Professional Documents
Culture Documents
BT Ngá Văn
BT Ngá Văn
Bài thờ bắt đầu với tâm trạng của Hồ Xuân Hương trong một khoảng
không gian vô cùng đặc biệt:
“Đêm khuya” vốn là khoảng thời gian vạn vật chìm vào giấc ngủ. Đối với
con người thì đó là khoảng thời gian mà chúng ta gạt bỏ đi hết những trăn
trở, khó khăn trong cuộc sống để nghỉ ngơi, để trở về với hạnh phúc gia
đình, hạnh phúc lứa đôi. Nhưng đối với những người phụ nữ cô đơn thì
“đêm khuya” chính là lúc họ có nhiều tâm tư, cô đơn và bất hạnh nhất. Hồ
Xuân Hương cũng không ngoại lệ, khi màn đêm buông xuống bao trùm lấy
mọi thứ cũng là lúc bà tự đối diện với lòng mình. Trong khoảng không tĩnh
mịch ấy bỗng “văng vẳng” tiếng “trống canh” một cách “dồn” dập. “Trống
canh” là tiếng trống báo hiệu thời gian kết hợp với từ láy tượng thanh
“văng vẳng” và từ “dồn” khiến âm thanh như từ xa vọng về đầy ma mị, rối
bời và dồn dập.Từ “dồn” nói lên sự dồn dập, hối hả của tiếng trống, của
thời gian lên mọi người. Tuy nhiên, ở đây tác giả đã sử dụng cấu trúc đảo
ngữ để khẳng định đây không chỉ đơn thuần là sự thúc giục của thời gian
lên con người mà còn là sự hối hả,dồn dập của thanh xuân giữa vòng tuần
hoàn giữa ngày và đêm của tạo hóa. Nếu thời gian của thế gian này là vô
hạn thì thì thời gian của con người là hữu hạn. Từ “trơ” có nghĩa là trơ trọi
nhưng nó còn có nghĩa là tủi hổ, bẽ bang trước số phận lẻ loi, tình yêu
không trọn vẹn.”Hồng nhan” là từ dùng để chỉ những người con gái đẹp
hàm ý nâng niu và trân trọng. Nhưng ở đây nhà thơ lại nói “cái hồng nhan”
nghe thật rẻ rúng và mỉa mai vì từ “cái” thường được dùng để chỉ vật, sự
vật hay những thứ tầm thường, rẻ rúng. “Cái hồng nhan” “trơ” với nước non
thể hiện sự cay đắng, bạc phận, xót xa, gợi lên sự nhỏ bé của số phận nhỏ
bé của người phụ nữ xưa.Tuy nhiên, “cái hồng nhan” khi đặt trong thế đối
sánh với “nước non” cũng có thể coi như là một thoáng kiên cường,mạnh
mẽ của người phụ nữ xưa nói chung và Hồ Xuân Hương nói riêng.
Trong sự cô đơn, người phụ nữ ấy đã tìm đến rượi để giải sầu nhưng càng
uống thì lại càng sầu. Cụm từ “say lại tỉnh” như vẽ ra một vòng lặp vô hạn
luẩn quẩn và bế tắc. Khi rượu cũng không thể giúp bà giảm bớt nỗi cô đơn,
buồn tuổi thì bà tìm đến “vầng trăng” như một người bạn tri kỉ để có thể
chia sẻ nổi niềm cô đơn,buồi tuổi ấy. Nhưng vào thời điểm ấy vầng trăng
lại “khuyết chưa tròn”. Bằng việc sử dụng bút phát tả cảnh ngụ tình, nhà
thơ đã tạo nên sự đồng điệu giữa tâm cảnh và ngoại cảnh. “Vầng trăng
khuyết chưa tròn” cũng như mối tình duyên của con người khi tuổi xuân đã
trôi qua nhưng vẫn chưa trọn vẹn. Tất cả những nổ lực của bà để thoát ra
khỏi nổi u sầu đều không thành, ngược lại còn khiến bà cảm thành buồn
tuổi, u sầu hơn.
Như vậy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu đạt kết hợp
với những biện pháp tu từ như đảo ngữ, cùng những sáng tạo trong việc
xây dựng hình tượng, bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tự tình” đã làm nổi bật
cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng buồn tủi cũng như ý thức sâu sắc
về bi kịch duyên phận đầy éo le, ngang trái của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.Chính
những yếu tố trên đã giúp bà trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”, đồng thời
cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương và tiếng
nói tự ý thức đầy bản lĩnh.