HÌNH HÀNG HÓA Ở VIỆT NAM 2.2 Các giải pháp góp phần hoàn thiện dịch vụ và các loại hình dịch vụ ở Việt Nam 2.2.1 Giải pháp phát triển ngành dịch vụ Kinh nghiệm thực tế từ Trung Quốc cho thấy, kể từ sau Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 (tháng 11/2012), quốc gia này đã đẩy mạnh điều chỉnh chính sách, tập trung vào cải cách cơ cấu kinh tế, chuyển đổi phương thức, mô hình tăng trưởng theo hướng bền vững, trong đó chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu sang mô hình tăng trưởng cân bằng hơn, chủ yếu dựa vào tiêu dùng nội địa và ngành Dịch vụ, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung phát triển các ngành kinh tế trọng điểm, ngành Dịch vụ và ưu tiên phát triển công nghệ cao... Việt Nam có thể nghiên cứu và tận dụng được những kinh nghiệm của Trung Quốc trong bối cảnh đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Theo đó, cần đẩy mạnh phát triển ngành Dịch vụ vừa theo chiều rộng, vừa theo chiều sâu, theo hướng hiện đại, với tốc độ bình quân 7-7,5%/năm, cao hơn tốc độ tăng các khu vực sản xuất và GDP như mục tiêu đề ra. Cần nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình dịch vụ gắn với việc phát triển của khoa học công nghệ và vai trò của kinh tế tri thức, phát triển dịch vụ trung gian nhằm tăng cường sự kết nối bổ trợ giữa các ngành kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế nhằm đưa tỷ trọng dịch vụ đạt 45% GDP vào năm 2020. Về tổng thể, để phát huy tiềm năng và đẩy mạnh phát triển dịch vụ trong bối cảnh tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế, trong thời gian tới, chúng ta cần chú ý thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau: Một là, cần hiểu rõ vai trò, vị trí của ngành Dịch vụ trong thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo ra giá trị gia tăng để có những định hướng phát triển bền vững cho khu vực này trong thời gian tới. Theo đó, cần xác định phát triển dịch vụ có vai trò quan trọng, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển, mà còn tạo lập và củng cố sự liên kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành công - nông nghiệp và tác động lan tỏa trong toàn bộ nền kinh tế. Sự phát triển của dịch vụ phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trình độ phát triển kinh tế của một nước càng cao thì tỷ trọng của dịch vụ - thương mại trong cơ cấu ngành kinh tế càng lớn. Vì vậy, Nhà nước cần tiếp tục có thêm nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển để khu vực dịch vụ đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống dân cư, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế… Hai là, xây dựng hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách và thể chế phù hợp và tạo thuận lợi cho sự phát triển của ngành Dịch vụ. Trong đó, các bộ, ngành liên quan tập trung nghiên cứu đề xuất ban hành chính sách phát triển một số ngành Dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như tài chính, ngân hàng, hàng hải, logistics, dịch vụ kỹ thuật dầu khí, hàng không, dịch vụ thương mại; dịch vụ giáo dục, đào tạo; dịch vụ logistics, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe; các loại dịch vụ kiểm toán, tư vấn, pháp lý... Ba là, thúc đẩy cạnh tranh trong ngành Dịch vụ, đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ; Chú trọng đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ và dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ thông qua các hoạt động dịch vụ du lịch, tài chính-ngân hàng, thu kiều hối và bán hàng tại chỗ, bưu chính viễn thông, vận tải hàng không và đường biển; Giảm thâm hụt cán cân dịch vụ. Bên cạnh đó, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa, khu vực và quốc tế; Tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, xác định đúng và khai thác tốt các lợi thế và định huớng chuyển dịch cơ cấu kinh doanh, sản phẩm, cải thiện năng lực đổi mới và công nghệ, nâng cao liên kết và sức cạnh tranh kinh tế, mở rộng thị trường tiêu thụ; Đẩy mạnh khai thác tiềm năng và lợi thế của từng lĩnh vực dịch vụ, tăng cường sự hợp tác giữa các lĩnh vực dịch vụ để cùng cạnh tranh và phát triển. Bốn là, thúc đẩy cạnh tranh, khuyến khích các phát minh, sáng tạo trong ngành dịch vụ. Đặc biệt, cần nâng cao năng suất lao động, tính chuyên nghiệp trong hoạt động dịch vụ, coi đây là một trong những giải pháp ưu tiên hàng đầu; Xây dựng các “vùng liên kết dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp” mở rộng để tăng cường tác động lan tỏa của ngành Dịch vụ đối với toàn bộ nền kinh tế; Xây dựng và thực thi hiệu quả các hệ thống chuẩn quốc gia về chất lượng hàng hóa và dịch vụ; Nâng cao chất lượng các dự báo thị trường, trong đó dự báo cần bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan trong nước và quốc tế, coi trọng dự báo tác động hai mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường… 2.2.1 Giải pháp phát triển cho các loại hình hàng hóa Thương mại trong nước tạo ra giá trị trên 15% GDP và thu hút khoảng 5,4 triệu lao động, tức chiếm khoảng 10% tổng lao động toàn xã hội. Muốn có thị trường trong nước phát triển phải có một hệ thống giải pháp, chính sách phát triển đồng bộ với những phương thức hỗ trợ phù hợp. Theo đó cần phải xử lý tốt một số vấn đề sau: Phát triển và đa dạng hóa các kênh phân phối Quan điểm chung là đa dạng hóa các kênh phân phối, các loại hình tổ chức và phương thức hoạt động, các thành phần kinh tế, các chế độ sở hữu và các nguồn lực tham gia đầu tư phát triển. Kết hợp thương mại truyền thống với thương mại hiện đại. Xây dựng và củng cố các hệ thống phân phối lớn trên phạm vi cả nước đi đôi với tổ chức và phát triển mạng lưới phân phối nhỏ của địa phương. Tăng cường quản lý nhà nước đối với các hệ thống phân phối vì lợi ích Nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Theo đó: - Với hệ thống bán lẻ của các tập đoàn, tổng công ty ngành hàng, thiết lập và phát triển mối liên kết dọc có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định và ràng buộc trách nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến bán buôn và bán lẻ thông qua các quan hệ trực tuyến hoặc quan hệ đại lý, mua bán. - Thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logisstics được bố trí theo khu vực thị trường để tiếp nhận hàng hoá từ các cơ sở sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá cho mạng lưới bán buôn, bán lẻ (cửa hàng trực thuộc, các đại lý) trên địa bàn. - Khuyến khích các doanh nghiệp lớn kinh doanh các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ trong tiêu dùng tạo mối liên kết ngang trong khâu phân phối để giảm chi phí đầu tư, chi phí lưu thông của doanh nghiệp và giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm được thời gian mua sắm - Có chính sách, giải pháp bảo vệ hệ thống bán lẻ trong nước khi thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thực thi các chương trình khai thác thị trường nội địa Thứ nhất, cần sớm ban hành hệ thống luật liên quan tới bán lẻ như Luật Bán lẻ, Luật Chất lượng sản phẩm… Bổ sung các quy chuẩn hiện có để hướng dẫn kinh doanh bán lẻ phát triển lành mạnh và làm cơ sở để các cơ quan chức năng thực hiện việc kiểm soát thị trường. Thứ hai, quy hoạch tổng thể ngành bán lẻ trong cả nước và từng địa phương. Từ đó, đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại, trước mắt, tập trung cho các chuỗi siêu thị bán lẻ, hệ thống các chợ. Thứ ba, có định chế tài chính, tín dụng, chính sách đầu tư, đất đai thích hợp để hỗ trợ thực hiện quy hoạch xây dựng hạ tầng thương mại. Thứ tư, tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu, thực chất, đến với số đông người tiêu dùng. Hiệp hội Bán lẻ và Siêu thị phải làm đầu mối vận động các đơn vị hội viên nâng cao tỷ trọng hàng Việt Nam tại các trung tâm bán lẻ và siêu thị, kết hợp với các biện pháp quảng cáo, khuyến mại phù hợp. Hỗ trợ doanh nghiệp phân phối Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và phát triển thị trường - Tăng cường đối thoại công tư về chính sách phát triển hệ thống phân phối và các biện pháp mở cửa thị trường phân phối (kể cả việc mở cửa ngoài phạm vi cam kết). - Hỗ trợ Hiệp hội trong việc tổ chức đào tạo các nhà phân phối nội địa, nhất là đào tạo các nhà phân phối nhỏ lẻ. - Tăng cường liên kết hợp tác giữa các nhà phân phối trong nước kể cả mua bán, sáp nhập để tạo sức mạnh tài chính đổi mới công nghệ, phát triển hệ thống xây dựng thương hiệu; liên kết giữa nhà sản xuất, nhà phân phối để ổn định nguồn hàng và thị trường tiêu thụ. - Hoàn thiện quy chế quản lý về quảng cáo, ngăn chặn tình trạng các công ty mẹ ở nước ngoài chi trả quảng cáo cho các công ty trong nước vượt quá định mức, tạo ra sự bất bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện và bổ sung chính sách đầu tư, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại nông thôn Kết cấu hạ tầng nông thôn nói chung, hạ tầng thương mại nói riêng còn rất thiếu và yếu. Trên thị trường nông thôn hiện nay vẫn tồn tại phổ biến các loại hình bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tư nhân), loại hình cửa hàng tự chọn chiếm 1,9% và siêu thị mới chỉ chiếm 0,42% số lượng cơ sở bán lẻ. Hơn nữa, quy mô của các cửa hàng bán lẻ phổ biến là hộ gia đình, sử dụng ít lao động và thiếu tính chuyên nghiệp. Chợ ở địa bàn nông thôn phân bố không đều, phần lớn chợ tập trung ở vùng nông thôn đồng bằng, còn tại địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người còn rất thưa thớt. Phần lớn chợ có quy mô nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật lạc hậu, nghèo nàn, số chợ tạm còn nhiều, hoạt động kém, hoặc không hiệu quả. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách khuyến khích, ưu đãi và hỗ trợ phát triển hạ tầng thương mại ở địa bàn nông thôn là rất cần thiết, theo đó: - Nhà nước cần xem xét bổ sung các dự án đầu tư hạ tầng thương mại chủ yếu (kho, trung tâm logistic) vào danh mục được hưởng ưu đãi đầu tư theo quy định tại Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 29-9-2006 của Chính phủ. - Cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại ở nông thôn được hưởng các chính sách khuyến khích đầu tư như các dự án về nông nghiệp theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. - Áp dụng chính sách giảm thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mở rộng cơ sở kinh doanh trực thuộc ở địa bàn nông thôn hoặc sử dụng các hợp tác xã (HTX), hộ kinh doanh (ở mức độ nhất định) trên địa bàn nông thôn làm đại lý mua hàng nông sản và bán vật tư, máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp. Mức giảm thuế nhiều hay ít tuỳ thuộc vào số cơ sở kinh doanh tăng thêm, số hợp tác xã và hộ kinh doanh tham gia vào hệ thống phân phối của doanh nghiệp với tư cách đại lý. - Áp dụng chính sách miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho các HTX đối với phần thu nhập từ các dịch vụ phục vụ xã viên (cung ứng vật tư phục vụ sản xuất và tiêu thụ nông sản hàng hoá cho các hộ nông dân là xã viên HTX). Các hoạt động giao dịch giữa xã viên HTX và HTX không bị đánh thuế VAT. Đồng thời, cần tránh đánh thuế trùng lắp (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân) đối với HTX và xã viên HTX. - Hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh, là đại lý mua hàng nông sản và đại lý bán vật tư sản xuất nông nghiệp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, HTX, Liên hiệp HTX... được xem xét giảm thuế thu nhập cá nhân hàng năm. Mức giảm cụ thể căn cứ vào số lượng hàng nông sản được tiêu thụ và số vật tư cung ứng cho nông dân (có chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã). Ứng dụng thương mại điện tử để thu thập và sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin thị trường Bối cảnh quốc tế và trong nước đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động tư vấn và cung cấp thông tin thị trường, cả về sự đa dạng của nguồn tin lẫn nội dung và hình thức, cả về loại hình và nội dung của lượng thông tin cần tư vấn và cung cấp cho doanh nghiệp. Trong điều kiện Việt Nam, các phương pháp tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin thị trường theo kiểu truyền thống (sử dụng chuyên gia, sách báo, hồ sơ lưu trữ, điện thoại, hội nghị, hội thảo...) sẽ vẫn tồn tại song song với việc sử dụng những phương tiện, công cụ hiện đại như: Đĩa CD-ROM, máy tính nối mạng, hệ thống truyền thông đa phương tiện... Các loại thẻ tín dụng, thẻ nợ, thẻ thông minh đang mở ra khả năng để áp dụng các phương thức cung cấp thông tin và thanh toán chi phí mới, tiện dụng. Thương mại điện tử giúp cho doanh nghiệp thu được nguồn thông tin thị trường phong phú, cập nhật và giảm chi phí thu thập thông tin. Để tận dụng có hiệu quả sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp cần có giải pháp tích cực hoàn thiện kết cấu hạ tầng thông tin, sử dụng các chương trình phần mềm hệ thống thích hợp với hoạt động của doanh nghiệp, hoàn thiện và đào tạo đội ngũ làm thông tin để tận dụng được sự hỗ trợ của Nhà nước. Ngoài ra mạng Internet và dịch vụ cung cấp thông tin qua mạng là các nguồn thông tin thị trường nhanh nhậy trợ giúp tìm kiếm thông tin với tốc độ cao. Để có thể khai thác nguồn thông tin này có hiệu quả, các doanh nghiệp cần có những cán bộ khai thác thông tin thị trường am hiểu về kỹ thuật khai thác tin và nhanh nhậy trước phản ứng của thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước cần hỗ trợ tổ chức một số hội chợ cấp miền, cấp vùng cho những nhóm ngành hàng của doanh nghiệp sản xuất trong nước cần tiêu thụ. Cần kết nối hệ thống phân phối trên toàn quốc để tổ chức Tuần bán hàng Việt Nam, Tháng bán hàng Việt Nam có thưởng, có khuyến mãi... tạo thành một sự kiện chung có quy mô toàn quốc thay vì từng doanh nghiệp phải quảng cáo khuyến mại. Xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT) Hàng rào kỹ thuật trong thương mại nhằm 3 mục đích cụ thể: giúp bảo hộ sản xuất, bảo vệ người tiêu dùng và gìn giữ môi trường sinh thái trong nước, đồng thời đối phó được với các rào cản của các nước khác. Theo đó: - Hàng rào được xây dựng bằng các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật, an toàn vệ sinh dịch tễ, đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng có liên quan. Theo đó, các tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng, các phương pháp sản xuất và chế biến, các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp nhận... cho đến các quy định về phương pháp thống kê, chọn mẫu và đánh giá đều phải theo các định chuẩn quốc gia được xây dựng phù hợp với quy định của quốc tế. - Hàng rào được xây dựng theo các tiêu chuẩn chế biến và sản xuất dựa theo các quy định về môi trường, chủ yếu áp dụng cho giai đoạn sản xuất, bao gồm từ các định chuẩn về chế độ nuôi trồng... đến những quy định liên quan đến nguyên vật liệu dùng làm bao bì, về tái sinh, về xử lý và thu gom sau quá trình sử dụng. Kèm theo đó là yêu cầu về nhãn mác, đóng gói, bao bì, lệ phí môi trường, nhãn sinh thái... được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản pháp luật. Nhìn chung, hàng rào kỹ thuật trong thương mại là con đường bắt buộc chúng ta phải đi qua để tiến hành hội nhập kinh tế với các nước khác./.