Professional Documents
Culture Documents
báo cáo nhóm 10 - cơ kĩ thuật
báo cáo nhóm 10 - cơ kĩ thuật
ĐỀ TÀI:
1
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành công nghệ nói
chung và công nghệ vật liệu đang từng bước đạt được những thành công
nhất định. Trong đó, vật liệu quang nhiệt năng cũng giữ một vai trò quan
trọng nhất định trong ngành vật liệu. Bài báo cáo đề cập đến vật liệu
Aerogel cùng một số công ty sản xuất vật liệu quang nhiệt năng dựa trên
Aerogel, bên cạnh đó là sự phát triển, tiềm năng của vật liệu này trong
tương lai.
Nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy Bùi Hồng Sơn đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo nhóm em để chúng em, giúp chúng em hoàn thiện
báo cáo về vật liệu Aerogel một cách tốt nhất.
2
MỤC LỤC
Trang
3
I. LỊCH SỬ VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA AEROGEL
1. Lịch sử tìm ra Aerogel
Aerogel được định nghĩa là một hệ gel khô (không chứa dung môi trong hệ
gel) với một lượng lớn lỗ rỗng trong cấu trúc, aerogel có khối lượng cực kì nhẹ
nên aerogel còn được gọi dưới cái tên “khói băng” hay “khói rắn”.
Aerogel được tổng hợp bước đầu bằng quá trình hình thành hệ sol-gel, trong
đó quá trình hình thành sol-gel thường được thực hiện ở điều kiện áp suất khí
quyển và nhiệt độ phòng. Hệ gel thường được hình thành từ phản ứng polymer
hóa giữa những hạt sol với nhau hoặc cũng có thể được polymer hóa trực tiếp từ
những phân tử vật liệu ban đầu mà không cần hình thành nên hệ sol.
Tiếp theo quá trình hình thành hệ sol-gel, là quá trình già hóa, quá trình này
giúp củng cố, tăng cường liên kết giữa các phân tử trong hệ gel và cuối cùng là
quá trình làm khô dung môi. Quá trình làm khô dung môi là quá trình thay thế
dung môi trong hệ “gel ướt” bằng không khí, đây là một quá trình phức tạp, đòi
hỏi sử dụng công nghệ đặc biệt vì nếu dung môi trong gel ướt được làm bay hơi
theo những cách thông thường như sấy khô hoặc nung thì sẽ gây ra hiện tượng
“sụp” cấu trúc của gel để tạo thành dạng xerogel. Công nghệ thường được sử
dụng để làm khô hệ gel ướt đó là phương pháp trích ly dung môi bằng CO2 siêu
lỏng tới hạn (SCD).
Sự ra đời của Aerogel bắt nguồn từ một câu chuyện được kể lại vào cuối
những năm 1920, khi Samuel Kistler (1900-1975), giáo sư hóa học người Mỹ đã
đánh cược với đồng nghiệp của mình Charles Learned rằng: “Có tồn tại một loại
gel không chứa thành phần chất lỏng bên trong nó". Tất nhiên, không một ai tin
điều ông nói là đúng. Bằng sự kiên trì và quyết tâm của mình, sau nhiều thử
nghiệm và gặp không ít thất bại, cuối cùng Kistler đã tìm ra một loại gel ở trạng
thái khí (không phải trạng thái lỏng), một loại gel mới chưa từng được biết đến,
thậm chí chưa một ai tưởng tưởng ra nó. Ông đã trở thành người đầu tiên thay thế
được trạng thái lỏng của gel thành trạng thái khí và đặt tên cho nó là “Aerogel”.
Năm 1931, ông đã công bố phát hiện của mình trong bài viết: “Coherent
Expanded Aerogels and Jellies", đăng trên tạp chí khoa học Nature. Trong các
loại aerogel đã được tạo ra trên thế giới, thì silica aerogel được nghiên cứu, ứng
dụng rộng rãi và tiêu thụ nhiều nhất bởi vì silica aerogel được tổng hợp với quy
trình khá đơn giản, nguồn nguyên vật liệu để tổng hợp nên silica aerogel rất
phong phú và dồi dào, đồng thời silica aerogel có nhiều tính chất đặc biệt như độ
truyền suốt ánh sáng, dễ dàng được biến tính và thay đổi để có thể phù hợp với
nhiều mục tiêu ứng dụng khác nhau. Aerogel đầu tiên trên thế giới được tổng hợp
nên đó là silica aerogel vào năm 1931 bởi Samuel Stephens Kistler, ông có thể
giữ nguyên cấu trúc, hình dạng của hệ gel lỏng trong khi lấy đi hết dung môi
4
trong đó. Để làm được điều đó ông đã sử dụng phương pháp trích ly hết tất cả
dung môi trong hệ gel bằng phương pháp chiết suất siêu lỏng tới hạn và để lại là
một cấu trúc rắn có mật độ cực thấp. Từ thành công đó cho đến nay, người ta đã
tạo nên rất nhiều loại aerogel từ nhiều loại vật liệu khác nhau.
Aerogel được sản xuất bằng cách tách thành phần chất lỏng ra khỏi gel thông
qua quá trình sấy khô siêu tới hạn. Phương pháp này cho phép chất lỏng được
làm khô từ từ mà không làm sụp lưới chất rắn trong gel do hiện tượng mao dẫn.
Aerogel không có một vật chất được định danh với công thức hóa học cố định
nhưng thuật ngữ này được sử dụng cho nhóm tất cả các vật liệu có cấu trúc hình
học như đã biết.
Tuy nhiên, không hẳn mọi thứ đã chấm hết với Aerogel. Chỉ không lâu sau đó
các nhà khoa học đã tìm ra một phương pháp sản xuất ít độc hại hơn bằng cách
sử dụng hợp chất alkoxide thay vì gel silico, ancol được thay thế bằng CO2. Với
tiến bộ này, Aerogel như được hồi sinh trở lại, và tiếp tục vai trò của mình
trongcác lĩnh vực đời sống.
5
Khi quá trình sản xuất trở nên an toàn hơn, Aerogel ngày càng trở nên phổ
biến hơn trong các ngành công nghiệp. Các nhà sản xuất silicon, vật liệu xây
dựng và các cơ quan không gian đều sử dụng nó. Tính phổ biến của nó chỉ bị cản
trở bởi giá cả, mặc dù đã có những bước tiến dài để giảm chi phí sản xuất. Hiện
tại, Aerogel có thể được tìm thấy trong các lĩnh vực như: sản xuất đồ bơi; quần
áo dành cho lính cứu hỏa; cửa kính; tên lửa; sơn; mỹ phẩm; vũ khí hạt nhân....
7
Một viên gạch đặt trên khối silica aerogel
8
1.3 Tính chất của 3 nhóm Aerogel phổ biến:
a) Silica aerogel:
Silica aerogel có tên thường gọi là khói xanh hay khói lạnh, khói rắn do hình
thù mờ ảo của nó. Aerogel silica có màu xanh da trời, màu này được tạo ra khi
các ánh sáng trắng gặp các phân tử silica của aerogel và xảy ra hiện tượng tán xạ
Rayleigh. Các phân tử sẽ tán xạ ánh sáng, những tia sáng có bước sóng ngắn thì
bị tán xạ dễ dàng hơn so với sóng dài. Bởi vì màu xanh và màu tím có bước sóng
ngắn nhất nên chúng dễ bị tán xạ hơn các ánh sáng có thể nhìn thấy khác. Mặt
khác, do mắt người nhạy cảm với các bước sóng màu xanh lam hơn nên chúng ta
sẽ không thể nhìn thấy được màu tím.
Silica aerogel hiện giữ một số kỉ lục của chất rắn nguyên khối hiện nay:
_ Khối lượng riêng nhỏ nhất: 0,0011 g/cm3 (không khí là 0,0012 g/m3 tại 20 °C
và 1 atm)
_ Độ dẫn nhiệt thấp nhất: 16 mW/mK (không khí khoảng 25 mW/mK)
_ Tốc độ âm thanh đi qua thấp nhất: 70m/s
http://www.youtube.com/watch?v=5sw1tNeJ0Rw
Clip thử nghiệm tính năng cách nhiệt của silica aerogel
9
b) Carbon aerogel:
Carbon aerogel có màu đen và khi sờ lên có cảm giác giống như đang sờ lên
những hòn than. Diện tích bề mặt riêng lớn nhất trong số các loại vật liệu rắn
nguyên khối: 3200 m2/g. Độ xốp cao và khả năng dẫn điện tốt. Nó chỉ phản xạ
0,3% lượng bức xạ chiếu vào trong bước sóng từ 250nm đến 14,3µm.
10
Màu khác nhau của Aerogel oxide kim loại
+ Giữ 15 mục trong sách kỷ lục Guinness cho các thuộc tính vật chất, điển hình
là nhẹ nhất, rắn nhất, cách điện tốt nhất và mật độ vật chất thấp nhất.
+ Nặng hơn không khí 3 lần và nhẹ hơn thủy tinh 1.000 lần.
Mặc dù rất nhẹ nhưng một vật làm bằng Aerogel có khả năng “cõng” một vật
khác có trọng lượng gấp 500 đến 4.000 lần trọng lượng của nó.
Nó cũng có khả năng cho không khí xuyên qua, chống cháy và có thể thấm cả
dầu lẫn nước. Chưa hết, Aerogel vừa có thể làm dây dẫn điện vừa có thể trở
thành một chất cách điện tốt nhất từ trước tới nay khi được pha trộn với một số
vật liệu khác.
Với những khả năng phi thường đó, Aerogel xứng đáng với cái tên “vật liệu
tốt nhất hành tinh”. Với ngần ấy tính năng ưu việt, Aerogel có thể được áp dụng
trong rất nhiều lĩnh vực, cho phép con người làm được những điều chưa từng làm
được với các loại vật liệu trước đó.
Tuy nhiên, chi phí sản xuất Aerogel rất lớn, do mỗi lần chỉ sản xuất được một
lượng rất nhỏ và điều kiện sản xuất yêu cầu những thiết bị tối tân. Mức giá hiện
11
nay khá đắt, khoảng 100 USD cho mỗi centimet khối, tương đương 23.000 USD
mỗi pound (khoảng 453,6 g)
3. Ứng dụng
Khi mới xuất hiện, Aerogel được ứng dụng ở trong mọi lĩnh vực mà con
người có thể tưởng tượng ra, từ các sản phẩm trang điểm dành cho các quý bà
cho đến những thứ lãng mạn hơn như làm sơn cho...bom napan. Chúng cũng
được sử dụng trong các đầu lọc thuốc lá hay bộ phận cách nhiệt cho tủ lạnh.
III. CÁC CÔNG TY SẢN XUẤT VẬT LIỆU QUANG NHIỆT DỰA TRÊN
AEROGEL
A. Một số công ty
1. Aspen Aerogel
- Thành lập: 2001
- Trụ sở chính: Northborough, Hoa Kỳ
- Trang web: https://www.aerogel.com/
- Aspen Aerogel sản xuất các sản phẩm cách nhiệt aerogel linh hoạt, vượt trội
hơn các vật liệu cạnh tranh lên đến năm lần đồng thời cung cấp tính linh hoạt, tiết
kiệm không gian và dễ dàng xử lý. Sản xuất và chế biến dầu khí, xây dựng thiết
bị giao thông vận tải và hàng không vũ trụ là một trong những ngành được công
ty phục vụ.
2. Svenska Aerogel Holding AB
- Thành lập: 2000
13
- Trụ sở chính: Thụy Điển
- Trang web: https://www.aerogel.se/
- Quartzene Next Generation Aerogel là một sản phẩm độc đáo được sản xuất bởi
Svenska Airgel. Quartzene cho phép các vật liệu được sử dụng theo nhiều cách
khác nhau, dẫn đến các đặc tính hoàn toàn mới. Sản phẩm cuối cùng trở nên hiệu
quả hơn nhờ việc bổ sung Quartzene, vì nó sử dụng ít vật liệu hơn, trọng lượng ít
hơn, thay thế nhựa và tiết kiệm năng lượng.
3. Công nghệ Green Earth Airgel
- Thành lập: 2011
- Trụ sở chính: Barcelona
- Trang web: http://green-earth-aerogel.es/
- GEAT SL (Green Earth Airgel Technologies Sociedad Limitada) là nhà sản
xuất aerogel lớn nhất Tây Ban Nha. Aerogel là vật liệu xốp nano sáng tạo có
công dụng trong việc sử dụng năng lượng hiệu quả, lưu trữ năng lượng và năng
lượng tái tạo.
4. Cabot Corporation
- Thành lập: 1882
- Trụ sở chính: Boston, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
- Trang web: https://www.cabotcorp.com/
- Cabot Corporation có trụ sở tại Boston, Massachusetts, là một công ty hàng đầu
về hóa chất và vật liệu hiệu suất trên toàn cầu. Họ cung cấp các giải pháp hiệu
suất cao giải quyết những thách thức hiện tại của khách hàng đồng thời chuẩn bị
cho họ cho những nhu cầu trong tương lai. Họ chuyên tạo ra và xử lý các hạt siêu
mịn, sửa đổi bề mặt của các hạt siêu mịn để thay đổi chức năng của chúng và
thiết kế các hạt để truyền các đặc tính nhất định cho vật liệu tổng hợp.
14
học, kỹ thuật nhiệt độ cao, quang học, giáo dục và tính mới, với mục tiêu cuối
cùng là tạo ra các khối aerogel trong suốt, siêu cách nhiệt cho cửa sổ.
Các hoạt động sản xuất đầu tiên (2009-2012): Vào năm 2009, Aerogel
Technologies bắt đầu sản xuất các sản phẩm aerogel nguyên khối đầu tiên của
mình từ cơ sở sản xuất đầu tiên ở Beacon. Trong giai đoạn từ 2010-2012, công ty
đã sản xuất và bán hàng nghìn đơn vị aerogel ngoài việc đảm bảo một số đơn đặt
hàng số lượng lớn cho các bộ phận aerogel; mở rộng cơ sở sản xuất và nghiên
cứu; mở rộng các dòng sản phẩm của mình để bao gồm các hình dạng, bố cục và
các yếu tố hình thức bổ sung; hoàn thành nhiều hợp đồng giải pháp tùy chỉnh cho
các phòng thí nghiệm chính phủ, các nhóm trường đại học, và các công ty tư
nhân trên khắp thế giới.
Đột phá về khả năng mở rộng (2013): Bắt đầu từ năm 2013, các nhà nghiên cứu
tại Aerogel Technologies đã khám phá ra một phương pháp sản xuất aerogel
mạnh về mặt cơ học bên ngoài máy sấy siêu tới hạn mà không ảnh hưởng đến các
đặc tính vật liệu của aerogel. Công nghệ này, mà công ty gọi là quy trình
Stelmakh, đã trở thành cơ sở cho hai hồ sơ cấp bằng sáng chế quốc tế và khởi
đầu cho khả năng của công ty trong việc sản xuất vật liệu aerogel mà không bị
giới hạn trong các bộ phận phù hợp với kích thước của các bình áp suất cao sấy
siêu tới hạn đắt tiền. Vào cuối năm 2015, Aerogel Technologies đã giành được
giấy phép cho bằng sáng chế aerogel x-aerogel / polyme liên kết ngang của
NASA. Aerogel Technologies cũng đã được trao giấy phép thành công cho các
aerogel polyimide và polyamide mạnh về mặt cơ học của NASA cho các dạng
nguyên khối, với tính độc quyền trong nhiều lĩnh vực.
Nhà máy thí điểm (2018): Vào năm 2018, Aerogel Technologies đã đảm bảo một
khoản đầu tư tư nhân để tài trợ cho việc xây dựng nhà máy thí điểm đầu tiên trên
thế giới để sản xuất các tấm aerogel lớn về mặt cơ học. Vào tháng 5 năm 2018,
công ty đã chuyển đến một cơ sở rộng 100.000 mét vuông ở khu phố Hyde Park
của Boston và bắt đầu xây dựng một nhà máy tự động để sản xuất hàng loạt các
sản phẩm Airloy của mình.
- Sản phẩm có sẵn: Airloy X103-L, Airloy X103-M, Airloy X103-H, Airloy
X103-XH, gạch aerogel Airloy ® X103
16
Gạch aerogel Airloy ® X103
Kích thước xấp xỉ 2 "x 3" x 0,3 "(5 cm x 7,5 cm x 0,7 cm).
17
- Nhiệt độ hoạt động tối đa là ~ 300 ° C. Màu sắc là màu vàng. Kích thước xấp xỉ
2,5 "x 3" x 0,4 "(5 cm x 7,5 cm x 1 cm).
Năm 2002, giáo sư Nicholas Leventis của đại học Khoa học và công nghệ
Missouri đã khiến cả thế giới ngạc nhiên khi công bố một phương pháp mới, làm
cho Aerogel không giòn như trước. Loại vật liệu này được biết đến như là X-
aerogel, nó không chỉ mạnh mẽ hơn mà còn rất linh hoạt, không thấm nước và
chịu được lực tác động rất lớn. Nhược điểm của X-aerogel là quy trình sản xuất
đòi hỏi nhiều hóa chất nguy hiểm, mất nhiều thời gian và các hóa chất này cũng
làm giảm một phần khả năng cách nhiệt. Mặc dù vậy, X-aerogel vẫn được ứng
dụng trong các lĩnh vực như: cửa sổ ở trên mái nhà, lốp xe chống xì hơi, màng tế
bào điện hóa, một số thành phần của máy bay, lá chắn nhiệt cho tàu vũ trụ...
Trong tương lai, loại vật liệu mới này hứa hẹn sẽ là nền tảng của một nền văn
minh mới, thay đổi căn bản đời sống con người. Nó sẽ là cánh tay đặc lực giúp
con người vươn xa hơn, sẽ được ứng dụng ngày càng sâu rộng trong nhiều lĩnh
vực của đời sống. Với công nghệ vật liệu nano đang từng bước phát triển cộng
với kỹ thuật sản xuất mới với chi phí không quá cao, dự báo aerogel - loại vật
liệu có nhiều tính năng vượt trội, thân thiện với môi trường, tiềm năng ứng dụng
cao, sẽ trở thành loại vật liệu phổ biến, có mặt trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống. Hy vọng trong tương lai gần, aerogel sẽ không còn là loại vật liệu xa lạ ở
nước ta. Hơn thế nữa, việc sản xuất thành công aerogel từ vỏ trấu được thực hiện
ở Đại học Công nghệ Malaysia (UTM) bởi nữ giáo sư Halimaton Hamdan, công
nghệ mới này làm hạ giá thành aerogel từ 1.300 USD xuống còn 125 USD với
hiệu suất cách nhiệt cao gấp 37 lần so với lớp sợi thủy tinh. Song song đó, các
nhà nghiên cứu Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) cũng đã phát triển loại bọt
18
cách nhiệt aerogel làm từ tro đốt của loại vỏ trấu phế thải thành công… Kết quả
của các công trình nghiên cứu sử dụng vỏ trấu để sản xuất aerogel cách nhiệt,
một mặt hàng công nghệ cao đắt giá có phạm vi sử dụng rộng rãi, nhất là trong
lĩnh vực xây dựng đã mở ra một cơ hội mới cho các nước sản xuất nhiều lúa gạo
như Việt Nam.
KẾT LUẬN
Aerogel được định nghĩa là một loại vật liệu xốp tổng hợp, có nguồn gốc
từ một loại gel trong đó pha lỏng của gel được thay thế bằng khí khoảng hơn
90% thể tích của aerogel là không khí. Aerogel có nhiều ứng dụng bao gồm chế
tạo vật liệu quang nhiệt nhờ độ xốp và độ dẫn nhiệt thấp. Dựa vào loại tiền chất,
aerogel có thể được phân loại thành:
Thông thường, quá trình chế tạo vật liệu aerogel có hai bước chính: tạo gel
để tạo cấu trúc gel và sấy khô để thay thế pha lỏng trong cấu trúc gel bằng không
khí. Trong quá trình tạo gel, các tiền chất được trộn với nhau theo tỷ lệ mong
muốn để tạo ra hỗn hợp thuốc thử trong đó tất cả các tiền chất được phân bố đều.
Tiếp theo, gel được tạo thành trong hỗn hợp thuốc thử ở nhiệt độ thấp bằng phản
ứng hoặc sắp xếp lại pha rắn. Cuối cùng, cấu trúc aerogel thu được bằng cách
loại bỏ nước khỏi gel bằng phương pháp đông khô, trong đó mẫu được làm lạnh
dưới điểm ba của nước, đóng bang, được chế tạo cơ bản từ các thành phần tự
nhiên khác nhau như rơm rạ, lá dứa, hay bã mía, vỏ trấu để ứng dụng trong xử lý
dầu tràn và tạo thành nanocellulose để ứng dụng trong khử mặn nước biển bằng
phương pháp chế tạo đơn giản. Ngày càng nhiều các công ty lớn nghiên cứu về
loại vật liệu siêu nhẹ này nên việc ứng dụng của các vật liệu từ aerogel sẽ trở lên
phổ biến không còn là vấn đề quá xa vời ngay cả ở Việt Nam. Vật liệu quang
nhiệt – năng aerogel hứa hẹn sẽ mang lại tiềm năng lớn trong tương lai ở nhiều
lĩnh vực.
19
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. http://www.aerogeltechnologies.com/classic-aerogels/classic-aerogel-
products/
2. https://www.businesswire.com/news/home/20161122005708/en/Top-5-
Vendors-in-the-Aerogel-Market-from-2016-to-2020-Technavio
3. https://www.ventureradar.com/keyword/aerogel
4. http://www.buyaerogel.com/
6. http://secovina.com/aerogel-vat-lieu-cua-the-ky-63908u.html
7. https://123docz.net/document/8557880-vat-lieu-vo-co-aerogel.htm
8. http://www.aerogel.org/
9. https://www.tapatalk.com/groups/ddkhvl/aerogel-va-ng-d-ng-t1746.html
10. http://www.cesti.gov.vn/images/cesti/files/STINFO/N%C4%83m
%202011/S%E1%BB%91%203%20-%202011/Aerogel.pdf
20