Professional Documents
Culture Documents
bản đang chốt của cánh buồm
bản đang chốt của cánh buồm
bản đang chốt của cánh buồm
Mở đầu
Trung Quốc và Việt Nam là hai quốc gia có nền văn hoá ẩm thực phong phú và
lâu đời. Ẩm thực vì thế đã trở thành một trong những nét văn hóa mang đặc trưng văn
hóa của hai quốc gia.
Đối với Trung Quốc, nếu chỉ nói đến văn hoá uống thì không thể không kể đến
văn hoá thưởng trà vì Trung Quốc không chỉ được coi là “quê hương của trà” với lịch
sử trồng trà đã hơn 2000 năm mà còn là quốc gia đầu tiên phát hiện ra trà và sử dụng
trà như một đồ uống thanh nhiệt, giải độc, làm thuốc chữa bệnh...
Việt Nam cũng là nước có lịch sử trồng trà lâu đời, có nhiều vùng đất nổi tiếng
với các loại trà ngon như Thái Nguyên, Mộc Châu, Suối Giàng... Trong so sánh với
Trung Quốc, Việt Nam cũng sớm phát hiện nhiều loại trà khác với trà Trung Quốc và
có thể khẳng định rằng, Việt Nam là một trong những cái nôi lâu đời nhất của cây trà.
So sánh về mặt ngôn ngữ ẩm thực, trong tiếng Hán cũng như tiếng Việt, trường
từ vựng ẩm thực luôn thể hiện sâu sắc nét văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia, trong
đó phải kể đến trường từ vựng Trà Đạo. Vì vậy, nghiên cứu về trường ngữ nghĩa Trà
Đạo trong hai ngôn ngữ Việt Trung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
I. Nguồn gốc của trà
Trà - thức uống có lịch sử lâu đời. Xét về khía cạnh lịch sử hay sinh học,
các chuyên gia đều thống nhất trà có nguồn gốc từ khu vực châu Á, cụ thể
là khu vực phía Bắc và Tây Nam Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều
nghiên cứu và dẫn chứng lịch sử của trà khác nhau, song những dẫn chứng
này vẫn chưa được xác minh cụ thể. Theo ghi chép sự kiện lịch sử thu tập
được, vào thời nhà Thương (1600 TCN - 1048 TCN) trà bắt đầu được phát
hiện, và lịch sử của trà cũng bắt nguồn từ đây.
II. Quy nhóm phân loại theo các đặc trưng
a) Về hình thức ngôn ngữ
1. Danh từ: bao gồm các tiểu trường loại trà, các hãng trà, thời gian địa
điểm không gian thưởng trà, các từ chỉ người liên quan đến trà, dụng cụ,
nguyên liệu pha trà, các món ăn kèm.
2. Tính từ: bao gồm các tiểu trường màu sắc trà, hương vị trà (mùi hương
và vị), trạng thái
3. Động từ: bao gồm các tiểu trường chế biến, cách pha trà, cách thưởng
thức trà, công dụng.
4. Thành ngữ, tục ngữ về trà
b) Ngữ nghĩa – logic
• Sự vật (bao gồm cả người): bao gồm các tiếu trường loại trà, hãng trà,
đối tượng, các từ chỉ người liên quan đến trà, dụng cụ và nguyên liệu, các
món ăn kèm.
• Hoạt động: bao gồm các tiểu trường chế biến, cách pha trà, cách thưởng
thức trà, các hoạt động khác liên quan đến trà, công dụng
• Tính chất: bao gồm các tiểu trường màu sắc trà, mùi hương, vị trà, trạng
thái, tình trạng
• Địa điểm, không gian: tiểu trường địa điểm, không gian thưởng trà
• Phương thức : tiểu trường phương thức thưởng trà.
III. Từ vựng – ngữ nghĩa về “uống trà” trong hai ngôn ngữ Việt – Trung
1. Trà
1.1. Phân loại
1.1.1. Loại trà
- Có rất nhiều các loại lá trà khác nhau, cho nên có thể có thể chia trà thành rất
nhiều loại khác nhau, nhưng tiêu chí được mọi người biết đến nhiều nhất là dựa
theo màu sắc và phương pháp chế biến. Theo tiêu chí này, ta có thể chia trà
thành 6 loại: Hồng trà, Trà xanh, Trà Ô Long, trà đen, trà trắng, trà vàng.
(Nếu thầy giáo hỏi cụ thể phân loại như nào của từng loại thì:
Trà xanh: nước trà màu chủ đạo là màu xanh, tỉ lệ lên men là 0%
trà trắng: nước trà màu trắng, tỉ lệ lên men là 0-10%
Trà Vàng: lá trà và màu nước trà đều là màu vàng, tỉ lệ lên men là 10-20%
Trà Ô Long: nhiều màu sắc khác nhau, k rõ, 乌龙 trong tiếng Quảng Đông có
nghĩa là mơ hồ không rõ, tỉ lệ lên men là 30-60%
Trà đen: lá trà màu đen, tỉ lệ lên men là trên 80%
Hồng trà: nước trà có màu chủ đạo là màu đỏ, tỉ lệ lên men là khoảng 95%)
- Và loại thứ hai là dựa theo nguyên liệu, ngta cũng lấy tên nguyên liệu dùng
trong trà lm thành tên trà
Trong tiếng Việt:
Dựa theo màu sắc và phương pháp chế biến chia làm 6 loại lớn: trà Xanh, trà
Đen, Hồng trà, trà Ô Long, trà vàng, bạch trà
Dựa theo nguyên liệu: trà San Tuyết, trà Nhài, trà Sen, trà Bá Tước, trà xanh
Matcha, trà Thiết Quan Âm, trà hoa cúc, trà hoa đậu biếc, trà thảo mộc, trà hoa
hồng, trà bạc hà, trà trái cây, trà gừng, trà sữa, trà hoa quả, trà bưởi mật ong, trà
thạch đào, trà đào cam xả, trà bí đao, trà quất mật ong, trà tắc
Trong tiếng Trung:
根据茶汤颜色和加工方法: 白茶 trà trắng, 绿茶 trà xanh, 乌龙茶 (青茶) trà
Ô Long, 红茶 hồng trà, 黑茶 trà đen, 黄茶 trà vàng
根据原料: 莲花茶 trà sen, 茉莉花茶 trà hoa nhài, 西湖龙井茶 trà Long tỉnh
Tây Hồ, 铁观音 trà Thiết Quan Âm, 菊花茶 trà hoa cúc, 新疆茶 trà Tân Cương,
抹茶 trà xanh matcha, 奶茶 trà sữa.
1.1.2. Các hãng trà
Trong tiếng Việt: trà shan tuyết cổ thụ tây bắc, Trà đinh Tân Cương Thái
Nguyên, trà xanh tân cương thái nguyên, trà sen tây hồ, chè mộc châu, trà nõn
tôm thái nguyên, trà lài Bảo Lộc, trà cổ thụ xà tùa Sơn La, trà Vàng Yên Bái,
Hồng trà Lào Cai, Trà tiên Hà Giang,
Trong tiếng Trung: 云南普洱茶(trà Phổ Nhĩ Vân Nam), 安溪铁观⾳(trà
Thiết Quan Âm An Khê), ⻄湖⻰井 (trà Long Tỉnh Tây Hồ), 武夷岩茶(trà
Nham Vũ Di), 冻顶乌⻰ (trà Ô Long Ðống Ðỉnh), 天⽬湖⽩茶 (Trà Trắng
Hồ Thiên Mục),祁⻔红茶 (Hồng trà Kì Mô), 湖南⿊(trà đen Hồ Nam), 福鼎
⽩茶(Bạch trà Phúc Ðỉnh),..
1.1.3. Màu sắc của trà
Trong tiếng Việt: xanh, vàng, vàng đậm, vàng nhạt, đỏ, đen, nâu, hổ
phách, xanh lá nhạt, vàng mật ong, nâu thẫm, vàng óng, cam đất, đỏ
gạch, nâu đỏ, xanh tươi, vàng mật ong, trắng, nâu nhạt, tím, xanh
xám..
Trong tiếng Trung: 绿⾊ (xanh) 、⽩⾊(trắng)、⻩⾊(vàng),深⻩
(vàng đậm)、浅⻩(vàng nhạt)、红⾊ (đỏ)、⿊⾊ (đen)、棕⾊
(nâu)、琥珀(hổ phách)、⻘绿(xanh nhạt), 褐色(vàng nâu), 土黄色(
vàng đất), 朱红色(đỏ tươi),铁锈红(đỏ cam cháy),赤色(đỏ son), 栗
色 (Màu hạt dẻ), 桔红色(Màu cam quýt), 铜色(Màu đồng)
1.1.4. Mùi hương của trà
1.茶余饭饱:泛指闲眼之时。
2.茶余饭后:泛指休息或空闲的时候。
3.浪酒闲茶:指风月场中的吃喝之事。
4.榷酒征茶:征收酒茶税。亦泛指苷捐杂税。
5.茶余酒后:泛指休息或空闲的吋候。
6.不茶不饭:不思饮食。形容心事重重。
7.残茶剩饭:残留下的一点茶水,剩下来的一点食物。
8.粗茶淡饭:粗:粗糙、简单;淡饭:指饭菜简单。形容饮食简单,
生活简朴。
Sự vật
Loại trà: Các loại trà Việt Nam được chủ yếu được định dạng bằng một yếu
tố, chẳng hạn: trà nhài, trà sen…Trong khi đó, có gần 2/3 trà Trung Quốc định danh
bằng hai yếu tố trở lên.
Các từ chỉ người trong trà đạo : ở tiếng Việt có nhiều từ vựng hơn thể hiện ở
sự linh hoạt giữa từ Hán Việt và thuần Việt
Dụng cụ và nguyên liệu: ở cả hai ngôn ngữ đều có điểm tương đồng, sự phong
phú hơn ở tiếng Việt cho thấy sự phức tạp và khéo léo trong văn hóa trà đạo nước ta.
Tính chất
Màu sắc: trong tiếng Việt, từ vựng chỉ màu sắc trà phong phú rất nhiều, từ
vựng linh hoạt dựa theo màu trà thực tế. ở tiếng Trung thì chỉ phân thành 6 màu trà
đó, dù màu sắc có hơi sai lệch cũng đều quy về 1 màu gần nhất trong 6 màu.
Hương vị: trà ở mỗi nơi, mỗi vùng, mỗi khu vực khác nhau sẽ có những
hương vị đặc trưng khác nhau. Trà Việt Nam thì luôn có vị đậm đà, trà Trung Quốc thì
có vị rất nhẹ nhàng. Điều đặc biệt là trà trung quốc ở từng mùa sẽ có hương vị khác
nhau, chỉ trà được sản xuất vụ đó mới có đúng hương vị đấy. Đây cũng là điểm khác
biệt rất lớn giữa trà Trung Quốc và Trà Việt Nam.
Hoạt động
Có thể thấy rằng, các từ chỉ hoạt động về trà trong tiếng Hán và tiếng Việt có
số lượng rất phong phú, đặc biệt là hiện tượng đồng nghĩa, gần nghĩa.
Địa điểm và thời gian:
Thưởng trà được diễn ra vào bất kì thời điểm nào trong ngày tùy theo nhu cầu,
mong muốn của bản thân người thực hiện với những địa điểm thiên về sự bình yên,
tĩnh lặng, giúp cho con người trong quá trình thưởng trà có một sự thư thái nhất định
về mặt tâm hồn, từ vựng tuy ít nhưng ngữ nghĩa rõ ràng, đặc chỉ.
Phương thức
Do có sự giao thoa văn hóa trong tiến trình lịch sử nên phương thức “trà đạo”
tương đối giống nhau, đều có hình thức một người, hai người hay nhiều người.
Kết luận
Qua quá trình so sánh – đối chiếu liên ngôn ngữ Việt Trung trường từ vựng –
ngữ nghĩa “uống trà”, chúng ta có thể thấy ở hình thức ngôn ngữ thì danh từ, động từ,
tính từ chiếm số lượng lớn, thành ngữ chiếm số lượng ít; ở khía cạnh ngữ nghĩa –
logic thì hay, thú vị; nhóm từ ngữ liên quan đến trường đa dạng cả về số lượng và ý
nghĩa; phản ánh một mặt không thể thiếu trong đời sống của con người. Qua đó ta còn
có thể nhìn ra được sự phong phú của hai ngôn ngữ trong trường từ vựng – ngữ nghĩa
“uống trà”, nó mang nét nghĩa thiên hướng tích cực và thanh tao. Thông qua trường từ
vựng – ngữ nghĩa “uống trà” nhìn chung, tiếng Việt có nhiều từ ngữ miêu tả được
nhiều hơn tiếng Trung và mang nghĩa tốt đẹp, có một số từ ngữ ở tiếng Việt – một
ngôn ngữ giáu tính biểu đạt, ta không thể tìm thấy từ mang nghĩa tương tự ở tiếng
Trung – một ngôn ngữ mang tính nội hàm cao.