Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 4

BẾP LỬA

* Mở bài chung cho tất cả các đề của bài thơ Bếp lửa:

Nhà thơ Tố Hữu từng tâm sự: “Mỗi khi có gì chất chứa trong lòng, không nói
ra, không chịu được thì lại cần thấy làm thơ” Thơ ca từ cổ chí kim vẫn luôn là nơi để con
người tìm đến để kí thác lòng mình. Đó có lẽ là những cảm xúc mà người ta chỉ nói được
bằng thơ,những rung cảm mãnh liệt mà chỉ thơ mới hiểu được. Người nghệ sĩ nào đến với
thơ cũng bởi muốn bộc lộ tiếng nói cảm xúc của mình. Bằng Việt cũng thế, ông tìm đến
thơ để trút gửi những suy tư của mình về thế giới nhân sinh này. Và “Bếp lửa” chính là
một “suy tư” như thế.......(dẫn vào đề, tùy hoàn cảnh)

Đề 1: Phân tích hình ảnh người bà thông qua bài thơ Bếp Lửa

…Và “BL” chính là một “suy tư” như thế. Đồng thời thông qua đó, nhà thơ bày tỏ thái độ
kính yêu và biết ơn vô hạn đối với người bà của mình. Đó là người bà tần tảo, chịu thương
chịu khó và giàu đức hi sinh.

Bằng Việt thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng
chiến chống Mỹ. Với thứ “vân chữ” của riêng mình, thi nhân đã góp phần tạo nên sự đa
dạng của thơ trẻ thời kì này với một phong cách thơ nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu
lắng .Đó là những dòng thơ đươc bao bọc trong thế giới đầy hoài niệm với những cảm xúc
mãnh liệt.Một minh chứng rõ nét cho “giọng nói riêng” ấy của Bằng Việt chính là bài thơ
“Bếp lửa”. Ra đời năm 1963, khi BV đang đi du học tại đất nước Nga xa xôi, bài thơ là
những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả. Có
lẽ đề tài về gia đình hẳn không còn quá mới lạ trong thơ ca, có vô số nhà thơ gặp nhau nơi
đề tài này. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách
biển nửa ngày sông” hay với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”,
“là con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông lại được gợi về bằng
một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – Bếp lửa. Để rồi nghĩ đến cái bếp “chờn
vờn sương sớm” ấy, nhà thơ nghĩ về bà.

Ngay từ những câu thơ đầu thi phẩm, Bằng Việt đã tái hiện hình ảnh một bếp
lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ ấu gắn liền với hình ảnh người bà chịu thương chịu
khó, tần tảo hi sinh:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của
tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của
người bà. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài
thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ
phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đặt vào thời điểm sáng tác của bài thơ khi người
cháu đã được sống trong điều kiện vật chất đầy đủ với tiện nghi hiện đại, nhưng mỗi lần
nhớ về bếp lửa, cháu lại nhớ về bà - người bà với cuộc đời biết bao vất vả, lam lũ. Hình
ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật thân thương với bao tình
cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng
hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn,
khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa. Và rồi cảm xúc trào ra như một lẽ
đương nhiên: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Cụm từ "biết mấy nắng mưa" diễn tả
vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, cùng với đó là ẩn dụ “nắng mưa” để nhắc đến sự
tảo tần vất vả của bà. Sự tảo tần vất vả ấy của bà còn hiện lên trong tâm trí tác giả khi ông
nhớ về những ngày đói của năm 1945:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Cái đói ám ảnh trong tâm trí không chỉ với BV mà còn là với tất cả những người Việt. Đó
là cái “đói mòn đói mỏi”, đó là cái đói khiến “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”(Chế
Lan Viên). Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn
cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người
lao động thời bấy giờ. Có lẽ cũng chính vì thế nên giờ đây mỗi lần cháu nghĩ lại vẫn còn
cay cay nơi đầu sống mũi. Khổ thơ không một lần nhắc đến bà, nhưng vẻ đẹp của bà vẫn
hiện hữu, vẫn thật lớn lao, đẹp đẽ, đó là vẻ đẹp của sự hi sinh thầm lặng. Bà tảo tần nuôi
nấng, bà là cây cổ thụ to lớn che chở cho cháu và cả gia đình vượt qua những giống tố
cuộc đời. Dáng bà nhỏ bé mà ý chí, sự hi sinh lại lớn lao vô cùng. Những dòng thơ “Chỉ
nhớ khói hun nhèm mắt cháu/ Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!” vì thế mà chính là sự
đồng hiện giữa quá khứ và hiện tại. Không chỉ vậy, sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho
người của bà còn được tác giả thể hiện qua những dòng thơ:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ”
Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe
lẫn, tỏa sáng bên nhau. Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình
“lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian
nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà. Suốt cuộc đời, bà luôn
chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Để rồi chất chứa trong
ngôn từ hình ảnh ngữ điệu câu thơ là hình ảnh người bà với sự tảo tần và hi sinh, đồng thời
còn là niềm xót xa tình yêu thương của cháu đối với bà trong những năm tháng gian khổ.
Hình ảnh người bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù
gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.
Không chỉ sáng lên với vẻ đẹp của sự tảo tần hy sinh, bà còn hiện lên là người
phụ nữ nông thôn thuần hậu nhưng có bản lĩnh vững vàng, là chỗ dựa tinh thần cho
con cháu. Tuy chỉ là một người phụ nữ nông thôn thuần phác, thật thà nhưng ẩn đằng sau
đó là sự kiên cường, bản lĩnh vững vàng, là sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Bà đã giúp mọi
người trong gia đình vượt qua nạn đói 1945 để đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại cháu vẫn thấy
“sống mũi còn cay”. Nhớ về bà, cháu nhớ về những năm quê hương bị giặc chiếm đóng.
Thực tại đau thương dường như được tác giả khảm lên từng câu chữ:
“Năm giặc đốt nhà cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình
ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Trên cái nền của sự tàn phá hủy
diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Một mình bà già nua,
nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca,
phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt. Dường như những bom đạn
chiến tranh kia có thể cướp đi những tài sản quý giá nhưng không thể làm tổn hại đến tinh
thần và ý chí của bà: “Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời dặn dò với cách xưng hô rất đỗi mộc mạc vừa làm hiện lên hình ảnh người bà với bản
lĩnh mạnh mẽ vừa thể hiện mong muốn của bà. Không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ
dại, bà còn là hậu phương vững chắc cho những đứa con ngoài chiến trường yên tâm công
tác. Đọc những dòng thơ ta càng thấm thía sự hi sinh thầm lặng, cao cả và thiêng liêng của
những người bà, người mẹ ở hậu phương luôn muốn gánh vác cùng con cháu, cùng đất
nước để đánh đuổi giặc ngoại xâm, đem lại bầu trời tự do cho dân tộc. Lời dặn dò của
người bà vẫn được cháu "đinh ninh" nhớ mãi trong lòng, được trích nguyên văn được nhắc
lại trực tiếp khi người cháu viết thư cho bố càng cho thấy phẩm chất đáng quí biết bao của
người bà. Vì thế, đến đây ta mới thấy được hết tất cả công lao to lớn của những người bà,
người mẹ Việt Nam đối với cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Có được thắng lợi ấy
đâu chỉ là sự đóng góp trực tiếp của những người lính trên mặt trận tiền tuyến mà còn có
cả sự đóng góp lớn lao của những người phụ nữ ở hậu phương. Lời thơ vì thế còn như một
lời khẳng định về sự kiên định, hiên ngang bất khuất của những người con đất Việt.
Và trên tất cả, bà còn là người nhóm lửa, truyền lửa và giữ lửa. Đó là ngọn
lửa của tình yêu thương con cháu, đó là ngọn lửa của những giấc mơ khát vọng về tương
lai mà bà nhóm lên trong cháu. Những năm tháng đói khổ và khốn khó của tuổi thơ không
vì thế mà làm tác giả thiếu thốn đi tình thương, sự chăm sóc, bởi ông vẫn luôn có bà:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Tình thương của bà là sự bảo ban, chăm sóc không khác gì công ơn sinh thành và nuôi
dưỡng. Đối với nhà thơ, bà chính là mẹ, là cha, là người thầy dạy dỗ cháu nên người. Bà là
người chăm chút cho cháu từ cái ăn, cái mặc đến việc học hành. Bà dạy cháu những bài
học quý giá về đạo làm người.Để rồi cũng từ chính những bài học ấy đã bồi dưỡng nên
tâm hồn của một nhà thơ với lối viết nhẹ nhàng mà rất đỗi sâu sắc. Đối với cháu, bà và
tình yêu thương của bà sẽ luôn luôn và mãi mãi là chỗ dựa tinh thần vững chắc, là điểm
tựa vững chắc cho tâm hồn cháu mỗi khi cháu gặp thất bại, khó khăn.Không chỉ nuôi lớn
cháu bằng những giá trị về vật chất bà còn là người truyền lửa, đó là:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa - ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin bất diệt. Bởi đó là
ngọn lửa - trái tim, tình cảm và tâm hồn bà. Bà đã truyền cho cháu nghị lực, niềm tin một
cách tự nhiên như người truyền lửa cho thế hệ sau. Một ngọn lửa thổi bùng lên mơ ước,
khát vọng về ngày mới thanh bình. Bếp lửa vì thế không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu
củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn”
trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ
niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài.
Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu.Cụm từ “rồi sớm,
rồi chiều” gợi lên nhịp sống đều đặn hàng ngày, đó đó ngọn lửa của tình yêu thương bất
diệt trong căn nhà của bà. Trái ngược với ngọn lửa hung tàn của kẻ thù “cháy tàn, cháy
rụi” là hình ảnh “một ngọn lửa” nới căn bếp của bà. Sự ngang ngược, tàn bạo của kẻ thù
không thể dập tắt được ngọn lửa ấy, bởi đó là ngọn lửa lòng, ngọn lửa của niềm tin, của
sức sống bền bỉ. “Bếp lửa bà nhen ”sớm sớm chiều chiều, “bếp lửa bà nhen” qua “mấy
chục năm” đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ”,
ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng” bền bỉ và bất diệt:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...”

Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên
tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người.
Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên tình yêu thương, nhóm lên niềm vui cuộc
sống, nhóm lên nghĩa tình hồn hậu, nhóm lên tâm tình, ước vọng của tuổi thơ. Từ những kỉ
niệm ấu thơ ấm áp tình bà cháu, nhà thơ cho ta hiểu thêm về những người bà, những người
mẹ và nhân dân sâu nặng nghĩa tình. Chính nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”,
cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết
sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân
tộc mình, nhân dân mình.
Nhẹ nhàng, giản dị mà sâu sắc, thấm thía, Bếp lửa đã thể hiện một cách
xúc động hình ảnh người bà. Bếp lửa - ngọn lửa của bà cùng tình yêu thương và những
phẩm chất tốt đẹp của bà đã soi rọi, nâng bước cháu trên con đường đời đầy khó khăn thử
thách. Hình ảnh người bà chính là hình ảnh của quê hương, đất nước. Bài thơ thể hiện
thành công tình cảm kính yêu, trân trọng, biết ơn bà cũng là lòng biết ơn đối với quê
hương, đất nước biểu hiện cao đẹp của truyền thống "Uống nước nhớ nguồn". Với sự tài
hoa trong lối viết, sử dụng hình ảnh mang tính biểu tượng – bếp lửa, cùng với đó là giọng
thơ tâm tình như những lời trò chuyện, Bằng Việt đã vẽ lại bức chân dung của người bà
một cách trọn vẹn. Để rồi từ hình ảnh người bà tác giả bộc lộ tình yêu thương và kính
trọng của mình. Đồng thời ông còn khơi lên trong lòng độc giả tình yêu thương gia đình,
quê hương gắn với những điều bình dị và hết sức thân thuộc gần gũi.
Gấp lại trang thơ Bếp lửa của Bằng Việt, trong lòng bạn đọc đều lưu lại
thứ cảm xúc riêng. Nhà thơ đã gieo vào lòng ta những xúc cảm chân thành không chỉ cho
thế hệ hôm nay mà còn là những thế hệ mai sau về hình ảnh một người bà, người phụ nữ
Việt với những phẩm chất đáng quý. Có lẽ cũng chính vì điều này mà thi phẩm đã tạo ra
sức sống cho thơ ca, một sức sống mãnh liệt bất chấp mọi “quy luật băng hoại của thời
gian”(Xêđrin). Bếp lửa vì thế xứng đáng là “liều thuốc” cần có trong tủ thuốc tinh thần của
mỗi người.

You might also like