước sau vẫn không thay đổi. Trong trường hợp trao đổi không ngang giá, hàng hóa có
thể bán cao hơn hoặc thấp hơn giá trị. Nhưng, trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản
xuất đều vừa là người bán, vừa là người mua. Cái lợi mà họ thu được khi bán sẽ bù lại cái
thiệt khi mua hoặc ngược lại. Trong trường hợp có những kẻ chuyên mua rẻ, bán đắt thì
tổng giá trị toàn xã hội cũng không hề tăng lên, bởi vì số giá trị mà những người này thu
được chẳng qua chỉ là sự ăn chặn, đánh cắp số giá trị của người khác mà thôi. Quá trình
lưu thông và tự bản thân tiền không thể làm giá trị tăng lên. Nhưng nếu không có quá

3
trình lưu thông, hàng hóa được tạo ra không được đem vào thị trường, cứ để trong kho,
tiền cứ để trong két sắt, tức là đứng ngoài lưu thông thì hàng hóa không được thực hiện
về giá trị, tiền cũng làm được vai trò là vật trung gian. Hàng hóa được tạo ra không bán
được, giá trị không được thực hiện thì không thể nào có giá trị thặng dư.
Như vậy, "tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở
bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong
lưu thông"1. Đó là mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. C.Mác là người đầu tiên
phân tích và giải quyết mâu thuẫn đó bằng lý luận về hàng hóa sức lao động.
3.1.1.3. Hàng hóa sức lao động
* Sức lao động, sự chuyển hóa sức lao động thành hàng hóa
Để giải quyết mâu thuẫn của công thức chung của tư bản, cần tìm trên thị trường
một loại hàng hóa mà việc sử dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản
thân nó. Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực, trí lực và tâm lực) tồn tại trong cơ
thể của một con người đang sống và được người đó vận dụng vào trong quá trình sản xuất
tạo ra sản phẩm.
Sức lao động là cái có trước, còn lao động chính là quá trình sử dụng sức lao động.
Trong mọi xã hội, sức lao động là yếu tố của sản xuất, nhưng sức lao động chỉ trở
thành hàng hóa khi có hai điều kiện sau đây:
Thứ nhất, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức lao
động của mình và chỉ bán sức lao động ấy trong một thời gian nhất định.
Thứ hai, người lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình đứng ra tổ
chức sản xuất nên muốn sống chỉ còn cách bán sức lao động cho người khác sử dụng.
Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu một bước ngoặt cách mạng trong
phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với
chế độ nô lệ và phong kiến. Sự bình đẳng về hình thức giữa người sở hữu sức lao động
với người sở hữu tư bản che đậy bản chất của chủ nghĩa tư bản - chế độ được xây dựng
1 . C.Mác và Ph. ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t..23, tr. .249.

4
trên sự đối kháng lợi ích kinh tế giữa tư bản và lao động.
* Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động
Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá
trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hóa sức lao động cũng do số lượng lao động xã hội cần thiết để
sản xuất và tái sản xuất ra nó quyết định. Giá trị sức lao động được quy về giá trị của toàn
bộ các tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động, để duy trì đời
sống của công nhân làm thuê và gia đình họ.
Giá trị hàng hóa sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ nó bao hàm
cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng nước, từng
thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành
giai cấp công nhân và cả điều kiện địa lý, khí hậu. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao
động thể hiện ở quá trình tiêu dùng (sử dụng) sức lao động, tức là quá trình lao động để
sản xuất ra một hàng hóa, một dịch vụ nào đó.
Trong quá trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị
của bản thân nó; phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó
chính là đặc điểm riêng có của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Đặc điểm này
là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản đã trình bày ở
trên.
3.1.2. Quá trình sản xuất giá trị thặng dư (Giá trị thặng dư được hình thành hay tạo ra
như thế nào?)
* Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản là quá trình
thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất giá trị
thặng dư.
Mục đích của sản xuất TBCN là giá trị thặng dư, song để đạt được mục đích, nhà
tư bản phải sản xuất ra vật có giá trị sử dụng, vì vậy, vật mang giá trị sử dụng sẽ mang giá
trị trao đổi để đưa tới giá trị thặng dư.

5
Quá trình lao động TBCN có 2 đặc điểm riêng:
Công nhân làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản.
Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản.
Xét ví dụ về một quá trình sản xuất sợi của một nhà tư bản cá biệt:
Giả định 1: Mua bán đúng nguyên tắc ngang giá.
Chẳng hạn nhà tư bản mua:
10kg bông hết 10USD.
Mua sức lao động để sử dụng một ngày là 3USD.
Để chuyển hết 10kg bông vào sợi hao mòn máy móc là 2USD.
Giả định 2: Nhà tư bản sản xuất đúng điều kiện sản xuất trung bình của xã hội
Trong 4 giờ, bằng lao động cụ thể, người công nhân chuyển hết 10kg bông thành
sợi và bằng lao động trừu tượng tạo thêm 3USD. Bây giờ hàng hóa trong tay nhà tư bản
là: 10 +3 +2 = 15USD.
Giả định 3: Nhà tư bản cho công nhân lao động sản xuất 8 giờ trong một ngày.
Như vậy, 4 giờ lao động đầu bằng LĐCT công nhân chuyển giá trị sử dụng của
bông thành giá trị sử dụng của sợi là 10 USD, chuyển giá trị của máy móc sang giá trị của
sợi là 2USD. Và bằng LĐTT công nhân chuyển sang sợi một giá trị mới là 3USD. Vậy
giá trị của 10kg sợi là 15USD. Khi bán 10kg sợi theo nguyên tắc ngang giá thì nhà tư bản
thu về 15USD (thu = chi).
Nếu như ngừng sản xuất ở đây thì nhà tư bản chưa có được giá trị thặng dư.
Nhưng nhà tư bản đã mua sức lao động của công nhân trong một ngày là 8 giờ làm việc.
Vì vậy còn 4 giờ tiếp theo công nhân cũng tạo ra 10kg sợi có giá trị là 15USD và nhà tư
bản bán được 15USD. Nhưng lúc này thu lớn hơn chi.
15USD> 10USD bông + 2USD hao mòn máy móc.
Vậy khoản dôi ra: 15 –12 = 3USD nhà tư bản bỏ túi. Đây chính là giá trị thặng dư
(m) do công nhân tạo ra và nhà tư bản chiếm không (mặc dù nhà tư bản mua bán theo
nguyên tắc ngang giá).

6
Như vậy, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao
động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Khi giá trị thặng dư
được thu về, tiền chuyển hóa thành tư bản. C. Mác viết: "Bí quyết của sự tự tăng thêm giá
trị của tư bản quy lại là ở chỗ tư bản chi phối được một số lượng lao động không công
nhất định của người khác"2. Sở dĩ nhà tư bản chi phối được số lao động không công ấy vì
nhà tư bản là người sở hữu tư liệu sản xuất.
Tóm lại, nguồn gốc của giá trị thặng dư là lao động không công của người lao
động làm thuê.
Giá trị thặng dư là phần giá trị mới mà lao động của người công nhân tạo ra ngoài
giá trị sức lao động, là kết quả lao động không công của công nhân cho nhà tư bản.
Việc nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư do quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa
tạo ra gọi là bóc lột giá trị thặng dư. Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách
bóc lột lao động làm thuê.
* Tư bản bất biến và tư bản khả biến (Bộ phận tư bản nào làm tăng giá trị
thặng dư cho nhà tư bản? Để trả lời cho câu hỏi này C.Mác phân chia tư bản ứng
trước thành hai bộ phận tư bản bất biến và tư bản khả biến)
Để sản xuất giá trị thặng dư, nhà tư bản phải ứng trước tư bản ra để mua tư liệu
sản xuất và sức lao động. Vậy các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò như thế nào
trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư?
Trước hết xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất. Trong quá
trình sản xuất, giá trị của tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân
chuyển vào sản phẩm mới, và lượng giá trị của chúng không đổi so với trước khi đưa vào
sản xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là C.
Các nhà kinh tế học tư sản cho rằng, giá trị thặng dư có cơ sở tự nhiên là: đất đai
màu mỡ, máy móc hiện đại... K.Marx không phủ nhận những cơ sở tự nhiên là điều kiện
để tăng năng suất lao động, nhưng đây chỉ là khả năng để có giá trị và giá trị thặng dư,
chứ không mang lại giá trị thặng dư hiện thực. Chính lao động sống của người công nhân
2 . C.Mác và Ph. ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 23, tr. 753.

7
tác động vào đất đai, máy móc mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư hiện thực. Nguồn gốc
của giá trị thặng dư là sức lao động hay lao động sống.
Máy móc không thể trực tiếp tạo ra giá trị và giá trị thặng dư mà phải gắn với lao
động sống, thông qua đó mà phát huy tác dụng. Máy móc, dù hiện đại như thế nào đi
chăng nữa cũng không bao giờ tạo ra một lượng giá trị nào cả nếu không có lao động
sống. Máy móc chỉ là phương tiện mạnh mẽ nhất để nâng cao sức sản xuất của lao động
sống. Lao động sống càng kết hợp với máy móc hiện đại nhiều bao nhiêu thì khối lượng
giá trị sản phẩm càng lớn bấy nhiêu.
Máy móc đã khấu hao hết rồi lại có thể tiếp tục sử dụng, đây chính là hiệu quả của
lao động sống qua việc sử dụng gìn giữ, việc bảo dưỡng tốt máy móc. Máy móc (robot
cũng là máy) chỉ là phương tiện để nâng cao năng suất lao động (sức sản xuất của lao
động), phải thông qua con người thì điều đó mới trở thành hiện thực. Bộ phận tư bản
dùng để mua sức lao động thì lại khác. Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh
hoạt của người công nhân và biến đi trong tiêu dùng của công nhân. Mặt khác, trong quá
trình sản xuất, bằng lao động trừu tượng, người công nhân tạo ra giá trị mới không những
đủ bù đắp sức lao động của mình, mà còn có giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do vậy, bộ
phận tư bản dùng để mua sức lao động đã có sự biến đổi về lượng trong quá trình sản
xuất. Bộ phận tư bản này được gọi là tư bản khả biến, ký hiệu là V.
Như vậy, tư bản bất biến là điều kiện cần thiết không thể thiếu được để sản xuất ra
giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến có vai trò quyết định ttrong quá trình đó, vì nó chính
là bộ phận tư bản đã lớn lên.
* Cấu thành lượng giá trị của hàng hóa
Để sản xuất ra hàng hóa cần phải có chi phí lao động bao gồm: chi phí lao động
quá khứ như: máy móc, nguyên nhiên vật liệu và chi phí lao động sống
Trong quá trình lao động sản xuất, bộ phận tư liệu sản xuất sẽ được lao động sống
bảo tồn và chuyển toàn bộ giá trị vào trong sản phẩm. Trong quá trình lao động sản xuất,
hao phí lao động quá khứ sẽ được lao động sống chuyển vào trong sản phẩm và làm tăng

8
giá trị cho sản phẩm.
3.1.3. Bản chất của giá trị thặng dư
* Bản chất của giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư có bản chất kinh tế - xã hội là quan hệ giai cấp, trong đó giai cấp
các nhà tư bản làm giàu dựa trên cơ sở lao động làm thuê.
Mục đích của nhà tư bản trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không
những chỉ dừng lại ở mức có được giá trị thặng dư, mà quan trọng là phải thu được nhiều
giá trị thặng dư, do đó cần có thức đo để đo lường giá trị thặng dư về lượng. C.Mác đã sử
dụng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng để đo lường giá trị thặng dư.
* Trình độ và quy mô bóc lột giá trị thặng dư: Tỷ suất và khối lượng giá trị
thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m’) là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá trị thặng dư (m)
với tư bản khả biến (v) và được tính bằng công thức:
m t
m'= x 100 % hoặc m'= x 100 %
v t'
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân
làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu
được trong một thời gian sản xuất nhất định và được tính bằng công thức:
M’ = m’xV
Khối lượng giá trị thặng dư tỷ lệ thuận với cả hai nhân tố m' và V.
3.1.4. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Để thu được nhiều giá trị thặng dư cần có phương pháp nhất định. C.Mác đã chỉ
ra hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản
xuất giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động

9
vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, giá trị sức lao động và
thời gian lao động tất yếu không thay đổi.
Ví dụ: nếu ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian
lao động thặng dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư là 100%.

Giả định nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa với mọi điều kiện
không đổi thì giá trị thặng dư tuyệt đối tăng từ 4 giờ lên 6 giờ và tỷ suất giá trị thặng dư
sẽ là:

6 giờ
m’ = x 100% =150%
4 giờ

Để có nhiều giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao
động và tăng cưừng độ lao động. Song ngày lao động chịu giới hạn về mặt sinh lý (công
nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí) nên không thể kéo dài bằng ngày tự
nhiên, còn và cường độ lao động cũng không thể tăng vô hạn quá sức chịu đựng của con
người. Hơn nữa, công nhân kiến quyết đấu tranh đòi rút ngắn ngày lao động. Quyền
lợi hai bên có mâu thuẫn, thông qua đấu tranh, tuỳ tương quan lực lượng mà tại các
dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể có thể quy định độ dài nhất định của ngày
lao động. Nhưng dù sao, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu và cũng
không thể vượt giới hạn thể chất và tinh thần của người lao động.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

Giá trị thặng dư tương đối giá trị thặng dư thu được nhờ rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động; do đó kéo dài thời gian lao động
thặng dư trong khi độ dài ngày lao động không thay đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: ngày lao động 8 giờ, với 4 giờ lao động tất yếu, 4 giờ lao động thặng dư,
tỷ suất giá trị thặng dư là 100%. Nếu giá trị sức lao động giảm khiến thời gian lao động
tất yếu rút xuống còn 2 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 6 giờ. Khi đó:
6 giờ
m’ = x 100% =300%
2 giờ
10
Nếu ngày lao động giảm xuống còn 6 giờ nhưng giá trị sức lao động giảm khiến
thời gian lao động tất yếu rút xuống còn 1 giờ thì thời gian lao động thặng dư sẽ là 5
giờ. Khi đó:

6 giờ
m’ = x 100% = 500%
1 giờ

Để hạ thấp giá trị sức lao động thì phải làm giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và
dịch vụ cần thiết để tái sản xuất sức lao động, do đó phải tăng năng suất lao động trong
các ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để chế
tạo ra tư liệu sinh hoạt đó.
Trong thực tế, việc cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động diễn ra trước tiên ở
một hoặc vài xí nghiệp riêng biệt làm cho hàng hoá do các xí nghiệp ấy sản xuất ra có
giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, và do đó, sẽ thu được một số giá trị thặng dư vượt
trội so với các xí nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư siêu
ngạch.
Xét từng trường hợp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất
hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện
tượng tồn tại thường xuyên. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Hoạt động riêng lẻ đó
của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng suất lao động xã hội, hình thành
giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do đó theo C. Mác,
giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thái biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.
Trong thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thị trường trên thế giới, giai cấp các nhà
tư bản đã thực hiện những cuộc cách mạng lớn về sản xuất để không ngừng nâng cao
năng suất lao động. Đó là cách mạng về tổ chức, quản lý lao động thông qua thực hiện
hiệp tác giản đơn, cách mạng về sức lao động thông qua thực hiện hiệp tác có phân công
và cách mạng về tư liệu lao động thông qua sự hình thành phát triển của nền đại công
nghiệp.
11
Sự hình thành và phát triển của nền đại công nghiệp thông qua cách mạng công
nghiệp đã mở ra những điều kiện mới cho phát triển khoa học và công nghệ thức đẩy
sản xuất nói chung và sản xuất giá trị thặng dư phát triển nhanh. Cùng với toàn cầu hóa
kinh tế khoa học và công nghệ ngày càng trở thành nhân tố quan trọng của sản xuất giá
trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường trên thế giới hiện nay.
3.2. Lý luận về tiền công dưới chủ nghĩa tư bản
3.2.1. Bản chất của tiền công
Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là giá cả của
hàng hóa sức lao động.
Tuy vậy, dễ có sự lầm tưởng, trong xã hội tư bản, tiền công là giá cả của lao động.
Bởi vì: thứ nhất, nhà tư bản trả tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để
sản xuất ra hàng hóa; thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày, tuần,
tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được.
Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao động, mà là sức lao động.
Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, mà chỉ là giá trị hay giá cả của
hàng hóa sức lao động.
3.2.2. Các hình thức của tiền công
Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công tính theo thời gian lao động của
công nhân dài hay ngắn (giờ, ngày, tuần, tháng).
Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công tính theo số lượng sản phẩm đã
làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định.
Mỗi một sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định, gọi là đơn giá tiền
công. Để quy định đơn giá tiền công, người ta lấy tiền công trung bình một ngày của một
công nhân chia cho số lượng sản phẩm của một công nhân sản xuất ra trong một ngày lao
động bình thường.
Tiền công tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản trong việc quản lý,
giám sát quá trình lao động của công nhân dễ dàng hơn; mặt khác, kích thích công nhân

12
lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm để thu được lượng tiền công cao
hơn.
3.2.3. Các loại tiền công
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao
động của mình cho nhà tư bản. Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số
lượng hàng hóa tư liệu tiêu dùng và dịch vụ mà người công nhân mua được bằng tiền
công danh nghĩa của mình.
Tiền công danh nghĩa là giá cả hàng hóa sức lao động; nó có thể tăng lên hay giảm
xuống tuỳ theo sự biến động trong quan hệ cung - cầu về hàng hóa sức lao động trên thị
trường. Trong một thời gian nào đó, nếu tiền công danh nghĩa vẫn giữ nguyên, nhưng giá
cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ tăng lên hay giảm xuống thì tiền công thực tế giảm xuống
hay tăng lên.
3.3. Tích lũy tư bản
3.3.1. Bản chất và hình thức của tích lũy tư bản
* Bản chất
Tư bản là quan hệ sản xuất xã hội được tái sản xuất không ngừng trong chủ nghĩa
tư bản. Việc duy trì tư bản được thể hiện thông qua tái sản xuất giản đơn tư bản chủ
nghĩa.
Tái sản xuất giản đơn tư bản chủ nghĩa là sự lặp lại quá trình sản xuất với quy mô
như cũ, tức là toàn bộ giá trị thặng dư đã được nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân. Kết quả
nghiên cứu tái sản xuất giản đơn cho thấy, giá trị thặng dư là yếu tố quyết định đối với sự
duy trì, bảo tồn tư bản.
Tuy nhiên, tư bản không những được bảo tồn mà còn không ngừng lớn lên, thể
hiện thông qua tích lũy tư bản trong quá trình tái sản xuất mở rộng. Để thực hiện tái sản
xuất mở rộng phải biến một bộ phận giá trị thặng dư thành tư bản bất biến phụ thêm và tư
bản khả biến phụ thêm, do đó tích lũy tư bản là tư bản hóa giá trị thặng dư. Nghiên cứu
tái sản xuất mở rộng cho thấy, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích luỹ là giá trị thặng dư.

13
Nhờ có tích lũy tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không những trở thành thống
trị, mà còn không ngừng mở rộng sự thống trị đó.
* Hình thức: Quá trình tích luỹ tư bản là quá trình tích tụ và tập trung tư bản ngày
càng tăng
Tích tụ tư bản là việc tăng quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư bản
riêng rẽ. Tích tụ tư bản, một mặt, là yêu cầu của việc mở rộng sản xuất, ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật; mặt khác, khối lượng giá trị thặng dư tăng thêm lại tạo khả năng hiện thực cho
tích tụ tư bản mạnh hơn.
Tập trung tư bản là sự hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản cá biệt lớn.
Đây là sự tập trung những tư bản đã hình thành, là sự thủ tiêu tính độc lập riêng biệt của
chúng, là việc biến nhiều tư bản nhỏ thành một số ít tư bản lớn hơn.
Tích tụ tư bản làm cho tư bản cá biệt tăng lên, và tư bản xã hội cũng tăng theo.
Còn tập trung tư bản chỉ làm cho tư bản cá biệt tăng quy mô còn tư bản xã hội vẫn như
cũ.
3.3.2. Những nhân tố quyết định quy mô tích luỹ (hoặc viết 3.3.2. Những nhân tố góp
phần làm tăng quy mô tích luỹ)
Quy mô tích luỹ phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư thu được và tỷ lệ phân
chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Với tỷ lệ phân
chia giá trị thặng dư thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng đã xác định, thì các nhân tố
quyết định quy mô tích luỹ bao gồm:
Thứ nhất, nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư bằng cách cắt xén tiền công, tăng thời
gian sử dụng tư liệu lao động trong ngày.
Thứ hai, nâng cao sức sản xuất của lao động.
Thứ ba, chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng. Thứ tư,
đại lượng tư bản ứng trước.
3.3.3. Quy luật phổ biến của tích luỹ tư bản (hoặc viết là 3.3.3. Một số hệ quả của tích
luỹ tư bản)

14
Quá trình tích luỹ tư bản dẫn đến một loạt các hậu quả, thể hiện các quy luật phổ
biến của tích lũy tư bản, bao gồm:
Thứ nhất, cấu tạo hữu cơ của tư bản ngày càng tăng. Trình độ kỹ thuật của sản
xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện thông qua cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cấu tạo kỹ thuật
biểu hiện quan hệ tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng
những tư liệu sản xuất đó. Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng ra những lượng tư
bản bất biến và khả biến theo những tỷ lệ nhất đạnh, thể hiện cấu tạo giá trị của tư bản.
Trong quá trình vận động của tư bản, cấu tạo giá trị có thể thay đổi dưới tác động của sự
thay đổi của giá cả các yếu tố sản xuất, hoặc do sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư
bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản được quyết định bởi cấu tạo
kỹ thuật của tư bản và phản ánh những sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Cùng
với sự phát triển của đại công nghiệp, cấu tạo hữu cơ của tư bản có xu hướng không
ngừng tăng lên.
Thứ hai, tích tụ và tập trung tư bản ngày càng tăng. Tích tụ tư bản là việc tăng
quy mô tư bản cá biệt bằng tích luỹ của từng nhà tư bản riêng rẽ, nó là kết quả tất yếu của
tích luỹ. Sự phát triển của tích tụ tư bản thúc đẩy cạnh tranh, dẫn tới xuất hiện sự hợp
nhất một số tư bản nhỏ thành tư bản cá biệt lớn. Đó là tập trung tư bản. Trong quá trình
tích lũy tư bản, tích tụ và tập trung tư bản luôn thúc đẩy lẫn nhau, có vai trò to lớn trong
việc chuyển sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, tích luỹ tư bản dẫn tới quá trình bần cùng hoá giai cấp công nhân làm
thuê. Cùng với sự gia tăng quy mô sản xuất và cấu tạo hữu cơ của tư bản, tư bản khả biến
có xu hướng giảm tương đối so với tư bản bất biến, dẫn tới nguy cơ thừa nhân khẩu dưới
các hình thức nhân khẩu thừa lưu động, nhân khẩu thừa tiềm tàng và nhân khẩu thừa
ngưng trệ. Do đó, quá trình tích luỹ tư bản có tính hai mặt, một mặt thể hiện sự tích luỹ
sự giầu sang về phía giai cấp tư sản, và mặt khác tích luỹ sự bần cùng về phía giai cấp
công nhân làm thuê.
Bần cùng hoá giai cấp công nhân làm thuê biểu hiện dưới hai hình thái là bần cùng

15
hoá tương đối và bần cùng hoá tuyệt đối. Bần cùng hoá tương đối là cùng với đà tăng
trưởng lực lượng sản xuất, phần sản phẩm phân phối cho giai cấp công nhân làm thuê tuy
có tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm tương đối so với phần giành cho giai cấp tư sản. Bần
cùng hoá tuyệt đối thể hiện sự sụt giảm tuyệt đối về mức sống của giai cấp công nhân làm
thuê. Bần cùng hóa tuyệt đối thường xuất hiện đối với bộ phận giai cấp công nhân làm
thuê đang thất nghiệp và đối với toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê trong các điều kiện
kinh tế khó khăn, đặc biệt trong khủng hoảng kinh tế.

Câu hỏi ôn tập chương 3 – Phần 1


1. Phân tích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Vì sao phân tích hàng hóa
sức lao động là chìa khoá để giải quyết mâu thuẫn đó?
2. Thế nào là tư bản bất biến, tư bản khả biến? Tỷ suất và khối lượng thặng dư là gì?
Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương đối và siêu ngạch giống nhau và khác nhau thế nào?
3. Bản chất của tiền công là gì? So sánh các hình thức tiền công cơ bản. Thế nào là
tiền công danh nghĩa, tiền công thực tế?
4. Tích luỹ tư bản là gì? Nêu các nhân tố quyết định quy mô tích luỹ tư bản.
Trình bày quy luật chung của tích luỹ tư bản chủ nghĩa.

16

You might also like