Modern Poker Theory

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 843

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH

DỊCH GIẢ: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
Michael Acevedo

Tác giả
BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
https://www.facebook.com/thaygiao.poker
SIÊU PHẨM"MODERN POKER THEORY" - LÝ THUYẾT POKER HIỆN ĐẠI
--------
Chắc hẳn anh em trong giới Poker đều không xa lạ gì với thuật ngữ GTO, trong một vài năm
gần đây GTO nổi lên như một phong cách đánh, một cơ sở lý thuyết để xây dựng chiến thuật
chơi cực kỳ hiệu quả và được nhiều top pro trên thế giới và Việt Nam sử dụng.
Tuy nhiên, các tài liệu hoặc sách về GTO ở Việt Nam đang khá là ít, dẫn đến phần lớn cộng
đồng chưa thể tiếp cận với nó. Vì lẽ đó, Thầy giáo Poker đã thực hiện dịch cuốn Modern Poker
Theory - building an unbeatable strategy based on GTO principles (mình tạm dịch là Lý thuyết
Poker hiện đại - xây dựng chiến thuật không điểm yếu dựa trên GTO).
*Lưu ý: Đây là sản phẩm việt hóa từ team Thầy giáo Poker, kính mong độc giả không sử dụng
với những mục đích lợi nhuận để trục lợi. Nếu như các bạn phát hiện các hoạt động trục lợi,
hãy liên lạc với admin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


https://www.facebook.com/Wikipoker.net

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BUILDING AN UNBEATABLE STRATEGY
BASED ON GTO PRINCIPLES

LÝ THUYẾT POKER HIỆN ĐẠI


XÂY DỰNG CHIẾN THUẬT KHÔNG ĐIỂM YẾU DỰA
TRÊN LÝ THUYẾT GTO

PHỐI HỢP SẢN XUẤT: THẦY GIÁO POKER & WIKI POKER

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


CONTENTS

Acknowledgments

Foreword by Jon Van Fleet (Apestyles)

Introduction

PART 1) THE ELEMENTS OF POKER THEORY

1 Poker Fundamentals

The Basic Concepts

The Key Metrics

2 The Elements of Game Theory

The Core Concepts

Maximally Exploitative Strategy (MES)

Counter Exploitation

The Nash Equilibrium

The Indifference Principle

The Clairvoyance Toy Game

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Minimum Defense Frequency (MDF)

Exploitative Play Versus GTO

GTO in Multi-way Situations

3 Modern Poker Software

Equity Calculators

Range Analysis Tools

EV Decision Trees

Preflop Nash Calculators

GTO Solvers and Artificial Intelligence (AI)

Commercial Artificial Intelligence Software

GTO Solvers

PioSOLVER

MonkerSolver

GTO Poker Training Web Apps

PART 2) PRE-FLOP: THEORY AND PRACTICE

4 The Theory of Pre-flop Play

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Blinds and Antes

Complex Strategies

Playing First In

Limping

Open Push

General Guidelines for Pre-flop Bet-sizing

General Pre-flop Play Heuristics

5 6-max Cash Game Equilibrium Strategies (100bb)

Recommended Bet-sizings

GTO Raise First In Strategies

Playing vs 3-bets: General Heuristics

General Guidelines for Playing Versus Open Raises

Specific Ranges for Playing Versus Open Raises

6 The Theory of Tournament Play

Variance

Poker Tournament Metrics

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Decreasing Variance and Increasing Profitability in MTTs

Understanding Tournament Metrics and Results

MTT Bankroll Management

Game Selection

The Mental Game

Tournament Life

7 MTT Equilibrium Strategies: Playing First In

Bet-sizing

Short Stack Push/Fold Charts

Small Blind PFI Strategy

Button PFI Strategy

Cutoff PFI Strategy

Hijack PFI Strategy

Lojack PFI Strategy

UTG+2 PFI Strategy

UTG+1 PFI Strategy

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


UTG PFI Strategy

8 MTT Equilibrium Strategies: Defense

Theoretical Considerations

Big Blind Versus Small Blind

Defending the Big Blind Versus IP Player

Defending the Small Blind

Defending the Button

Defending the Cutoff

Defending the Hijack

Defending UTG+1

9 MTT Equilibrium Strategies: Playing Versus 3-bets

The Key Factors

Short Stack 2x Open Versus Rejam (10-25bbs)

Mid Stack Open Versus Non-all-in 3-bet (25-40bbs)

Big Stack Open Versus Non-all-in 3-bet (60-80bbs)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


PART 3) POST-FLOP: THEORY AND PRACTICE

10The Theory of Post-flop Play

The Theory of Betting

Equity Buckets (EQB)

Post-flop Bet-sizing

Bet-sizing and Modern Solvers

11The Theory of Flop Play

Suit Isomorphism

Dynamic and Static Boards

Flop Classification Scheme

The Flop Donk Bet (DK)

The Value of Donk Betting

The Power of Position

12The Flop Continuation-bet (c-bet)

Overall Flop Metrics

Developing IP C-betting Strategies

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Developing OOP C-betting Strategies

C-betting in 3-bet Pots

C-bet Defense

13GTO Turn Strategies

Key Strategy Lines

Turn Play After Flop Check Back (x/x)

Turn Play After Flop C-bet and Call (x/b/c)

Turn Categories

14 GTO River Strategies

Setting up a River Abstract Model

River Abstract Models

Linear Distributions

Practical Applications

Final Word

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


LỜI MỞ ĐẦU

Một Sự Thật Chưa Từng Được Tiết Lộ


Trong nhiều năm qua, những người chơi poker hàng đầu đã có những lợi thế nhất định về các
phần mềm, công cụ để giúp họ tăng khả năng giành chiến thắng hơn nữa nhưng giờ đây, văn hóa
poker đang phát triển. Những phần mềm ngày càng trở nên tinh vi hơn nhưng cũng ngày càng trở
nên dễ dàng truy cập và sử dụng hơn. Ngày nay, bất kỳ ai cũng có thể truy cập vào rất nhiều phần
mềm khác nhau để tính toán equity, phân tích range, EV và bộ giải GTO. Khi tôi bắt đầu chơi poker
online và tìm hiểu về những công cụ này, tôi đã nghĩ rằng những người chơi hàng đầu là những
người đã thành thạo chúng và hiểu tường tận rằng đằng sau những tình huống có thể xảy ra. Tuy
nhiên, tôi đã sai hoàn toàn. Ngay cả với sự phát triển của các công cụ tiên tiến này, hầu hết người
chơi poker không muốn dành hàng nghìn giờ để trở nên thành thạo với từng công cụ đó và họ chắc
chắn không muốn thiết lập các máy chủ chuyên dụng để chạy các phép tính GTO kéo dài cả tuần.
Vì vậy, làm thế nào để những người chơi đẳng cấp thế giới có thể tiếp cận với lý thuyết poker
tiên tiến nhất mà không phải dành hàng nghìn giờ để tính toán? Họ thuê người làm hộ! Họ nhờ các
nhà toán học và chuyên gia lý thuyết trò chơi hoàn thành nhiệm vụ này cho họ để họ có thể dành
thời gian làm những gì họ yêu thích nhất; giành được tiền của mọi người tại các bàn.
Tôi biết rất rõ điều này bởi vì tôi là một trong những chuyên gia đã làm điều này cho họ. Trong
vài năm qua, tôi đã có những video bài giảng về lý thuyết và tổ chức một vài hội thảo online cho
các nhóm đặt cược trực tuyến, cũng như các bài viết giành cho các học viên của tôi. Tôi cũng đã
bán các giải pháp GTO chuyên sâu cho những người chơi đẳng cấp thế giới. Tôi đã từng nói với
mọi người rằng tôi là một người chơi poker chuyên nghiệp, nhưng cho đến khi tôi viết những lời
này, tôi mới nhận ra đó không phải là những gì tôi thực sự đang làm. Thời gian tôi dành cho poker,
tính cả poker trực tiếp và trực tuyến, đều rất thấp trong vài năm qua. Tôi đã từng chỉ cho học viên
của tôi rằng hãy dành 80% cho việc chơi và 20% thời gian còn lại là để học tập, nhưng tỷ lệ của
tôi có lẽ hoàn toàn ngược lại! Mặc dù vậy, tôi đã có kết quả tốt và xếp hạng cao thứ 117 trên toàn
thế giới trên bảng xếp hạng PocketFives. Tôi đoán rằng tôi không thể thực sự gọi mình là một
người chơi poker chuyên nghiệp nếu như tôi dành quá ít thời gian để chơi poker. Tôi hiểu rằng,
thực tiễn là vô cùng quan trọng và nếu tôi không thực tiễn, tôi sẽ không thể giúp các học viên của
mình như cách tôi vẫn làm. Điều quan trọng đối với một huấn luyện viên là phải luôn cập nhật

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


metagame và biết các học trò của mình đang phải đối mặt với những gì. Tôi yêu trò chơi poker và
sau khi viết xong cuốn sách này, tất cả những gì tôi muốn làm là giành chiến thắng trên bàn poker
với tất cả những gì tôi có.
Modern Poker Theory là thành quả của nhiều năm nghiên cứu và huấn luyện đỉnh cao của tôi.
Tôi đã đặt hết tâm huyết của mình vào cuốn sách này và cố gắng hết sức để làm cho nó trở nên khác
biệt với tất cả những cuốn sách lý thuyết khác, những quyển mà chỉ xoay quanh những lý thuyết
nặng nề mà ít có ứng dụng thực tế. Mục tiêu của tôi là làm cho lý thuyết trò chơi có thể tiếp cận
được với tất cả mọi người, vì vậy người chơi sẽ không phải dành toàn bộ thời gian để tính toán và
thay vào đó có thể làm những gì họ phải làm: chơi poker!

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Poker là gì?
Có nhiều lý do để mọi người chơi poker. Một số chơi để giải trí, giao lưu, những người khác chơi
vì cảm giác hồi hộp khi thực hiện một pha bluff lớn hoặc đang sợ rằng bài đối thủ mạnh hơn, và có
những người chơi vì vinh quang khi giành được một giải đấu, một chiếc vòng tay hoặc để kiếm
tiền. Dù mục đích của họ là gì, không ai chơi poker mà muốn mất tiền cả và vì vậy, tất cả những
người chơi poker đều có chung một mục tiêu (ngay cả khi họ không nhận ra điều đó) là tạo ra và
tối đa hóa lợi nhuận!

◆ Lợi nhuận được tính như thế nào?

◆ Lợi nhuận= sai lầm của đối thủ - sai lầm của chúng ta

Nếu bạn chơi trong một bàn mà hầu hết người chơi đơn giản là rất tệ và có nhiều tiền (chẳng hạn
như trong thời hoàng kim của poker online ngay sau Moneymaker Effect – sự kiện bùng nổ của
người chơi poker tại Mỹ năm 2003 và trước Black Friday), bạn có thể chơi khá kém mà vẫn kiếm
được nhiều tiền, miễn là đối thủ của bạn chơi tệ hơn bạn. Trên thực tế, điều ngược lại cũng đúng.
Bạn có thể là người chơi giỏi thứ chín trên thế giới nhưng nếu bạn quyết định chỉ đấu với tám người
chơi giỏi hơn mình, bạn sẽ bị tiêu diệt.
Trong thời điểm hiện tại, chơi theo cách hổ báo vẫn sẽ kiếm được nhiều tiền nhưng khi mặt bằng
chung về trình độ của người chơi trở nên thành thạo hơn, tỷ lệ giữa người chơi giỏi và người chơi
kém sẽ không ngừng tăng lên. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh tăng cao vì đối thủ thì sẽ cố gắng
khai thác chúng ta đồng thời với việc chúng ta đang cố gắng khai thác chúng. Nhiều người chơi nổi
tiếng thế giới, những người đã không thể thích nghi và cải thiện trong vài năm qua đã bị lỗi thời, họ
buộc phải bỏ cuộc hoặc đang gặp khó khăn rất nhiều khi không thể đánh bại trò chơi.
Trong hai thành phần của lợi nhuận (sai lầm của chúng ta và sai lầm của đối thủ), bạn gần như
không thể kiểm soát được cách đối thủ của bạn chơi, ngoài việc lựa chọn các hand tốt để chơi. Tuy
nhiên, điều bạn luôn có thể làm là việc giảm thiểu những sai lầm của chính mình.
Vậy làm thế nào để bạn tạo ra và tối đa hóa lợi nhuận?

◆ Sửa chữa những lỗi đã có trong lối chơi của bạn và tìm kiếm những sai lầm người khác đang
mắc phải.

◆ Điều chỉnh để khai thác chúng.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đơn giản vậy thôi. Đó chính là tiền đề để nghiên cứu GTO. Nó không chỉ là về sự cân bằng. Đó
là sự hiểu biết về cốt lõi của trò chơi và sử dụng kiến thức đó để tạo ra giá trị.

01

PHẦN 1: NHỮNG YẾU


TỐ CỦA POKER

NHỮNG ĐIỀU CƠ BẢN

Ở chương này, tôi sẽ đề cập đến một lượng lớn những kiến thức thiên về mặt toán học. Và tất nhiên,
bạn phải thực sự hiểu một vài khái niệm và công thức của nó, vì chúng sẽ giúp bạn nắm bắt được
nhiều kiến thức quan trọng nhất trong poker.

Những khái niệm cơ bản


Phần này bao gồm các thuật ngữ cơ bản nhất và là cơ sở để tiến tới các chiến thuật nâng cao được
giải thích trong suốt cuốn sách này

Vị Trí Trên Bàn Poker

Vị Trí Đầu - Early Position (EP)

Ở bàn 9 người (như Sơ đồ 1) sẽ có 3 vị trí phải hành động sớm. Nếu như có ít người chơi hơn 9
người thì những vị trí đầu tiên sẽ bỏ đi.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ UTG (Under the gun) – Người chơi đầu tiên phải hành động ở vòng pre-flop.

◆ UTG1 – Người thứ hai hành động ở vòng pre-flop.

◆ UTG2 – Người thứ ba hành động ở vòng pre-flop.

Sơ đồ 1: Những vị trí trên bàn Poker 9 người

Vị Trí Giữa - Middle Position (MP)

◆ MP hay Lojack (LJ) – Người chơi thứ tư hành động ở vòng pre-flop.

◆ MP1 hay Hijack (HJ) – Người chơi thứ năm hành động ở vòng pre-flop.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Vị Trí Cuối - Late Position (LP)

◆ Cutoff (CO) – Người ngồi bên cạnh người hành động cuối cùng ở post-flop.

◆ Button (BN) – Người cuối cùng hành động ở các vòng post-flop.

Blinds

◆ Small Blind (SB) – Người bên cạnh người hành động cuối cùng ở pre-flop, và sẽ hành động
đầu tiên ở post-flop.

◆ Big Blind (BB) – Người hành động cuối cùng ở pre-flop, và sẽ hành động thứ hai ở post-flop.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những Thuật Ngữ Trong Poker

Có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng trong cuốn sách này để nói về những chiến thuật
poker một cách súc tích. Mặc dù nhiều thuật ngữ trong số này có thể quen thuộc với bạn, nhưng
một số có thể mới. Nếu bạn không chắc về nghĩa của thuật ngữ nào, vui lòng xem lại phần này.

Active Players: Những người chơi đang ở trong ván bài, thông thường chúng tôi sẽ quy ước là
bạn - Hero và các đối thủ - Villain(s).
Hero: Được coi như là chúng ta.
Villains: Đối thủ của Hero, có thể có 1 hoặc nhiều đối thủ trong 1 ván.
Pre-flop: Bao gồm tất cả những hành động trước khi những lá flop được chia.
Post-flop: Tất cả những hành động sau khi những lá flop được chia.
Có Vị Trí - In Position (IP): Người chơi có lợi thế về trí (được hành động sau cùng).
Không có vị trí - Out of Position (OOP): Người chơi không có vị trí (phải hành động đầu tiên).

Vị Trí Tương Đối: Có lợi thế về vị trí so với người chơi khác khi được hành động sau anh ta trong
suốt ván bài. Ví dụ, trong tình huống thông thường của BB vs BN, BN sẽ hành động cuối cùng ở
mỗi vòng, vì vậy BN là IP và BB là OOP.
First In: Là trường hợp hành động đầu tiên tham gia ván bài khi trước đó mọi người fold hết. Ví
dụ, nếu như bạn ngồi ở vị trí BN và mọi người fold hết đến bạn, bạn sẽ có cơ hội là nhà first in nếu
như call hoặc raise.
Stack Size & Stack Depth: Đều là các khái niệm về tổng lượng chip bạn/đối thủ đang có, và thường
được quy đổi sang BB.
Stack Hiệu Dụng - Effective Stack: Ám chỉ stack size nhỏ nhất giữa những người đang trong
ván bài. Ở trong pot head-up, stack hiệu dụng chính là số tiền tốt đa mà một trong hai người
chơi có thể thua.
Bet-size: Kích thước của lệnh bet, bet size thường được đo lường theo dạng BB (ví dụ, bet
2bb, 5bb) hoặc có thế được đo lường theo dạng tỉ lệ của pot (ví dụ bet 1/3 pot, 1/2 pot).
The Nuts: Bài mạnh nhất tại thời điểm đó. Ví dụ, AA là bài nut ở pre-flop. J♣T♣ là bài nut
của flop 9♥8♥7♦ nhưng vòng turn sẽ không còn là nut nếu như có lá cơ nào được chia ra.
Effective Nuts: Không phải là hand bài mạnh nhất, nhưng cũng đủ mạnh để chơi như là
đang cầm bài mạnh nhất. Ví dụ 7♣7♥ là bài nut tương đối ở mặt 8♥7♦2♦.
Hand Đầu Cơ - Speculative Hand: Những hand không phải mạnh ở thời điểm hiện tại nhưng
lại có thể cải thiện sức mạnh ở những vòng sau.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Air: Hand mà khi showdown sẽ chắc chắn thua và chỉ có thể giành chiến thắng bằng cách bluff.
Bắt Bluff: Những hand chỉ có thể thắng nhà bluff.
Pure Bluff: Một lệnh bet hoặc raise với một hand tương đối yếu nhằm mục đích gây áp lực cho
những bài tốt khác fold.
Semi-Bluff: Một lệnh bet hoặc raise với những hand có tỉ lệ cải thiện sức mạnh cao ở những vòng
tiếp theo để gây áp lực với những nhà có bài tốt khác.
Showdown Value: Hand bài có khả năng chiến thắng bài của đối phương khi showdown
Lợi Thế Nut – Nut Advantage: Người chơi được gọi là có lợi thế nut nếu như hand bài nut
giống như đang ở trong range bài của họ hơn là ở trong range của đối thủ.

Người Chơi Bị Động - Passive Player: Người chơi có xu hướng chơi những hand bài mạnh hoặc
bluff một cách bị động.
Người Chơi Hổ Báo - Aggressive Player: Người chơi có xu hướng luôn chủ động bet/raise khi có
cơ hội.
Pocket Pair: Hand bài khởi đầu là hai lá giống nhau. Ví dụ, A♣A♦, J♠J♦, hay 5♣5♥.
Draw – Bài Chờ: Một người chơi có cho mình một draw khi bài của anh ta đang chưa tạo thành
gì nhưng có thể cải thiện sức mạnh rất đáng kể nếu như các vòng đặt cược sau xuất hiện quân bài
anh ta muốn.
Sảnh Lọt Khe - Gutshot or Inside Straight Draw: Một draw mà chỉ có 4 out để tạo thành sảnh
– straight. Ví dụ, hand 9-7 ở flop Q-10-6.

Sảnh Hai Đầu - Open-Ended Straight Draw (OESD): Một draw mà có 8 outs để tạo thành
sảnh – straight. Ví dụ, hand J-9 ở flop Q-10-6.

Broadway: A, K, Q, J, và 10 được coi là những quân bài broadway.


Any Two Cards (ATC): Được hiểu là người chơi thể hiện range bài rộng, thường được dùng để
gây áp lực lên đối phương rằng mình có bài.
Coin Flip / Race – Tình huống 50/50: Một tình huống mà có hai người chơi all-in và mỗi người
đều có tỷ lệ khoảng 50% để thắng pot.
Cooler: Tình huống mà cả 2 hand đều rất mạnh và không có cách nào để hand yếu hơn có thể
fold đi bài đó.
Versus (vs): Đối đầu. Ví dụ, Hero với AA đối đầu với Villain cầm J9.
Game Abstraction – Trò Chơi Bị Hạn Chế: Một game mà có những hạn chế được đặt gia để
làm đơn giản hóa trò chơi hơn. Có hai kiểu hạn chế chính:
Information Abstraction – Hạn Chế Thông Tin: Trường hợp mà thông tin ở một vài vòng đặt
cược được gom lại với nhau. Ví dụ, flop A♣K♣Q♣, hand 3♥2♥, 3♠2♠ and 3♦2♦ đều được con là
một hand để đơn giản quá chiến thuật.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Action Abstractions – Hạn Chế Hành Động: Tình huống mà một vài hành động ở ván bài sẽ
không thực tế để hành động. Ví dụ như là bỏ 1BB vào pot 100BB, hay bỏ 100BB vào pot 1BB.
Rake – Phế: Rake được coi là tiền hoa hồng của nhà cái để duy trì, vận hành trò chơi. Một vài
phòng poker thì sẽ tính rake theo thời gian, một số khác thì lại tính theo phần trăm của pot.
Calling Station: Người chơi gần như không bao giờ fold nếu đã tạo ra được madehand.

Những Hành Động Của Người Chơi


Call (c): Bỏ đúng số tiền mà người chơi trước đó đã bet hoặc raise.
Limp (l): Bỏ tiền vào pot đúng bằng lệnh bet nhỏ nhất (1bb).
Raise (r): Tăng tiền cược, raise còn được hiểu là 2-bet bởi vì hành động bỏ tiền BB được tính là
hành động bet đầu tiên.
Check (x): Hành động bỏ qua lượt của mình. Ở Pre-flop nếu không có ai raise thì bạn là nhà BB
có thể check. Ở Post-flop, nếu chưa có ai bet, bạn có thể check.
Voluntary Put Money in the Pot (VPIP): Khi một người chơi tham gia vào pot một cách chủ
động, call hoặc raise (nếu ngồi ở vị trí blind thì sẽ không tính).

Raise Đầu Tiên - Raise First In (RFI): Hành động ám chỉ người đầu tiên tham gia vào pot bằng
cách raise, còn được gọi là open.
Two-bet (2-bet or 2b): Nhà blind được coi như nhà bet đầu tien, vì thế người đầu tiên raise chính
là đang hành động 2-bet. RFI là trường hợp đặc biệt của 2-bet vì trước đó không có nhà limp.
Steal – Cướp Pot: RFI từ vị trí BN, CO hoặc SB.
Isolate – Cô Lập: Hành động raise khi đã có người tham gia vào pot với mục đích chính là đối
đầu với người chơi đó ở flop.
Minraise: Khi người chơi raise ở mức nhỏ nhất có thể, là gấp đôi lần bet trước đó.
Minbet: Thực hiện lệnh bet nhỏ nhất có thể. Ở post-flop, lệnh minbet là 1 BB.
Overbet: Thực hiện một pha bet lớn, có size to hơn cả size pot.
Three Bet (3-bet or 3b): Còn được gọi là re-raise, tức là hành động tăng tiền cược khi đã có ai
đó raise trước.

Resteal: 3-bet lại người steal.


All-in or Push: Bet bằng tất cả các chip của bạn.
Open Shove or Open Jam: Thực hiện all-in khi chưa có ai tham gia vào pot trước bạn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


3-bet-Jam, 3-bet-Shove, Reshove, or Rejam: Thực hiện all-in sau khi đã có người trước đó
raise.

Four-bet (4-bet or 4b), 5-bet and any subsequent number of bets: Ám chỉ số lần bet hiện tại
ở vòng đặt cược đó.

Cold 4-bet: 4-bet khi người thực hiện không phải là người raise trước đó. Ví dụ: UTG open 2bb,
BN 3-bet 5bb và BB cold 4-bet 12.5bb.
Cold Call (cc): Hành động call một lệnh raise khi có lợi thế về vị trí hoặc là call 3-bet, 4-bet khi
trước đó bạn chưa bỏ tiền vào pot. Ví dụ, MP open to 2bb, CO 3-bet 6bb, BN fold and SB cold
call.
Squeeze (sqz): Hành động 3-bet sau khi đã có người raise và có người call. Ví dụ, UTG1 open
2bb, CO cold call, BN squeeze 9bb.
Continuation Bet (C-bet): Hành động bet tiếp diễn ở post-flop thực hiện bởi người cuối cùng
thực hiện lệnh pet ở preflop.

Donk Bet or Lead Out (DK): Hành động khi người chơi không có vị trí - OOP thực hiện lệnh
bet với nhà đã bet cuối cùng ở pre-flop.
Slow Play or Trap: Đánh chậm những hand bài mạnh một cách bị động để có thể dụ đối thủ.

Chuỗi Hành Động - Action Lines


Limp/Fold (l/f): Người chơi tham gia pot bằng cách limp, nhưng sau đó fold nếu có nhà raise.
Limp/Raise (l/r): Người chơi tham gia vào pot bằng cách limp, nhưng sau đó lại re-raise khi có
người raise.
Check/Fold (x/f): Người chơi check rồi sau đó fold nếu đối thủ bet.
Check/Call (x/c): Người chơi check rồi sau đó call lệnh bet của đối thủ.
Check/Raise (x/r): Người chơi check rồi sau đó thực hiện raise khi có người bet.
Bet/Bet (b/b): Thực hiện lệnh bet ở flop và ở turn. Nói cách khác là double barreling hay two-
barreling.
Bet/Bet/Bet (b/b/b): Thực hiện bet ở flop, turn và river. Còn được gọi là triple-barreling.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range
Khi người chơi bắt đầu tiếp cận poker, họ nghĩ đơn giản rằng phải hiểu giá trị hand bài và họ chỉ
quan tâm đến sức mạnh của hand của mình. Sau đó, khi người chơi trở nên tiến bộ hơn, họ cũng bắt
đầu nghĩ về hand bài của đối thủ. Cuối cùng, họ sẽ không cố gắng đọc đối thủ vào một hand bài
nhất định nữa nữa, mà sẽ ước lượng đối thủ có một loạt các khả năng và sẽ thu hẹp range đó dựa
trên mỗi hành động của đối thủ trong suốt ván bài. Những người chơi giỏi nhất còn đưa điều này đi
xa hơn và trong khi suy nghĩ về range đối thủ của họ, họ cũng nghĩ về range của chính họ và so
sánh với đối thủ để tính toán chiến lược.

Poker có thể trông giống như một trò chơi đơn giản đối với người mới chơi, nhưng “cần một
phút để học, nhưng cả đời để thành thạo”.

13×13 Hand Grid – Sơ Đồ Range

Sơ đò rang bài (Hand Range 1) là một biểu đồ minh họa range bài. Nó chứa tất cả 169 hand bài có
thể có: 13 pocket pair bài (5,88% tổng số ván bài) nằm theo đường chéo từ trên cùng bên trái đến
dưới cùng bên phải, 78 hand bài đồng chất (23,53% tổng số ván bài) nằm ở nửa trên bên phải được
biểu thị bằng một “S” và 78 hand không đồng chất (70,59% tổng số tay) nằm ở nửa dưới bên trái
được biểu thị bằng chữ “o”.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 1: Sơ đồ hand cơ bản

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ví dụ
Game: Live Cash Game

Stack hiệu dụng: $200


Players: 9
Blinds: $1/$2 (không ante)
Pre-flop: UTG raise $10. Giả sử, chúng ta đã quan sát người chơi này một thời gian và nhận định
anh ta rất chặt chẽ, chỉ chọn chơi những hand premium. Ngoài ra, anh ta sẽ raise với những hand
mạnh và call vỡi những hand trung bình
Khi một người chơi quyết định đặt tiền vào pot, họ đã tiết lộ một số thông tin về range. Chúng
ta có thể sử dụng thông tin đó để tìm ra range bắt đầu của anh ta.
AA: Rất có thể đối thủ chúng ta có AA ở trường hợp này, khi đó anh ta chắc chắn sẽ raise với nó
(trừ khi anh ta thích chơi chậm).
KK-99: Tất cả pocket pairs từ KK đến 99 đều nằm trong range của đối thủ.
ATs+: AKs, AQs, AJs, và ATs cũng sẽ nằm trong range của đối thủ.
AJo+, KQs: Đây cũng là những hand mà hầu hết mọi người sẽ raise ở bất cứ vị trí nào. Tổng
cộng, sẽ có khoảng 7% hand bài trong rang này (Hand Range 2).
Bây giờ hãy xem xét đến những hand tiếp theo mà đối thủ có thể chơi từ vị trí này.
ATo, A9s-A2s, KQo, KJo, 88-66, KJs, KTs, QJs, QTs, JTs, T9s, 98s (Hand Range 3), tất
cả là những hand có sức mạnh trung bình mà đối thủ có thể sẽ không raise nhưng có thể đủ tốt để
thấy một flop với giá rẻ. Từ kinh nghiệm quan sát, bạn có thể biết đối thủ này thích limp hơn với
những hand này.
Chiến thuật raise bằng hand premium và limp bằng những hand trung bình này không được
khuyến khích bởi vì nó rất dễ bị lợi dụng bằng cách chỉ raise khi đối thủ limp (vì bạn biết hand của
chúng không quá mạnh) và bằng cách fold các hanh không đủ mạnh và yếu khi đối thủ raise (vì bạn
biết họ có hand premium). Nhiều đối thủ thậm chí có thể không nhận thức được range của họ là gì
trong một tình huống cụ thể, nhưng bằng cách chú ý, bạn có thể nhận thấy xu hướng của họ và điều
chỉnh để tận dụng chúng.
Bằng cách chia nhỏ range theo cách này, đối thủ cũng khiến việc đọc bài sau flop dễ dàng hơn
rất nhiều. Ví dụ: nếu anh ta không bao giờ raise các hand như T9 hoặc các pocket pairt trung bình
thì sau khi họ raise, đối thủ của họ sẽ biết trên một flop như 8 ♣ 7 ♠ 6 ♦ rằng họ không thể có sảnh
- straight, pair hoặc 2 pair, và điều đó thể hiện range của họ sẽ chỉ bao gồm overpairs và overcards.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 2: 7% Raising Range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 3: Range hỗn hợp Raising/Limping

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đối thủ sẽ tốt hơn nhiều khi chơi một chiến thuật đơn giản hơn, nơi họ chỉ vào tiền bằng cách
raise tất cả các hand mà họ muốn chơi, khiến chúng khó đọc hơn. Đây là một chiến lược chắc chắn
sẽ hoạt động tốt ngay từ những vị trí đầu (Hand Range 4).

Hand Range 4: Range bài raise khi ở EP

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bạn phải cẩn thận về thông tin của bạn sau khi thực hiện một số hành động nhất định, bởi vì đối
thủ càng có nhiều thông tin về range của bạn thì họ càng có thể đưa ra quyết định tốt hơn. Người
chơi poker chuyên nghiệp sẽ chơi với một kế hoạch được chuẩn bị chu đáo.

Họ đã xây dựng những range của họ theo cách mà chúng không dễ bị khai thác. Tất nhiên, chỉ
cần ghi nhớ một vài biểu đồ range sẽ không khiến bất kỳ ai trở thành người chơi đẳng cấp thế giới
nhưng hiểu được range bài trong cách chơi sẽ giúp bạn tránh được những sai lầm phổ biến và cho
phép bạn đưa ra quyết định tốt hơn.

Tổ Hợp - Combinatorics
Tổ hợp là hành động chia nhỏ range và đếm các combo riêng lẻ của các hand để đưa ra quyết định
tốt hơn. Công thức để tìm số lượng combo của k đối tượng mà bạn có thể chọn từ một tập hợp n
đối tượng như sau (lưu ý rằng trong tất cả các ví dụ này, dấu “!” đại diện cho hàm giai thừa, ví dụ
6! = 6 × 5 × 4 × 3 × 2 × 1 = 720):
Công thức tính tổng số combo như sau:

Diagram 2: Bảng 4x4 các sự kết hợp của chất bài

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở pre-flop sẽ có 169 hand (169 = 13 x 13 khi ta không quan tâm đến chất bài), nhưng nếu chúng
ta tính đến chất thì số lượng combo của các hand đấy trong bộ bài 52 lá là:

Pocket Pairs (PP)

Công thức tính số combo pocket pairt ở trong range là:

Trong đó X là số lá bài còn lại trong bộ bài

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Với bất kỳ pocket pair nào, phép tính số combo đôi sẽ là:

Sơ đồ hand 13 × 13 (Hand Range 1) có đường chéo đại diện cho PP. Ta có 13 cấp khác nhau của
các đôi và 6 cách khác nhau để tạo ra một PP bất kỳ, do đó có 13 × 6 = 78 số combo của các pocket
pairs.

Những Hand Không Phải Đôi

Công thức tính số combo của những hand không phải đôi như sau:

Trong đó, X và Y là số quân bài còn lại của bộ bài. Lấy hand AK làm ví dụ. Ta có bốn quân Át
và bốn quân K trong bộ bài, vì vậy, 4 x 4 = 16, sẽ có 16 combo của AK (hoặc bất cứ hand không
phải đôi nào khác).

Những Hand Đồng Chất

Những hand đồng chất được biểu thị sở trên đường chéo PP ở sơ đồ range 13x13. Có tổng tất cả 78
hand ở trên đường chéo, và mỗi hand sẽ có bốn loại đồng chất, vì vậy sẽ có tổng 78 x 4 =312 hand
bài đồng chất.

Những Hand Không Đồng ChấtOffsuit Hands

Những hand không đồng chất được biểu thị ở dưới đường chéo PP ở sơ đồ range 13x13. Có tổng 4
x3 =12 cách để tạo thành hand không đồng chất. Vì vậy, sẽ có 78 x 12 = 936 hand bài không đồng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


chất.

Tổng lại, sẽ có 78 + 312 + 936 = 1,326 tổng các combo hand bài poker

Hand Ranges as Combinations


Có thể lý thuyết về range bài và combo sẽ khó hơn nhiều so với việc “đoán bài của đối phương là
một hand cụ thể nào đó” và điều đó đòi hỏi bạn phải luyện tập rất nhiều để có thể lĩnh hội nó, nhưng
lý thuyết này là điều mà tất cả người chơi phải làm nếu họ muốn tiến bộ trong sự nghiệp poker của
mình. Tất cả những người chơi giỏi nhất trên thế giới đều nghĩ về các tình huống theo range và
combo, chứ không phải là chỉ điểm một hand cụ thể nào. Quá trình này lúc đầu sẽ khó khăn và tẻ
nhạt, nhưng với việc thực hành nhiều lần, nó sẽ trở thành bản năng của bạn.
Ví dụ
Game: Live Cash game
Stacks: Hero $1,200, Villain $760

Players: 9
Blinds: $5/$10 (không ante)
Pre-flop: Hero ở BB với A♦3♦.
HJ là người chơi poker khá tốt. Anh ta raise $25, mọi người fold hết đến Hero, Hero call.

Hãy bắt đầu bằng cách cho HJ range open ở vị trí HJ tiêu chuẩn là 23% hand bài. Bạn sẽ hiếm
khi biết range chính xác của đối thủ, vì vậy bạn phải ước lượng nó. Hand Range 5 là một sơ đồ cơ
bản ở vị trí HJ mà bạn có thể dùng.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 5: Hijack Open Range

Phân tích Pre-flop Range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Pocket Pairs: Villain có range bao gồm 13 dạng pocket pairs, theo đó sẽ có 6 combo mỗi đôi:

Hand Đồng Chất: Villain có range bao gồm 30 hand đồng chất khác nhau, và mỗi hand có 4 cách
kết hợp:

Hand Không Đồng Chất: Villain có range bao gồm 9 hand không đồng chất khác nhau, có 12
cách kết hợp mỗi hand:

Total Range: Tổng cộng range của V:

Phân tích Post-flop Range

Bây giờ, chúng ta sẽ cân nhắc đến việc Villain sẽ có range như thế nào trên một mặt flop cụ thể. Ví
dụ như một mặt flop A♣J♥9♥.
Made Hands (Hand có sự kết hợp với mặt board)
Ở flop này, V có tổng 157 combo để tạo thành made hand.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Sets (7 Combo)
AA: Lá A♣ ở mặt flop, chúng ta có lá A♦ (block khả năng đối thủ có A♦) vì vậy chỉ còn 1
combo là A♠A♥.
JJ/99: Đều có số lượng combo như nhau, chúng ta áp dụng công thức:

Lá J♥ có ở flop, vì vậy chỉ còn 3 lá J còn lại ở trong range của V: J♠, J♥ and J♣.

Kết quả tương tự với 99, chúng ta sẽ có tổng cộng những combo tạo set:
1 combo AA, 3 combo JJ, và 3 combo 99.

Two Pair (10 Combo)


AJ: Lá A♣ và lá J♥ đều ở trên, chúng ta đã block lá A♦, vì thế sẽ chỉ còn 2 lá Át và 3 lá J còn
lại.

A9: Villain có range không bao gồm hand A-9 không đồng chất. Lá A♣ và lá 9♥ ở mặt flop, vì
thế không có 2 combo là A♣9♣ và A♥9♥ trong range. Ta block lá A♦, vì thế Villain không
thể có A♦9♦, điều đó khiến A♠9♠ là combo duy nhất ở trong range của Villain.
J9: Villain có range không bao gồm những hand J9 không đồng chất. Lá J♥ và lá 9♥ có ở flop, vì
thế sẽ chỉ có 3 combo J9.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Top Pair (38 Combo)
AK: Có 2 lá Át và 4 lá K còn lại:

Tương tự với AQ và AT, ta sẽ có tổng 8 x 3 = 24 combo.


A8s-A2s: Lá A♣ ở flop, ta đã block lá A♦ vì vậy sẽ chỉ còn 2 cách kết hợp chất cho những hand
bài có Át đồng chất này: 7 * 2 = 14 combo
Middle Pair (30 Combos)
KJ, QJ: 24 combo (công thức tương tự với công thức dùng cho top pair).
JTs, J8s: 6 combo.

Bottom Pair (15 Combo)


K9s, Q9s, T9s, 98s, 97s

Pocket Pair 1/2 (12 Combo)


KK, QQ: Pocket pair 1/2 được hiểu là đôi nằm giữa top pair và middle pair ở flop.

Pocket Pair 2/3 (6 Combos)


TT: Pocket pair 2/3 được hiểu là đôi nằm giữa middle pair và bottom pair.

Underpair (39 Combos)


33: Ta có lá 3♦ vì thế sẽ chỉ còn 3 combo của 33. Những pair khác (tổng 36 combos) sẽ là 88,
77, 66, 55, 44, 22.

Draws
Villain sẽ có khoảng 72 hand draw.

Flush Draw: (8 combo)


Straight Flush Draw: 6 combo: K♥Q♥, K♥T♥, Q♥T♥, Q♥8♥, T♥8♥, 8♥7♥

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nut Flush Draw: 0 combo: nut flush draw cũng chính là những hand top pair và nó đã được tính ở
phần top pair ở phía trên: A♥K♥, A♥Q♥, A♥T♥, A♥8♥, A♥7♥, A♥6♥, A♥5♥, A♥4♥, A♥3♥,
A♥2♥.
Second Nut Flush Draw: 1 combo: K♥8♥
Flush Draws còn lại: 1 combo: 7♥6♥
8-Out Straight Draw (18 Combos)
QT: Có 16 combo của QT, nhưng chúng ta đã tính Q♥T♥, vì thế sẽ chỉ còn 15 combo.
T8s: Chúng ta đã tính T♥8♥, vì thế sẽ chỉ còn 3 combo.

4-Out Straight Draw (36 Combos)

KQ, KT: Sẽ có khoản 16 combo mỗi loại, nhưng chúng ta đã tính K♥Q♥ và K♥T♥, vì vậy sẽ chỉ
còn 30 combo.
Q8s, 87s: Chúng ta đã tính Q♥8♥ và 8♥7♥, vì thế sẽ chỉ còn 3 cách đồng chất mỗi hand, tổng là
6 combo.

Air (6 Combo)
Bỏ đi những quân bài đã xuất hiện trên flop và bài của chúng ta (A♦, 3♦, A♣, J♥ v à 9♥), Villain
sẽ có range giảm từ 306 combo xuống 225 combo, và 219 combo ở đó đã tạo ra made hand hoặc
draw, vì vậy sẽ chỉ còn 6 combo trong range đối thủ là air, K♣8♣, K♦8♦, K♠8♠, 7♣6♣, 7♦6♦,
7♠6♠

Thống Kê Range - Full Range Stats


Thay vì thực hiện quá trình tẻ nhạt này bằng tay mỗi lần chúng ta muốn phân tích một tình huống,
chúng ta có thể sử dụng phần mềm phân tích range như flopzilla.com hoặc một công cụ equity như
power-equilab.com để có được số liệu thống kê một cách dễ dàng chỉ bằng cách nhập range đang
chơi. Trong trường hợp này, range được chia nhỏ như sau. Lưu ý rằng tỷ lệ phần trăm sẽ có thể hơn
100% vì một số hand tay xuất hiện trong hai loại.

Set: 3.11%
Two Pair: 4.44%
Top Pair: 16.9%
Mid Pairs: 18.63%
Weak Pair: 26.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Flush Draw: 8%
OESD: 8.89%
Gutshot: 17.8%
Air: 2.67%

Những Khái Niệm Quan Trọng

Pot Odds và Outs


Pot odds thể hiện cho tỷ lệ giữa những gì bạn có để đạt được trong một ván bài poker và những gì
bạn phải mạo hiểm để có được nó. Pot odd rất quan trọng, bởi vì khi so sánh với xác suất thắng
của ván bài, chúng có thể giúp người chơi ước tính lợi nhuận của việc thực hiện một lệnh call.
Nói một cách đơn giản, pot odd chính là tỷ lệ phần thưởng trên rủi ro (reward / risk) ratio. Ví
dụ, bạn có thể biết được rằng Villain đang cầm A♠K♠ trên mặt A♣8♥7♥ và bạn cầm Q♥J♥. Pot
hiện tại là $100, Villain all-in với $100.
Bạn phải quyết định rằng, lựa chọn nào sẽ là tối ưu, call hay fold. Vì vậy, làm thế nào để bạn
biết được rằng quyết định call với draw có là một quyết định có tốt hay không?
Đầu tiên, bạn cần tìm ra được pot odds của mình.

Bạn cần mạo hiểm $100 để thắng pot $200 (Villain bet + pot), ta có pot odds:

Pot odds cũng có thể được tính theo phần trăm dựa trên công thức sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong trường hợp này sẽ là:

Điều này có nghĩa là bạn cần phải có tỷ lệ thắng ít nhất 33.3% để có thể call lệnh all in này
(giả sử không có yếu tố tác động nào khác)
Bây giờ hãy cùng tôi tính toán về khả năng chiến thắng của bạn với khái niệm về outs.

Outs

Out được xem như là những lá bài mà nếu nó xuất hiện, sẽ cải thiện hand bài của bạn rất nhiều.
Trong trường hợp này, với Q♥J♥ bất cứ lá cơ nào xuất hiện cũng đều có thể cải thiện khả năng
chiến thắng của chúng ta, vì ta biết rằng đối thủ đang cầm AK và không có lá cơ nào trên tay (trừ
trường hợp cả A♥ và K♥ đều xuất hiện ở turn và river).
Có tổng 13 lá cơ trong bộ bài, và chúng ta đang giữ Q♥J♥ và 8♥7♥ đang ở trên mặt flop,
những lá cơ sẽ chỉ còn lại là: A♥, K♥, T♥, 9♥, 6♥, 5♥, 4♥, 3♥, 2♥ với tổng cộng là 9 outs. Bây
giờ, chúng ta có thể áp dụng công thức sau đây để có thể tính toán tỷ lệ chiến thắng của
chúng ta thông qua số outs còn lại:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở phần tiếp theo, tôi sẽ giải thích rõ ràng cho bạn các công thức trên. Mặc dù trong trường hợp
này chúng ta sẽ xử dụng công thứ thứ 3, do đối thủ đã thực hiện lệnh all in ở flop, nếu chúng ta call
thì hai lá turn và river sẽ được lật ngay lập tứ.

Khả Năng Có Được Lá Cơ Ở Turn


Một cỗ bài sẽ có 52 lá. Chúng ta đã biết được 5 lá, 2 lá là hand của chúng ta và 3 lá còn lại ở trên
flop. Tức là còn 47 lá chưa biết, sẽ có 9 lá có lợi cho chúng ta và 38 lá còn lại sẽ không có lợi. Vậy
tỷ lệ các lá không có lợi trên các lá có lợi sẽ là 38:9 hay 4.2:1.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Để đổi tỷ lệ 4.2:1 về dạng phần trăm, chúng ta thực hiện phép tính đơn giản sau, lấy 100
chia cho tổng tỷ lệ sẽ thu được:

Khả Năng Có Được Lá Cơ Ở River (Giả sử chưa có ở Turn)


Chúng ta đã biết tổng 6 lá của bộ bài 52 lá. Điều đó có nghĩa là 46 lá còn lại sẽ có 9 lá cơ có lợi
cho chúng ta và 37 lá còn lại sẽ không có lợi cho chúng ta. Khi đó, tỉ lệ lá bất lợi trên lá có lợi là
37:9 hay 4.1:1.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tương tự với công thức chuyển đổi sang phần trăm, chúng ta sẽ có:

Khả Năng Để Có Được Ít Nhất Một Lá Cơ Ở Turn Hoặc River

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Cuối cùng, đổi sang tỉ lệ phần trăm thì ta có được:

Bây giờ ta sẽ phải so sánh pot odds với tỉ lệ chúng ta có đượng thùng – flush sau lá river. Nhớ
rằng, V đã all-in $100 vào pot $100 (Table 1).

Table 1

Khi chúng ta sử dụng tỉ lệ dạng x:y thì nếu như tỉ lệ của việc chiến thắng có x thấp hơn pot odds
thì lệnh call đấy sẽ có mang về lợi nhuận. Trường hợp này là 2 > 1.86.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi sử dụng dạng phần trăm, tỉ lệ chiến thắng phải cao hơn pot odds thì khi đó lệnh call mới trở
nên có lợi nhuận, trường hợp này là 35% > 33%.
Hãy nghĩ rằng “Tôi có khả năng để thắng là 35% với hand bài này, lệnh call của tôi chỉ cần
33%, 35 > 33 vậy nên đây sẽ là một lệnh call mang về lợi nhuận.”
Khi bạn đã tính toán một cách chính xác, việc call với flush draw ở đây sẽ đem về lợi nhuận cho
bạn.
Một cách dễ hơn để có thể tính odds - tỉ lệ chiến thắng dựa trên số outs theo phần trăm như sau:

Trong ví dụ của chúng ta, áp dụng công thức trên sẽ có:

Bảng tiếp theo (Table 2) sẽ cho chúng ta biết được odds của mỗi số out còn lại (Table 2).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 2: Bảng tính Odds từ số Out

Bảng tiếp theo (Table 3) sẽ xác định số outs dựa trên các tình huống có thể của Poker.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 3: Những tình huống cơ bản của Poker

Backdoor Draw/Runner-Runner Draw

Backdoor draw là một bài chờ cần thêm hai lá bài để có thể cải thiện sức mạnh của hand. Khả
năng để có thể hoàn thiện một backdoor flush draw (BDFD) được tính theo công thức sau:

“Unseen cards” là những là chưa được thấy trong bộ bài 52 lá (thông thường sẽ là 47, do có 2
lá mình cầm và 3 lá flop)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khả năng để có thể hoàn thiện một backdoor straight draw (BDSTD) với ba lá đã có sẵn. Ví dụ
bạn đã có JT9 và ở flop, ở turn những lá như Q và 8 sẽ rất thuận lợi cho bạn để có sảnh hai đầu và
ta sẽ có thêm 8 out để mua bán, cộng với khả năng của việc có thêm K hoặc 7 sẽ cho bạn một sảnh
lọt khe và khi đó ta cũng sẽ có thêm 4 out nữa.

Hãy chú ý rằng khả năng để hoàn thành một draw 1 out có thể ra ở turn và river là 4.26%.
Tỉ lệ này cũng gần như tương đương với khả năng của backdoor draw, vì vậy việc có một
BDFD hay BDSTD ở flop cũng tương đương với việc bạn chỉ có một out để cải thiện hand
bài.

Các Khái Niệm Quan Trọng Về Draw

Những khái niệm dưới đây rất quan trọng và bạn học thuộc lòng để phòng trong những trường hợp
mình có draw.

◆ Dead Outs: Dead outs được hiểu là những quân bài giúp cho draw của bạn được hoàn
thiện và mạnh mẽ hơn, tuy nhiên cùng lúc đó quân bài đó giúp cho đối thủ có bài mạnh
hơn chúng ta. Ví dụ, bạn có một draw sảnh hai đầu và cần 8 out để có thể cải thiện bài
của mình, tuy nhiên đối thủ của bạn đang có một flush draw, điều đó khiến cho thực sự
bạn chỉ còn 6 out.

◆ Drawing Dead: Một hand bài được gọi là drawing dead khi không còn out nào có thể

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


giúp anh ta giành chiến thắng. Kể cả trong trường hợp bạn có cải thiện được hand của
mình ở vòng sau, thì bạn vẫn phải thua do hand của đối thủ đã quá mạnh trước đó.

◆ Implied Odds: Implied Odds ám chỉ việc bạn mong đợi sẽ thắng bao nhiêu ở vòng đặt
cược sau đó nếu như bạn có thể hoàn thiện draw của mình.

◆ Reverse Implied Odds: Còn được gọi là Implied Odds nghịch đảo, ám chỉ việc bạn sẵn
sàng thua bao nhiêu chip ở vòng đặt cược sau khi không thể hoàn thiện draw bài của
mình.

◆ Pot Committed: Bạn được coi là pot committed khi pot odds đựa trên số chip còn lại
của bạn lớn hơn tỉ lệ để chiến thắng hand này. Vì vậy, khi bạn đã pot committed, rất
khó để có thể bạn fold đi bài của mình.

Equity (Eq)
Equity là tỉ lệ giành tiền pot của bạn được xác định bởi cơ hội thắng hoặc chia tiền ở thời điểm hiện
tại của bạn tại một điểm trong ván bài. Đó là tần suất bạn sẽ thắng trung bình nếu nhữ không có
lệnh bet nào nữa và tất cả các lá bài đã được chia hết. Có thể dễ dàng tính được equity bằng cách
sử dụng bằng phần mềm equity calculator.
Có hai cách để bạn có thể truy cập phần mềm tính toán equity miễn phí:
pokerstrategy.com/poker-software-tools/equilab- holdem hoặc propokertools.com/simulations.
Sẽ có khá nhiều cách khác nhau để có thể xác định equity.

Hand vs Hand Equity

Poker hand gần như không thể xếp hạng theo sức mạnh bởi mỗi hand sẽ phải được so sánh với
hand bài đối thủ, hoặc range bài của họ.
Hãy cùng xem xét ba hand sau bằng cách sử dụng equity và cố gắng quyết định xem hand nào
trong số chúng là mạnh nhất: AKo, JTs, hay 22 (Table 4).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 4: Hand vs Hand Equity Calculations

Như chúng ta thấy, AKo sẽ có nhiều equity hơn JTs, và 22 sẽ có nhiều equity hơn AKo. Bạn có
nghĩ là theo tính chất bắc cầu thì 22 sẽ phải có nhiều equity hơn JTs không? Tuy nhiên, thực tế lại
không phải như vậy JTs sẽ có nhiều equity hơn 22. Vì vậy, không có bất cứ cách nào để có thể xếp
hạng được ba hand này theo một thứ tự nào cả.
Ngay cả khi phương pháp hand vs hand equity không thể được sử dụng để xếp hạng hand bài
một cách tổng thể, thì điều đó vẫn có thể giúp chúng ta phát triển kiến thức về cách thức hai hand
poker đối đầu với nhau như thế nào (Table 5).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 5: Những dạng Hand vs Hand Preflop Equity Thường Gặp

Hand vs Range Equity

Khi bạn chơi poker, bạn sẽ không bao giờ biết chắc chắn rằng đối thủ của bạn đang cầm hai quân
gì. Tuy nhiên, bạn có thể khoanh vùng range bài của đối thủ dựa trên những hàng động của họ, khi
đó, bạn có thể tính toán equity của mình nếu đối đầu với range bài đó.

Ví dụ
Game: $100 3-max online Sit & Go
Stacks: BN 30bb, SB 10bb, BB 20bb
Players: 3 (không ante)

Pre-flop: (1.5bb) BN fold. SB là người chơi tight – chắc cú, đã thực hiện lệnh all-in 10bb. Bạn
ngồi ở BB cầm Q♣T♠ và quyết định của bạn bây giờ sẽ chỉ là call hay fold mà thôi.
Sử dụng công thức tính pot odds ta có:

Lệnh call sẽ trở nên hiệu quả và đem lại lợi nhuận nếu như hand của bạn có tỉ lệ chiến thắng ít
nhất là 45% (nói cách khác là có 45% equity). Như đã biết, đối thủ là một người chơi chắc cú nên
chúng ta sẽ đánh giá range bài của anh ta một cách chặt chẽ hơn là đối với những người chơi khác
(Hand Range 6).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 6: SB Open Jamming (Allin) Range (10bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 6: Equity Hand vs Range của các bài khác nhau so sánh với tỉ lệ 45%

Như bảng 6 ở trên, hand của bạn là Q♣T♠ sẽ không có đủ equity để thực hiện lệnh call này với
range đối thủ (bạn sẽ có tỉ lệ thắng khoảng 43%, và điều này thấp hơn so với pot odds là 45%), vì
vậy fold ở trường hợp này sẽ là lựa chọn sáng suốt hơn.

Range Vs Range Equity

Range vs range equity sẽ rất hữu dụng trong những tình huống tại post-flop, khi bạn sẽ phải lo lắng
về việc range bài của những người chơi khác sẽ có ảnh hưởng như thế nào về các lá bài chung ở
trên mặt board.

Ví dụ
Game: $109 9-max online MTT

Effective Stack: 40bb


Players: 9 (12.5% ante)
Pre-flop: (2.625bb) Hành động fold đến bạn ở vị trí CO cầm A♦A♣ và bạn raise 2.25bb. Mọi
người fold hết đến vị trí BB, người mà bạn quan sát là một người chơi tương đối tốt. Bạn tính toán
rằng BB sẽ thực hiện lệnh defend với nhà CO là bạn với range sau (Hand Range 7).
Còn đối với bạn, việc raise ở vị trí CO thì bạn sẽ đại diện cho range khoảng 31.2% hand (Hand
Range 8).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 7: BB defend vs CO 2.25x (40bb)
• 3-bet 9.7% / • Call 56.8% / • Fold 33.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 8: CO (40bb)
• Raise 2.25x: 31.2% / • Fold 68.8%

Với nhiều mặt flop khác nhau thì equity của range bài raise ở CO 31.2% range với range bài
defend ở vị trí BB 56.8% sẽ được tính toán như sau (Table 7).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 7: Kết quả Equity khác nhau đối với những mặt flop khác nhau

So sánh range vs range equity, chúng ta nhận thấy rằng ở pre-flop, bạn sẽ có lợi thế, nhưng
equity sẽ thay đổi rất nhiều dựa vào những mặt bài ở vòng flop. Điều quan trọng là bạn sẽ phải
hiểu rằng equity sẽ có xu hướng thay đổi như thế nào khi những mặt board khác nhau sẽ ảnh hưởng
rất nhiều đến cách mà bạn sẽ chơi. Hãy cùng phân tích vào một ví dụ cụ thể là trong trường hợp
mặt flop là 8♥7♠5♠.
Theo như bảng kết quả tính equity ở trên, đây sẽ là một flop có lợ cho nhà BB. Nó cải thiện
equity range từ 41.5% lên tới 50.33%, và làm cho họ sẽ có cửa trên một chút so với chúng ta. Còn
range equity của bài chúng ta sẽ giảm từ 58.5% xuống 49.67% điều đó có nghĩa rằng, bạn cần
phải cảnh giác hơn bởi vì nhà BB sẽ có thể có equity hand cao, ví dụ như sảnh, set, hai đôi hoặc
những draw mua bán thuận lợi. Nếu như bạn lựa chọn thực hiện c-bet trên mặt flop này với một tần
suất cao, nhà BB hoàn toàn có thể check/raise (x/r) bạn một cách rất hiệu quả. Nếu như bạn lựa
chọn là check ở mặt flop, nhà BB hoàn toàn có thể bắt đầu trở nên hổ báo hơn ở những vòng turn
và river. Kể cả nếu như tính toán về hand equity của bạn là A♦A♣ là tương đối cao (70.83%), thì
về tổng quan, bạn nên lựa chọn cách chơi một cách bị động hơn và thực hiện những lệnh check với
tần suất cao hơn để có thể xem tiếp lá turn, và điều này cũng có thể sẽ khiến ta sẽ dễ dàng call lệnh
bet của đối thủ.
Bởi vì A♦A♣ có thể thực hiện lệnh call ở hầu hết các lượt bet ở turn và thực hiện bắt bluff
tương đối hiệu quả, bạn nên thực hiện lệnh check. Hãy chơi tiếp tục như hướng dẫn dưới đây:

Turn: (6.125bb) 8♥7♠5♠J♥ [2 players]


Villain bet pot, 6.125bb, Hero call.

River: (18.375bb) 8♥7♠5♠J♥2♣ [2 players]


Villain all-in for 1.7 × Pot (31bb). Hero call. Villain mở bài T♥3♥ với một draw chết.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở trường hợp này A♦A♣ là một hand rất tốt để có thể bắt bluff. Hầu hết các draw đều xịt và bạn
không có lá cơ cũng như lá bích nào ở trong tay, điều đó khiến cho đối thủ trông rất giống việc đang
cố bluff bạn bằng một draw mua thùng.
Tất nhiên, sẽ là không thể để có thể nhớ hết được tất cả các phép tính equity đối đầu giữa hand
vs range, hoặc là thực hiện chính xác những công thức trong khi bạn chơi. Tuy nhiên, việc thấu
hiểu equity sẽ là chìa khóa đến với thành công trong poker. Bạn phải dành một chút thời gian
để làm quen với việc tính toán equity để có thể làm quen với những tình huống phổ biến nhất
mà bạn sẽ phải đối mặt thường xuyên.

Việc thấu hiểu range bài của chính bạn thực sự rất quan trọng, vì mỗi hand trong range
của bạn phải được chơi theo cái cách có lợi nhất cho bạn với bối cảnh range bài đó.

Expected Value (EV)


EV là giá trị mà bạn kỳ vọng sẽ thắng hoặc thua trung bình ở trong một thời gian dài hạn và được
tính bởi công thức sau.

Về mặt toán học, EV là tổng các khả năng của mỗi kết quả có thể xảy ra nhân với giá trị của của
nó.

Trong đó:
%W = Khả năng bạn chiến thắng, nói cách khác là equity của bạn ở trong pot
$W = Số tiền bạn có nếu giành chiến thắng
%L = Khả năng bạn thua; nói cách khác chính là 100% – equity của bạn
$R = Số tiền bạn bỏ ra để chấp nhận rủi ro

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Nếu như kết quả của công thức này là số dương, tức là bạn đang có được những
khoản đầu tư tốt (+EV) và bạn sẽ kiếm được nhiều tiền về mặt đường dài.

◆ Nếu như kết quả của công thức này là số âm, tức là bạn đang có những khoản đầu tư
không tốt (-EV) và bạn sẽ mất nhiều tiền về mặt đường dài.

◆ Nếu như kết quả của công thức này bằng không, tức là những khoản đầu tư của bạn
bằng không (0EV) về đường dài bạn sẽ hòa vốn.

Theo như định nghĩa, EV của việc fold bài sẽ luôb luôn bằng không. Một khi tiền đã được đưa
vào trong pot, nó đã không còn là tiền của bạn nữa. Việc tính toán EV sẽ bắt đầu lại từ thời điểm
bạn quyết định hành động tiếp theo của mình. Vì vậy, việc fold bài đồng nghĩa với việc không gây
thêm bất cứ rủi ro nào, nên EV của việc fold bằng 0 là vì vậy.
Những công cụ tính toán EV đang trở nên rất quyền lực bởi nó có thể quyết định được trò chơi
nên được chơi như thế nào. Giả sử như người chơi biết được chính xác EV của mỗi hành động tại
mỗi thời điểm thì việc với poker sẽ trở nên cực kỳ đơn giản bởi việc họ làm sẽ chỉ là chọn lựa chọn
có EV cao nhất.

Ví dụ
Game: $100 3-max online Jackpot Sit & Go
Stacks: BN 35bb, SB 15bb, BB 25bb
Players: 3 (không ante)

Pre-flop: (1.5bb) Hero ngồi ở BN cầm A♠5♠


Hero raise 2x, SB là người chơi khá, all-in 15bb. BB fold và đến lượt Hero đến lượt phải đưa ra
quyết định.

Hãy thử dành thời gian để phân tích từng phần từng phần một của công thức tính EV.
Villain là người biết chơi, vì thế bạn nên áp họ vào range rejam (allin) tiêu chuẩn khoảng 20%
(Hand Range 9).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 9: Một Range Rejam Tiêu Chuẩn của nhà SB 20% vs BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Sử dụng công thức tính equity, bạn có thể thấy rằng hand của bạn A♠5♠ sẽ có khoảng 43.31%
equity so với range của nhà SB range. Vì vậy,

%W = 43.31%

Nếu bạn giành chiến thắng ở lệnh call allin của nhà SB này, bạn chiếm được pot có giá trị là:

$W = 15+1+2 = 18bb

Tần suất bạn sẽ thua pot này với equity đã tính ở trên sẽ là:

%L = 100% - 43.31% = 56.69%

Cuối cùng, số tiền mà bạn cần mạo hiểm để thực hiện lệnh call:

$R = 13bb

Lắp hết tất cả số liệu đó vào trong công thức:

Bạn sẽ quyết định call với A♠5♠ bởi vì nó hành động đó sẽ mang về EV cao hơn. Nếu như bạn
call, EV của bạn sẽ là 0.4, còn khi fold bài, EV của bạn sẽ chỉ là 0.

Win Rate – Tỉ lệ Chiến Thắng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Một cách khác để có thể hình dung về EV là dưới dạng số big blinds thắng hay thua trung bình sau
100 hand (bb/100). Bởi lẽ chúng ra đang thực hiện cách tính EV dưới dạng big blinds nên tất cả
những gì chúng ta cần làm là nhân EV với 100 (EV × 100).
Chiến thắng trong Poker không tính bởi một vài hand bài mà là kết quả của cả một quãng đường
dài. Kỹ năng đưa ra những quyết định có lợi sẽ là điều kiện tiên quyết để trở thành người chơi giỏi
trong dài hạn. Người chơi giỏi sẽ luôn luôn lựa chọn những hành động mang về EV cao nhất cho
họ.
Chúng ta đã nhìn thấy ở ví dụ này, một người chơi nếu như anh ta luôn luôn call với hand A♠5♠
sẽ kiếm được trung bình 40 big blind mỗi 100 hand hơn là những người chơi luôn fold.

Kể cả khi 0.4bb trông có vẻ chỉ là một số tiền nhỏ nếu như so với rủi ro để có thể call lệnh
all-in của đối thủ bằng một phần của stack của bạn. Đó là một tỉ lệ nhỏ, nhưng nếu được lặp
đi lặp lại cả nghìn lần, nó sẽ làm nên sự khác biệt giữa những người chơi đẳng cấp thế giới
và những kẻ gà mờ. Và tất nhiên trong suốt thời gian đó, những tỉ lệ nhỏ này có thể mang về
cho bạn hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu đô la.

Vì vậy, việc thấu hiểu hand equity so với range bài đối thủ có thể giúp chúng ta dự đoán được
EV và thực hiện những hàng động tốt hơn.

EV Rescaled

EV Rescaled là định nghĩa về EV khi chúng ta coi EV là một phần của pot:

Ví dụ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Pot đang có $150 và bạn sẽ phải lựa chọn một trong hai hành động có EV khác nhau, A và B:

EV(A) = $75
EV(B) = $100

EV rescaled trong cả hai trường hợp đó là:

Hành động B hơn tới 17% so với hành động A, điều đó chứng tỏ thực hiện hành động B sẽ là một
lựa chọn tốt hơn.

Fold Equity (FE)


Fold equity thể hiện cho việc bạn có thêm equity từ khả năng đối thủ sẽ fold đi hand bài sau lệnh
bet của bạn.

Ví dụ
Game: $215 Online Tournament
Effective stack: 100bb

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Players: 9 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) Hero ngồi ở CO cầm bài 8♦7♦ và raise 2.2bb. Mọi người fold hết tới BB người
thực hiện lệnh call với 3♦3♥.
Flop: (4.9bb) A♠K♠5♣ [2 players]
BB check. Khi đó Hero nên làm gì?

Ở ví dụ này, nhà BB có 71% equity với đôi nhỏ trong khi bạn sẽ chỉ có 29%. Tuy nhiên, nếu như
bạn thực hiện lệnh bet ở flop, bạn có thể kỳ vọng rằng đối thủ sẽ fold với tuần suất hơn 75%. Vì
vậy, bằng cách sử dụng công thức FE chúng ta có:

Tuy nhiên, khái niệm Fold Equity thường được sử dụng ở những trường hợp mang ít yếu tố kỹ
thuật hơn, nó chỉ đơn giản là tạo áp lực để cho người chơi khác fold đi hand bài của họ.

Ví dụ
Game: $109 9-max online MTT
Stacks: BN 35bb, SB 25bb, BB 15bb
Players: 9 (12.5% ante)

Pre-flop: (2.625bb) Hero ngồi ở BB với T♦5♣


BN raise 2bb. Anh ta là một người chơi rất hổ báo và thường chơi rất nhiều hand và có xu hướng
fold khi gặp trở ngại. SB fold, và đến lượt Hero hành động.

Hand bài của bạn khá là tệ và bạn sẽ thường nên fold đi hand bài này nếu phải đối đầu với một
người chơi khá. Tuy nhiên, bạn biết rằng đối thủ chơi rất nhiều hand từ vị trí BN. Vì một range bài
rộng sẽ rất khó để defend với một lệnh re-raise, bạn có suy nghĩ rằng đối thủ đang bị fold quá nhiều
(over-folding) và sẽ fold bài nếu như bạn thực hiện lệnh all in ngay ở thời điểm này. Vì vậy, Sẽ
cần bao nhiêu fold equity mà bạn cần để có thể có lệnh all-in tốt với T♦5♣?
Để trả lời câu hỏi này, bạn cần sử dụng công thức tính EV và làm cho nó bằng 0 và tỉ lệ đối thủ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


fold (Villain Folds) bằng FE

Bây giờ, chúng ta sẽ cùng phân tích từng phần của công thức.
Khi Villain fold, bạn sẽ chiến thắng pot:

Nếu như bạn quyết định all-in, thì Villain sẽ không thể thực hiện lệnh re-raise với bạn. Vì vậy,

Nếu như bạn bị call, bạn sẽ chơi với pot tổng cộng là 31.625bb. Tức là bạn đang mạo hiểm
thêm 14bb và ước tính rằng T♦5♣ sẽ có khoảng 31% equity so với range call của Villain.

Từ tất cả điều trên, chúng ta có được như sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bạn sẽ cần tới ít nhất là 47% fold equity để có thể thực hiện lệnh all-in một cách hiệu quả với
T♦5♣.
Nếu như bạn tính toán được rằng Villain sẽ open khoảng ~60% range hand ở vị trí BN (Hand
Range 10) và sẽ call lệnh all-in từ nhà BB với range bài 28.8% hand (Hand Range 11).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 10: Range 60% Của Nhà BN Open

Tần suất để nhà BN có thể thực hiện lệnh Call:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
Hand Range 11: BN Open với BB Rejam (15bb)
• Call 48% / • Fold 52%

Tần suất fold bài của nhà BN là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ít nhất sẽ phải cần tới fold equity là 51% và bạn có 52%. Vì vậy, quyết định all-in với T♦5♣ là
một quyết định vừa đủ để tạo ra lợi nhuận.

Hand Playability – Cơ Hội Của Mỗi Hand

Nếu như không có bất cứ lệnh bet nào trong ván poker và những người chơi chỉ được phép all-in
hoặc fold (giống như trò chơi all-in or fold), EV của từng người chơi sẽ được tính bằng hand
equity của họ nhân với pot.

Ví dụ
Trong một ván heads-up, mỗi người đều phải đóng ante $100 và sẽ không được thực hiện bất cứ
lệnh bet nào cả. Player1 được chia 4♦4♠ và Player2 được chia 9♥8♥.
EV của từng người chơi ở đây là bao nhiêu?

Equity của 4♦4♠ = 47.26%

Equity của 9♥8♥ = 52.74%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong ví dụ trên, cả hai người chơi sẽ nhận thấy dễ dàng 100% equiy của họ. Tuy nhiên, khi thực
chiến, sẽ có rất nhiều lệnh bet ở mỗi vòng đặt cược. Nếu như người chơi fold trước khi showdown,
tức là họ đã từ bỏ equity của mình và nó sẽ được chuyển sang những người còn lại trên bàn. Nguyên
lý còn được gọi là sự chuyển dịch equity hay suy nghĩ rộng hơn thì vấn đề đó chính là việc đánh
giá equity - equity realization.

Equity Realization (EqR)

Equity realization hay đánh giá equity được định nghĩa là tỉ lệ phần trăm giành được pot dựa
trên raw equity của hand bài trước nhiều tình huống postflop khác nhau.
Equity realization nói dễ hiểu hơn là định nghĩa đề cập tới phần equity mà sẽ được chuyển hóa
thành EV. Những người chơi mà hand của họ có tỉ lệ phần trăm của pot cao hơn tỉ lệ của equity tức
là học đang đánh giá cao hand của họ hơn bình thường. Những hand mà có tỉ lệ phần trăm của pot
thấp hơn tỉ lệ equity thì tức là những hand đấy đang bị đánh giá thấp hơn mức bình thường.

Ví dụ
Game: $55 9-max online MTT
Stacks: UTG 50bb, BB 40bb
Players: 9 (12.5% ante)

Pre-flop: (2.625bb) UTG là người chơi khác, raise 2bb. Fold hết đến Hero ngồi ở BB với 9♣5♦
và phải đưa ra quyết định.

Là một người chơi khá, ngồi ở vị trí UTG thì range của anh ra sẽ tương đối tiêu chuẩn, khoảng
16% range (Hand Range 12) điều này khiến cho anh ta sẽ tương đối dễ dàng thực hiện lệnh defend
nếu chúng ta 3-bet, Vì thế 3-bet với 9♣5♦ là một lựa chọn tương đối tệ. Quyết định của chúng ta
sẽ là fold hay là call.
Nếu bạn băn khoăn có nên thực hiện lệnh call hay không, giải pháp ở đây sẽ đơn giản là so sánh
với pot odds với equity của hand bạn cầm và thực hiện lệnh call nếu hand equity lớn hơn pot
odds.
9♣5♦ có hand equity so với UTG range = 29.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Rõ ràng là hand equity của bạn đang có tỉ lệ rất tốt nếu so sánh với pot odds. Tuy nhiên, đây
không phải là lệnh all-in, nếu bạn thực hiện lệnh call bạn sẽ phải chơi ở postflop với rất nhiều khả
năng có thể xảy ra. Đối thủ có thể thực hiện những lệnh bet một cách hổ báo hơn và đôi khi lại
khiến bạn có thể fold đi hand bài tốt hơn. Anh ta cũng có thể sẽ có bài mạnh hơn bạn và khi đó bạn
sẽ thua một pot lớn. Cũng có thể bạn sẽ có được một hand tốt ở flop nhưng cũng khó để có thể hành
động, kể cả đôi khi bạn có thể lấy được một chút chip từ đối thủ. Và thực tế ta có thể thấy rằng, raw
equity (equity được tính nếu như bạn all-in) sẽ chẳng có tác dụng nhiều với những trường hợp chúng
ta đã nêu ở trên.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 12: UTG 16% Open Range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi nào bạn có thể biết được rằng lệnh call của bạn sẽ mang về EV+ nếu như bạn mù tịt về
những trường hợp có thể xảy ra?

Equity realization (đánh giá equity) là một phương pháp có thể cho bạn biết được rằng trung
bình bạn cần kỳ vọng mình có bao nhiêu equity để có thể vượt qua được các tình huống có thể
xảy ra. Vì vậy, nếu bạn tính toán được hai chỉ số là hand equity (Eq) và equity realization
(EqR), bạn có thể tính được mức độ kỳ vọng của hand cho nhiều tình huống phức tạp khác
nhau, trong tình huống này là những tình huống ở post-flop.

Từ công thức trên, ta có thể suy ra được công thức cho EqR nếu như đã biết Eq và EV:

Nếu như chuyển đổi EV sang dạng %EV:

Công thức tính equity realization ở dạng đơn giản nhất sẽ là:

Việc tính toán chính xác EqR cho từng hand khác nhau là việc gần như không thể, vì về cơ bản

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nó sẽ là tổng hợp những sự tính toán của tất cả trường hợp trong poker. Tuy nhiên, sẽ có một số
cách mà bạn có thể tính ra được giá trị gần đúng nhất.

◆ Bạn có thể sử dụng dữ liệu thực tế từ hàng triệu hand bài chơi poker online để có thể
so sánh giữa equity của họ với tỉ lệ của mỗi pot họ giành được.

◆ Bạn có thể sử dụng những công cụ hiện đại để tính toán EqR của mỗi hand trong nhiều
trường hợp khác nhau và tính trung bình kết quả.

Equity Realization Heatmaps – Sơ Đồ EqR

Sau đây là sơ đồ equity realization (heatmaps) (Heatmaps 1-4) được tạo ra bởi Pio Solver. Ở
đây, họ đã cho ta thấy kết quả của tình huống nhà BB chơi tất cả các pot đều raise pot để đối đầu
với nhà EP hoặc BN khi stack thấp và trung bình (bàn 12.5% ante).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Heatmap 1: Equity Realization (10-20bb) vs nhà EP

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Heatmap 2: Equity Realization (10-20bb) vs nhà BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Heatmap 3: Equity Realization (30-75bb) vs nhà EP

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Heatmap 4: Equity Realization (30-75bb) vs nhà BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta cùng quay trở lại với ví dụ hand bài 95o, hãy cùng quan sát tỉ lệ EqR từ heatmap 3 và
lắp tỉ lệ vào công thức tính EV:

Điều này chứng tỏ rằng việc thực hiện lệnh call với 9♣5♦ sẽ là một quyết định không tốt, và thực
tế thì chúng ta nên fold đi hand bài này (Mặc dù thực tế là lệnh call vẫn sẽ đủ raw equity để có thể
thực hiện).
Một cách khác để có thể giải quyết vấn đề này là bắt đầu bằng việc tính toán có bao nhiêu equity
của hand 9♣5♦ cần thiết để có thể thực hiện lệnh call tốt:

9♣5♦ có EqR là 58%, tức là thấp hơn 3% so mới mức ít nhất để call là 61%. Điều đó có nghĩa
rằng nếu chỉ số EqR của chúng ta cao, có thể rất cao, chúng ta vẫn sẽ khó mà nhận ra được liệu nó
có đủ để có thể chơi ở post-flop hay không với lệnh call đó.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Tới Cơ Hội Của Mỗi Hand

Vị Trí - Position

Tầm quan trọng của vị trí là điều mà hầu như tất cả những người chơi poker đều có nhận thức ở
một mức độ nào đó. Kể từ khi bắt đầu chơi, mọi người đã biết được rằng nên hạn chế chơi khi
không có lợi thế về vị trí và làm thế nào để tối ưu hóa khi chơi có lợi thế về vị trí, nhưng điều mà
nhiều người không để ý đến làtại sao vị trí lại quan trọng như vậy.
Khi bạn có lợi thế về vị trí, tức là bạn là người thực hiện hành động cuối cùng ở mỗi vòng đặt
cược, nghĩa là bạn có thể quan sát đối thủ của mình làm gì và đưa ra những phân tích, hành động
phù hợp. Quan trọng nhất, nếu đối thủ của bạn check, bạn có thể check behind (check sau khi đối
thủ chec) và được xem bài vòng sau miễn phí, điều này tạo ra sự khác biệt rất lớn trong việc đánh
giá equity khi IP so với OOP. Sau khi check OOP, bạn thường phải đối diện với một lệnh bet và
thường sẽ phải fold bài và tự hủy equity của bạn ở trong pot.

Hand Strength – Sức Mạnh Hand Bài

Nếu một hand có nhiều raw equity, việc đánh giá equity sẽ trở nên đơn giản hơn vì những bài có
equity cao thường sẽ vẫn vui vẻ để chơi những pot lớn. Những hand đó cũng có thể cho bạn nhiều
phương án khác nhau (check, call, raise).
Những hand có equity ở mức rất thấp cũng sẽ chơi rất dễ dàng, vì đơn giản là hầu hết chúng ta
sẽ fold đi hand bài đó.
Những hand bài có sức mạnh ở mức trung bình sẽ là những hand khó nhất để có thể chơi, bởi vì
người chơi cầm những hand này thường có xu hướng showdown, hoặc xem bài vòng sau miễn phí
nhưng luôn phải đối mặt với áp lực tạo ra từ đối phương.

Yếu Tố Đồng Chất Của Hand

Tính trung bình, những hand bài đồng chất thường nhiều hơn 16% equity so với những hand đó
nhưng không đồng chất (vì hand đồng chất dễ dàng có thể tạo ra được flush, flush draw hoặc flush
backdoor). Điều này mang tới cho chúng ta sự linh hoạt hơn, có thể thực hiện semi-bluff một cách
hiệu quả hoặc call lệnh bet với một implied odds caos.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Yếu Tố Liên Tiếp Của Hand

Những hand không liên tiếp và không đồng chất, ví dụ như Q2o là những hand có EqR thấp nhất.
Những hand như thế thực sự rất khó chơi vì kể cả trường hợp đẹp nhất là có được đôi cao (không
kicker) tại flop hoặc trường hợp có đôi nhỏ cũng rất khó và loại hand này có khả năng tạo draw rất
thấp.

Lợi Thế Range - Range Advantage

Có lợi thế về range vs range equity có thể giúp những hand yếu hơn thực hiện được equity, nếu
range của bạn được đánh giá mạnh hơn so với range của đối thủ, họ sẽ không thực hiện những lệnh
bet quá hổ báo. Điều này cũng cho phép những hand yếu hơn ở trong range, có thể nhìn được thêm
những lá bài free hoặc giảm áp lực của những lệnh bet phải đối mặt.

Tỉ Lệ Giữa Stack và Pot - Stack to Pot Ratio (SPR)

SPR được tính bằng stack hiệu dụng chia có size của pot:

Việc kiểm soát được stack của mình đang có bao nhiêu so với pot hiện tại cũng là một kỹ thuật
cần thiết. Nó cho phép bạn có thể lên kế hoạch và tính toán cho size lệnh bet của mình và đưa bản
thân mình vào thế cửa trên SPR theo range bài đang chơi. Table 8 cho ta biết rằng tỉ lệ SPR thông
thường ở MTTs với 12.5% ante.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 8: Typical SPR in MTTs with 12.5% Ante

Những Trường Hợp SPR Cơ Bản

◆ SPR Thấp (0-5): Những hand mà ở flop tạo ra được top pair hay over pair sẽ phù hợp hơn
là những hand mang tính đầu cơ (mua thùng, sảnh) trong trường hợp này. Vì những hand
mua thùng/sảnh sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện quá equity do có quá ít fold equity
và implied odds thấp.
◆ SPR Trung Bình (6-11): Giá trị của top pair sẽ bị hạ thấp trong khi đó giá trị của các hand
đầu cơ sẽ tăng cao trong trường hợp này. EqR của hand sẽ được xoay xung quanh những
hand có khả năng mua bán mạnh như mua thùng/sảnh hơn là top pair.

◆ SPR Cao (11+): Khi mà stack của bạn càng ngày càng nhiều, sẽ rất nhiều hand có giá trị

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


tốt và có cơ hội để trở thành bài nut. Những hands như set, nut draw, high flush và
straight, sẽ thường có cơ hội để có thể đánh bại đối thủ (nếu đối thủ cũng có bài mạnh,
nhưng yếu hơn chúng ta, chúng ta có cơ hội để lấy được nhiều chip hơn). Những đôi
riêng lẻ sẽ gặp một chút khó khăn để showdown với những pot hơn trừ khi chúng ta có
equity để dự phòng.

Các Mẫu Hình Range Morphology

Range của hand bài có thể được chia ra làm nhiều mẫu hình khác nhau dựa trên equity và range của
đối thủ.

Linear Range – Range Tuyến Tính

Một range được gọi là tuyến tính khi mà nó gồm những hand có equity cao nhất mà không có
khoảng trống nào giữa các hand đó. Đây là một ví dụ của range tuyến tính (Hand Range 13).

Range Phân Cực - Polarized Range

Một range được gọi là phân cực khi nó bao gồm những hand có equity cao để value và những hand
có equity thấp để bluff. Một range phân cực hoàn hảo là khi ở đó chỉ còn bài nut và bluff, không
có hand gì ở giữa chúng cả. Đây là một ví dụ của range phân cực (Hand Range 14).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 13: Hand với ít nhất 60% Equity khi đối đầu với một hand bất kì

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 14: Hand với hơn 65% và ít hơn 40% Equity khi đối đầu với hand bất kì

Range Hội Tụ - Depolarized/Condensed Range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Một range hội tụ đối lập hoàn toàn với range phân cực. Nó sẽ gồm những hand có equity chỉ ở
mức trung bình. Hãy xem ví dụ về range hội tụ Hand Range 15.

Range Giới Hạn/ Range Không Giới Hạn - Capped/Uncapped


Range

Khi range bài không có hand mạnh nhất, lúc đó ta gọi là range bài đã bị giới hạn (capped range).
Ngược lại, nếu range bài có bao gồm những hand mạnh nhất trong đó, ta sẽ gọi là range không bị
giới hạn (uncapped range).

Ví dụ
Game: $215 9-max online MTT
Stacks: BN 25bb, BB 15bb
Players: 9 (12.5% ante)

Pre-flop: (2.625bb) BN raise 2bb, SB fold và BB call.


Flop: (5.625bb) A♥J♦T♠ [2 players]

Ở mặt flop A♥J♦T♠, range của nhà BB (Hand Range 16) sẽ không có những hanh nut như nut
straight (KQ), set (AA, JJ, TT), và 2 pairs (AJ-AT), khi đó chúng ta sẽ nói rằng range này đã bị
giới hạn (capped). Đối lập với điều đó, range nhà BN (Hand Range 17) sẽ được gọi là không giới
hạn (uncapped) bởi sẽ có rất nhiều hand mạnh ở trong range đó.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 15: Hands có equity nằm giữa 40% và 65% đối đầu với một hand bất kỳ Hand

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 16: A Capped Range – Range bị giới hạn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 17: An Uncapped Range – Range không bị giới hạn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta còn có thể nhận thấy rằng, range hội tụ sẽ được coi là một range bị giới hạn, nhưng
điều ngược lại thì chưa chắc đúng. Range bị giới hạn đôi lúc sẽ không phải range hội tụ. Ví dụ,
nếu như flop là 5♥4♦3♠, khi đó nhà BB có range hội tụ nhưng lại bao gồm tương đối nhiều hand
mạnh như straight, 2 pairt, và chắc chắn lúc đó range sẽ không bị giới hạn.
Lưu ý: Khi chơi poker thực tế, range sẽ ít khi hoàn toàn phân cực, hoàn toàn tuyến tính hoặc
chính xác loại nào. Trong hầu hết trường hợp, nó sẽ được kết hợp giữa các loại range khác
nhau.

02

NHỮNG YẾU TỐ CỦA LÝ


THUYẾT TRÒ CHƠI

Những Khái Niệm Cơ Bản


Những khái niệm dưới đây đặc biệt quan trọng và bạn phải nắm vững vì chúng sẽ xuất hiện nhiều
lần trong cuốn sách này khi nói về lý thuyết trò chơi.

Lý Thuyết Trò Chơi - Game Theory: Toàn bộ những kiến thức, nghiên cứu về toán và khoa học
để có thể đưa ra những quyết định tối ưu và hợp lý nhất. Lý thuyết này thậm chí còn có thể ứng
dụng trong kinh tế, chiến thuật quân sự, chính trị, tâm lý học, sinh học, khoa học máy tính và các
trò chơi khác như poker.
Trò Chơi - Game: Gồm bất kỳ sự tương tác nào giữa nhiều người chơi, trong đó tiền thưởng của
mỗi người sẽ bị ảnh hưởng bởi những quyết định của người chơi khác.
Tính Hữu Dụng - Utility: Thang đo tổng quan về mức độ hài lòng của một người chơi khi có
được những kết quả cụ thể. Khi hành động có tính hữu dụng càng cao, thì nó sẽ được ưu tiên hơn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


những hành động khác.
Trò Chơi Tổng Bằng 0 - Zero-Sum Game: Đây là một sự diễn tả về mặt toán học trong trường
hợp mà khoản lãi/lỗ của người này chính là khoảng lỗ/lãi của người khác. Nếu như ta lấy tổng
khoản lãi của tất cả người chơi trừ đi tổng số tiền mà những người chơi còn lại lỗ, ta sẽ có tổng
bằng 0. (Poker cũng là trò chơi có tổng bằng không nếu như chúng ta không tính tới rake hay ICM
[Independent Chip Model] sử dụng ở bàn final MTT và SNGs; điều này sẽ được tìm hiểu kỹ hơn
ở phần sau cuốn sách.)
Chiến Thuật - Strategy: Bao gồm tất cả những hành vi chi tiết của người chơi, mô tả từng hành
động mà người chơi sẽ thực hiện tại mọi thời điểm quyết định có thể trong suốt trò chơi.
Chiến Thuật Thuần - Pure Strategy: Một chiến thuật mà những hành động giống nhau sẽ luôn
luôn được hành động ở những thời điểm giống nhau.
Chiến Thuật Hỗn Hợp - Mixed Strategy: Một chiến thuật bao gồm nhiều chiến thuật thuần với
tần suất khác nhau ở cùng những thời điểm giống nhau.
Chiến Thuật Vượt Trội - Dominant Strategy: Khi một chiến thuật mang lại lợi nhuận cao hơn
một số chiến thuật khác, bất kể những người chơi khác chơi như thế nào. Ngược lại, một chiến
thuật được gọi là yếu thế, nếu như bất kể đối phương có làm gì, chiến thuật đó sẽ kiếm được ít lợi
nhuận hơn một số chiến thuật khác.

Ví dụ cho hai chiến thuật khác nhau là A và B.

◆ B vượt trội hoàn toàn so với A nếu như lựa chọn chiến thuật B sẽ luôn luôn có kết quả
tốt hơn lựa chọn chiến thuật A, không quan tâm tới những người chơi khác như thế nào.

◆ B vượt trội một phần so với A nếu như tồn tại ít nhất một chuỗi hành động của đối
thủ khiến cho B có lợi nhuận vượt trội so với A. Và những hành động còn lại của đối
thủ sẽ khiến cho kết quả của hai chiến thuật A và B như nhau.

◆ B yếu thế hoàn toàn so với A nếu như lựa chọn chiến thuật B sẽ luôn luôn có kết quả tệ hơn
so với lựa chọn chiến thuật A, bất luận đối phương hành động như thế nào.

◆ B yếu thế một phần so với A nếu như tồn tại ít nhất một chuỗi hành động của đối thủ khiến
chiến thuật B có kết quả tệ hơn chiến thuật A, trong khi những hành động còn lại của đối
thủ sẽ khiến kết quả của hai chiến thuật như nhau.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ B và A không liên quan tới nhau nếu như chiến thuật B không vượt trội hơn và cũng
không bị yếu thế hơn so với chiến thuật A thì khi đó phải dựa vào hành động của đối thủ
để có thể đưa ra chiến thuật hợp lý nhất.

Chiến Thuật Khai Thác Đối Thủ Tối Đa


Chiến thuật khai thác đối thủ tối đa (Maximally Exploitative Strategy – MES)là một trong những
chiến thuật mang lại lợi nhuận nhiều nhất dựa trên chuỗi hành động của đối thủ. Để tính toán MES
bạn cần phải thấu hiểu hoàn toàn chiến thuật của đối thủ. Bạn có thể tìm được MES bằng việc thử
những cách có lợi nhất để chơi ở từng hand bài cụ thể. Một khi đã tìm hiểu được, tổng giá trị của
trò chơi sẽ là tổng của từng EV cho những hand bài cụ thể.
Nếu bạn có thể tìm ra được những cách chơi lợi nhuận cao nhất với mỗi 1,326 hand Hold’em
khác nhau, bạn sẽ tìm được MES. Bởi mỗi hand sẽ luôn luôn được chơi theo những cách tối đa
lợi nhuận nhất, nếu có những hand có thể chơi bằng nhiều cách khác nhau (như trong chiến thuật
hỗn hợp) thì EV của mỗi hành đông phải được đảm bảo là như nhau. Hãy cùng quan sát về một tình
huống cơ bản sau đây

Ví dụ
Game: Heads-Up Sit N’ Go (Players can only push or fold)
BN Stack: 100 chips
BB Stack: 100 chips
Blinds: (5/10)

Pre-flop: BN sẽ chơi với chiến thuật all-in với tất cả các hand. Vậy thì để đối đầu với nhà BN,
MES của BB sẽ là gì?

Đầu tiên, chúng ta tính toán pot odds:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BB có thể thực hiện lệnh call với tất cả các hand có ít nhất 45% equity so với range của
đối thủ, vì vậy MES của nhà BB sẽ là call với 66.21% hand và fold đi 33.79% hand còn lại
(Hand Range 18).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 18: Call Range với ít nhất 45% Equity

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tính toán EV cho từng hand được thực hiện một cách độc lập, vì thế tất cả những hand có EV
dương nên thực hiện lệnh call còn các hand có EV âm thì nên thực hiện lệnh fold. Về đường dài sẽ
không có trường hợp nào là “đỏ ăn tất” khi chơi một hand với ít khả năng tạo ra lợi nhuận nó có
thể mang lại lợi nhuận như là chơi theo đúng chiến thuật. Mỗi hand đều sẽ có lợi nhuận, hoặc không
và nên được chơi theo cách phù hợp nhất có thể.
Tổng EV của MES của nhà BB (MES của nhà BB là call với tất cả các hand có +EV và fold tất
cả các hand có -EV) sẽ có trọng số cho tần suất của mỗi sự kết hợp hand bài 13.77 chips từ pot 15
chips, chiếm tới 92% của pot (Hand Range 19).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 19: Rang bài MES của BB

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tổng EV của nhà BN (all-in với 100% hand) khi bị khai thác là: 1.2228 chips từ pot 15 chip,
chỉ chiếm 8% pot (Hand Range 20).

Cách Khắc Chế Khi Bị Khai Thác


MES được tính toán khi phải đối đầu với một đối thủ có một chiến thuật cụ thể và không thay đổi,
tuy nhiên đối thủ có thể sẽ sửa đổi lại chiến thuật của họ để có được chiến thuật mới nhằm khai thác
lại tối đa MES của chính bạn và để cải thiện được kết quả của họ.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 20: Tổng EV của nhà BN khi bị khai thác

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ví dụ
Hãy chú ý lại ví dụ trước, khi nhà BN đã chơi chiến thuật đơn giản là all-in hết với tất các các
hand với 10bb. Nhà BB đã tìm ra MES để đối đầu lại là call với 66.21% hand và fold đi 33.79%
hand còn lại. Nếu như nhà BN biết được chiến thuật của nhà BB, họ có thể tận dụng ngược lại nó
để có thể khai thác tối đa lại nhà BB.

Chúng ta có thể tìm được những hand nào nhà BN có +EV khi all-in bằng cách áp dụng công
thức tính EV:

Tính toán EV của tất cả các hand là một việc cực tốn thời gian, vì vật chúng ta có thể sử dụng
những ứng dụng có thể tính toán trong những game như all-in or fold như Hold’em Resources
Calculator (HRC) (holdemresources.net).
Lần khai thác thứ hai: Sau khi bị nhà BB khai thác, nhà BN có thể khai thác ngược lại bằng
cách shove 46.61% hand và fold đi 53.39% hand
(Hand Range 21).
Sau đó, nhà BB sẽ bị khai thác, và nhà BB hoàn toàn có thể điều chỉnh lại chiến thuật của
mình để khai thác ngược lại nhà BN.
Lần khai thác thứ ba: Lúc này, nhà BB sẽ call với 30.3% hand và fold đi 69.7% hand còn lại
(Hand Range 22).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 21: Range nhà BN khai thác ngược nhà BB

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 22: Range nhà BB khai thác BN sau khi bị BN khai thác

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu như chuỗi quá trình này của hai người chơi được tiếp diễn với số lượng lớn các hand
bài, cuối cùng nó sẽ dẫn tới các điểm cân bằng mà khi đó cả hai đề không thể điều chỉnh được
chiến thuật nữa. Ở thời điểm này, có thể nói rằng, cả hai người đều đang khai thác nhau một
cách tối đa. Đây còn được gọi là điểm cân bằng Nash (Nash Equilibrium).

Cũng có thể xảy ra trường hợp chiến thuật những người chơi luân phiên qua lại và không bao giờ
quy tụ về trạng thái cân bằng. Trong trường hợp này, điểm cân bằng vẫn có thể được tìm thấy bằng
cách thực hiện các thay đổi nhỏ trong phản ứng của người chơi. Thay vì chuyển chiến thuật ngay
khi tìm ra được chiến thuật khắc chế, mỗi người chơi có thể sẽ điều chỉnh chiến thuật dần dần tại
một thời điểm theo chiến thuật đó.

Cân Bằng Nash


Trong poker, GTO (lý thuyết trò chơi) thường được sử dụng như một cách gọi khác của điểm cân
bằng Nash.
Điểm cân bằng Nash là một chuỗi các chiến thuật trong đó:

◆ Những người chơi đều rất tinh tế: mỗi người đều có thể biết rõ chiến thuật của đối phương.

◆ Tất cả người chơi đều đang khai thác đối ta lẫn nhau một cách đồng thời.

◆ Không có người chơi nào có thể tự thay đổi chiến thuật của họ để cải thiện kết quả.

Những chiến thuật cân bằng được khai thác tối đa khi đấu với một đối thủ không dễ khuất phục,
vì vậy chúng kế thừa tất cả các đặc tính của MES, đó là:

◆ Những hand bài riêng kẻ luôn được chơi theo cách có lợi nhất có thể, vì vậy, GTO
không bao giờ liên quan đến việc chơi một hand bài có ít khả năng hơn so với bình
thường chỉ vì để cân bằng.

◆ Những chiến thuật yếu thế hoàn toàn không thể là một phần của cân bằng Nash, vì bất
kỳ người chơi nào sử dụng chúng đều không hợp lý.

◆ Cách duy nhất một hand có thể chơi nhiều hơn một cách ở trạng thái cân bằng (chiến

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


thuật hỗn hợp) là khi nhiều chiến thuật đó mang lại cùng một mức EV.

Sau đây là những lời giải của Cân bằng Nash (nguồn HRC) cho ví dụ trước đó khi chơi heads-
up với stack 10bb ở trò chơi allin or fold (Hand Ranges 23 và 24).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 23: Cân Bằng Nash của BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 24: Cân Bằng Nash của BB
Giá trị của trò chơi allin or fold cho hai người chơi sau khi đã trải qua rất nhiều lần điều chỉnh
chiến thuật để khắc chế đối phương (Table 9).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 9: EV của những lần khắc chế chiến thuật trong AllinorFold

Ở ví dụ này, nếu nhà BB biết rằng nhà BN đang ở vòng khắc chế đầu tiên (khi họ đang thực hiện
all-in 100% hand bài), nhà BB có thể cả thiện EV của mình lên tới 13.77 bằng cách áp dụng MES
và call với 66.21% hand bài. Nhưng nếu nhà BB phán đoán sai về cách mà BN đang chơi, EV của
nhà BB có thể giảm xuống 8.48. Nếu như nhà BB chơi theo chiến thuật GTO và call với 37.4%
hand khi đối mặt với lệnh all-in, EV của họ sẽ được đảm bảo ở mức 10.45 mà không cần quan tâm
tới nhà BN như thế nào.

Một trong những lý do chính của Cân bằng Nash hay chiến thuật GTO nằm ở sức mạnh
chúng có thể cho bạn một mức EV nhất định. Bởi cách chúng được xác định, đã bao gồm việc
đối thủ đã biết được chiến thuật của bạn và chiến thuật của họ sẽ là phản ứng tốt nhất cho
những hành động của bạn. Đây là ý do tại sao các chiến thuật GTO được coi là không thể
khai thác. Về mặt toán học, không thể có đối thủ nào giành được lợi thế trước bạn, nghĩa là
bạn sẽ hòa vốn hoặc có lãi.

Một lợi thế khác của việc chơi theo những chiến thuật cân bằng đó là bạn không cần quá cố gắng
để đánh lừa hay chọc giận đối thủ. Chiến thuật GTO không phải về việc thực hiện hand cụ thể đối
đầu với các loại đối thủ cụ thể. Chiến thuật này cho rằng đối thủ của bạn sẽ điều chỉnh chính xác
bất cứ điều gì bạn làm và do đó họ tập trung nhiều hơn vào việc chơi poker một cách vững chắc
hơn là liên tục cố gắng xâm nhập vào đầu đối thủ của bạn.
Nếu bạn chơi theo GTO với bất kỳ đối thủ nào không hoàn toàn chống lại chiến thuật của bạn
(họ có thể cũng chơi theo GTO), kỳ vọng của bạn sẽ lớn hơn mức cân bằng và sẽ tăng lên khi chiến
thuật của đối thủ trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, chiến thuật cân bằng sẽ không giúp bạn kiếm được
nhiều EV như một chiến thuật được thiết kế hoàn hảo để chống lại những sai lầm cụ thể của đối
thủ. Những người chơi hàng đầu phát triển chiến thuật GTO cơ bản và hợp lý để họ vẫn không bị
khuất phục trước những đối thủ khó hoặc chưa biết nhiều thông tin, nhưng họ cũng có khả năng tận
dụng sự rò rỉ của đối thủ bằng cách thực hiện các điều chỉnh khai thác khi họ đã có một sự tìm hiểu

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


về cách chơi của đối thủ.

Nguyên Tắc Bàng Quan


Nguyên tắc bàng quan (indifference principle) được phát biểu một cách chính xác nhất bởi Will
Tipton trong cuống sách “Expert Heads Up No Limit Hold’em, Volume 1: Optimal and
Exploitative Strategies” (D&B Publishing):

“Chiến lược cân bằng là chiến lược khai thác tối đa khi đối mặt với một đối thủ đang chơi
chiến lược GTO của theo cách của họ - trong trường hợp này, mọi hand bài đều được chơi
theo hướng có lợi nhất có thể. Vì vậy, cách duy nhất một hand bài có thể được chơi theo hai
cách khác nhau tại điểm cân bằng là nếu cả hai hành động đó có cùng EV; nghĩa là, nếu
người chơi thờ ơ với lựa chọn hành động của mình. Điều này được gọi là Nguyên tắc bàng
quan: nếu một người chơi chiến thuật hỗn hợp với một hand ở điểm cân bằng, thì tất cả hành
động mà anh ta thực hiện với tần số khác không sẽ có cùng EV. Đây là một mệnh đề mạnh
mẽ, bởi vì nó cho chúng ta biết điều gì đó về chiến thuật GTO của đối thủ. Nếu một người
chơi thờ ơ giữa hai lựa chọn, thì hẳn là đối thủ của anh ta đang chơi theo cách để khiến anh
ta như vậy

Nguyên tắc này được kết nối mật thiết với ý tưởng về sự cân bằng. Hãy nhớ lại ví dụ trước khi
mà chúng ta biết rằng range của nhà BN chơi theo GTO là 58.3% hand. Lý do khiến họ không thể
all-in với range bài rộng hơn bởi vì nhà BB sẽ chỉ call khi cảm thấy BN không thể kiếm được tiền
với những hand ở cuối range (ví dụ như hand 43s). Nếu họ có thể all-in và có được lợi nhuận với
những hand ở cuối range, nhà BN sẽ tiếp tục làm thế. Còn nếu nhà BN mất tiền với những hand
kiểu như 43s, họ sẽ chọn rằng không chơi những hand kiểu như thế nữa, và khi đó sẽ có những
hand cuối ở range mới. Vì vậy, nhà BB phải thực hiện lệnh call chính xác những hand bài tệ nhất
trong range của nhà BN. Bởi 43s là một hand khá lỡ cỡ, nên nó có thể được chơi như một chiến
thuật hỗn hợp: 74% allin, 26% fold. Nếu như nhà BN all in 43s nhiều hơn 74%, nhà BB có thể khai
thác bằng cách thực hiện lệnh call nhiều hơn để khiến cho hand 43s có EV âm.
Cùng lúc đó, tại điểm cân bằng, nhà BB chỉ có thể thực hiện lệnh cal với 37.4% hand. Những
hand cuối ở range call của họ, ví dụ như Q6s, cũng có thể chơi với một chiến thuật hỗn hợp call-
61%, fold 39%. Nếu như nhà BB call với Q6s nhiều hơn 61%, nhà BN có thể tận dụng và khai thác
điều đó để có thể khiến cho hand Q6s có EV âm.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trò Chơi Thấu Hiểu
Hãy cùng quan sát ví dụ sau:

Ví dụ

Two Players: P1 and P2


Pot: $100

Effective Stack: $100


Vòng đặt cược: River
P1 Range: A♠A♥, Q♣Q♦
P2 Range: K♣K♦
Board: 3♠3♥3♣2♦2♠
P1: Out of Position
P2: In Position

Cả hai người chơi đều thấu hiểu nhau: Họ đều biết được chiến thuật của đối phương.
Giá trị của trò chơi cho mỗi người sẽ được tính như thế nào?

Ở điều kiện này, P1 có range phân cực hơn. AA đại diện cho bài nut và QQ sẽ đại diện cho bài
thua khi đối đầu với range của P2 là KK, người chuyên bắt bluff.
Range vs range equity của mỗi người sẽ là?

P 1 sẽ thắng pot trong khi cầm AA và sẽ thua pot khi cầm QQ. Vì vật equity của mỗi nhà ở pot
này sẽ là 50%.
Nếu equity của mỗi nhà là 50%, và pot có $100, EV của người chơi sẽ tính như thế nào?
Hãy nhớ rằng equity riêng lẻ sẽ không được tính khi post-flop, vì vậy kể cả cả hai người chơi
đều có equity là 50%, điều đó cũng không có nghĩa là họ có thể có được 50% của pot.
Chúng ta sẽ thấy rằng, EV của P1 sẽ là $75 và EV của P2 chỉ là $25, kể cả trong trường hợp hai
người chơi đều chơi theo hướng tối đa nhất!

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Loại Bỏ Chiến Thuật

Fold AA khi gặp một lệnh bet

AA sẽ luôn luôn chiến thắng, vì thế EV của lệnh call với bất cứ size bet nào sẽ là:

Fold đi bài nut chắc chắn là chiến thuật chúng ta không bao giờ sử dụng.

Call lệnh Bet với QQ

QQ không thể thắng KK. Vì thế, EV của việc call với bất cứ size bet nào với QQ sẽ là:

Call lệnh bet với một hand không thể chiến thắng là một chiến thuật tệ, vì vậy P1 nên luôn luôn
fold QQ bất kể là size bet của đối phương có là bao nhiêu.

Bet hoặc Raise với KK

Bởi nếu P1 không bao giờ fold AA và không bao giờ call lệnh bet với QQ, bet với KK sẽ không
có ý nghĩa gì. Thực hiện lệnh bet sẽ khiến P2 mất nhiều tiền hơn khi P1 có AA, vì thế bet với KK

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


là một chiến thuật chắc chắn không nên sử dụng.

Check với AA

Chúng ta biết rằng P2 sẽ không bet với KK, vì thế nếu P1 check AA, P2 sẽ check ngay sau đó và
sẽ không bao giờ có thêm tiền cược ở vòng này, vì thế P1 nên luôn luôn bet với AA.
Sau khi loại bỏ được các chiến thuật không hợp lý ở trên, trò chơi sẽ được đơn giản hóa bằng bộ
những câu hỏi dưới đây:

◆ Đâu sẽ là bet-size tối ưu cho P1?

◆ Tần suất P1 sẽ bluff với QQ là bao nhiêu?

◆ Tần suất P2 sẽ call với KK?

◆ Điều gì xảy ra nếu người chơi đổi vị trí cho nhau?

Bet size tối ưu của P1 sẽ là all-in. Chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao lại all-in ở phần sau, nhưng bây
giờ, hãy chỉ cần biết là bet-size tối ưu trường hợp này là all-in.

Lập Ra Những Chiến Thuật Thuần


Chúng ta biết rằng P1 nên luôn luôn bet với AA, nhưng với QQ thì sao? Hãy cùng phân tích.

Chiến Thuật Thuần A: P1 luôn luôn Bluff với QQ

P2 có EV như sau khi P1 luôn luôn bluff với QQ:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


(P2 thắng pot với tần suất 50% khi P1 bluff và sẽ thua 50% khi P1 có AA)

Chúng ta đều biết rằng P2 có EV ở ván này là $25, vì thế chiến thuật bắt bluff khi P1 luôn luôn
bluff với QQ là chiến thuật không tối ưu dù nó mang lại P2 phần thưởng cao hơn ($50) so với mức
$25.

Chiến Thuật Thuần B: P1 không bao giờ bluff QQ

Nếu như P1 không bao giờ bluff với QQ, P2 sẽ không có lý do nào để call với KK, bởi vì như
thế sẽ chắc chắn thua.
Trong trường hợp đó, P1 sẽ luôn bet với AA và gần như không bao giờ nhận được lệnh, và khi
P1 có QQ, anh ta sẽ check và sẽ thua trước KK. Với chiến thuật này, E2 của P2 sẽ là:

Và một lần nữa, chiến thuật này mang về cho P2 khoản tiền lớn hơn so với mức kỳ vọng thực sự
của anh ta.

Lời Giải cho Player1


Chúng ta biết rằng P2 sẽ không bao giờ thực hiện lệnh bet với KK, vì thế cách duy nhất để có thể
kiếm thêm tiền chính là bet bằng AA, nhưng nếu P1 không bao giờ bluff với QQ, thì P2 sẽ fold đi
KK của mình. Nhưng nếu P1 luôn luôn bluff với QQ, thì P2 sẽ luôn thực hiện lệnh để bắt bluff.
Điều chúng ta cần tìm ra đó là tần suất bluff tối ưu cho P1 để P2 sẽ không thể có được pot với
KK. Nói cách khác, P1 cần khiến cho P2 ở trạng thái Bàng quan trước lệnh call hoặc lệnh fold, tức
là khi đó:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta đã biết rằng EV của hành động fold là bằng 0, vì thế:

Sử dụng công thức tính EV:

Để rõ ràng hơn, chúng ta sẽ thay thế:


%W = W
%L = 1 – W
$W = b + p
$R = b

Trong đó:
b = bet
p = pot

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Để có thể trong trạng thái bị bàng quan trước call hay fold, P2 phải thắng với tần suất là:

Điều này cũng chính là pot odds của anh ta:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đây là một kết quả không quá bất ngờ, nếu P2 giành được pot với cùng tần suất với tần suất của
P1 khi bluff. Vì bối cảnh ở đây đã là river, và sẽ không có lá bài nào được chia ra nữa, tức pot odds
sẽ nói lên rằng nên call như thế nào thì sẽ không bị lỗ. Vì thế, để khiến cho P2 ở trạng thái bàng
quan giữa call và fold, P1 chỉ cần bluff với tần suất bằng với pot odds của P2

Bây giờ chúng ta sẽ chỉ cần tìm ra được P1 nên bet vơi QQ với tần suất nào để có được range
bet là 67% Value và 33% Bluffs.

Tần Suất Bluff của Player1

Tần Suất Value của Player1

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tỉ lệ Bluff trên Value của Player1

Player1 trung bình cần 1 lần bluff cho mỗi 2 lần value ở trong range bet của anh ta, tức là anh
ta nên bet với QQ ở một tần suất là 50%.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tổng Tần Suất Bet của Player1

P1 có AA trong một nửa số hand bài, và anh ta sẽ luôn bet với chúng với tuần suất 100%:

P1 có QQ trong một nửa số hand bài, và anh ta sẽ bet với chúng với tần suất 50%:

EV Cuối Cùng của Player1

AA EV:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


(EV của lệnh bet với AA là $150; đây thực sự cao hơn nhiều so với EV khi chỉ check với AA
là $100)

QQ EV:

Khi đó giá trị của trò chơi này dành cho P1 sẽ là:

Lời Giải cho Player2


Chúng ta biết rằng P1 sẽ luôn luôn bet với AA, vì thế nếu như họ check, chắc chắn lúc đó họ đang

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


từ bỏ pot với hand QQ. Điều đó cho thấy rằng, khi P2 hành động mà P1 đã check trước đó, anh ta
nên check phía sau và sẽ chiến thắng với KK của mình vì lúc này đây KK không có value khi thực
hiện lệnh bet vì P1 sẽ luôn luôn fold đi QQ. Để có được lời giải tối ưu cho P2, tất cả những gì chúng
ta cần đó là tìm được chiến thuật hợp lý khi đối diện với lệnh bet của P1.
Nếu P1 có một chiến thuật bet cân bằng khi chỉ bluff với tầ suất 1/3 (tức là bet với AA 100% và
bet với QQ 50%) khi đó EV của lệnh call của P2 sẽ là:

Nếu P1 chơi theo chiến thuật cân bằng, điều này sẽ không ảnh hưởng tới P2 sẽ call hay fold bởi
EV của cả hai hành động của P2 đều có EV bằng 0. Điều đó thể hiện rằng, P2 cần một tần suất thực
hiện lệnh call nhất định nếu không P1 có thể sẽ tăng tuần suất bluff với QQ để kiếm nhiều tiên hơn.
Ví dụ, nếu P2 lựa chọn chiến thuật không bao giờ call với KK, P1 có thể bắt đầu luôn luôn bluff
bằng QQ và luôn giành chiến thắng. Ngược lại, nếu P2 luôn luôn call với KK, P1 có thể sẽ không
bluff bằng QQ nữa.
Chúng ta cần tìm ra tần suất tối ưu của P2 khi thực hiện lệnh call để P1 sẽ phải gặp khó trong
việc bluff bằng QQ. Nói cách khác, P2 cần phải khiến cho P1 rơi vào trạng thái bàng quan giữa
check hay bluff với QQ.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta biết rằng EV của P1 khi check QQ sẽ bằng 0 bởi anh ta sẽ thua khi showdown, vì thế:

Sử dụng công thức EV:

Chúng ta thay thế:


%P2calls = c
%P2folds = 1 – c
EV khi fold = p
EV khi call = –b

Trong đó:
b = bet
p = pot

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đây còn được gọi là Tần Suất Phòng Thủ Ít nhất (Minimum Defense Frequency - MDF).

P2 cần phải thực hiện lệnh call với tuần suất 50% với KK để có thể khiến cho P1 bàng quan giữa
việc check hay bluff với QQ. Một cách khác để có thể giải được trường hợp này chính là tần suất
mà P2 nên fold để có thể khiến P1 bàng quan với check hay bluff với QQ. Chúng ta có thể sử dụng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


công thức sau:

Để rõ ràng hơi, hay thay thế:


%P2calls = 1 – f
%P2folds = f EV
khi fold = p EV
khi call = –b

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


P2 cần phải fold KK với tần suất 50% để có thể khiến P1 rơi vào trạng thái bàng quan giữa việc
check hay bluff vơi QQ. Lưu ý rằng với kết quả này, b/(b + p), sẽ tương đương với tỉ lệ bluff
trên value của P1.

Tỉ lệ này còn được gọi là tỉ lệ Alpha. Nó thể hiện rằng một lệnh bluff nên được xuất hiện với
tần suất như thế nào để có thể có lãi. Trong trường hợp này nếu P1 bluff QQ trên 50 % thì lệnh
bluff đó sẽ hiệu quả.

Ở đây P1 gần như chỉ có hai hành động là call hoặc fold, nên chúng ta có thể coi như tổng tần
suất của hai hành động đấy bằng 1 (100%). Vì thế, nếu một tỉ lệ ta đã biết rồi, thì ta có thể dễ dàng
tính được tỉ lệ còn lại.

Tần suất phòng thủ tối thiểu của P1 được tính theo công thức là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hai khái niệm: Alpha và MDF là những khái niệm quan trọng trong GTO và sẽ được nhắc
đến trong suốt quyển sách này.

EV cuối cùng của Player2

Bởi KK luôn luôn đánh bại QQ khi showdown:

P1 chỉ check với QQ 50%, vì thế

Tổng Kết Các Lời Giải

Pot: $100

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Stack Depth: $100
Board: 3♠3♥3♣ 2♦ 2♠

Player1: EV $75
AA: Bet $100 (100%), Check (0%)
QQ: Bet $100 (50%), Check (50%)
Tổng tần suất bet của P1: 75%
Tổng tần suất check của P1: 25%

Player2: EV: $25


Đối mặt với Check: Check KK (100%)
Đối mặt với $100 Bet: Call KK (50%), Fold KK (50%)

Sơ Đồ Hành Động (tại điểm cân bằng)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta vẫn còn hai câu hỏi nữa để có thể giải quyết đầy đủ lời giải.

Điều gì sẽ xảy ra nếu đổi chỗ hai người chơi?

Trong trường hợp nhà có nut hoặc có air đối đầu với nhà bắt bluff thì vị trí lại không quan trọng
nữa! Nếu như P2 không có vị trí, anh ta cũng sẽ không bao giờ bet với KK bởi đó là một điều ngu
ngốc, vì thế chiến thuật cân bằng của P2 lúc nào chính là check 100% và để action đến P1.
Nếu P1 có vị trí, P1 sẽ bet với AA 100% và sẽ cố bluff với QQ với tần suất là b/(b + p).

Bet size tối tư cho Player1 là gì?

Ở river, nếu range của P1 hoàn toàn phân cực và rang của P2 cô đặc thì bet-size tối ưu của P1 chính
là all-in! Như chúng ta thấy ở bảng 10 Table 10, EV của P1 tăng theo bet-size bởi vì nếu như bet-
size càng lớn, thì P1 trông càng giống như đang bluff. Ở trường hợp này, P2 chỉ có thể kiếm tiền
nhờ việc P1 sẽ check với QQ, điều đấy càng ít hơn thì số tiền P2 kiếm được sẽ càng ít. Vì thế, EV
tối đa mà P1 có được khi size bet là lớn nhất có thể. Nếu P1 có thể bet một số tiền vô hạn, kết quả
sẽ là 100% pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 10: P1’s EV by Bet Size

Tần Suất Phòng Thủ Tối Thiểu (MDF)


Như đã biết được từ ví dụ Clairvoyance Toy Game, MDF được tính thông qua chỉ số alpha:

Chỉ số Alpha rất quan trọng khi thực hiện bluff bới nó sẽ cho chúng ta biết rằng tần suất nên
bluff với 0% equity như thế nào thì sẽ mang lại lợi nhuận.

Ví dụ
Game: Live Multi-table Tournament
Stacks: SB=50bb, BB=20bb
Players: 9 (12.5% ante)

Pre-flop: (2.625bb) Hero ở SB với 72o và action fold đến Hero, BB là một người chơi rất chắc
cú và thường sẽ không chơi quá hung hăng với những pot nhỏ.

72o là một hand mà thông thường chúng ta sẽ fold ở vị trí SB khi đối đầu với đối thủ, nhưng ở
đây Hero nghĩ rằng BB chỉ có thể defend khoảng ~50.8% hands khi đối đầu với lệnh cướp từ SB
(Hand Range 25). Bạn phải quyết tâm để cướp blind dù cho hand bạn đang cầm tương đối yếu.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 25: Range defend chắc cú từ nhà BB

Chúng ta có thể sử dụng công thức Alpha để tìm ra tần suất mà lệnh bet sẽ mang về lợi nhuận

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nếu chúng ta raise 2.5bb từ SB:

Nếu lệnh bet có tác dụng nhiều hơn 43% thời gian nó sẽ ngay lập thức có lợi nhuận, và trường
hợp này là BB sẽ fold đi 49.17% hand bài.

Bạn sẽ luôn luôn fold 72o khi gặp 3-bet, hãy giả định rằng bạn sẽ luôn thua pot nếu như BB call,
mặc dù điều này không đúng vì nếu BB call, bạn vẫn còn một chút equity so với range call của BB
(nhưng chúng ta ở đây là đang nhìn vào tình huống xấu nhất bởi nếu bạn có thể kiếm tiền, bạn sẽ
luôn luôn kiếm được tiền).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Lệnh cướp với 72o có lợi nhuận là 27.4bb/100. Lệnh raise này gần như là luôn có lợi bởi đối thủ
defend ở BB quá chặt, tạo điều kiện cho bạn có thể cướp blind với bất kì quân bài nào (any two
cards – ATC).
Từ góc nhìn của BB, tần suất phòng thủ phải ở tần suất:

Nhà BB có MDF là 57% hands, nhưng theo giải pháp GTO cho BB ở trường hợp này là defend
với 82.1% hands (Hand Range 26) điều mà với một số người chơi nó sẽ bị coi là điêun rồ. Phần
sau của cuốn sách chúng ta sẽ nghiên cứu về chiến thuật defend ở BB sâu hơn để hiểu rằng nó
không hề vô lý chút nào.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 26: BB vs SB (2.5x Raise) 20bb GTO Defense
• 3-bet all-in: 17.9% / • Call: 54.3% / • Fold: 17.9%

Multiway (Pot nhiều nhà)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chỉ số Alpha nói cho bạn rằng tần suất bạn bet với 0% equity như thế nào sẽ mang về lợi nhuận
cho bạn. Tuy nhiên, nếu như có một vài đối thủ ngồi phía sau bạn thì sao, bạn cần phải thay đổi
một chút công thức để tìm ra được mức tần suất hợp lý hơn để khiến đối phương fold khi bạn bet.
Hãy thay đổi như sau.

Trong đó opponents ám chỉ số đối thủ sẽ hành động sau bạn.

Ví dụ
Game: Online Cash Game
Stacks: BB=99bb, SB=220bb, BN=114bb
Blinds: $1/$2
Players: 6 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) Mọi người fold hết đến Hero ở BN. Tần suất mà 2 nhà blind còn lại fold trước
lệnh raise 2.5bb của Hero để Hero có lệnh open lợi nhuận với 2 lá bất kỳ là bao nhiêu?

Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc tính Alpha:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nhìn chung, Hero cần lệnh raise hiệu quả 62.5% thời gian để có lợi nhuận. Để tìm ra được tần
suất fold bài của mỗi đối thủ, chúng ta chỉ cần lấy căn bậc hai của Alpha:

Vì vậy, nếu như đối thủ fold nhiều hơn 79% thời gian khi đối mặt với lệnh cướp từ BN, Hero
sẽ có lợi nhuận từ việc raise với 2 lá bất kỳ.

Chỉ số Alpha khi đối mặt với một người chơi chính là

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Còn với ba người chơi:

Với bốn người chơi:

Vân vân...

Khi đó, mỗi người chơi sẽ có tần suất defend tối thiểu được tính bằng:

Ở ví dụ này, mỗi người chơi nên defend ít nhất (1 – 0.79) = 21% thời gian để có thể dừng việc
Hero liên tục kiếm tiền bằng việc raise với 2 lá bất kỳ.
Hãy cùng xem xét một điều chỉnh nhỏ đối với ví dụ này. Giả sử Hero nhìn vào HUD và số liệu
thống kê về đối thủ là:

Liệu Hero có thể có lợi nhuận trước 2 đối thủ bằng lệnh raise?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong trường hợp này, bạn đã biết rằng tần suất fold của đối thủ khi đối mặt với tần suất cướp
blind từ nhà BN. Nếu người chơi fold đi ít nhất 79% thời gian, việc giải quyết ví dụ này sẽ trở nên
đơn giản bởi khi đó tần suất fold của họ sẽ đủ với lệnh cướp blind của chúng ta.

Làm thế nào để bạn biết rằng khi nào bạn có thể thực hiện lệnh raise với hai hand bất kỳ ở
vị trí BN với 2 đối thủ còn lại? Bạn có thể giải quyết bằng cách tìm tần suất fold kết hợp
của 2 đối thủ trên:

Kết hợp lại, hai người chơi này đang fold đi 60% thời gian và Alpha là 62,5%, vì vậy mặc dù
cả hai người chơi fold khi nhà BN cướp blind là rất cao, nhưng Hero không có lợi nhuận BN khi
cướp blind với 2 lá bất kỳ (giả sử Hero có 0% equity khi bị call).

Nếu bạn biết tần suất fold cá nhân của từng người chơi, bạn có thể tính toán tần suất fold kết
hợp của họ bằng cách nhân chúng với nhau.

Giả sử việc bluff của bạn không có equity, công thức này vẫn phù hợp với bất kỳ số lượng đối
thủ nào và ngay cả đối với các tình huống post-flop có thể xảy ra khi chúng ta có thể c-bet.

Cách khai thác với GTO


Sẽ có hai cách khai thác: cách chơi chủ động và bị động. Sự chủ động còn có thể chia nhỏ ra làm
hai là khai thác tối đa và khai thác tối thiểu.

Khai thác Bị động

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Liệu người chơi GTO có chiến thắng được một người chơi tệ?

Điều này được thể hiện rõ ràng nhất trong một tình huống đối đầu, nếu một người chơi đang chơi
tối ưu vs đối thủ chơi kém tối ưu thì bất kỳ sự thay đổi nào mà người chơi yếu hơn thực hiện từ
GTO sang một chiến lược tồi tệ hơn không bao giờ có thể làm tăng giá trị của họ, nhưng nó có thể
khiến họ phải trả giá trị, người chơi GTO sẽ được lợi từ đó. Hiện tượng này được gọi là khai thác
bị động bởi vì người chơi tối ưu không phải làm bất cứ điều gì ngoài việc chơi một chiến lược cân
bằng để đạt được EV từ người chơi dưới mức tối ưu. Nói cách khác, người chơi yếu hơn đang tự
khiến mình bị khai thác bằng cách chơi kém.

Khai thác chủ động

Khai thác chủ động xảy ra bất cứ khi nào người chơi đi chệch khỏi chiến lược cốt lõi của họ để
tận dụng thêm sơ hở của đối thủ.

◆ Người chơi luôn chơi Chiến lược cân bằng được gọi là người chơi GTO.

◆ Người chơi sử dụng Chiến lược khai thác tối đa được gọi là Người chơi khai thác tối đa.

◆ Người chơi sử dụng Chiến lược khai thác tối thiểu được gọi là Người chơi khai thác tối thiểu.

Thông thường, khi người chơi nói về một người chơi khai thác, họ đang đề cập đến một người
chơi khai thác tối đa.

Chiến lược khai thác tối đa (MES)


Như đã giải thích trước đó, MES hiệu quả khi người chơi chọn chuyển từ trạng thái cân bằng sang
chiến lược tối đa hóa EV so với chiến lược kém tối ưu hơn của đối thủ (hiển nhiên, điều này chỉ có
thể xảy ra nếu đối thủ không chơi GTO). Hãy xem xét tình huống poker đơn giản sau:

Ví dụ
Game: Heads-Up Sit N’ Go (Người chơi chỉ có thể all-in hoặc fold)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Effective Stack: 15bb
Blinds: 0.5bb/1bb
Pre-flop: Hero ở vị trí SB. Chiến lược GTO của anh ấy là all-in 45.7% số hands.

Hãy tưởng tượng tám loại đối thủ khác nhau mà Hero có thể gặp phải trong một trận đấu đối đầu:

◆ GTO Player: Người chơi này sẽ tối ưu all-in 15bb SB với range 28,5% .

◆ 10% Loose Player: Loại đối thủ này chơi khá lỏng lẻo và sẽ all-in 15bb SB với range
31,4%.

◆ 25% Loose Player: Loại đối thủ này chơi lỏng lẻo hơn nữa và sẽ all-in 15bb SB với range
35,6%.

◆ 100% Loose Player: Loại đối thủ này thực sự ghét phải fold bài và sẽ all-in 15bb SB với
range 57%.

◆ 10% Tight Player: Loại đối thủ này chặt chẽ hơn và gọi là sẽ all-in 15bb SB với range
25,7%.

◆ 25% Tight Player: Loại đối thủ này chặt chẽ hơn rất nhiều và sẽ all-in 15bb SB với range
21,4%.

◆ 50% Tight Player: Loại đối thủ này cực kỳ chặt chẽ và sẽ all-in 15bb SB với range 14,3%

Trong Bảng 11, chúng tôi tóm tắt khả năng đạt được EV tại SB khi áp dụng GTO và MES so
với các đối thủ khác nhau, cũng như khả năng mất EV của Hero nếu đối thủ chơi GTO, thay vì
chiến lược kém tối ưu hơn hoặc khai thác ngược lại Hero.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 11: EV đạt được và mất khi gặp các loại đối thủ diện khác nhau

Như đã thấy trong Bảng 11, áp dụng chơi GTO không thể thua hoặc thắng EV đối với một người
chơi GTO, nhưng nó sẽ giành được EV từ những người chơi kém tối ưu tùy thuộc vào mức độ
nghiêm trọng từ những lần sai lầm của họ. MES trung bình kiếm được nhiều hơn 6,4bb/100 so với
GTO khi gặp những người chơi kém tối ưu nhưng đồng thời cũng sẽ tạo ra một lỗ hổng có thể bị
khai thác trung bình -15,62bb/100.

Ngay cả khi đối đầu với một đối thủ cực kỳ tệ đang call 2x nhiều hơn so với mức họ cần, MES
chỉ thu được nhiều hơn 6,3bb/100 so với GTO và có thể bị khai thác ngược lại -2,5bb/100. Nếu
đối thủ call chặt chẽ hơn 50% so với mức họ cần, MES sẽ rất hiệu quả, mang lại 24,6bb/100 nhiều
hơn GTO, nhưng ngược lại nó có thể bị khai thác mất -62,4bb/100. Thêm vào đó, sự thay đổi chiến
lược là cực kỳ nguy hiểm vì Hero hiện đang all-in 100% hands thay vì 28%, vì vậy việc điều chỉnh
chiến lược khai thác này có thể dễ dàng bị phát hiện bởi một đối thủ tinh ý.

MES tồn tại một mức độ rủi ro, bởi vì bạn đang đặt mình vào tình huống mà đối thủ của bạn có
thể phản công khai thác chiến lược mới của bạn với lợi nhuận thậm chí còn lớn hơn mức bạn đang
cố gắng khai thác họ ngay từ đầu, nếu họ phát hiện ra điều bạn đang làm. Đồng thời, nếu bạn đánh
giá sai về lối chơi của đối thủ (điều này là không thể tránh khỏi tuỳ từng thời điểm) và điều chỉnh

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


không chính xác, bạn sẽ là người đi chệch hướng sang một chiến thuật yếu hơn và sẽ mất giá trị.
Vì vậy, bạn phải rất cẩn thận và có mức độ chắc chắn cao trong các lần đọc bài đối thủ của mình
nếu bạn đang hướng tới việc khai thác tối đa.

Chiến lược khai thác tối thiểu (MinES)

Quay lại với giải pháp áp dụng trong Clairvoyance Toy.

Pot: $100
Stacks: $100
Board: 3♠3♥3♣2♦2♠

Player1: EV $75
AA: Bet $100 (100%), Check (0%)
QQ: Bet $100 (50%), Check (50%)

Player2: EV $25
Vs Check: Check KK (100%)
Vs $100 Bet: Call KK (50%), Fold KK (50%)

Hãy tưởng tượng một biến thể của trò chơi này khi Hero là Người chơi 1 và Người chơi 2 là đối
thủ có xu hướng chơi khá lỏng lẻo. Thay vì call 50% bằng KK, họ call 55%.

Nếu Hero tiếp tục chơi chiến lược GTO, anh ta sẽ không kiếm được thêm EV với sự sơ hở này.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


AA EV:

QQ EV:

Vậy, value của trò chơi đối với P1 là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đây là mức EV như đã thấy trước đó.
Nếu Hero áp dụng chiến luợc khai thác tối thiểu với đối thủ, anh ấy nên bluff 0% thời
gian. Nếu anh ấy bet để value, EV của anh ấy sẽ là:

Và anh ấy không bao giờ bluff với QQ, nên:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


MES mang lại lợi nhuận cao hơn 2,5 đô la mỗi hand so với GTO và vì vậy, về lý thuyết,
Hero nên tiếp tục tấn công đối thủ. Tuy nhiên, từ góc nhìn của đối thủ, anh ta thấy Hero chỉ
bet river 50% thời gian thay vì 75% và, mỗi khi anh ta call, anh ta cầm AA. Hero giả định
rằng đối thủ đang call hơi lỏng lẻo hơn anh ta nên làm, không phải là anh ta ngu ngốc. Ngay
cả khi anh ta bắt nhịp rất chậm, không có lý do gì để nghĩ rằng anh ta sẽ không điều chỉnh
ngay khi nhận ra rằng Hero không bao giờ bluff.

Nếu đối thủ khai thác ngược lại Hero bằng cách chuyển sang chiến lược luôn fold khi
Hero all-in, thì EV của anh ta sẽ là:

Con số này nhiều hơn gấp 2 lần trung bình mỗi hand và gấp 10 lần số tiền mà Hero đã khai
thác từ đối thủ! Vì vậy, Hero phải có thể khai thác được đối thủ ít nhất 10 lần liên tiếp trước
khi anh ta nhận ra chiến lược của Hero và điều chỉnh, nếu không Hero sẽ mất tiền. Nếu đối
thủ thác Hero thậm chí chỉ 2 trong số 10 lần, Hero vẫn sẽ mất $30, hoặc -$3/hand, so với
GTO. Nếu đối thủ đặc biệt bắt bài chậm và cho phép Hero tiếp tục khai thác anh ta trong 45
hands liên tiếp và chỉ điều chỉnh cho 5 hands cuối cùng, thì EV của Hero trên 50 hands sẽ
là -$12,5 so với chỉ chơi GTO.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trừ khi đối thủ của bạn hoàn toàn không biết gì về cách chơi của bạn, bạn không thể mong
đợi họ bỏ qua tần suất đặt cược của bạn khi bạn rõ ràng đang chơi MES và hoàn toàn không
cân bằng. Giả sử họ thông minh và có khả năng điều chỉnh theo cách chơi của bạn, thì làm
cách nào để bạn tận dụng sai lầm của họ theo cách không khiến bạn bị khai thác ngược lại
triệt để?
Bạn có thể đặt những sơ hở của họ vào cấu trúc của trò chơi. Lợi ích của một người chơi
poker hoàn hảo sẽ tương đương với EV của họ, nhưng hầu hết các quyết định của người
chơi bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau như sợ mất tiền, trông ngu ngốc hoặc xấu hổ
khi bị bluff, và những đặc điểm tâm lý đó sẽ dẫn đến những quyết định tilt bằng cách này
hay cách khác, làm giảm EV của người chơi.

P1 EV:

Trong đó: C = xác suất P2 sẽ call

P2 EV:

Trong đó:
AA% = xác suất P1 cầm AA

QQ% = xác suất P1 cầm QQ

Tại điểm cân bằng, P1 bàng quan với việc bet hoặc check với QQ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


P2 cũng sẽ bàng quan với việc call hoặc fold với KK và, như đã chứng minh trước đây,
P1 sẽ luôn bet với AA của mình, vì vậy:

AA% = 1
Do đó:

Để đặt sơ hở của đối thủ vào trò chơi, chúng ta phải nhìn nhận nó từ góc độ của đối thủ.
Theo suy nghĩ của đối thủ, fold KK khi Hero bluff là một trò chơi -EV với biên độ X và
Hero nhận được thêm X khi anh ta bluff thành công:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


P1 EV:

P2 EV:

Nếu chúng ta áp dụng lý thuyết bàng quan một lần nữa, chúng ta có:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Và đồng thời:

Chúng ta biết rằng tần suất call của đối thủ là 55%, nên:

Do đó:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Giờ chúng ta biết được X, chúng ta có thể sử dụng nó để tính tần suất bet của Hero với QQ:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


EV của Hero khi sử dụng tần suất bet với QQ mới là 45% trong trò chơi thực là bao nhiêu khi
x=0? EV của AA vẫn là $155, vậy chúng ra chỉ cần tính lại QQ[EV]:

Do đó:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 12: So sánh EV khi sử dụng MinES và MES

Tất nhiên, mức tăng EV khi dùng MinES gần như không tốt bằng mức tăng EV khi dùng MES
(Bảng 12) nhưng việc thêm $0,25 mỗi hand, hoặc $25/100 lợi nhuận mà MinES thu được, là không
thể khai thác và không có gì đối thủ có thể làm để ngăn bạn nhận được khoản đó trừ khi anh ta sửa
chữa sai lầm của mình bằng cách giảm giá trị X của anh ta.

MinES có thể được tính bằng cách sử dụng GTO solvers hiện đại, và không giống như MES,
bạn không cần biết toàn bộ chiến lược của đối thủ. Tất cả những gì bạn cần là giả định một sơ hở
cụ thể, nhập sơ hở đó trong chiến lược của đối thủ vào solver (cho phép đối thủ chơi tối ưu ở mọi
nơi) và cố gắng bù lại cho những sơ hở quan sát được sau đó. Bằng cách này, solver sẽ đưa ra một
giải pháp khai thác giải quyết sơ hở nhưng cũng để đưa ra các biện pháp chống lại tốt nhất có thể
mà đối thủ có thể thực hiện. Làm như vậy, bạn kiếm được EV thấp hơn MES trong khi bảo vệ bản
thân khỏi bị khai thác ngược lại. Đồng thời, các điều chỉnh MinES nhỏ và khó phát hiện hơn bởi
đối thủ, vì vậy bạn có thể tiếp tục khai thác chúng lâu hơn trước khi họ nhận ra bạn đang làm gì
thậm chí nếu họ có khả năng làm như vậy. Cuối cùng, trong trường hợp đối thủ trở lại trạng thái
cân bằng thực sự, bạn cũng phải làm như vậy, nếu không bạn sẽ bắt đầu mất EV.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hai loại MinES

◆ MinES phản ứng: Cách khai thác này là chỉ thay đổi chiến thuật của bạn sau khi đã
quan sát được sơ hở của đối thủ xảy ra trong thực tế. Ví dụ, nếu bạn biết được đối thủ
fold quá đà để c-bet, bạn sẽ c-bet với chiến lược cân bằng và sau đó điều chỉnh cách
chơi ở turn và river để nắm bắt được range rộng hơn của đối thủ trong những lượt sau.
◆ MinES chủ động phản ứng: Cách khai thác này là bạn sẽ thay đổi trước thuật ngay cả
trước khi đối thủ phạm sai lầm vì bạn cho rằng họ sẽ phạm sai lầm trước đó. Ví dụ, nếu
bạn biết đối thủ fold quá đà để c-bet ở flop, bạn có thể tăng tần suất c-bet của mình lên
để khai thác sơ hở của họ.

Tôi khuyên bạn nên sử dụng cả MinES phản ứng và chủ động phản ứng. Ví dụ, với một người
chơi fold quá đà ở flop thay vì c-bet, bạn nên tăng tần suất c-bet của mình và sau đó, nếu được
call, hãy điều chỉnh ở turn và river để range của bạn trở nên rộng hơn bình thường và range của
đối thủ hẹp hơn hơn bình thường.

Chúng ta sẽ thấy những ví dụ thực tế hơn khi nghiên cứu cách chơi sau flop.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


GTO trong các tình huống nhiều người tham
gia
Định nghĩa về Nash Equilibrium cho rằng:

“Không người chơi nào có thể đơn phương thay đổi chiến thuật để tăng mức kỳ vọng của
mình”

Ở bất kì tình huống đối đầu nào, Nash Equilibrium rất hiệu quả vì nó có nghĩa là một người chơi
GTO không thể bị đánh bại. Nó là không thể về mặt toán học ngay cả khi đối thủ của bạn biết
chính xác chiến lược của bạn. Bạn được đảm bảo một mức EV nhất định dù đối thủ của bạn có
làm gì. Nếu bạn đang chơi GTO và đối thủ của bạn chuyển sang một chiến lược yếu hơn, EV của
họ chỉ có thể giảm xuống và vì poker là một trò chơi có tổng bằng không, bạn sẽ giành được lượng
EV đó.

May mắn rằng, lý thuyết Nash Equilibrium không chỉ áp dụng cho những tình huống đầu trong
poker. Nó cũng có thể được áp dụng trong bất cứ tình huống poker nào khi chỉ còn lại hai người
đang chơi.

Hãy xem một số ví dụ về các tình huống poker phổ biến có thể được coi là tình huống đối đầu
phụ:

◆ 6-max cash game: CO raises, BN 3-bets, hai nhà blinds fold và quay lại lượt hành động
của CO. Những người chơi còn lại là BN và CO.

◆ MTT 9-max: UTG raises và các nhà khác folds cho đến lượt của BB. Những người
chơi còn lại là UTG và BB.

◆ MTT 6-max: HJ raises, BN calls, SB 3-bets, HJ Folds và quay lại lượt hành động của BN.
Những người chơi còn lại là SB và BN.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Thật tuyệt! Chơi theo GTO đảm bảo khả năng bất phân thắng bại trong bất kỳ ván bài poker nào
từ thời điểm chỉ còn hai người chơi, nhưng còn những tình huống có ba người chơi trở lên thì sao?

Trong các tình huống nhiều người hơn, việc mất EV do sai lầm của một người chơi không được
chia đều cho những người chơi khác trong ván bài. Trong hầu hết các tình huống, một số người
chơi sẽ có thể tận dụng sai lầm đó nhiều hơn những người khác, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như
độ deep của stack và vị trí hành động. Hơn nữa, một số người chơi có thể bị mất EV ngay cả khi
họ chơi chiến lược cân bằng của mình. Hãy xem xét những điều sau:

Ví dụ
Game: $100 3-max online Jackpot Sit & Go

Stacks: BN 12bb, SB 12bb, BB 12bb


Players: 3 (no ante)

Pre-flop: (1.5bb) BN all-in 12 BB, Hero is in the SB.

Chiến thuật Nash Equilibrium của BN là all-in 32.1% hands. Nếu chúng ta giới thiệu một người
chơi chặt chẽ chỉ all-in 16% tham gia vào game này, chúng ta có thể sử dụng cách tính push-fold
để tính mức thay đổi EV của anh ta nếu nhà blinds tiếp tục chơi theo Nash Equilibrium và nếu họ
thay đổi sang MES (Bảng 13).

Bảng 13: Sự điều chỉnh MES

Anh ta đang chuyển hướng sang một chiến lược yếu hơn và tất nhiên, điều đó khiến họ mất EV,
nhưng sai lầm của họ cũng khiến Hero mất EV (-4,5bb/100) nếu Hero tiếp tục chơi GTO. Ngay cả

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


khi Hero điều chỉnh theo MES, Hero vẫn sẽ mất thêm 3,2bb/100 so với khi tất cả người chơi đang
chơi theo Nash Equilibrium.

BB là người chiến thắng lớn nhất trong tình huống này vì anh ta đang kiếm được tất cả các
khoản EV phát sinh. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét các trò chơi trong tương lai thì trung bình,
Hero sẽ ở vị trí BB thường xuyên SB. Do đó, Hero cũng sẽ có thể kiếm được lợi nhuận từ sự sơ
hở của người chơi chặt chẽ này.

Kết luận

Có một chiến lược GTO cốt lõi đúng đắn và hiểu biết chuyên sâu về lý thuyết GTO là chìa khóa
để đánh bại poker hiện đại và cực kỳ cần thiết trong các trò chơi khó nhằn.

Tuy nhiên, GTO không nhằm thay thế tư duy phản biện. Bất kể chiến lược GTO có tốt đến
đâu, người chơi phải luôn nhận thức được sự chống đối và chủ động tích cực suy nghĩ về mọi
hành động trong suốt ván bài.

Ngay cả trong các ván đối đầu khi mà chơi GTO đảm bảo khả năng bất bại, người chơi vẫn có
thể thực hiện các điều chỉnh mang tính khai thác để tận dụng thêm sai lầm của đối thủ. Đối với các
tình huống nhiều người tham gia, GTO đưa ra các chiến lược gần như không thể khai thác được
có thể được sử dụng làm điểm khởi đầu nhưng hoàn toàn không phải là câu trả lời cuối cùng và
không nên tuân theo một cách mù quáng. Việc hiểu và kết hợp các khái niệm GTO sẽ cải thiện
chiến lược của bạn và khiến bạn khó bị đánh bại hơn rất nhiều, cũng như giúp bạn khai thác tốt
hơn điểm yếu của đối thủ. GTO là một công cụ mạnh mẽ trong kho vũ khí của người chơi poker
nhưng không phải là công cụ duy nhất.

Phép tính toán Poker nên biết

Coi size pot là 1 và đặt tất cả các khoản bet dưới dạng một phân số so với pot giúp tính toán dễ
dàng hơn. Ví dụ: nếu pot là $60 và một người chơi bet $20, thì size bet của anh ta dưới dạng phân
số so với pot là 1/3-pot hoặc 0,33 pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 14: Bet-sizing và Alpha

Ví dụ
Nếu bạn bet nửa pot với range phân cực ở river, bạn đang đưa cho đối thủ 25% odds để call (3 trên
1). Range của bạn nên có 75% bet value và 25% bluffs (3 trên 1). Lệnh bet của bạn cần phải hiệu
quả 33% (Alpha) thời gian để có được lợi nhuận tức thì. Đối thủ của bạn phải bảo vệ được 67%
(1-Alpha) range của mình để có thể bàng quan với những cú bluffs không equity của bạn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


03

PHẦN MỀM
POKER HIỆN
ĐẠI
Các chương trình máy tính và ứng dụng đã chiếm lĩnh xã hội hiện đại. Giờ đây, bạn có thể tìm
thấy các ứng dụng làm được nhiều thứ, bao gồm chơi game, mạng xã hội, giao tiếp, fitness, sức
khỏe, yoga, thiền, nấu ăn, học ngôn ngữ mới, chơi nhạc và video và thậm chí cả hẹn hò! Bất kể
nhu cầu của bạn là gì, vẫn có cơ hội tốt để bạn có thể tìm thấy một ứng dụng có thể đáp ứng được
điều đó và nếu không thể, bạn có thể chắc chắn rằng có ai đó ở đâu đó trên thế giới đang phát triển
nó ngay bây giờ.

Thế giới chúng ta đang sống đã thay đổi, và cùng với đó là poker như chúng ta đã biết. Khi công
nghệ ngày càng phát triển, các công cụ được người chơi poker sử dụng để phân tích và nghiên cứu
trò chơi ngày càng trở nên tinh vi hơn. Trong chương này, chúng tôi sẽ phân tích một số chương
trình và ứng dụng quan trọng nhất được người chơi poker sử dụng để cải thiện chiến lược của họ,
theo kịp sự phát triển hiện đại và đánh bại đối thủ của họ.

Công cụ tính Equity


Công cụ tính equity trong poker đã tồn tại mãi mãi và chúng chắc chắn là công cụ thiết yếu nhất
trong kho vũ khí của bất kỳ người chơi nghiêm túc nào. Hiểu được cách equity thay đổi giữa hand
với hand, hand với range và range với range là bước đầu tiên hướng tới sự nghiệp poker thành
công.

Công cụ tính equity đã có chặng đường phát triển dài kể từ năm 2008 khi lần đầu tiên PokerStove
được phát hành. Hồi đó, máy tính chưa được đánh bóng và cung cấp chức năng cực kỳ hạn chế.
Giờ đây, các công cụ tính toán equity như Power Equilab (power-equilab.com) cung cấp nhiều
tính năng vượt xa các phép equity đơn giản, bao gồm đồ thị equity, heatmaps, phân tích range và
hơn thế nữa.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ưu điểm

◆ Quá trình nhập các range và tính toán equity thì trực quan và dễ sử dụng

◆ Các phép tính equity đa dạng

◆ Khả năng tạo ra hồ sơ khả năng chơi tuỳ chỉnh

◆ Tính toán equity nhanh

Nhược điểm

◆ Các phép tính hạn chế cho equity và những tính toán đơn giản

◆ Không đưa ra EV hay lời khuyên về chiến thuật nào

◆ Phân tích về range ở sau flop còn hạn chế

Công cụ phân tích range


Với một công cụ phân tích range như Flopzilla (flopzilla.com) người chơi có thể nhập vào những
range của hand và tìm ra được range thay đổi như nào với từng flop xảy ra, chia chúng thành các
loại hand như top pair, sets, straights, flush draws, backdoor straight draws, và hơn thế nữa.

Ưu điểm

◆ Đưa ra equity theo từng hand combos

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Có thể sử dụng để phân tích hiệu ứng loại bỏ lá bài

◆ Lọc các hand bài ở sau flop theo các mục turns và rivers

◆ Tính toán nhanh

◆ Dễ sử dụng

Nhược điểm

◆ Không đưa ra EV hay bất kỳ lời khuyên về chiến thuật nào

◆ Không thể sử dụng để tạo ra sơ đồ quyết định phức tạp

◆ Hầu như chỉ hiệu quả khi phân tích các trận đối đầu

◆ Sự hiệu quả ở pre-flop còn hạn chế

Sơ đồ quyết định EV
Với một công cụ sơ đồ quyết định EV như Card Runners EV (cardrunnersev.com) bạn có thể tạo
ra sơ đồ quyết định cho thấy những hành động của người chơi và tính EV tại mỗi thời điểm quyết
định.

Ưu điểm

◆ Đưa ra EQ và EV cho những hành động khác nhau

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Tính toán ICM hiệu quả cho SNG và MTT final tables

◆ Khả năng tạo ra sơ đồ quyết định (sử dụng ngôn ngữ lập trình để tự động hóa
các tác vụ)

◆ Tính toán đa dạng

◆ Hiệu quả khi phân tích range ở pre-flop và post-flop

◆ Công cụ lọc range toàn diện

◆ Tính toán MES

◆ Có thể kết hợp bounties và rake vào tính toán

◆ Hỗ trợ loại bỏ lá bài và hiệu ứng bunching

Nhược điểm

◆ Yêu cầu mức độ nhập thông tin đầu vào của người dùng lớn, bao gồm range của
người chơi ở mọi điểm quyết định, pot size, bet-sizes, raise sizes, và stack depths

◆ Tạo sơ đồ và phân tích chiến thuật có thể rất tốn thời gian

◆ Yêu cầu hiểu biết về toàn bộ chiến thuật của đối thủ hoặc cách sử dụng một vài
giả định để tính EV

◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức liên tục

Máy tính Nash ở Pre-flop

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trước khi có bộ giải GTO hiện đại, máy tính Nash như Holdem Resources Calculator
(holdemresources.net) là công cụ được người chơi MTT và SNG lựa chọn. Nó rất hiệu quả trong
việc ước tính các chiến lược all-in/fold ở pre-flop, đặc biệt là đối với những stacks bé trong các
tình huống mà người chơi không có range để call.

Tuy nhiên, nó không hỗ trợ chơi ở post-flop, vì vậy nếu bạn cố gắng tính toán range cho các
stacks đủ lớn để có những size bet không phải all-in, bạn sẽ buộc phải áp dụng các hành động tuỳ
ý. Bạn có thể loại bỏ hoàn toàn các tùy chọn của người chơi để call những cú raise không phải all-
in hoặc cho phép call, nhưng giả sử sẽ không có khoản bet nào sau khi flop được chia, khi cả hai
người chơi đều check hand của họ. Cả hai cách tuỳ ý đều tạo ra các chiến lược pre-flop không
chính xác. Việc loại bỏ tùy chọn call sẽ gây tổn hại cho những người chơi phòng thủ bằng cách
buộc họ chơi các ranges chặt chẽ hơn, vì vậy máy tính đề xuất các ranges để open rộng hơn thay
vì tối ưu và thiên về việc có những lá bài chặn tốt, trong khi bỏ qua khả năng chơi ở post-flop.
Việc check ở post-flop có lợi cho người chơi call vì tất cả các ván bài biên của họ sẽ ghi nhận
100% equity của họ, điều này dẫn đến ranges để call rộng hơn thay vì tối ưu. Cả hai tùy chọn đều
hạn chế các ứng dụng của máy tính Nash đối với những stack lớn trong poker và làm cho chúng
chỉ phù hợp với các tình huống all-in/fold.

Ưu điểm

◆ Rất hiệu quả khi tính toán những cú shoves không thể khai thác được

◆ Tính toán nhanh

◆ Tính toán được MES ở Pre-flop

◆ Đưa ra các chiến thuật ở pre-flop và EV

◆ Hỗ trợ tính toán cho tour bounty

◆ Mô hình Chip (ICM) độc lập và Mô phỏng Trò chơi Tương lai (FGS) cho SNGs
và MTTs

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Thực hiện tính toán ở final table

Nhược điểm

◆ Không hỗ trợ cách chơi ở post-flop

◆ Không hỗ trợ loại bỏ lá bài và hiệu ứng chặt chẽ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bộ giải GTO và Trí Thông minh nhân tạo
(AI)
Trở lại năm 1997, kỳ thủ cờ vua giỏi nhất thế giới lúc bấy giờ, Garry Kasparov, đã thất bại trước
siêu máy tính của IBM, Deep Blue. Thất bại của ông được coi là một dấu hiệu cho thấy một ngày
nào đó trí thông minh nhân tạo sẽ bắt kịp trí thông minh của con người.

Kể từ chiến thắng của Deep Blue, AI đã có những bước tiến lớn để hướng tới thất bại cuối cùng
của nhân loại. Vào năm 2015, AlphaGo, một AI được phát triển bởi Deep Mind, công ty hàng đầu
thế giới về nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, đã trở thành chương trình cờ vây máy tính đầu tiên đánh
bại một kỳ thủ cờ vây chuyên nghiệp của con người trên bàn cờ kích thước đầy đủ 19X19. Vào
tháng 5 năm 2017, AlphaGo đánh bại Ke Jie, kỳ thủ xếp hạng số 1 thế giới vào thời điểm đó. Trò
chơi cờ vây có thứ tự cường độ là 10170. Cùng năm đó, Deep Mind cũng phát hành AlphaZero,
một trò chơi cờ vua và shogi AI đã làm điên đảo thế giới, đạt được trình độ chơi siêu phàm trong
vòng 24 giờ sau khi phát hành và đánh bại các chương trình vô địch thế giới Stockfish và Elmo.
Trò chơi cờ vua có thứ tự cường độ là 1047 và shogi có thứ tự cường độ là 1071. Tuy nhiên, đánh
bại những kỳ thủ giỏi nhất của con người không giống như giải quyết trò chơi. Một AI có thể đủ
tốt để đánh bại những con người giỏi nhất, nhưng sau đó một AI khác có thể phát triển một chiến
lược thậm chí còn tốt hơn và đánh bại AI trước đó. Chu kỳ này có thể tiếp tục mãi mãi. Giải một
trò chơi bao gồm việc tính toán một giải pháp tối ưu về lý thuyết trò chơi (GTO) không thể thua
bất kỳ đối thủ nào trong một trò chơi công bằng.

Cho đến nay, mọi trò chơi được chơi cạnh tranh bởi con người đã được giải là một trò chơi có
thông tin đầy đủ. Trong các trò chơi thông tin đầy đủ như cờ vua hoặc cờ caro, mỗi người chơi có
thể nhìn thấy tất cả các quân cờ của bàn cờ mọi lúc. Trong các trò chơi thông tin không đầy đủ
như poker, lá bài của người chơi bị ẩn khỏi những người chơi khác. Giải các trò chơi này yêu cầu
mức độ khó cao hơn.

Trò chơi cờ caro có 5 X 1020 nước đi và được giải hoàn toàn vào năm 2007 bởi Giáo sư Jonathan
Schaeffer. Heads-Up Limit Hold’em (HULHE) là biến thể nhỏ nhất của poker được chơi cạnh
tranh bởi con người. HULHE có 3.19 X 1014 điểm quyết định. Mặc dù ít hơn cờ caro, nhưng bản
chất thông tin không đầy đủ của HULHE khiến nó trở thành một trò chơi khó hơn rất nhiều đối
với máy tính để chơi và giải.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trò chơi poker quy mô đầy đủ đầu tiên được giải là HULHE, được giải bởi Dự án Poker của
Đại học Alberta Cepheus (2015). Việc áp dụng thuật toán CFR + (giảm thiểu sự hối tiếc phản thực
tế) của họ được thực thi trên một cụm 200 nút tính toán, mỗi nút có 24 lõi AMD 2,1-GHz, 32 GB
RAM (6400 GB RAM) và một đĩa cục bộ 1 TB (Đĩa có dung lượng 200 TB).

Thông tin đầy đủ hơn về Cepheus tại poker.srv.ualberta.ca.

Vào ngày 30 tháng 1 năm 2017, AI Libratus do Carnegie Mellon phát triển đã đánh bại các
chuyên gia Head-Up No-Limit Hold’em (HUNLHE) hàng đầu của con người trong một thử thách
120.000 ván bài.

HUNLHE bao gồm 10160 tình huống, nhiều hơn số nguyên tử trong vũ trụ (1082). AI yêu cầu
một cụm siêu máy tính bao gồm 600 nút, mỗi nút có 28 lõi sức mạnh xử lý và tổng cộng 2,7
petabyte dữ liệu, để hoàn thành nhiệm vụ và đánh bại người chơi là con người.

Thông tin đầy đủ hơn về Libratus tại:

cmu.edu/news/stories/archives/2017/january/AI-beats-poker-pros.html

Các bots poker ngày càng thông minh hơn mỗi ngày, nhưng với sức mạnh tính toán hiện tại vẫn
còn một số hạn chế đối với những gì chúng có thể làm, đặc biệt là trong các tình huống nhiều
người chơi với size bet vô hạn và nhiều stack lớn trong các trò chơi bet lớn như NLH và PLO.
Trong khi HULHE đã được giải hoàn toàn và Libratus đã đủ tốt để đánh bại những người chơi
hàng đầu của con người trong HUNLHE, các biến thể poker khác bao gồm các giải đấu, cash game
bàn 6 người và 9 người vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn.

Mặc dù vẫn chưa tìm ra giải pháp đầy đủ cho các trò chơi hold’em với nhiều hơn hai người
chơi, nhưng các trò chơi phức tạp có thể được chia thành các phần nhỏ hơn, dễ giải quyết hơn. Với
việc sử dụng các bộ giải hiện đại, siêu máy tính, size bet giới hạn và áp dụng chính xác các chiến
lược tuỳ ý, có thể tính toán các giá trị gần đúng cho cách chơi No-Limit hold’em GTO.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phần mềm trí tuệ nhân tạo thương mại
Phần mềm dựa trên trí tuệ nhân tạo cho NLH, chẳng hạn như Poker Snowie (pokersnowie.com),
là những công cụ đã học được trò chơi bằng cách chơi hàng nghìn tỷ ván bài chống lại chính họ.
Họ bắt đầu với các chiến lược hoàn toàn ngẫu nhiên và sau mỗi ván bài được chơi, các hướng chơi
thành công được củng cố và các hướng không thành công bị giảm đi, điều này giúp cho chiến lược
của họ được cải thiện theo thời gian.

Ưu điểm

◆ Nhanh và dễ sử dụng

◆ Yêu cầu thông tin đầu vào từ người dùng ít

◆ Không có yêu cầu phần cứng lớn

◆ Cung cấp khả năng nhập lịch sử ván bài từ các trò chơi trực tuyến và đánh giá chúng
dựa trên các chiến lược AI

◆ Đưa ra hướng dẫn ở pre-flop và hand range

◆ Người dùng có thể chơi các thử thách, nhận số liệu thống kê và đánh giá lỗi

Nhược điểm

◆ Không thực sự giải quyết được các chiến lược GTO

◆ Size bet bị hạn chế hoặc cố định

◆ AI không thể lý giải tại sao nó làm, cái gì nó làm và kết quả không thể kiểm chứng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Không thể tính toán các chiến thuật để khai thác các người chơi yếu; chương trình chỉ
cung cấp chiến thuật cốt lõi

◆ Các chiến thuật thay đổi theo thời gian, khiến cho việc học từ đó trở nên khó khăn

◆ Không thể đảm bảo khả năng không bị khai thác

Bộ giải GTO
Bộ giải là máy tính Nash Equilibrium cho cách chơi ở pre-flop và post-flop. Có một số loại có
sẵn trên thị trường và chúng cung cấp các đặc điểm khác nhau. Tại thời điểm được tạo ra, hầu hết
những bộ giải thương mại có thể tính toán các chiến lược Nash Equilibrium cho các tình huống
post-flop của Limit và No- Limit Hold’em với range và size bet tùy ý trong bất kỳ thời điểm đối
đầu nào với mức độ chính xác rất cao (khả năng khai thác thấp).

Một số bộ giải có thể tính toán Nash Equilibrium ở pre-flop và post-flop cho các tình huống
nhiều người chơi, và một bộ giải thậm chí có thể giải cho các trò chơi lớn hơn như Omaha có pot
hạn chế.

Nhận định rằng một chiến lược là GTO hoặc rất gần giống với nó phải được sao lưu bằng cách
nào đó. Như đã nói trước đây, giải pháp hoàn chỉnh cho một trò chơi như NLH chưa được tìm
thấy, vì vậy nếu một người tuyên bố có giải pháp GTO cho điểm poker nhất định, thì phải có một
cách khoa học và toán học để xác minh khẳng định này, nếu không thì bất kỳ ai cũng có thể tuyên
bố đã giải được và chơi GTO.

Nash Distance

Ɛ-Nash hoặc Cân bằng Epsilon là một công cụ gần với chiến thuật Nash Equilibrium giúp thoả
mãn một cách tương đối những điều kiện của cân bằng Nash. Chiến lược cân bằng Nash tối đa hóa
tiện ích Ɛ đôi khi còn được gọi là khoảng cách Nash, vì nó có thể được sử dụng để xác minh mức
độ giống của bất kỳ chiến lược nào so với Cân bằng Nash ngay cả khi không biết trạng thái cân
bằng thực sự trông như thế nào.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tính khoảng cách Nash

Khi bạn đã có một đôi chiến lược mà bạn nghĩ là GTO, quá trình tính toán khoảng cách Nash
khá đơn giản. Đầu tiên, bạn tính EV của cả hai người chơi, sau đó bạn tính MES của Người chơi 1
so với Người chơi 2, xem EV này tăng lên bao nhiêu và gọi độ tăng EV của P1 là Ɛ1, sau đó bạn
làm tương tự cho Người chơi 2. Tính MES của họ so với Người chơi 1, xem EV này tăng lên bao
nhiêu và gọi nó là Ɛ2.

Số lớn nhất giữa Ɛ1 và Ɛ2 là Khoảng cách Nash. Nếu con số này là 0, thì bạn đang ở trạng thái
Cân bằng Nash chính xác và cặp chiến lược là GTO đúng. Nếu con số này lớn, nghĩa là bạn đang
ở rất xa GTO và nếu bạn ở gần GTO thì nó sẽ nhỏ.

Hầu hết các bộ giải GTO hiện đại đưa ra khoảng cách Nash cho lời giải của nó. Ví dụ:
PioSOLVER đưa ra Khoảng cách Nash dưới dạng % đối với pot và nó có thể được sử dụng để
thiết lập độ chính xác mong muốn để người giải hoàn thành việc thực hiện các phép tính. Thông
thường, thời gian chạy bất kỳ giải pháp GTO nào càng nhiều, thì Ɛ nhận được càng thấp. Thật
không may, hầu hết các bộ giải GTO sẽ bị trả lại sau khi Ɛ rất nhỏ vì chúng không thể đạt được
cách chơi GTO hoàn hảo. Một khi Ɛ là rất nhỏ, sẽ không thực tế nếu mong đợi bất kỳ đối thủ nào
có thể khai thác bạn với số tiền đó, vì trước tiên nó sẽ yêu cầu bạn chơi từng combo trên mỗi nút
chính xác như bộ giải thực hiện, sau đó cho phép đối thủ biết chính xác chiến lược của bạn tại mọi
thời điểm quyết định và tính toán MES so với chiến lược Ɛ-GTO của bạn. Trên hết, đối thủ sẽ cần
thực hiện MES của họ một cách hoàn hảo để có thể khai thác tất cả EV có thể từ bạn. Vì vậy, khá
an toàn khi cho rằng không ai có thể khai thác bạn vì Ɛ, và bạn không nên lo lắng về điều đó.
Trong thực tế, khi Ɛ còn nhỏ, Ɛ-GTO không khác gì để giúp hoàn thiện GTO cho người chơi.

Cá nhân tôi thích thực hiện các cách giải GTO ở flop của mình với độ chính xác là 0,35% pot.
Khi range ngày càng rộng, SPR tăng và độ phức tạp của sơ đồ quyết định tăng lên, càng khó đạt
được khoảng cách Nash thấp và mất nhiều thời gian hơn để thực hiện tính toán. Đối với mô phỏng
PioSOLVER ở pre-flop, các range ở pre-flop sẽ được đưa ra nhanh hơn rất nhiều so với post-flop.
Hầu hết khả năng khai thác của bản mô phỏng sẽ đến từ cách chơi lá river, do đó, ngưỡng có thể
được hạ xuống và khả năng khai thác có thể được đo bằng bb/100. Ngưỡng mà tôi thích cho mô
phỏng PioSOLVER ở pre-flop là 3,5bb/100.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Các ngưỡng này là hoàn toàn tùy ý, nhưng có vẻ như cộng đồng người chơi nhất trí về việc
chúng cần phải đủ tốt, vì các chiến lược không thực sự thay đổi quá nhiều ở khoảng cách Nash
thấp hơn.

Ở các bộ giải khác như MonkerSolver, hầu hết khả năng khai thác đến từ việc chơi post-flop
dưới mức tối ưu do sự tuỳ ý ở post-flop. Không rõ bao nhiêu trong số này ảnh hưởng đến các range
ở pre-flop, vì vậy câu hỏi về mức độ khai thác của các range ở pre-flop như thế nào, khi mà cách
chơi ở post-flop đã tối ưu, là không thể trả lời. Tôi đã xem xét một số tiêu chuẩn và so sánh cả mô
phỏng ở pre và post-flop của Monker, Pio và một bộ giải GTO riêng mà nhóm của tôi đang làm
việc và nhận thấy các chiến lược gần giống nhau khi sử dụng các bộ giải có độ đặt tuỳ ý cao. Trước
khi PioSOLVER trở thành chủ đạo, tôi cũng đã xem xét rất nhiều tiêu chuẩn và kiểm tra kết quả
của nó với các công cụ khác, chẳng hạn như CardRunners EV và Máy tính all-in/fold Nash như
HRC, và nhận thấy rằng kết quả phù hợp với kiến thức và lý thuyết trước đó.

Nói chung, ngay cả khi trò chơi poker chưa được giải quyết hoàn toàn, tôi tin tưởng rằng các
chiến lược rút ra từ quá trình làm việc với bộ giải GTO là rất chính xác và có thể được sử dụng để
nâng cao hiểu biết của chúng tôi về trò chơi poker, giúp chúng tôi đưa ra quyết định tốt hơn tại các
bàn chơi mà cuối cùng được chuyển thành EV.

PioSOLVER
PioSOLVER (piosolver.com) là bộ giải phổ biến nhất trên thị trường. Nó giải được các chiến lược
cân bằng HUNLHE với range bắt đầu, size stack và size bet tuỳ ý với độ chính xác mong muốn
(khả năng khai thác).

Ưu điểm

◆ Đưa ra equity, EV, EQR và chiến thuật đầy đủ

◆ Kết quả rất chính xác

◆ Có thể tính toán được MES và MinES

◆ Tổng hợp các tính năng báo cáo và phân tích tần suất

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Đưa ra giải pháp cho Limit và No-Limit Hold’em

◆ Khả năng tương thích cao với các công cụ poker khác

◆ Chức năng tạo tập lệnh nâng cao

◆ Thực hiện được các phép tính ICm

◆ Bộ gỉai ở Pre-flop (chỉ dành cho tình huống đối đầu)

◆ Hỗ trợ khách hàng ưu việt

Nhược điểm

◆ Lúc đầu, giao diện người dùng có thể gây choáng ngợp nhưng sau khi hiểu rõ, việc điều
hướng trở nên đơn giản

◆ Các phép tính GTO có thể mất nhiều thời gian để hoàn thành, tùy thuộc vào kích thước
của sơ đồ quyết định, độ lớn của stack và range đang chơi

◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức liên tục. Sử dụng nó một cách hiệu quả đòi
hỏi một số kiến thức về poker.

◆ Yêu cầu phần cứng cao. Độ phức tạp của các giải pháp bị giới hạn bởi khả năng của máy
tính, vì vậy nó có thể yêu cầu nâng cấp hệ thống để chạy mô phỏng những stack lớn với
nhiều size bet, đặc biệt nếu sử dụng bộ giải pre-flop.

◆ Chỉ thực hiện giải phù hợp cho các tình huống đối đầu

◆ Lưu mô phỏng đầy đủ yêu cầu nhiều dung lượng lưu trữ dữ liệu, vì vậy để tiết kiệm
dung lượng đĩa, các tệp Pio có thể được lưu mà không có chiến lược ở river, sau đó sẽ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


được tính toán lại trong khi duyệt mô phỏng

◆ Việc thiết lập mô phỏng một cách chính xác có thể khó khăn, đặc biệt là đối với người
dùng mới. Tuy nhiên, khi mô phỏng đã bắt đầu, việc duyệt các giải pháp khá dễ dàng
và trực quan.

MonkerSolver
MonkerSolver (monkerware.com) là một trong những bộ giải linh hoạt nhất trên thị trường. Nó có
thể giải Hold’em và Omaha từ mỗi vòng chơi, với bất kỳ số lượng người chơi nào sử dụng các kỹ
thuật tuỳ ý để giảm kích thước trò chơi.

Ưu điểm

◆ Giải quyết các tình huống NLH và PLO đa chiều phức tạp. Tuy nhiên, khả năng giải
quyết các trò chơi lớn hơn và phức tạp hơn đi kèm với một cái giá phải trả. Việc sử dụng
các yếu tố tuỳ ý để giảm kích thước trò chơi tạo ra các giải pháp kém chính xác hơn.

◆ Các mô phỏng đã hoàn thiện rất dễ duyệt

◆ Thực hiện tính ICM

◆ Có thể điều chỉnh mô phỏng cho hiệu ứng rake

◆ Có các biểu đồ equity

◆ Khả năng xuất thủ công các range sang các công cụ khác ở các định dạng khác nhau

Nhược điểm

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Giao diện sử dụng đồ họa có vẻ thô và người dùng dễ cảm thấy choáng ngợp, đặc biệt
nếu không am hiểu về máy tính

◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức rất thường xuyên

◆ Yêu cầu phần cứng dung lượng cao. Máy tính được sử dụng để chạy mô phỏng Monker
càng mạnh thì các cài đặt tuỳ ý có thể được sử dụng càng tốt và do đó các giải pháp
chính xác hơn. Điều này buộc người dùng phải xây dựng các siêu máy tính hoặc thuê
các máy chủ lớn để chạy các giải pháp có độ chính xác cao.

◆ Qúa trình xây dựng sơ đồ chiến lược có thể tẻ nhạt và tốn thời gian

◆ Xây dựng chiến lược ở pre-flop có thể mất hàng tuần để hoàn thành, phụ thuộc vào kích
thước của sơ đồ

◆ Các công cụ phân tích range hạn chế

◆ Thiếu khả năng chạy các báo cáo tổng hợp (tổng hợp dữ liệu qua nhiều lần lặp lại)

Ứng dụng Web đào tạo GTO Poker


Các ứng dụng đào tạo GTO như GTO Poker (gtopoker.io) cung cấp nhiều chiến lược GTO được
tính toán trước cho các biến thể poker khác nhau bao gồm cash game bàn 6 người chơi và các trận
đối đầu, MTT, HUSNG và SNG Jackpot tối đa 3 người với nhiều stack lớn, và hơn thế nữa. Chúng
giúp cho các chiến lược GTO nâng cao có thể truy cập được cho những người dùng muốn tìm hiểu
về cách chơi GTO nhưng không nhất thiết phải quan tâm đến việc phải tự thực hiện các phép tính
của riêng họ.

Ưu điểm

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Không yêu cầu cài đặt hoặc yêu cầu máy tính phức tạp

◆ Cung cấp các chiến lược GTO có độ chính xác cao được xây dựng cẩn thận do các
chuyên gia phát triển bằng cách sử dụng các bộ giải GTO tư nhân và thương mại
tiên tiến nhất

◆ Dễ sử dụng, với giao diện người dùng đẹp và trực quan

◆ Đưa ra giải pháp theo thời gian thực, vì vậy không cần đợi tính toán hoàn thành

◆ Kho tàng giải pháp lớn phát triển theo thời gian

◆ Các giải pháp Multiway pre-flop và post-flop

◆ Yêu cầu đầu vào của người dùng tối thiểu

◆ Các giải pháp cho những cash game có rake tuỳ chỉnh

◆ Phân tích post-flop nâng cao

Nhược điểm

◆ Size bet bị cố định

◆ Không thể tính toán các chiến lược khai thác chống lại những người chơi yếu kém
(chương trình chỉ cung cấp chiến lược cốt lõi của GTO)

◆ Giới hạn đối với các giải pháp GTO được tính toán trước, vì vậy người dùng không thể
thực hiện các phép tính tùy chỉnh

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Lý thuyết Poker hiện đại và GTO Poker đã hợp tác để mang đến cho bạn một món quà đặc biệt.
Vui lòng truy cập (gtopoker.io) và quét mã QR có trong cuốn sách này để có quyền truy cập vào
GTO Poker một tháng miễn phí.

Tôi đưa ra tất cả các công cụ này và hướng dẫn bạn cách sử dụng chúng trong loạt video đào
tạo của tôi có trên D&B Poker tại dandbpoker.com/book/modern-poker-theory.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


04

LÝ THUYẾT VỀ
CÁCH CHƠI TẠI
PRE-FLOP

Range pre-flop chính là xương sống của poker. Bất cứ khi nào bạn mắc lỗi trong một ván bài, tức
là cách chơi của bạn đang mắc lỗi, nghĩa là lỗi sẽ được tiếp tục và sẽ ảnh hưởng đến quyết định
trong tương lai. Một sai lầm ở pre-flop có thể chuyển thành một sai lầm flop, một sai lầm turn và
cuối cùng là một sai lầm river. Ngay cả khi bạn nhận ra mình đã mắc sai lầm trên một vòng đặt
cược sớm hơn, bạn có thể khó bù đắp cho nó sau này.

Blinds và Antes
Nếu không có blind và antes, người chơi sẽ vui vẻ chờ đợi để được chia AA, hoặc stack đủ nhiều,
những ván bài có pot odd/implied odd để đánh bại AA. Blind khuyến khích người chơi tranh giành
số tiền trong pot, và do đó, chơi nhiều ván bài hơn. Lý do người chơi chơi các ván bài khác với
AA là vì có tiền trong pot để thắng.

Tỉ lệ thắng

Lợi thế về kỹ năng hoặc mức độ thiếu hụt kỹ năng của một người chơi trong một nhóm có thể được
đo bằng số lượng người chơi thắng hoặc thua lớn trên 100 ván bài. Người chơi có lợi thế nhiều
hơn đối thủ, tỷ lệ thắng của họ càng cao. Nếu tất cả những người chơi trong bàn đều có kỹ năng
như nhau, tỷ lệ thắng của họ sẽ bằng 0 và trong các trò chơi có rake, tất cả họ sẽ thua dù nhà cái
đặt rake là bao nhiêu.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tỷ lệ thắng của người chơi phụ thuộc vào cấp độ kỹ năng của đối thủ. Đây là lý do tại sao lựa
chọn trò chơi là chìa khóa cho sự thành công hay thất bại trong sự nghiệp của tất cả người chơi
poker. Giả sử bạn là một người chơi có kỹ năng và có hai trò chơi khác nhau chạy tại sòng bạc địa
phương của bạn: trò chơi khó với $ 10/$ 20 trong đó tỷ lệ thắng của bạn là 2bb/100 và trò chơi
mức cược thấp hơn $ 2/$ 5 trong đó tỷ lệ thắng của bạn là 10bb/100. Trong trò chơi khó khăn hơn,
bạn kiếm được trung bình 40 đô la cho mỗi 100 ván bài bạn chơi, nhưng trong trò chơi nhỏ hơn,
bạn kiếm được trung bình 50 đô la cho mỗi 100 ván bài bạn chơi. Về lâu dài, bạn sẽ kiếm được
nhiều tiền hơn khi chơi trò chơi nhỏ hơn trong khi trải qua ít sự chênh lệch hơn rất nhiều bởi vì sự
thay đổi thường cao hơn trong các trò chơi lớn hơn mà bạn có lợi thế thấp hơn.

Tại bàn cash 6 người (không có ante), có 1,5 big blind trong pot mỗi ván bài, hoặc 150BB mỗi
100 ván bài (150bb/100). Hãy tưởng tượng một tình huống mà tất cả mọi người đều sợ khi chơi
với bạn và bất cứ khi nào bạn raise lên, đối thủ của bạn sẽ fold bài mỗi lần, kể cả AA. Trong trường
hợp đó, không có lý do gì để bạn không raise tất cả các ván bài với hai lá bài bất kỳ, đạt được tỷ lệ
thắng của toàn bộ tiền cược là 150bb/100. Chúng tôi biết rằng một tình huống như vậy là không
thể xảy ra và, bất kể bạn là ai, có một số ván bài sẽ không có người chơi nào chịu fold. Quan trọng
hơn, có những ván bài, họ có khả năng sẽ raise lại (điều này sẽ buộc bạn phải fold một số ván bài
và mất equity của họ trong pot) và vì vậy chúng tôi có thể kết luận rằng không người chơi nào có
thể đạt được tỷ lệ thắng của toàn bộ tiền cược (150bb / 100 ).

Nếu không người chơi nào có thể đạt được tỷ lệ thắng của toàn bộ tiền, làm thế nào bạn có thể
tìm ra phần tiền mà bạn có thể có được? Hay nói cách khác, làm thế nào để bạn xác định được tỷ
lệ thắng của mình?

Tỷ lệ thắng của người chơi online khá dễ tính bằng cách sử dụng phần mềm theo dõi. Sau khi
chơi 100.000 ván bài, người chơi bắt đầu biết tỷ lệ thắng thực tế của họ trông như thế nào, nhưng
cần có ít nhất 1.000.000 ván bài mẫu mới có ý nghĩa thống kê. Người chơi cash offline có thể ước
tính về tỷ lệ thắng tổng thể của họ trong một khoảng thời gian bằng cách sử dụng công thức sau:

Ví dụ, nếu một người chơi khoảng 300 ván bài trong một phiên poker kéo dài 10 giờ và chơi
năm ngày mỗi tuần, bốn tuần mỗi tháng, họ sẽ được chia khoảng 6.000 ván bài mỗi tháng hoặc

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


72.000 ván mỗi năm. Nếu người chơi đó kiếm được 100.000 đô la sau một năm chơi với 5 đô la /
10 đô la blind, tỷ lệ thắng của họ là:

Tỷ lệ thắng có xu hướng cao hơn rất nhiều trong trò chơi trực tiếp so với trò chơi trực tuyến vì
trò chơi trực tiếp hầu như luôn nhẹ nhàng hơn so với trò chơi trực tuyến. Sòng bạc thu hút tất cả
các loại người chơi giải trí muốn đánh bạc, giao lưu và vui chơi. Những người chơi này không có
nhiều nền tảng về poker, dẫn đến những người chơi tốt sẽ có tỷ lệ thắng cao hơn.

Người chơi trực tiếp cũng thiếu kinh nghiệm hơn so với người chơi trực tuyến. Nếu một người
chơi trực tiếp chơi trung bình 300 ván bài mỗi ngày thì sau một năm, họ sẽ chơi được 72.000 ván
bài. Còn các phòng poker trực tuyến cung cấp khả năng chơi nhiều lần, cho phép người chơi chơi
hai, bốn, sáu, 10 hoặc thậm chí 20 bàn cùng một lúc. Điều này, kết hợp với tốc độ nhanh hơn của
phần mềm chia bài so với tốc độ của người chia bài và quỹ thời gian hạn chế để đưa ra quyết định,
dẫn đến số lượng ván bài trực tuyến tăng theo cấp số nhân. Một người chơi trực tuyến thông thường
có thể dễ dàng chơi 3.000 ván bài trong một ngày hoặc 720.000 ván bài trong một năm. Trong một
năm, một người chơi trực tuyến sẽ chơi nhiều ván bài poker như một người chơi trực tiếp sẽ chơi
trong 10 năm! Tất nhiên, có những yếu tố khác xuất hiện và không nhất thiết tất cả người chơi trực
tuyến đều tốt hơn người chơi trực tiếp, nhưng chỉ sự khác biệt này là quá đủ để khiến người chơi
trực tuyến trung bình trở nên khó khăn hơn nhiều so với người chơi trực tiếp trung bình.

Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn là trung bình của tỷ lệ thắng bạn có ở mỗi vị trí của bàn. Ở bàn chơi
6 người, nếu pot được chia đều cho cả sáu vị trí, tỷ lệ thắng ở mỗi vị trí sẽ là 25b / 100, nhưng, như

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


chúng ta sẽ thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của người chơi bao gồm vị trí trên bàn.
Ở một số vị trí, tỷ lệ thắng có thể cao hơn 25bb / 100, và đối với những vị trí khác, nó sẽ thấp hơn
(Table 15).

Table 15: Ví dụ cho tỉ lệ thắng Online bàn 6 (bb/100)

Tỷ lệ thắng ở blind luôn luôn âm. BB bắt đầu bài bằng 1bb và SB là 0,5bb, vì vậy tỷ lệ thắng
của họ bắt đầu lần lượt là -100bb / 100 và -50bb / 100. Khởi đầu với một bất lợi như vậy, cho dù
một người chơi có giỏi đến đâu thì tỷ lệ thắng của họ ở các vị trí đặt cược cũng không bao giờ có
thể tốt bằng các vị trí khác. BN có tỷ lệ thắng cao nhất vì vị trí đó được chơi các ván bài có lợi
nhất. Tỷ lệ thắng giảm khi vị trí di chuyển khỏi BN.

Hầu hết người chơi đều mất tiền khi chơi poker. Đó là một sự thật. Bạn phải thực sự giỏi mới
có thể hòa vốn bởi vì bạn phải phục hồi -150bb / 100 mà bạn thua người mù mỗi vòng, cũng như
tiền rake của nhà cái.

Tùy thuộc vào stake mà bạn chơi và trang web chơi, rake thường sẽ là từ 5 đến 10bb mỗi 100
ván bài. Phần mềm theo dõi poker có thể được sử dụng để tìm ra số tiền rake chính xác, cũng như
ảnh hưởng của nó đối với tỷ lệ thắng. Thông thường, đặc biệt là trong các micro stake, mức rake
cao đến mức ngay cả những người chơi mạnh cũng không thể giành chiến thắng, vì vậy lời khuyên
của tôi cho tất cả người chơi là hãy xem xét kỹ cấu trúc rake của từng trang web (cũng như các
giao dịch và chương trình VIP) trước khi quyết định chơi ở đâu. Rake cao hơn không bao giờ có
lợi cho người chơi bởi vì nó chỉ có nghĩa là nhiều tiền hơn được lấy đi từ các bàn và vào túi của

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nhà cái. Lưu ý rằng trong trò chơi ante, người chơi cũng cần có khả năng phục hồi ante. Một ante
có kích thước 12,5% của BB tương đương với -12,5bb / 100.

Vì vậy, người chơi có thể làm gì để tối đa hóa tỷ lệ thắng của họ và có thể đánh bại người chơi
và rake?

Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn là tổng số EV của tất cả các ván bài mà bạn đã được chia ở tất cả
các vị trí và các hành động bạn đã thực hiện với chúng. Vì vậy, cách để tối đa hóa tỷ lệ thắng tổng
thể của bạn đơn giản là luôn thực hiện hành động EV cao nhất với mỗi ván bài mà bạn được chia
ở mọi thời điểm quyết định.

EV có thể được biểu thị giống tỷ lệ thắng ở bb / 100 và chúng ta biết rằng EV của fold là 0, vì
vậy người chơi chỉ nên chơi ván bài khi các hành động mà họ có thể thực hiện có tỷ lệ thắng không
âm.

Ví dụ
9-max MTT (12.5% ante), stack hiệu dụng 20bb. Fold đến SB, người có 4 lựa chọn. All-in với
20bb, raise 2.5bb, limp hay fold. Chúng ta biết rằng EV của việc fold là 0. Hãy cùng xem xem tỉ
lệ thắng của cả 4 hành động đó như thế nào (Table 16).

Theo bảng, hành động tốt nhất để thực hiện với AA là nâng lên 2.5bb, AJo nên đẩy 20bb, Q7
nên limp và cho ất cả hành động khi cầm 72o có tỷ lệ thắng âm, nó nên được fold.

Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn trong SB khi hành động fold lại cho bạn là 88bb / 100 (Table 17).
Đó chỉ đơn giản là EV tổng hợp của từng hand trong số 1.326 hand có thể có. Các hand có EV
âm sẽ được fold và có 0 EV, và tất cả các hand khác sẽ có EV bằng hành động EV cao nhất. Nếu
bạn chọn bất kỳ hành động nào khác ngoài EV cao nhất cho mỗi ván bài so với đối thủ GTO, tỷ
lệ thắng của bạn tại chỗ chỉ có thể giảm xuống.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 16: (Giả sử đối phương chơi theo GTO, bảng tổng hợp EV)

Ví dụ, nếu bạn chọn all-in với 72o, trung bình bạn sẽ mất -63bb / 100. Tất cả với AA là + EV,
nhưng không phải là cách chơi EV cao nhất. Trên thực tế, all-in với AA là -136bb / 100 tệ hơn
raise 2.5bb, vì vậy sai lầm này thậm chí còn tồi tệ hơn so với push 72o. Điều rất quan trọng là bạn
không mắc phải sai lầm phổ biến khi nghĩ rằng chỉ vì một lượt chơi + EV thì đó là lượt chơi chính
xác.

Mọi hành động luôn phải được so sánh với tất cả các khả năng khác trước khi quyết định
chơi.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 17: Tỉ lệ chiến thắng của Blind khi fold đến họ (BB 40, Stacks 800,
i.e.20bb)

Bạn càng chơi có lợi nhuận nhiều ván bài và lợi nhuận trung bình của mỗi ván bài càng cao thì
tỷ lệ thắng của bạn càng cao. Mỗi quyết định bạn đưa ra trên mỗi ván bài sẽ làm tăng hoặc giảm
tỷ lệ thắng chung của bạn. Trong các cash game, tỷ lệ thắng tỷ lệ thuận với lợi nhuận của người
chơi trong các trò chơi (như trong Table 18), nhưng trong các giải đấu không phải lúc nào cũng
vậy vì giá trị của chip không tỷ lệ thuận với giá trị đô la của chúng. Chúng ta sẽ thảo luận về các
giải đấu sau trong chương Lý thuyết Giải đấu. Điều đó nói rằng, tỷ lệ thắng vẫn có thể khá hữu
ích cho những người chơi tham gia giải đấu vì chúng nói lên rất nhiều về kỹ năng của người chơi
và có thể được sử dụng để tìm ra các lỗ hổng khi tỷ lệ thắng thấp hơn mong đợi.

Table 18: Ví dụ về các trường hợp Cash Games sau 1,000,000 Hand chơi ở các Stakes kháu
nhau

Mặc dù sự khác biệt về tỷ lệ thắng có vẻ nhỏ, nhưng chúng nhanh chóng lớn hơn khi stake tăng
lên. Nếu tỷ lệ thắng cao hơn dẫn đến tiền thắng cao hơn, mục tiêu của bạn, với tư cách là một
người chơi poker, phải tăng tỷ lệ thắng của mình nhiều nhất có thể bằng cách liên tục lấy điểm +
EV và tránh điểm -EV. Về lâu dài, những người chơi đưa ra quyết định tốt nhất trung bình sẽ nhận
toàn bộ số tiền và những người chơi mắc lỗi nhiều nhất chắc chắn sẽ thua cuộc.

Chiến thuật Phức tạp (Complex)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tại sao người chơi sử dụng các chiến lược phức tạp? Tại sao họ không thực hiện một chiến lược
allin/fold đơn giản, chơi được những hand tốt và fold những hand không tốt?

Phần này sẽ so sánh hai trong số các tình huống pre-flop đơn giản nhất để hiểu giá trị của việc
có các lựa chọn chiến lược khác nhau và chơi các chiến lược phức tạp.

Trườn hợp 1: Hero ở SB chơi OOP với nhà BB


Game: 3-max SNG
Stack depths: 8bb, 10bb, 12bb, 15bb, 17bb, 20bb & 25bb
Blinds: 0.5bb/1bb
Players: 3 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) BN fold và Hero ở SB hành động. Anh ta có thể fold, limp, raise 2bb, 2.5bb,
3bb, hay all-in.

Trường hợp 2: Hero ở BN chơi IP với nhà BB


Game: Heads-up SNG
Stack depths: 8bb, 10bb, 12bb, 15bb, 17bb, 20bb & 25bb
Blinds: 0.5bb/1bb
Players: 2 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) Hero hành động trước ở BN. He có thể fold, limp, raise 2bb, 2.5bb, 3bb, hay
all-in.

Hai tình huống được mô tả rất giống nhau. Hero ở SB trong cả hai, nhưng Tình huống 1 là trò
chơi 3 người nên Hero là OOP so với BB trong khi Tình huống 2 là đối đầu với BB, nghĩa là Hero
ở BN và sẽ có IP. Nếu cả hai người chơi đều chơi chiến thuật chỉ allin/fold mà không chơi post
flop, thì các tình huống sẽ tương đương nhau. Tuy nhiên, nếu chúng tôi giải quyết vấn đề bằng
cách sử dụng các bộ giải pre-flop hiện đại và cung cấp cho người chơi các tùy chọn chiến lược bổ
sung như limp và khả năng sử dụng các cách raise khác nhau ngoài all-in, chúng ta có thể so sánh
các tình huống khác nhau và cố gắng có được một số thông tin chi tiết về giá trị của các lựa chọn
chiến lược khác nhau và cách chúng bị ảnh hưởng bởi vị trí.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 2: Trung bình EV theo Stack

Table 19: Trung bình EV với các chiến thuật khác


nhau

Chúng tôi thấy rằng bằng cách chơi một chiến lược phức tạp hơn so với allin/fold, Hero chiếm
được một phần tiền pot lớn hơn, thêm 4,62% pot (7b / 100) khi ở ngoài vị trí và 14,6% tiền (22b /
100) khi có vị trí. Với các stack ít, tổn thất EV khi áp dụng chiến lược chỉ allin/fold là rất nhỏ,
nhưng khi stack lớn hơn và đặc biệt là khi có vị trí, giá trị của các tùy chọn chiến lược khác sẽ tăng
lên. Chơi một chiến lược phức tạp hơn so với allin/fold sẽ mang lại cho Hero phần thưởng cao hơn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 3: Trung bình tần suất fold của stack lớn

Table 20: Trung bình tần suất fold

Tần suất fold của Hero là cao nhất khi chơi allin/fold (Table 20), có nghĩa là chiến lược này giới
hạn số lượng ván bài mà Hero có thể chơi có lãi, đặc biệt khi stack lớn hơn. Ngược lại, tần suất
fold sẽ thấp hơn khi chơi một chiến lược phức tạp hơn, đặc biệt là khi có vị trí.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Với hơn 17bb, all-in rất hiếm khi được BN sử dụng, nhưng lại trở thành chiến lược thống trị với
ít hơn 10bb. Các tần số allin SB cao hơn rất nhiều so với BN bởi vì việc allin làm giảm nhược
điểm của OOP.

Diagram 4: Tần suất Hero Allin khi stack lớn

Table 21

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 5: Tần suất Hero Limp khi stack lớn

Table 22

Limp được sử dụng thường xuyên hơn 42,51% khi Hero IP so với OOP, trở thành chiến lược
thống trị (Table 23). Lưu ý rằng cách limp trở nên quan trọng hơn đối với SB khi stack lớn hơn
nhưng vẫn tương đối không đổi đối với BN. Điều này có nghĩa là khi Hero IP, việc limp gần như
quan trọng ở tất cả các độ lớn stack, và khi Hero OOP, việc limp trở nên có giá trị hơn khi stack
lớn khi Hero mất khả năng đẩy all-in range bài rộng.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 23: Tần suất ở SB (8-25bb)

Size raise duy nhất mà BN sử dụng là 2bb (tối thiểu). Các size bet khác chỉ được sử dụng khi
Hero ở trong SB, vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng size lớn hơn có lợi cho Hero khi OOP, nhưng
không thêm nhiều giá trị khi chơi với có vị trí

Diagram 6: Bet size của Small Blind (3-Max)

Minraising là chiến lược chiếm ưu thế ở stack ít hơn (khi OOP), nhưng bắt đầu với ngăn xếp
15bb, 2,5x trở nên thống trị. 3x bắt đầu được sử dụng ở 20bb và trở nên thống trị ở 25bb (Diagram

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


6). Vì vậy, chúng ta có thể kết luận rằng khi chơi lệch vị trí, bet size sẽ tăng lên khi các stack nhiều
hơn.

Kết luận
Việc có quyền sử dụng nhiều chiến lược hơn làm tăng kỳ vọng của người chơi. Tuy nhiên, một số
chiến lược rất hiếm khi được sử dụng và nó tác động đến EV tổng thể rất nhỏ nên chi phí thực
hiện có thể vượt qua giá trị mà chúng thêm vào. Trên thực tế, việc thêm quá nhiều tùy chọn chiến
lược EV thấp/tần suất thấp vào chiến lược tổng thể của bạn có thể làm tổn hại đến kỳ vọng của
bạn. Chiến lược càng phức tạp thì càng khó thực hiện, vì vậy, trên thực tế, bạn nên cố gắng đơn
giản hóa các chiến lược của mình càng nhiều càng tốt để giảm thiểu sai lầm mà không làm ảnh
hưởng đến kỳ vọng chung của bạn.

Trong ví dụ đầu tiên của chúng tôi, chiến lược đơn giản nhất có thể là allin/fold và nó có thể
được áp dụng cho hầu hết các vị trí có stack 10bb và ít hơn. Khi ở không có vị trí, việc allin vẫn
quan trọng lên đến 17bb, nhưng BN chỉ all-in 3,88% với 15bb, 1,70% với 17bb, 0,69% với 20bb
và 0,06% với 25bb. Vì vậy, chiến lược ở BN có thể được đơn giản hóa để không bao giờ allin với
15bb trở lên và EV tổng thể của BN sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể. Tuy nhiên, chiến lược limp
đang chiếm ưu thế đối với BN, vì vậy bất kỳ chiến lược nào loại bỏ BN limp trong heads-up (đối
đầu) sẽ làm tổn hại đáng kể đến EV tổng thể của nó.

Hệ quả: Nếu chơi với một đối thủ mà chúng ta nghĩ rằng họ có kỹ năng vượt trội, thì việc chơi
một chiến thuật phức tạp chỉ có lợi cho người chơi mạnh hơn vì họ sẽ có khả năng tận dụng tất cả
các lựa chọn tốt hơn bạn. Do đó, chơi một cách chơi đơn giản hơn sẽ giúp giảm bớt lợi thế của đối
thủ này bằng cách giảm thiểu những sai lầm của bạn. Ví dụ: nếu chơi heads-up trong MTT, sẽ
không thành vấn đề nếu bạn đấu với người chơi giỏi nhất thế giới nếu bạn allin pre-flop với AJs vs
TT. Bạn sẽ thắng ~ 50% thời gian, đó là một kết quả tuyệt vời khi đối mặt với một người chơi có
lợi thế hơn hẳn bạn.

Người Raise Đầu Tiên (Raise First In)


Biết phải làm gì khi hành động fold đến bạn có lẽ là điều quan trọng nhất mà người chơi phải học
trong toàn bộ sự nghiệp poker của họ, nhưng tôi vẫn thấy những người chơi chuyên nghiệp đơn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


giản là không quan tâm. Họ lầm tưởng rằng họ có thể đánh bại bất kỳ ai bất kể người ta mắc những
sai lầm cơ bản lớn khiến sẽ họ phải trả giá đắt về lâu dài

Bắt đầu với range pre-flop sẽ giúp cải thiện việc ra quyết định pre-flop. Bằng cách phân tích trò
chơi một cách có hệ thống, những người chơi mạnh sẽ đến các bàn được chuẩn bị với các chiến
lược được tính trước cho các tình huống phổ biến nhất lặp đi lặp lại theo thời gian.

Một range RFI (raise first in – người đầu tiên tham gia ván bài bằng cách raise đầu tiên) ở vị
trí EP bàn 6 người cash game online được miêu tả trong Hand Range 27.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 27: A Typical Online 6-max Cash EP RFI Range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Không phải ai cũng sẽ chơi theo chính xác range RFI này, nhưng hầu hết những người chơi
nghiêm túc sẽ chơi một số biến thể của nó. Một người chơi biết ít nhiều về range RFI ở EP trông
như thế nào sẽ có lợi thế rất lớn so với một người chơi chưa từng nghiên cứu về vị trí này trước
đây. Thay vì do dự và tự hỏi liệu họ có nên open các hand như JTo hay không, người chơi đã
chuẩn bị sẵn sàng biết JTo không phải là một open tiêu chuẩn và sẽ nhận thức được các trườn hợp
để mở rộng hoặc thu hẹp range của họ nếu họ thấy cơ hội để khai thác điểm yếu trong những người
chơi khác. Thay vì tự mình đoán mò lần thứ hai, một người chơi đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
sẽ liên tục nhận ra những tình huống quen thuộc mà họ đã biết cách tiếp cận, trong khi đối thủ của
họ có thể không biết gì. Khi họ gặp một tình huống hoàn toàn mới, một người chơi đã nghiên cứu
lý thuyết poker có thể ngoại suy kết quả từ các tình huống đã biết khác và sẽ ít mắc lỗi hơn so với
một người chơi không biết đến các nguyên tắc cơ bản của trò chơi.

Các range pre-flop được xây dựng bài bản cũng sẽ giúp chơi post-flop dễ dàng hơn, bởi vì chúng
sẽ có độ bao phủ nhất định và khả năng chơi tốt hơn so với các chiến lược ngẫu hứng. Có rất nhiều
thứ để đạt được bằng cách phát triển một chiến lược GTO ở pre-flop. Điều đó nói lên rằng, một
chiến lược pre-flop GTO chỉ nên là điểm khởi đầu. Những người chơi mạnh nhất là những người
có thể thích nghi mọi hoàn cảnh yêu cầu. Một khi bạn đã phát triển các chiến lược cân bằng và
hợp lý cho mình, việc phát hiện ra đối thủ của bạn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều khi không, cho phép
bạn dễ dàng nhận ra khi nào họ không cân bằng và có thể khai thác được.

Cũng giống như trong cờ vua, các quy tắc của poker khá dễ học, nhưng có rất nhiều nguyên tắc
cơ bản chi phối trò chơi. Hiểu được những nguyên tắc đó là chìa khóa thành công. Trong phần tiếp
theo, chúng ta sẽ nghiên cứu các nguyên tắc đó và phát triển chúng để chơi các chiến lược pre-
flop vững chắc nhất.

Các biến số ảnh hưởng tới range pre-flop

Sức mạnh tuyệt đối của Hand

Mặc dù sức mạnh hand có liên quan đến các thành phần của range khi chơi, nhưng đôi khi nó có
thể hữu ích khi nghĩ về sức mạnh của hand một cách riêng biệt. Đây được gọi là sức mạnh hand

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


tuyệt đối. Dưới đây là các nguyên tắc được sử dụng để xác định sức mạnh tuyệt đối của một hand
bài poker.

Bài Cao: Các quân bài trên tay của bạn càng cao thì bài đó có xu hướng mạnh hơn. Một hand
có quân Át sẽ mạnh hơn một hand có K còn K sẽ mạnh hơn một hand có Q, v.v.

Đôi: Áp dụng nguyên tắc bài cao cho đôi, theo đó thứ hạng của đôi càng cao thì quân bài càng
mạnh và có giá trị (KK> 55).

Đồng Chất: Nếu tất cả mọi thứ đều bình đẳng, một hand đồng chất sẽ khỏe hơn một hand cọc
cạch. Trước hết, chúng có nhiều equity hơn so với các hand offsuit của chúng và khả năng chơi
của các hand đồng chất tốt hơn nhiều. Ví dụ: A ♥ 5 ♥ được ưu tiên hơn A ♥ 5 ♦ vì A ♥ 5 ♥ có khả
năng tạo thùng một cách dễ dàng hơn những hand không đồng chất.

Liên tiếp: Hand có những lá xếp hạng gần nhau hơn được ưu tiên hơn các hand có khoảng trống
ở giữa. Ví dụ, T9 tốt hơn T8 và T7 vì T9 có nhiều cách tạo đường sảnh hơn các hand khác: T9 có
thể tạo sảnh trên KQJ, QJ8, J87 và 876, và ba trong số đó là sảnh nut. T8 có thể tạo sảnh trên QJ9,
J97 và 976, và chỉ có hai trong số đó là sảnh nut. T7 có thể tạo sảnh trên J98 và 986 chỉ với một
sảnh nut.

Nói chung, những tay poker giỏi nhất đều có ít nhất hai thành phần này. Những hand không có
giá trị bài cao có thể bù đắp bằng cách có sự kết nối và đồng chất, chẳng hạn như 87s, và những
hand không đồng chất có thể có giá trị bài cao như AKo.

Theo nguyên tắc chung, vị trí của bạn trên bàn càng sớm, thì hand của bạn phải có sức mạnh
bài cao tuyệt đối càng cao để có thể chơi được. Khi bạn vào các vị trí sau, các hand có sức mạnh
hand tuyệt đối yếu hơn có thể được chơi. Ví dụ: cash game 6 người không có ante, BN có thể chơi
các ván bài yếu, không liên tiếp nhưng đồng chất như Q2s, nhưng ngồi ở LJ, Qx yếu nhất có thể
chơi là Q9s.

Size của Pot

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi pot lớn hơn (tính pot theo bb), nhiều hand có thể được chơi để mang lại lợi nhuận hơn. Ví dụ:
trong MTT bàn 9 người với 12,5% antes, size pot là 2,625bb. Nếu hành động fold đến BN, họ có
thể allin 10bb với 46% hand, nhưng không có antes, size pot chỉ là 1,5bb và khi đó BN chỉ có thể
allin 33% bài.

Bet-size

Nói chung, top dưới cùng của range sẽ chứa các ván bài có khả năng sinh lời thấp, do đó, size bet
của bạn so với pot càng lớn, thì bạn càng có thể chơi ít ván bài hơn. Khi bet lớn hơn, bạn sẽ gặp
nhiều rủi ro hơn, nghĩa là trung bình bạn sẽ thua nhiều hơn với những hand bài yếu khi đối mặt
với re-raise và phải fold bài. Lý tưởng nhất là bạn muốn mất càng ít càng tốt khi hành vi cướp
blind của bạn không thành công.

Khả Năng bị Raise/Re-raise

Như đã thấy khi chúng ta nói về MDF, nếu đối thủ không phòng thủ đủ thường xuyên, bạn có thể
khai thác chúng bằng cách open nhiều hand hơn bình thường. Bạn thậm chí có thể bet với bất kỳ
lá nào ở một số thời gian. Ngược lại, với những đối thủ tốt/tối ưu, sẽ có một giới hạn đối với số
hand bài mà bạn có thể chơi có lãi tại bất kỳ thời điểm nào vì họ sẽ chơi lại bạn và buộc bạn phải
fold bài trước.

Ví dụ:
Game: Live Cash Game

Stack Hiệu dụng: 100bb Blinds: 0.5/1

Players: 6 (không ante)

Pre-flop: (1.5bb) Hero ngồi ở SB với Q7s và raises 3bb. Đối thủ ngồi ở BB sẽ làm gì để lệnh
raise này có tỉ lệ thắng âm?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


EV của Q7s khi bị call luôn là một số dương vì Q7s có một equity nhất định trong pot. Ngay cả
khi đối thủ bằng cách nào đó có thể khiến Q7s nhận ra 0% equity của nó tại post-flop, điều tồi tệ
nhất có thể xảy ra là Hero giành được 0% pot. Cách duy nhất đối thủ có thể làm để khiến lệnh
open này không có lãi là tăng tần suất 3-bet, vì vậy hãy tìm hiểu tần suất đối thủ cần đặt cược 3-
bet để làm cho việc open của Q7s không có lãi.

Để đơn giản, chúng ta cho rằng đối thủ sẽ chỉ 3-bet hoặc fold, và Hero đó luôn luôn fold Q7 khi
bị 3-bet, vì vậy

Để tìm được giá trị mà có thể khiến EV của lệnh raise Q7s bị âm chúng ta làm như sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu Hero bị 3-bet nhiều hơn 37.5% thời gian, lệnh open với Q7s sẽ trở nên -EV. Tất nhiên, thực
tế diễn ra, BB sẽ không bao giờ 3-bet 37.5% với SB, và nếu họ có như thế, nó lộ ra điểm yếu để
chúng ta có thể khai thác chúng.

Điều đáng chú ý là khả năng đối mặt với 3-bet tăng lên khi có nhiều đối thủ chưa hành động. Hãy
tưởng tượng rằng thay vì SB, vị trí của Hero là UTG. Hero có thể ước tính tần suất 3-bet là bao
nhiêu ở bàn 9 người?

Trung bình, chúng ta có thể ước tính Hero sẽ đối mặt 3-bet khoảng 7% thời gian mà mỗi người
chơi chưa hành động.

Bỏ qua các hiệu ứng blocker, tổng tần suất mà Hero có thể đối măt 3-bet là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở bàn 9 người với tám đối thủ còn lại để hành động, Hero có thể gặp 3-bet ~ 44% thời gian.
Giả sử Hero fold khi gặp 3-bet, việc open với Q7s sẽ có tỷ lệ thắng âm:

Bỏ qua lệnh call của đối thủ, tỷ lệ thắng của open 2,5bb UTG với Q7s ở bàn 9 người là -26bb /
100.

Số hand bài mà một người chơi có thể sinh lợi RFI phụ thuộc vào khả năng 3-bet. Vì khả năng
3-bet tăng lên khi có nhiều người chơi chưa tham gia, khi lợi thế vị trí của bạn tăng lên, bạn có thể

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nâng cao lợi nhuận với nhiều hand bài hơn (đây là lý do chính khiến người chơi chơi bài từ BN
nhiều hơn từ UTG).

Ảnh Hưởng của Rake

Khi rake được lấy từ pot, nó có ảnh hưởng đến chiến lược của người chơi vì nó làm giảm lợi nhuận
của tất cả các hand bài được chơi. Nhiều hand bài raise hoặc call + EV trở thành -EV và mất tiền
trong thời gian dài. Một trong những lý do chính khiến cash game có xu hướng có size bet lớn hơn
tour game là bởi chúng không khuyến khích các lệnh call. Vì tiền rake được thanh toán trong các
giải đấu cùng với việc buy-in, nó không ảnh hưởng đến lợi nhuận của các hand bài được chơi, cho
phép chơi thụ động hơn trong các giải đấu so với cash game với số tiền rake cao. Nói chung, rake
càng cao thì range pre-flop càng chặt chẽ. Các hành động tích cực có thể hạ pot trước khi flop sẽ
được ưu tiên hơn các hành động bị động.

Ví dụ
Game: Online heads-up Cash Game
Stack Hiệu Dụng: $1,000
Players: 2
Blinds: $5/$10 (không ante)

Pre-flop: Hero ngồi ở BN


Hãy so sánh chiến thuật GTO ở BN của Hero với 0% rake và 4.3% rake ( tối đa $2.20).

Như chúng ta có thể thấy, khi có rake, tần suất raise sẽ tăng lên, tần suất limp sẽ giảm và nhiều
hand sẽ bị fold đi (Hand Ranges 28 và 29).

Tiếp theo, hãy cùng tạo ra những sự so sánh tương tự khi ngồi ở BB đối mặt với lệnh open
2.5bb từ SB (Hand Ranges 30 and 31).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 28: Heads-up BN GTO strategy (No Rake)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


• Raise 2.5bb 70.1% / • Limp 18.3% / • Fold 11.6%

Hand Range 29: Heads-up BN GTO strategy (Rake Adjusted)


• Raise 2.5bb 76.4% / • Limp 6.9% / • Fold 16.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 30: Heads-up BB vs BN 2.5x Open GTO strategy (No
Rake)
• 3Bet 10bb 19.9% / • Call 55% / • Fold 25%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 31: Heads-up BB vs BN 2.5x Open GTO strategy (Rake
Adjusted)
• 3Bet 10bb 22.7% / • Call 45% / • Fold 32.3%

Một lần nữa, đối với giải pháp điều chỉnh BB rake, chúng tôi thấy sự gia tăng tần suất raise,
giảm tần suất call và nhiều lần fold hơn so với giải pháp không có rake.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hiệu Ứng Bunching

Các range fold tác động đến việc phân phối hand của những người chơi còn lại để thực hiện. Ví
dụ: ở bàn tối đa 9, sau sáu lần gập, mức nâng đầu tiên của BN trong phạm vi phải chặt hơn ở bàn
3 tối đa bởi vì những người chơi khác đã xếp các tay “yếu”, có nghĩa là khả năng người bị che sẽ
mạnh. tăng tay.

In Table 24 we can see how pushing ranges generated with MonkerSolver change due to the
bunching effect for different stack depths at different table sizes (12.5% ante). These results are
compared to those of the traditional push/fold calculator HRC (which ignores the bunching effect).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 24: The Bunching Effect

Accounting for the bunching effect, the SB has to push on average 4.9% tighter than traditional
push/fold calculators suggest, BN has to be 2.2% tighter, CO 1.7%, HJ 0.9%, and LJ

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


0.3%. The earlier the position, the lower the bunching effect because fewer players have folded,
hence in early position, the bunching effect can be dismissed because it approaches zero.

Limping
Điều quan trọng là đánh giá được khả năng để thực hiện limp và đồng thời áp dụng chiến thuật
nào khi đối mặt với nhà limp.

Open Limp

Limp cho phép bạn chơi nhiều hand hơn bằng việc đầu tư số tiền tối thiểu có thể, nhưng việc cân
bằng là phải chơi post-flop hầu hết thời gian khiến cho đối thủ nhận được equity mà đáng ra họ đã
fold. Thêm vào đó, phát triển chiến thuật limp bao gồm việc chia nhỏ range của bạn sớm, điều này
cung cấp cho đối thủ rất nhiều thông tin về độ mạnh hand của bạn.

Ví dụ, nếu bạn chỉ limp những hand như đôi nhỏ, Ax đồng chất yếu và đồng chất liên tiếp, đối thủ
có thể chơi lại bạn rất dễ dàng vì một số flop sẽ gây khó khăn cho bạn trong khi một số khác khiến
bạn bị miss hoàn toàn. Nếu bạn chỉ limp những hand mạnh trung bình, đối thủ sẽ raise một cách
hổ báo vì bạn sẽ không bao giờ có hand đủ mạnh để re-raise. Điều này sẽ buộc bạn phải bắt đầu
limp một vài hand mạnh để cân bằng range limp của bạn, nhưng sẽ khiến range để raise của bạn
trở nên yếu hơn. Do đó bạn vẫn sẽ gặp phải vấn đề có range capped ở rất nhiều flop sau khi bạn
limp/call vì lúc này bạn không còn có những hand mạnh nhất của range (bởi vì bạn sẽ phải limp/re-
raise những hand mạnh nhất của mình).

Mặc dù phân tích này nghe có vẻ nghiệt ngã, những chiến thuật limp vẫn có vai trò nhất định
trong cách chơi GTO. Các bộ giải thích áp dụng chúng trước tiên trong trận đối đầu giữa hai nhà
blind ở cuộc chơi rake-free như tournaments. Tuy nhiên, với bản chất của những trò chơi hiện đại
nơi mà hầu hết người chơi phòng thủ ít hơn đối với những nhà blind, fold quá đà cho đến c-bet,
không 3-bet đủ thường xuyên, mà không mở bài thường xuyên (ngay cả trong những trò chơi khó
nhằn), raise sẽ có thêm rất nhiều value và sẽ duy trì là chiến thuật chủ đạo trong thời gian tới. Mặc
dù những lợi ích rõ ràng của việc raise trong những trò chơi ngày nay, do sự gia tăng của các bộ
giải và chiến lược GTO, tôi hy vọng sẽ được thấy sự gia tăng trong việc áp dụng chiến thuật limp
trong tương lai, đặc biệt ở tournaments.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong phạm vi quyển sách này, chiến thuật limp sẽ giới hạn với những tình huống mà EV được
thêm vào chiến thuật tổng thể của bạn là đáng kể, đặc biệt là khi đối đầu với những đối thủ khó
nhằn.

Đối mặt với nhà Limp

Rất hiếm khi bạn thấy người limp trong poker online hiện đại, trừ khi bạn đang chơi ở micro. Tuy
nhiên, trong các trò chơi trực tiếp, limp xảy ra thường xuyên hơn và lý do cho điều này cũng chính
xác là lý do nó xảy ra trong các trò chơi micro online: sự hiện diện của những người chơi rất yếu.

Vì những lý do đã nêu trước đó, hầu hết những người chơi mạnh sẽ không thực hiện chiến lược
limp, vì vậy nói chung nếu bạn thấy một người chơi limp từ bất kỳ vị trí nào khác ngoài SB, bạn
có thể khá chắc chắn rằng họ không phải là một người chơi thực sự mạnh. Nếu đúng như vậy, có
một số cách khác nhau để bạn có thể tấn công họ tùy thuộc vào loại người chơi họ thuộc về.

Người chơi đánh yếu và bị động

Nếu người limp là loại người chơi hiếm khi raise và có xu hướng check-fold khi họ không hit gì,
bạn có thể cô lập họ với range rất rộng và kỳ vọng sẽ lấy được pot ở post-flop với tần suất rất cao.

Mức độ bạn có thể cô lập người chơi này phụ thuộc vào những người chơi khác trên bàn. Nếu họ
sẵn sàng tấn công bạn với 3-bet bạn nên cẩn thận và raise một range tương tự mức bạn sẽ open
nếu ở vị trí đó nếu các nhà hành động trước đó fold đến bạn. Nếu họ call rất nhiều cú raise dẫn đến
pot nhiều nhà, bạn cần có hand có thể chơi tốt ở những pot nhiều nhà như đồng chất liên tiếp, hand
đôi và Axs. Nếu những người chơi phía sau bạn không quan tâm hoặc chơi hổ báo, bạn có thể
tránh việc raise hầu hết những ván bài có vài khả năng chơi được.

Người chơi dai dẳng

Nếu người limp là loại người chơi không thích fold, bạn nên chơi những hand có thể tạo ra top
pair tốt ở flop rồi kiếm value từ đó. Đối đầu với loại người chơi này, bất kỳ top pair nào và hầu
hết các second pair là đủ tốt để bet value cho ba vòng đặt cược.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Sẽ tốt khi semi-bluff lại họ nhưng nếu việc mua bán của bạn ở river không thành công hãy sẵn
sàng từ bỏ hầu hết thời gian đã bỏ ra và đừng bao giờ bluff vô tội vạ. Không có gì khiến họ thích
thú hơn việc call với bottom pair suốt ba vòng đặt cược và thấy bài bạn không có gì.

Người chơi hổ báo

Nếu người limp là loại người rất hổ báo và sẽ check-raise và dẫn trước bạn, hãy tự giúp bản thân
mình và đừng cô lập người chơi này với phạm vi quá rộng. Range của bạn nên được tạo bởi những
hand rất mạnh và có thể chịu được nhiệt. Hãy cẩn thận với những hand có độ mạnh trung bình của
bạn bằng cách check chúng và kiểm soát được size của pot để bạn có thể bắt bluff hiệu quả hơn,
và nếu bạn có hand tốt nhưng không phải quá tốt, đừng ngại chơi nó.

Người chơi thích trap

Nếu người limp thuộc loại người chơi trap và limp với những hand mạnh như AK và AA với ý
định limp-raise, hãy thoải mái limp với tất các hand đồng chất và liên tiếp và các hand đôi nhỏ.
Những người chơi khác trên bàn sẽ ngần ngại việc raise sau đó vì có nguy cơ sẽ bị limp-raise và
bạn sẽ có thể chơi rất tốt ở post-flop đối đầu với range này.

Đối đầu với loại người chơi này, bạn nên raise một range phân cực được tạo bởi những hand có
thể chống chịu 3-bet và những hand có lá bài chặn tốt mà bạn sẵn sàng raise-fold.

Open Push
All-in, hay còn được gọi là open push, là cú bet mạnh nhất bạn có thể làm. Nó cho phép bạn nhận
lại 100% equity với tất cả các hand trong range của bạn, nhưng cũng chứa đựng rủi ro lớn hơn bạn
sẽ phải đặt toàn bộ stack vào vòng cược. Bạn không còn có thể fold những hand yếu hơn ở range
của mình khi đối thủ 3-bet bạn nếu bạn đã raise mức nhỏ hơn. Nhìn chung, chip bạn có càng nhiều
và những người chơi còn hành động còn lại càng nhiều, xu hướng bạn nên all-in càng giảm đi.

Ví dụ 1

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bàn 9 người với 12.5% antes và stack 10bb, UTG chỉ có thể all-in 14.4% số hand trong khi SB có
thể all-in 74.7%. Điều này là vì UTG phải lo lắng về việc tám người chơi còn lại có thể cầm bài
mạnh trong khi SB chỉ phải lo lắng về BB.

Ví dụ 2
Bàn 9 người với 12.5% antes và stack 12bb, BN có thể all-in 41.5% số hand nhưng với 15bb chỉ
có thể all-in 37.2% số hand. Vì bạn đang mạo hiểm với nhiều chip hơn, bạn phải raise chặt chẽ
hơn.

Nhìn chung, với ít hơn 10bb, người chơi có thể all-in từ bất kì vị trí nào. Vị trí càng sớm và
stack bạn càng lớn, bạn càng phải chơi all-in chặt chẽ hơn. (Table 25).

Bảng 25: Độ lớn tối đa của Stack (bb) để all-in theo vị trí (MTTs 12.5% ante)

Nhìn chung, khi all-in ở pre-flop, nếu bạn đang all-in toàn bộ range của mình, bạn sẽ muốn
range của mình là tuyến tính, bao gồm những hand mạnh nhất để mang lại equity tốt nhất khi
được call.
Nếu bạn đang chia nhỏ range của mình bằng cách sử dụng chiến thuật all-in/raise/fold, bạn muốn
range để all-in của mình phải cô đặc, bao gồm những hand đủ tốt để raise/fold, trong khi không đủ
tốt để raise/call, và sẽ nhận được equity tốt khi được call, như Axs, Q9s và 87s.

Bạn muốn range để raise không all-in là phân cực, bao gồm những hand với lá bài chặn tốt có
value như Axo mà bạn dự định sẽ fold nếu đối thủ all-in, và những hand cao cấp bạn sẵn sàng
raise/call, như là KK.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hướng dẫn tổng quát về Size Bet ở Pre-flop
Vị trí của bạn ở càng sớm, size bet của bạn càng nên nhỏ hơn vì nguy cơ đối thủ sẽ re-raise càng
tăng. Range của bạn càng rộng, size bet của bạn càng nên lớn hơn vì các hand của nhiều đối thủ
hơn sẽ có equity để call size raise tương tự với range rộng hơn. Nhìn chung, khi đối mặt với bet
hoặc raise, size bet bạn đối mặt càng lớn, số hand bạn phải phòng thủ để duy trì không bị khai thác
càng ít.

Khi những đối thủ còn lại có độ lớn stack tốt để all-in (dưới 25bb) size bet tối ưu luôn là mức
raise tối thiểu vì nó cái giá tệ nhất có thể cho cú re-raise all-in của họ. Với stack càng lớn, size bet
càng lớn càng tốt vì đối thủ đang có implied odds tốt hơn với hand của họ, nên bạn muốn họ từ bọ
việc call, đặc biệt khi họ có vị trí.

Nếu bạn đang re-raise ở pre-flop với range phân cực, và phản ứng chủ yếu của đối thủ là re-
raise hoặc fold, bạn nên sử dụng size bet tối thiểu có thể để giảm thiểu rủi ro với những hand
raise/fold hands trong range của mình.

Việc ngoài vị trí cần một size bet lớn hơn vì bạn muốn giảm thiểu lợi thế vị trí của người chơi
IP bằng cách giảm SPR. Ngược lại, việc có vị trí cần sử dụng size bet nhỏ hơn vì, ngay cả khi bị
call, bạn vẫn có lợi thế vị trí trong những vòng đặt cược sau đó. Tuy nhiên, bet nhỏ cũng có một
vài bất lợi, ví dụ như việc đưa ra cái giá tốt hơn cho cú call của đối thủ, cho phép họ phòng thủ với
lợi nhuận tốt hơn cho nhiều hand bài hơn.

Sử dụng bộ giải để kiểm tra size bet ở pre-flop, tôi nhận thấy rằng với những size bet giống
nhau, sự khác biệt về EV là khá nhỏ và thậm chí là không khác biệt trong rất nhiều tình huống. Ví
dụ, tăng size open từ 2.25bb lên 2.3bb sẽ không có ảnh hưởng EV đáng kể nào ở bottom line của
bạn.

Các bộ giải không quan tâm đến việc sử dụng những size bet giống nhau miễn là người chơi
hiểu được cách tốt nhất để phản ứng lại mỗi size bet cụ thể. Vì những size bet khác nhau sẽ có
những cách phản ứng tối ưu khác nhau, và không phải tất cả đối thủ đều có khả năng phản ứng
hiệu quả với tất cả các size bet, và size bet tốt nhất là mức khiến đối thủ của bạn rơi vào sơ đồ
quyết định mà họ không quen thuộc, khiến họ tạo ra nhiều sai lầm.

Luôn có một thời điểm tốt cho size bet ở pre-flop giúp giảm thiểu rủi ro của bạn trong khi tối
đa hoá được equity fold. Tuy nhiên, vì poker là một trò chơi chưa được giải hoàn toàn, nên vẫn
chưa có một câu trả lời chắc chắn nào cho size bet chính xác ở pre-flop. Hơn nữa, luôn có size bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


để khai thác khi đối đầu với những đối thủ cụ thể, khiến cho việc áp dụng hướng dẫn size bet tổng
quát như một hình thức nghệ thuật hơn là khoa học.

Những phương pháp chơi Pre-flop tổng quát


Bạn sẽ luôn có được những hành động kiếm được mức EV cao nhất với mỗi hand trong range của
mình tại mỗi điểm quyết định. Ghi nhớ những điểm sau.

Từ mỗi vị trí, bạn sẽ chơi phân phối các hand mạnh so với những hand ngẫu nhiên
chưa hành động.
Nếu một người chơi khác tự nguyện tham gia vào pot, khoảng phân phối hand của bạn phải mạnh
so với những hand ngẫu nhiên còn lại và khoảng phân phối hand của người chơi tham gia vào pot.
Ví dụ, range raise của CO khi đối đầu với limp của UTG phải chặt chẽ hơn range raise nếu các
hành động được fold đến CO vì CO phải cân nhắc về nhà limp ở UTG.

Từ mỗi vị trí, bạn sẽ chơi một vài loại hand khác nhau mang lại kỳ vọng tích cực khi đối đầu
với nhữg người chơi còn lại (bao gồm hiệu ứng rake trong các trò chơi có rake).

Nhìn chung, những hand sử dụng các chiến thuật hỗn hợp (đôi khi raise và đôi
khi fold) là những hand threshold.
Với hiệu ứng loại bỏ lá bài ở Hold’em bạn có thể kì vọng thấy được nhiều hand sử dụng chiến
thuật hỗn hợp hơn. Những hand tệ nhất trong range của bạn sẽ không có EV và sẽ không có sự
khác biệt gì giữa raise và fold khi chơi với những đối thủ tốt/tối ưu. Tuy nhiên, bạn có thể tăng tần
suất raise bằng việc thêm nhiều hand yếu vào range của mình khi đối đầu với những đối thủ yếu
hơn vì họ sẽ không thể chơi lại bạn đủ hổ báo để tạo nên khác biệt với khoảng dưới của range raise
thông thường của bạn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Mỗi khi ta open khai thác một range rộng hơn bình thường và đối mặt với 3-bet,
thì tốt hơn là chúng ra nên fold quá đà.
Bạn đang khai thác với thực tế rằng bạn sẽ không bị 3-bet nhiều đến mức phải chơi những hand
ngoài range. Nên, khi bạn bị 3-bet, điều chỉnh của bạn nên là fold tất cả những hand ngoài range
và thậm chí những hand có thể ở khoảng dưới range call thông thường của bạn.

Những người chơi quan trọng phải cân nhắc kĩ lưỡng để quyết định open những hand biên hay
không là BN, SB và BB vì những vị trí này có nhiều khả năng đưa ra hành động cho bạn nhất.
Nếu những người chơi ở các vị trí này chơi chặt chẽ, bạn có thể bị mất rất nhiều pha cướp blind.

Trong poker, ngẫu nhiên hoá đề cập đến việc áp dụng lựa chọn may rủi giữa
những hành động có EV tương đương để đảm bảo việc không bị đoán trước được.
Ví dụ, nếu một hand không có sự khác biệt gì giữa call và fold (EV của hai hành động này là giống
nhau) và gỉai pháp GTO là call 50% và fold 50%, người chơi có thể ngẫu nhiên lựa chọn một trong
hai bằng cách tung đồng xu. Những người chơi online có thể sử dụng phần mềm nhảy số ngẫu
nhiên (vd: random.org) để giúp họ không thể bị đoán trước với những hand sử dụng chiến thuật
hỗn hợp.

Những người chơi trực tiếp có thể sử dụng một số cách ngẫu nhiên như kim giây trên đồng hồ
hoặc chất những lá bài của họ. Ví dụ, xác suất lá bài cao hơn trong số hai lá là lá bài đỏ là 50%,
vậy người chơi có thể ngẫu nhiên lựa chọn màu của lá bài cao hơn trong hand poker của họ. Người
chơi cũng có thể chọn một chất như cơ, và nếu lá đầu tiên của họ là cơ, chọn chơi 25% ván bàn.
Họ cũng có thể nhìn vào phần mềm nhảy số tự động trước khi bắt đầu chơi mỗi hand. Có nhiều
thủ thuật người chơi có thể sử dụng để ngẫu nhiên hoá các hành động của họ trong những trò chơi
trực tiếp. Tuy nhiên, những trò chơi trực tiếp thường khá nhẹ nhàng, nên những quyết định khôn
ngoan có xu hướng nhị phân hơn, và thường có nhiều đoạn thông tin bổ sung người chơi có thể sử
dụng để đưa ra quyết định chính xác hơn, như ngôn ngữ cơ thể, lịch sử đấu, xu hướng phổ biến,
etc. Tất cả điều này, cùng với thực tế là đối thủ của bạn sẽ khó có được mẫu đủ lớn về bạn để nắm
bắt được chính xác tần suất bạn khiến việc ngẫu nhiên hoá ở poker trực tiếp ít cần thiết hơn ở
poker online.

Cách tiếp cận tốt nhất khi mở rộng khai thác range của bạn là bắt đầu tăng tần
suất của những hand chơi bằng chiến thuật hỗn hợp.
Điều này là vì những hand threshold là những hand đầu tiên để kiếm được lợi nhuận
trước sơ hở của đối thủ. Ví dụ, nếu một hand như A9o được bet 25% thời gian ở một

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


vài vị trí, cách khai thác tốt nhất khi đối đầu với đối thủ fold quá đà là sẽ bet A9o 100%
thời gian. Từ đó, bạn có thể thêm vào những hand gần với những hand đó, ví dụ như
A8o và A7o, thay vì thêm ngẫu nhiên một hand nào đó như Q4o. Cách điều chỉnh này sẽ
khó bị đối thủ phát hiện ra hơn, giảm thiểu khả năng họ khai thác ngược lại bạn, và khi
bạn bị khai thác ngược lại hoặc đánh giá sai sơ hở của đối thủ, những hand bạn
thêm vào chiến thuật của mình phải có những lá bài chặn đúng, đồng nghĩa việc
chúng sẽ không bị -EV như những hand ngẫu nhiên.

Tránh việc đưa bản thân vào vị thế khó vì luôn nghĩ về một vài bước tiếp theo
Ví dụ, nếu bạn đang nghĩ về việc 3-bet với một hand mạnh trung bình nhưng không biết sẽ phải
làm gì nếu đối thủ re-raise, thì thay vào đó bạn chỉ nên call. Điều này cũng áp dụng ở post-flop.
Nếu bạn không biết phải làm gì với hand của mình nếu đối thủ re-raise, vậy hãy chỉ check. Trước
khi open raise, hãy luôn cân nhắc về những người chơi còn chưa hành động. Liệu họ có re-raise
không? Nếu có, bạn sẽ phản ứng thế nào? Và nếu họ 5-bet sau khi bạn 4-bet? Bạn có sẵn sàng all-
in hand đó ở pre-flop? Hand của bạn có đủ tốt để 4-bet/fold? Nếu vậy, hãy chỉ call nếu bạn bị 3-
bet. Suy nghĩ trước sẽ cho phép bạn vượt qua rất nhiều những thời điểm khó khăn mà những người
chơi giải trí hay gặp.

Những người chơi poker có xu hướng mắc hai lỗi sơ hở căn bản. Tần suất hành động của họ
sai, hoặc họ đưa sai loại hand vào những range của mình.

Thông thường, sơ hở đầu tiên và dễ sửa nhất là khi tần suất của bạn sai, điều mà hay diễn ra khi
chơi poker online. Đa số những trò chơi online sẽ có HUD (Trình diện đối đầu) đưa ra tần suất mà
mỗi người chơi thực hiện những hành động khác nhau. Trong trường hợp này, nó sẽ trở nên rất rõ
ràng khi xu hướng của họ đi lệch khỏi hướng tối ưu.

Ví dụ, nếu bạn biết tần suất RFI tối ưu từ vị trí LJ trong cash game là ~17% và bạn nhận thấy
mình đang open 22%, lúc này bạn nên giảm bớt thêm 5% số hand từ range của mình nếu bạn nghĩ
mình đang bị đối thủ khai thác.

Một loại sơ hở khác khó nhận ra hơn rất nhiều, là khi một người chơi đã có thể hành động rất
tốt với tần suất đúng, nhưng đưa những hand sai vào range của họ. Đây là nguyên nhân chính mà
nhiều người chơi đang vật lộn để tăng stack của mình. Thông thường, họ thậm chí không biết bắt

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


đầu sửa lỗi từ đâu. Họ nắm được số liệu thống kê của mình và đối thủ, và họ biết một cách tổng
quát range là gì nhưng đồng thời họ cũng nhận thấy những top pro thường xuyên thay đổi và hành
động mà họ không ngờ đến. Họ xin lời khuyên từ huấn luyện viên và bạn bè và dường như họ nhận
được những câu trả lời khác nhau cho cùng một câu hỏi.

Ở chương tiếp theo tôi sẽ cho bạn thấy không chỉ tần suất đúng mà còn cần thành phần trong
range phù hợp, vậy bạn có thể tự mình cân đối làm thế nào để thích ứng với những tình huống
khác nhau trên bàn poker, tự mình suy nghĩ, tấn công sơ hở của đối thủ và tự sửa lỗi của mình.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


05

CHIẾN THUẬT CÂN BẰNG Ở CASH


GAME BÀN 6 NGƯỜI (100BB)

Chương này đưa ra những chiến thuật ở bàn 6 người mà GTO đề xuất được đưa ra bởi những bộ
giải hiện đại và siêu máy tính cho cash game online thông thường $2/$5, 5% rake, capped ở mức
$3. Những chiến thuật này được thiết kế để trở thành một kim chỉ nam vững chắc nhưng chúng
phải được điều chỉnh theo tuỳ từng loại trò chơi cụ thể mà bạn tham gia vào.

Cách sử dụng bộ giải GTO tốt nhất là phân tích những chiến thuật được đề xuất và thử tìm hiểu
tại sao bộ giải chọn chơi hand theo cách đó, kết hợp với những nguyên tắc cơ bản của GTO như
pot odds, equity, equity fold, EV, equity ghi nhận, SPR, độ phân cực của range, độ bao phủ mặt
board, MDF, cách khai thác và cân bằng quy trình đưa ra quyết định thay vì cố gắng ghi nhớ những
chiến thuật cố định.

Ở một vài trường hợp, bạn nên thử “trở thành” bộ giải để bạn có thể đưa ra những quyết
định chính xác cho bản thân. Mỗi hand là một câu đố, và giải câu đố đó một cách tốt nhất
theo khả năng bản thân là công việc của một người chơi poker.

Những biểu đồ là một điểm khởi đầu tốt. Chúng có thể đươc sử dụng để giúp bạn có hướng đi đúng
nhưng đừng bao giờ làm theo một cách mù quáng.

Size Bet khuyến nghị


Phần này đưa ra những size bet dựa trên những nguyên tắc đã được đề cập trước đó, được thử
nghiệm rộng rãi với bộ giải GTO ở pre-flop và bàn luận với những người chơi đẳng cấp thế giới.
Ở cash game trực tiếp, size bet thường lớn hơn online rất nhiều, nhưng cash game trực tiếp cũng
có xu hướng được chơi với stack lớn hơn rất nhiều, điều này tạo ra những SPRs ở post-flop giống
nhau. Sau đây là những size được khuyến nghị.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong các trận đối đầu

BN RFI: 2.5bb, BB 3-bet: 10bb, BN 4-bet: 23bb, BB 5-bet: All-in (100bb).

Bàn 6 người
RFI: LJ, HJ, CO, BN: 2.5bb, SB: 3bb.
3-bet: IP: 8.5bb, OOP: 10bb (khi squeezing bạn có thể thêm vào 2-3bb)
4-bet: 23bb
5-bet: All-in (100bb)

BvB
SB Limp:
BB Raise và SB Limp: 3.5bb
SB 3-bet: 13bb

BB 4-bet: 28bb
SB 5-bet: All-in (100bb)
SB Raise:
SB: 3bb
BB 3-bet: 9bb
SB 4-bet: 24bb

BB 5-bet: All-in (100bb)

Chiến thuật RFI theo GTO

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta sẽ bắt đầu phân tích pre-flop với kịch bản đơn giản nhất có thể xảy ra, đó là trận chiến
giữa hai nhà blind. Sau đó, chúng tôi sẽ mở rộng các chiến lược bằng cách kết hợp BN, CO, HJ và
cuối cùng là LJ. Điều quan trọng cần lưu ý là các chiến lược cơ bản này được tính toán bằng cách
sử dụng các size bet được khuyến nghị, vì vậy cần phải điều chỉnh khi đối mặt với các size bet
khác nhau.

Small Blind
Small blind là một trong những vị trí thú vị mà cũng là khó để chơi nhất. Bạn sẽ không có vị thế
trong toàn bộ ván bài, điều này làm giảm khả năng ghi nhận equity của bạn và khiến việc chơi trở
nên kém hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, bạn cũng mất ít hơn khi vào pot, điều này khuyến khích bạn chơi
nhiều ván bài hơn.

Cách tiếp cận tốt nhất để chơi SB là chia nhỏ range của bạn, phát triển chiến lược limp và chiến
lược raise (Hand Range 32). Bằng cách kết hợp chiến lược limp, bạn có thể chơi nhiều ván bài hơn,
tận dụng chiết khấu để vào pot trong khi giữ tần suất raise tổng thể của bạn ở mức thấp, làm cho 3-
bet của BB trở nên kém hiệu quả hơn. Ngoài ra, SB là vị trí mà bạn muốn có size raise để open lớn
hơn vì bạn đã ở ngoài vị trí và muốn ngăn cản các cú call.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 32: SB RFI
• 3x 24.4% / • Limp 37.7% / • Fold 37.9%

Sau khi SB limp và BB raise lên 3,5x, SB muốn re-raise một range tuyến tính được tạo bởi các
hand có equity cao, vì vậy nếu bạn 4-bet, bạn có thể call và các ván bài sẽ có khả năng ghi nhận
equity tốt hơn trong SPR thấp. Đối phó với 4-bet, bạn slowplay AA bằng cách call (98%) và 5-bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


all-in với KK (100%), QQ (100%), AK (100%), JJ (32%), TT (64%) , 99 (6%) và A5 (78%)
(Hand Range33).

Sau khi bạn raise lên 3x từ SB và đối mặt với 3-bet của BB, hầu hết các middle hand của bạn
thực sự ghét bị 4-bet/fold so với all-in và chỉ muốn vào flop. Do đó, range 4-bet của bạn là phân
cực, bao gồm các hand có lá bài chặn tốt để có thể dễ dàng call hoặc fold khi đôi mặt với cú 5-bet
all-in trong khi có phạm vi bảo hiểm tốt trong trường hợp đối thủ quyết định 4-bet (Hand Range
34). Range tốt của bạn để đối đầu với cú 5-bet all-in là 66+, AKo, AQs +.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 33: SB Limp và BB Raise 3.5x

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


• L/R 13.4% / • Call 39.8% / • Fold 46.8%

Hand Range 34: SB Raise 3x và BB 3-bet


• 4-bet 17.2% / • Call 37.4% / • Fold 45.4%

Button

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi các hành động fold đến với bạn tại vị trí BN, bạn chơi chiến thuật raise hoặc fold (Hand
Range 35).

Hand Range 35: BN RFI


• Raise 2.5x: 43.4% / • Fold 56.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Như đã giải thích trước đó, rake khiến cho việc limp open ít có lợi hơn rất nhiều trong cash
game và, không giống như SB, các vị trí khác không được chiết khấu cho những lần limp của họ.
Bằng cách limp từ các vị trí khác, bạn khuyến khích những người chơi khác vào pot, đây không
phải là một kết quả mong muốn bởi vì, trong các pot nhiều nhà, tiền sẽ được chia cho nhiều người
chơi hơn. Hơn nữa, khả năng những người chơi khác raise so với khoản limp của bạn tăng lên
cùng với số lượng người chơi còn lại chưa hành động. Do đó, việc limp từ bất kỳ vị trí nào khác
ngoài SB đều có rủi ro bị raise cao hơn, điều này sẽ buộc bạn phải đặt nhiều tiền hơn vào pot hoặc
hand của bạn, do đó mất đi equity của bạn. Bằng cách chơi chiến thuật raise hoặc fold, bạn có thể
chắc chắn rằng range của mình được đảm bảo và có thể dễ dàng đánh bại nếu đối mặt với 3-bet.

Khi các hành động trước là fold đến bạn tại vị trí BN, bạn sẽ chơi 62,21% hand. Tuy nhiên,
không giống như SB, bạn không được chiết khấu khi chơi hand của mình và bây giờ bạn phải lo
lắng về hai người chơi có thể có hand để re-raise. Ngay cả với lợi thế vị trí của bạn so với nhà
blind, chiến lược cân bằng BN là open tối đa 43,4% hand bao gồm tất cả các cặp, A2s +, A4o +,
K2s +, Q2s +, J4s +, K8o +, Q9o +, J8o +, T8o +, 98o +, các hand đồng chất liên tiếp và không
liên tiếp. Trong các game đấu nhẹ nhàng, nếu các nhà blind đang fold quá đà so với việc open,
range để raise có thể dễ dàng mở rộng đến 55-60% hand, hoặc thậm chí nhiều hơn, tùy thuộc vào
mức độ chơi tệ và bị động của các nhà blind.

Chiến lược phòng thủ của BN đối với cả hai nhà blind là rất giống nhau (see Diagram 7 and
Hand Ranges 36 and 37). Bạn fold ít hơn khi bị SB 3-bet vì pot lớn hơn khi SB 3-bet (27bb) so
với khi BB 3-bet (26bb). Vì bạn đã có vị trí và các nhà blind có thể bet cuối cùng nếu bạn 4-bet
vào họ (buộc bạn phải fold equity của mình), bạn nên có một range 4-bet phân cực bao gồm các
hand có blocker tốt và độ bao phủ mặt board hợp lý. Nếu bạn bị 5-bet, range phải đối mặt của bạn
là 66+, AK + (điều quan trọng là phải chú ý cách các hand như 66 hiện diện trong range 4-bet của
bạn với tần suất rất nhỏ tại thời điểm này, nhưng vẫn là có thể xảy ra).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 7: BN đối mặt với 3-bet của các nhà Blinds

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 36: BN đối mặt với 3-bet của
SB
• 4-bet 8.1% / • Call 48.9% / • Fold 43.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 37: BN đối mặt với 3-bet của
BB
• 4-bet 8.6% / • Call 47.3% / • Fold 44.5%

Cutoff

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Mặc dù vị trí CO có vẻ giống với BN, nhưng cách chơi thực sự khá khác biệt. Giờ đây, bạn không
chỉ phải lo lắng về các nhà blind, mà còn về BN với vị trí trên bạn và có thể call hoặc 3-bet khi họ
thấy phù hợp. Vì vậy, tổng số ván bài bạn có thể chơi tại vị trí CO giảm xuống còn 27,8%. Tại
CO, các hand như K2s, Q5s-Q2s, J6s-J4s, A7o-A2o, các hand không đồng chất liên tiếp và đồng
chất không liên tiếp không đủ mạnh để vào pot (Hand Range 38).

Hand Range 38: CO RFI


• Raise 2.5x: 27.8% / • Fold 72.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi đối mặt với 3-bet, nếu bạn có vị trí, chiến lược của bạn chủ yếu là call, để phạm vi 4-bet
của bạn phân cực hơn (Diagram 8). Tuy nhiên, so với BN, bạn được khuyến nghị nên 4-bet nhiều
hơn và cố gắng giành pot ở pre-flop hoặc buộc SPR post-flop thấp để giảm lợi thế vị trí của BN
(Hand Range 39). Chơi không đúng vị trí ở post-flop làm cho việc xác định equity hand của bạn
khó hơn nhiều, vì vậy bạn buộc phải call ít hơn và fold nhiều hơn so với BN hơn là đối mặt với
các nhà blind (Hand Ranges 40 và 41).

Biểu đồ 8: CO đối mặt với 3-bets

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 39: CO đối mặt với 3-bet của
BN
• 4-bet 20.6% / • Call 20.4% / • Fold 59%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 40: CO đối mặt với 3-bet của
SB
• 4-bet 11.1% / • Call 35.8% / • Fold 53.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 41: CO đối mặt với 3-bet của
BB
• 4-bet 10.3% / • Call 37.6% / • Fold
52.1%

Hijack

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở vị trí HJ, bạn phải lo lắng về việc bốn người chơi vẫn còn hành động và hai trong số họ có
vị trí, điều này sẽ hạn chế khả năng chơi nhiều hand có lợi của bạn. Tổng số hand bạn có thể
chơi ở trạng thái cân bằng giảm xuống còn 21,4%, cắt giảm các cặp nhỏ hơn, các lá bài
broadway không đồng chất tệ nhất, các hand đồng chất liên tiếp và Kx và Qx đồng chất yếu
(Hand Range 42).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 42: HJ RFI
• Raise 2.5x: 21.4% / • Fold 78.6%

Trung bình, bạn fold ít hơn rất nhiều khi đối mặt với 3-bet khi bạn có vị trí, phòng thủ chủ
yếu bằng cách call với các nhà blind và 4-bet thường xuyên hơn khi ở ngoài vị trí. Ngoài ra,
bạn có thể call với range rộng hơn khi đối mặt với 3-bet của BN so với của CO vì BN có một
range flat call, do đó range 3-bet của họ phân cực hơn rất nhiều so với CO (Table 26 và
Diagram 9). Nhìn chung, các range để open có equity và khả năng chơi tốt hơn so với các
range phân cực, tạo ra nhiều lệnh call có lợi hơn.

Bảng 26: HJ Equities vs 3-bet Ranges

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 9: HJ đối mặt với 3-bets

Nhà HJ phản ứng 3-bets được thể hiện ở Hand Ranges 43-46.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 43: HJ đối mặt với 3-bet của
CO
• 4-bet 22.2% / • Call 14.5% / • Fold 63.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 44: HJ đối mặt với 3-bet của
BN
• 4-bet 21.6% / • Call 20.8% / • Fold 57.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 45: HJ đối mặt với 3-bet của
SB
• 4-bet 11.1% / • Call 36.3% / • Fold 52.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 46: HJ đối mặt với 3-bet của BB
• 4-bet 9.6% / • Call 39.1% / • Fold 51.4%

Lojack

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


LJ là vị trí mà khi bắt đầu bạn phải cẩn thận hơn nhiều, chỉ chơi 17,1% hand. Nếu bạn quyết định
tham gia vào pot, bạn phải đối đầu với năm người chơi khác có thể chơi lại bạn và ba người trong
số họ có vị trí, cản trở khả năng nhận equity của bạn. Bạn chủ yếu có thể chơi những ván bài có
equity cao với các lá chặn thực sự tốt và một phần nhỏ các hand đồng chất liên tiếp và các cặp bé
cho mục đích bao phủ mặt board (Hand Range 47).

Nhà LJ phản ứng với 3-bets được thể hiện ở Biểu đồ 10 và Hand Ranges 48-52.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 47: LJ RFI
• Raise 2.5x 17.1% / • Fold 82.9%

Diagram 10: LJ đối mặt với 3-bets

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 48: LJ đối đầu với HJ 3-bet
• 4-bet 21.8% / • Call 15.1% / • Fold 63.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 49: LJ đối đầu với CO 3-bet
• 4-bet 23.8% / • Call 13.8% / • Fold 62.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 50: LJ đối đầu với BN 3-bet
• 4-bet 21.9% / • Call 23.3% / • Fold 54.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 51: LJ đối đầu với SB 3-bet
• 4-bet 11.5% / • Call 36.6% / • Fold 51.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 52: LJ đối đầu với BB 3-bet
• 4-bet 9.5% / • Call 38.8% / • Fold 51.7%

Đối mặt với 3-bet: Những phương pháp chung

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bộ range hoàn hảo là bộ range được thiết kế theo cách mà chúng ta có thể tăng tối đa số lượng hand
có thể chơi trong khi vẫn không để những người chơi khác phát hiện lối đánh. Nếu 1 người chơi cố
gắng dùng range ở BN (~43% hand) để chơi ở vị trí LJ (~17% hand), họ sẽ bị đánh bại vì chúng sẽ
không thể phòng thủ đủ range này (~48%) khi đấu lại những đối thủ còn lại. Họ sẽ phải fold nhiều
hơn 52% range khi đối mặt với 3-bet và cũng sẽ phải call nhiều loại hand khác nhau, điều mà sẽ
gây ra rất nhiều khó khăn khi đánh post-flop.

Điều duy nhất ngăn đối thủ 3-bet bạn 1 cách không do dự là bởi vì khả năng 4-bet của bạn, cũng
giống như việc những người chơi khác raise lên trước mặt bạn. Bạn phải phòng thủ đủ trong range
của mình đối với cú 3-bet để đối thủ sẽ không hứng thú 3-bet bạn với những hand tệ nhất trong
range của họ (Diagrams 11 and 12).
Bạn sẽ nhận các cú 3-bet nhiều hơn bình thường khi ngồi ở vị trí UTG hơn là open từ vị trí BN
(mặc dù range của bạn rất khỏe) vì số lượng người chơi chưa hành động, và các đối thủ của bạn
cũng sẽ có range khỏe. Phòng thủ với 1 range rộng hơn sẽ khó khăn hơn nhiều khi phòng thủ với 1
range hẹp, vì vậy bạn không thể open 1 cách có lợi nhuận với nhiều hand từ UTG so với việc bạn
dùng chúng ở vị trí BN. Nếu range 3-bet của đối thủ phân cực, bạn sẽ có nhiều hand hơn trong
range có đủ equity để call vì sẽ ít thường xuyên bị dẫn trước, dẫn tới việc chơi post-flop sẽ dễ dàng
hơn. Vì vậy, bạn nên call nhiều hơn trong range của mình đối với những range phân cực so với
range tuyến tính.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 11: Trung bình phản ứng với 3-bet (IP)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 12: Trung bình phản ứng với 3-bet (OOP)

Broadways đồng chất, đồng chất liên tiếp và đôi luôn là những hand có thể call tốt. Broadways
không đồng chất và Ax yếu không phải lựa chọn quá tốt trong những ván có 3-bet, vì chúng có
lượng thực hiện hóa equity khá tệ và làm đảo lộn implied odds, do đó chúng sẽ bị fold hết.
Nếu bạn nghĩ ai đó đang không 3-bet quá thường xuyên, thì để bắt bài họ, đầu tiên bạn cần phải
biết họ sẽ phản ứng như nào khi bị 4-bet. Nếu hầu hết họ sẽ fold, bạn có thể 4-bet phân cực, lựa
chọn bluff với những hand có blocker tốt, ví dụ như A5s. Nếu đối thủ sẵn sàng call cú 4-bet của
bạn với range rộng và chỉ 5-bet lại với bài siêu khỏe, cách tiếp cận tốt nhất là 4-bet tuyến tính để
bạn có thể ngay lập tức ăn được pot và có 1 range post-flop khỏe. Nếu đối thủ sẵn sàng 5-bet all in
với range rộng, bạn đừng sợ 4-bet/call với những hand kiểu như AQ. Đôi khi đối thủ sẽ ăn được
bạn, nhưng thường xuyên hơn thì bạn sẽ ăn được họ.
Đối thủ càng 3-bet bé, bạn càng có thể chơi được nhiều hand trong range hơn để phòng thủ mà
không bị phát hiện. Đấu với bet-size bé hơn, bạn nên call nhiều hand hơn, và khi bet-size lớn hơn
thì số hand bạn dùng để phòng thủ nên ít lại.
Ảnh hưởng của rake bị giảm ở trong pot, và sẽ được thổi phồng lên bởi những hành động trước
flop. Vì thế, khi quyết định tham gia pot bởi 1 cú 3-bet hay 4-bet, điều quan tâm chính sẽ là range
và equity bạn đang chơi.
Khi đối diện với 1 cú 5-bet, range thông thường của bạn sẽ là TT+ và AK.
Một khi đến lượt bạn hành động sau khi bị open hay 3-bet, thường bạn sẽ 4-bet hoặc fold. Chia
range của bạn thành 1 phần chỉ call và 1 phần chỉ 4-bet sẽ đưa ra nhiều thông tin hơn cho đối thủ.
Chỉ call cũng sẽ cho phép những đối thủ chưa hành động dễ dàng realize equity của họ hơn chỉ với
việc call nhiều hand hơn những hand đáng lẽ sẽ bị fold khi bị 4-bet, vì thế cách tiếp cận tốt nhất
đơn giản là 4-bet trong range 4-bet của bạn hoặc ~ 3% lượng hand đối với range hẹp và ~ 6% đối
với range rộng (Hand Range 53).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 53: BB 4-bet với các nhà: • LJ & HJ / • CO & BN / • BN & SB

Chiến thuật chung khi bị 3-bet đối với từng vị trí

Phản ứng của bạn khi bị 3-bet nên phụ thuộc vào cú 3-bet đó đến từ vị trí nào (Diagram 13).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 13: Trung bình phản ứng với 3-bet (không tính SB RFI)

Đấu với HJ 3-bet

Khi nhà HJ chơi chiến thuật 3-bet hoặc fold đấu với nhà LJ, range của họ sẽ tuyến tính và có thể bị
trùng với range của nhà LJ. Cách phản hồi tốt nhất cho nhà LJ đó là nên phòng thủ hầu hết bởi 1
cú 4-bet để giảm thiểu lợi thế có vị trí bằng cách giảm SPR và khiến nhà HJ fold đi 1 số bài của họ.

Đấu với CO 3-bet

Khi đấu với nhà CO, bạn có thể 4-bet rộng hơn 1 chút so với nhà HJ vì range 3-bet nhà CO sẽ rộng
hơn so với range 3-bet nhà HJ. Vì thế, bạn cũng sẽ sẵn sàng all in với JJ và TT pre-flop.

Đấu với BN 3-bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Range 3-bet nhà BN sẽ phân cực hơn so với HJ và CO vì BN có range call khá hẹp, nghĩa là bạn
sẽ có nhiều hand trong range của mình có lượng equity tốt để call cú 3-bet đó. Range 4-bet sẽ bắt
đầu phân cực và những hand trung bình như Aqs, Ajs và KQs sẽ call thường xuyên hơn.

Đấu với SB 3-bet

Bạn có lợi thế vị trí khi đấu với nhà SB nên vì thế bạn không cần 4-bet quá thường xuyên giống
như khi đấu với các vị trí khác. Bây giờ hand duy nhất bạn muốn all in pre-flop chính là AA, KK
và Aks. Những hand có nhiều equity như suited broadways gần như sẽ call hết. Vì thế, chọn suited
broadways và những hand suited tốt nhất để làm 4-bet bluff. Những hand khỏe như QQ và JJ thích
xem flop nhiều hơn, vì thế hãy 4-bet ít lại khi cầm chúng.

Đấu với BB 3-bet

Range 3-bet nhà BB sẽ phân cực và bạn có vị trí, vì thế bạn sẽ phòng thủ chính bằng việc call và
chơi post-flop khi có vị trí với range bài chắc chắn. Bạn có thể bắt đầu chơi chậm với AÂ 1 số ít
lần khi bạn ngồi ở HJ. Range 4-bet của bạn khi đấu với nhà BB sẽ phân cực và 1 vài bluff thường
xuyên sẽ là A5s-A3s, AQo-ATo, 1 vài Kx suited. Suited broadways, suited connectors và đôi lớn
sẽ call tốt hơn vì chúng có thể chơi tốt ở những ván 3-bet và sẽ realize equity dễ dàng hơn.

Hướng dẫn chung khi đối đầu với nhà Open


Ở phần này chúng ta sẽ bàn luận về GTO 3-bet và cách bắt bài những cú 3-bet.

GTO 3-bet

Khi đấu lại 1 đối thủ rắn (tức đối thủ có chiến thuật open và phòng thủ khi bị 3-bet khá chuẩn), bạn
nên thử bám sát vào chiến thuật 3-bet 1 cách cân bằng, và nếu như có thể, sử dụng 1 vài loại bài
ngẫu nhiên để giúp cân bằng lại. Hơn nữa, bạn phải cẩn thận đeẻ không bị phát hiện, nghĩa là bạn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


phải phòng thủ cú 3-bet của bạn thật chuẩn trước 1 cú 4-bet.
Khi suy nghĩ về việc có nên 3-bet hay không, bạn nên cân nhắc sức mạnh của range đối thủ. Range
của họ càng khỏe, bạn càng nên dùng những hand khỏe để làm bluff (bạn phải chọn những hand
khỏe hơn nữa để sử dụng làm bluff khí đấu với nhà LJ so với nhà BN)
Nếu bạn có range call ngang (hầu hết từ vị trí BN hoặc ở những vị trí đầu), thì range 3-bet của bạn
cần phải phân cực vì bạn sẽ call ngang những hand có equity tốt mà không muốn bị 4-bet. Vì vậy,
range 3-bet của bạn phải có những hand tốt nhất cùng với những hand không nên call, có equity
hoặc blocker tốt và có độ bao phủ mặt bàn.
Nếu bạn không có range call ngang (thường có khi ở HJ, Co và SB), thì range 3-bet của bạn sẽ bị
tuyến tính. Nếu bạn đang chơi chiến thuật 3-bet hoặc fold, bạn sẽ chỉ muốn 3-bet những hand mạnh
nhất và fold tất cả những hand còn lại.
Khi bạn muốn chia range của mình ra thành range call và range re-raising, nếu stack đủ nhiều để
đối thủ có thể re-raising all in được, bạn sẽ muốn re-raising phân cực hơn. Đó là bởi vì bạn muốn
đưa tất cả những hand có equity cao mà bạn không muốn bị re-raise/fold vào trong range call ngang.

Bắt bài 3-bet

Khi bạn nghi ngờ đối thủ là 1 người chơi yếu và thường sẽ open với nhiều hand hơn những hand
họ nên chơi, bạn sẽ muốn thử bắt bài họ bằng việc 3-bet thường xuyên hơn. Tuy nhiên, bạn phải
thật cẩn thận vì sẽ còn có những người chơi chưa hành động khác, vì nếu họ biết được bạn đang
làm gì, họ có thể bắt đầu 4-bet với range rộng hơn và bắt bài bạn, kể cả nếu như người chơi yếu
không bao giờ nhận ra bạn đang bắt bài họ.
Cách tốt nhất để biết đối thủ có fold quá nhiều trước những cú 3-bet không đó là sử dụng MDF và
chỉ số Alpha.

Ví dụ
Game: Live Cash Game
Stack hiệu dụng: $500
Players: 8

Blinds: $2/$5 (không ante)


Pre-flop: Fold hết đến nhà SB, SB tố $15. Bạn đã thấy đối thủ open bằng những hand như Q3o và
64o từ vị trí SB lúc trước, vì thế bạn ước chừng họ sẽ open xấp xỉ 76% hand (Hand Range 54).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 54: Range đối thủ ở SB

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bạn đang ở BB với K♦2♠.
Liệu bạn có thể bắt bài đối thủ bởi 1 cú 3-bet bluff bằng K♦2♠ để có lợi nhuận?
Sử dụng công thức tính Alpha, nếu bạn 3-bet đối thủ lên $45, bạn sẽ liều $40 để ăn $20:

Range của đối thủ (76.47% hand) sẽ bao gồm 1,014 combo.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Vậy, nếu đối thủ phòng thủ ít hơn 334.62 combos, bạn sẽ có được lợi nhuận khi đi bluff họ.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 55: Range SB Defense vs BB (350 combo) [Người chơi Fish] • Defended 34.5% / •
Folded 65.5%

Bạn có thể thấy trong Hand Range 55 range phòng thủ của SB có 350 combos, vậy bạn sẽ không
có lợi nhuận khi bluff với ATC, nhưng với hand của bạn là K♦2♠, chúng có những blocker có giá
trị đối với range tiếp tục của đối thủ. K♦ block những hand như AK, KK, K6s+, KT0+. Khi có K♦
trong tay, range phòng thủ của đối phương sẽ giảm từ 350 xuống 324 combos, làm cho cú 3-bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


bluff của bạn có lợi nhuận.
Có 2 loại bắt bài những cú 3-bet.

◆ 3-bet phân cực: nếu đối thủ thích 4-bet hoặc fold hơn là việc call, bạn có thể tăng
range 3-bet của mình thêm 1 số hand có blocker tốt. Ví dụ, Ajo, A5s và KJs có thể
call ngang vì chúng có equity cao mà bạn không muốn bị 3-bet/fold.
◆ 3-bet tuyến tính: nếu đối thủ thích call 3-bet hơn 4-bet, bạn sẽ muốn 3-bet với range
tuyến tính có nhiều hand có equity cao, có thể chơi được post-flop tốt và sẽ áp đảo range
call ngang của đối thủ.

Từng loại Range khi đối đầu với nhà Open


Bây giờ chúng ta sẽ phân tích giải pháp GTO để chơi với nhà open từ từng vị trí và thảo luận về
yếu tố chính tạo nên bộ range này.

Hijack

Người chơi ở HJ chọn chiến thuật 3-bet/fold, không có range call khi đối mặt với cú tố của nhà LJ
(Hand Range 56). Từ vị trí này, số lượng hand tối đa bạn có thể 3-bet và không để bị bắt bài là
~8% hands. Người đọc có thể sẽ ngạc nhiên rằng là chiến thuật này sẽ chỉ có 1 ít những đôi nhỏ
như 88 đến 22, bởi vì nếu 88 tốt hơn 22 raát nhiều thì tại sao không 3-bet 88 thường xuyên hơn so
với 22? Lý do chính là bởi vì bạn muốn độ bao phủ mặt bàn tại post-flop tốt và có thể hit set và
những hand mạnh khác cho nhiều loại flop khác nhau. 1 lý do nữa là bởi vì nếu bạn chỉ 3 -bet 1 số
hand nhất định, đối thủ sẽ dùng những quân blocker của họ hiệu quả hơn khi đấu với bạn.
Khi đấu với cú 4-bet từ nhà LJ, bạn sẽ muốn 5-bet ~18.4% số lần bị 4-bet, nhưng vì bạn đang có vị
trí, bạn sẽ nên call hầu hết những hand có trong range có thể tiếp tục, chơi chậm AA 52% số lần
cầm và chỉ call các đôi yếu hơn KK. Những hand khác thích xem flop là small suited connectors,
AKo (46%), AQs, AJs, KQs và 1 số A5s-A4s(Hand Range 57).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 56: HJ đấu với LJ
Open
• 3-bet 8.1% / • Fold 91.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 57: HJ đâu với LJ 4-bet
• 5-bet All-in 18.4% / • Call 43.3% / • Fold
38.3%

Cutoff

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Range 3-bet của CO khi bị nhà LJ open sẽ rộng hơn so với khi nhà HJ đấu với LJ, bởi vì bây giờ
sẽ ít đối thủ hơn cần phải lo lắng. (Hand Range 58). Tuy nhiên, range nhà LJ vẫn đủ khỏe, bạn
chỉ nên 3-bet thường xuyên thêm 0.5%
Những hand bạn sẵn sàng all in pre-flop là KK và AKs (100%). QQ chỉ muốn all in khoảng tầm
7%. AA sẽ chơi chậm khoảng 48% trong tổng số lần cầm, và Ako sẽ call 46%. A5s call 39% và
A4s call 30%.(Hand Range 59)

Hand Range 58: CO đấu với LJ Open • 3-bet 8.6% / • Fold 91.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 59: CO vs LJ 4-bet
• 5-bet All-in 17.5% / • Call 45.1% / • Fold 37.4%

Đấu với nhà HJ, nhà CO có thể 3-bet rộng hơn so với khi đấu với nhà LJ vì nhà HJ open với
~21% hands, trong khi đó nhà LJ chỉ open với 17% hands. Bạn sẽ mở rộng range 3-bet của mình
bằng những hand như A9s (61%), QTs (30%), and JTs (16%) và thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi. (Hand Range 60).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi mà range 3-bet của bạn rộng hơn khi đấu với nhà HJ, bạn cần phải phòng thủ thêm 1 vài
hand khi bị đối thủ 4-bet để không bị bắt bài, vì thế bây giờ bạn có thể call với KJs (100%), ATs
(24%), and KTs (21%).( Hand Range 61)

Hand Range 60: CO đâu với HJ


Open
• 3-bet 9.9% / • Fold 90.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 61: CO đấu với HJ 4-bet
• 5-bet All-in 16.1% / • Call 48.2% / • Fold 35.8%

Button
Vị trí BN là vị trí duy nhất không cần lo về yếu tố vị trí post-flop nếu như ai đó quyết định tham

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


gia vào pot. Không giống như LJ, HJ, và CO, nhà BN có range call khi bị open, vì thế range 3-bet
của nhà BN sẽ phân cực hơn (Diagram 14).

Diagram 14: Tần suất phòng thủ ở BN

Range call ngang của bạn sẽ được tạo ra bởi những hand có thể chơi post-flop tốt và có độ bao phủ
mặt bàn tốt. Bạn sẽ bảo vệ range call của mình bằng cách chơi chậm lại những hand như QQ
(22%), JJ (52%), TT (59%), 99 (72%), và AKo (23%), và những hand có thể call những cú
squeezes và chơi post-flop như AQs (30%), AJs (37%), ATs (71%), KQs (65%), KJs (67%), KTs
(30%) và QJs (41%) (Hand Range 62).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 62: BN đấu với LJ Open
• 3-bet 7.3% / • Call 6.9% / • Fold 85.8%

Khi bạn thấy 1 vài điểm kì lạ như K6s-K5s and 53s ở trong Hand Range 62 , hãy ghi nhớ rằng
những hand này được đúc kết từ giải pháp GTO chứ không phải là tự khám phá ra “1 đột phá”, vì
thế bạn cũng sẽ ổn thôi khi bỏ qua những hand này trong lúc luyện tập.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tại thời điểm này, range 4-bet của nhà LJ đủ khỏe để bạn có thể 5-bet bằng những hand như KK,
AKs, AKo (64%), AA (44%), and QQ (5%) từ vị trí BN khi mà LJ sẽ tiếp tục chơi với ~58% số lần
bị all in. Nhắc lại nhé, khi mà bạn đã có vị trí, phần lớn range sẽ được phòng thủ bởi việc call rất
nhiều hand có equity tốt khi gặp range 4-bet của nhà LJ (Hand Range 63).

Hand Range 63: BN đấu với LJ 4-bet


• 5-bet All-in 19.4% / • Call 40% / • Fold 40.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi đấu với nhà HJ raise, nhà BN sẽ call ngang ít đi 1 chút vì bạn sẽ khó có thể phòng thủ trước
những cú squeezes, để cho các nhà SB và BB có thể 3-bet nhiều hơn khi đấu với HJ hơn là với LJ.
Đồng thời, BN có thể 3-bet nhiều hơn đối với nhà HJ, vì thế tần suất 3-bet của bạn tăng thêm 1.5%
và tần suất fold cũng giảm xuống 1.2%. 1 số hand bạn nên thêm vào range 3-bet đó là những hand
có blocker như QJo (16%), và ATo (13%) (Hand Range 64).
Khi bị nhà HJ 4-bet, BN có thể bắt đầu 5-bet lại bằng QQ (38%), và sẽ muốn call nhiều hơn với
những bài như AQo (66%), KTs, QJs (38%), JTs (96%), A5s (96%), A4s (40%), A3s (17%), và
54s (Hand Range 65)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 65: BN đấu với HJ 4-bet
• 5-bet All-in 18.4% / • Call 41.6% / • Fold 40%

Nhớ rằng biểu đồ này chỉ thể hiện tần suất chơi chứ không chỉ chính xác độ thường xuyên
bạn chơi những hand có trong range. Ví dụ, 54s được hiểu là sẽ call 100% số lần bạn sở hữu

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nó, nhưng khi bạn nhìn lại biểu đồ BN đấu với cú 3-bet từ HJ, 54s chỉ dùng 3-bet có 4%, vì
thế bạn hiếm khi có nó trong range khi bị 4-bet vào mặt.

Khi đấu với CO open, range call của BN tiếp tục thu hẹp lại do SB và BB có thể squeezes thường
xuyên hơn so với khi HJ và LJ open. Range 3-bet của nhà BN khi đấu với CO sẽ tăng lên 11.7%
và tần suất fold sẽ giảm tới 82.3%. Range 3-bet nhà BN bây giờ sẽ có nhiều suited Ax và offsuit
broadways, tập trung vào những lá bài cao hơn (Hand Range 66).
Range 4-bet nhà CO sẽ rộng hơn và phân cực hơn 1 chút so với nhà HJ, vì thế bạn có thể phòng thủ
bởi việc call với hầu hết range của mình. Khi cầm AA sẽ chơi chậm lại 100% số lần cầm. Bạn cũng
có thể tăng tần suất call những hand như AQo, QJs, JTs, and K9s (68%). Bạn bắt đầu muốn 4-bet
với JJ (40%) và tăng tần suất 4-bet với những hand như AKo (96%), và QQ (66%) (Hand Range
67).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 66: BN đấu với CO Open
• 3-bet 11.7% / • Call 5.4% / • Fold 82.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 67: BN đấu với CO 4-bet
• 5-bet All-in 17.1% / • Call 45.2% / • Fold 37.3%

Small Blind

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Mặc dù là bạn có thể Call với giá rẻ hơn, nhưng khi ở vị trí SB đấu với vị trí LJ, bạn hãy chơi
chiến thuật 3-bet hoặc fold tương tự khi chơi từ vị trí HJ hay Cutoff. Việc call khi ở vị trí SB sẽ
đưa bạn vào tình huống khó khi BB vẫn chưa hành động và có thể tố lớn, ép bạn úp bài. Thay vì
thế, BB có thể call và xem được flop, chiếm được 1 phần của pot. Tỷ lệ phần trăm chiến thắng của
SB trước khi xem flop mà không có vị trí với 2 người chơi khác là khá tệ, đặc biệt khi với SPRs
cao. Kết hợp với ảnh hưởng của lãi suất của sàn, lựa chọn call khi ở vị trí SB sẽ là 1 lựa chọn thua
cuộc (Hand Range 68).
Để phản ứng lại với cú 4-bet, range 5-bet ở đây sẽ là AKs, AA (63%), AKo (53%), QQ (7%) và JJ
(10%). Range call sẽ bao gồm tất cả đôi khác, suited connectors, AQs, AJs, ATs (21%) và A5s
(44%). Suited connectors bé và đôi trung bình sẽ call tốt hơn so với những hand như AQo, Kxs, và
Qxs vì những hand này không block những bluff của đối thủ kể cả nếu chúng có equity thô ít hơn
(Hand Range 69).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 68: SB đấu với LJ Open
• 3-bet 7.3% / • Fold 92.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 69: SB đấu với LJ 4-bet
• 5-bet All-in 20.6% / • Call 45.7% / • Fold
33.8%

SB có thể 3-bet với range rộng hơn khi đấu với HJ so với LJ, những hand như A9s (23%), KQo
(9%), K9s (10%), J9s (9%) và thêm trọng lượng vào số lượng bài bạn chơi. (Hand Range 70).
Khi mà bạn đã 3-bet rộng hơn đối với HJ so với LJ, bạn sẽ phải call ít đi khi bị 4-bet để không

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


bị đối thủ phát hiện những cú call bằng những hand như AQo (5%), KQs (48%), KJs (54%),
and KTs (28%) (Hand Range 71).

Hand Range 70: SB đấu với HJ


Open
• 3-bet 8.7% / • Fold 91.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 71: SB đấu với HJ 4-bet
• 5-bet All-in 20%% / • Call 46.8% / • Fold 32.8%

SB có thể 3-bet nhiều hơn 2.2% số hand khi đấu với nhà CO so với khi đấu với nhà HJ, khi mà có
thể 3-bet với những hand như AJo (47%), A8s (15%), T9s (45%) và thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi (Hand Range 72).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


SB nên chơi chậm lại thường xuyên hơn khi cầm AA khi đấu với nhà CO, vì range 4-bet của nhà
CO sẽ phân cực hơn khi ở HJ và LJ, cho phép bạn call có lợi nhuận với những hand như AQo
(52%), A3s, and JTs (55%). Việc call A2s - A5s sẽ tốt hơn so với việc call các Ax có kicker lớn
hơn như A9s vì chúng block AA và AK và không block các bluff như KJs, KTs, K9s, J9s trong khi
vẫn duy trì tốt được khả năng chơi trước flop. Đây là lần đầu tiên, chúng ta thấy range 5-bet bao
gồm những hand không khỏe để làm bluff như ATs và A5s. Lý do cho việc này là bởi vì range 4-
bet của EP và MP quá khỏe và block quá nhiều bài. 4-bet range của LP khi đấu với SB và BB ít khi
tập trung vào những quân blocker và điều này bắt đầu cải thiện EV của việc đẩy allin những hand
có blocker như này. ATs và A5s là những hand bluff có equity cao nhất khi đấu lại những range
mạnh (Hand Range 73).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 72: SB đấu với CO Open
• 3-bet 10.9% / • Fold 89.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 73: SB đấu với CO 4-bet
• 5-bet All-in 18.6% / • Call 52.2% / • Fold 29.2%

Đấu với nhà BN, SB có thể 3-bet 15% lượng hand, thêm những hand như ATo (43%), KTo (6%),
QJo (3%), A7s, Q9s, T8s (71%), 98s (21%), 87s (9%), 76s (86%) để thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi (Hand Range 74).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 74: SB đấu với BN Open
• 3-bet 15% / • Fold 85%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 75: SB đấu với BN 4-bet
• 5-bet All-in 17.3% / • Call 56% / • Fold 26.5%

Range 4-bet của BN rất phân cực, vì thế nhà SB sẽ ít muốn 5-bet và sẽ muốn call, luôn luôn chơi
chậm khi cầm AA. Range 5-bet của SB là KK, QQ, AK, JJ (29%), TT (27%), và A5s (74%), trong
khi đó thì range call là 55+, 76s+ AQo, ATs+, KTs+, A4s, A3s, AJo (37%), A9s (67%), A5s (74%),

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


K9s (74%), QTs (72%), và K6s (Hand Range 75).

Big Blind
Chiến thuật phòng thủ BB gần như là chiến thuật quan trọng nhất cần phải nắm chắc, khi mà phần
lớn các ván bài sẽ là ai đó tố lên và BB phòng thủ. Nếu bạn fold hết tất cả bài khi ngồi ở BB, Win
rate ở vị trí này sẽ là -100bb/100. Vì vậy, phòng thủ nhiều hand nhất có thể sẽ giúp bạn giảm thiểu
số tiền bị mất khi ngồi BB, tăng chiến thắng trong dài hạn. Hơn nữa, nếu bạn fold quá nhiều bài khi
ở BB, bạn sẽ trở thành mục tiêu cho những người chơi hổ báo muốn cướp tiền chết, còn nếu bạn
phòng thủ chủ động và chơi post-flop tốt, đối thủ sẽ do dự khi muốn chiến với bạn. Diagram 15 cho
thấy mức độ thường xuyên BB nên phòng thủ.

Diagram 15: Tần suất phòng thủ BB

Khi đấu với nhà LJ open, bạn cần phòng thủ chắc chắn vì range open của LJ khá khỏe. Sẽ không có

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nhiều hand bạn nghĩ sẽ có equity và equity khi mở bài tốt để call có lợi nhuận. Thêm vào đó, range
của LJ rất dễ dàng phòng thủ lại những cú 3-bet, vì thế bạn đừng điên cuồng lao vào 3-bet bluff.
Những bài không đồng chất gần nhau như AQo-ATo sẽ không phải là lựa chọn call 3-bet tốt vì bạn
đang muốn ép cho đối thủ fold hoặc 4-bet lại, và cách chơi những hand này ở trong những ván 3-
bet mà không có vị trí là khá tệ. Mặt khác, đồng chất liền nhau là những hand 3-bet tốt, ví dụ như
Axs, Kxs, suited connectors và suited gappers. Range call của BB chủ yếu gồm những hand offsuit
broadways mạnh nhất, tất cả đôi, suited connectors, suited gappers, những Axs and Kxs mà không
3-bet (Hand Range 76).

Có thể bạn sẽ bất ngờ khi biết những hand mạnh như A9o luôn bị fold khi mà những hand như K2s
được call. Lý do chính của việc này là do những hand offsuit disconnected sẽ khó có thể realize
equity, đặc biệt khi đấu với những range chặt.
Khi đối mặt với cú 4-bet của LJ, BB sẽ 5-bet với AA (61%), KK (57%), AKs, AKo (54%), QQ
(16%) và A5s (38%) và có thể call với tất cả những đôi khác, ATs+, JTs (75%), T9s-65s, và 54s
(64%) (Hand Range 77).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 76: BB đấu với LJ Open
• 3-bet 5.8% / • Call 22.8% / • Fold 71.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 77: BB đấu với LJ 4-bet
• 5-bet All-in 21.4% / • Call 42.2% / • Fold 36.4%

Khi đấu với nhà HJ open, BB có thể phòng thủ rộng hơn nhà CO 1 chút và tăng chỉ số 3-bet lên
thường xuyên hơn để thêm trọng lượng vào số lượng bài bạn chơi (Hand Range 78).
BB sẽ phản ứng lại cú 4-bet của HJ giống với của LJ. Điểm khác biệt chính nằm ở việc để duy trì

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


mức độ phòng thủ thường xuyên, bạn cần phải call thêm 1 ít combos khác vì range 3-bet khi đấu
với HJ rộng hơn khi đấu với LJ. Bạn sẽ mở rộng range call của mình bằng những hand như KJs
(52%), KTs (17%), trong khi JJ sẽ 5-bet thay vì QQ, hoàn toàn dựa vào sự ảnh hưởng của các
blocker, mặc dù đã đề cập ở trên, điểm kì lạ nhỏ này sẽ không trở thành điểm quan tâm lớn cho đối
thủ. Nhắc lại nè, chiến thuật này được biên soạn ra để giúp bạn phát triển những suy nghĩ chung về
cách tiếp cận những vị trí này (Hand Range 79)

Hand Range 78: BB đấu với HJ Open


• 3-bet 7.6% / • Call 23.9% / • Fold 68.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 79: BB đấu với HJ 4-bet
• 5-bet All-in 21% / • Call 42.5% / • Fold 36.5%

Khi đấu với nhà CO, BB có thể phòng thủ thêm 3.9% lượng hand. Cả range 3-bet lẫn call sẽ rộng
hơn để thêm trọng lượng vào lượng bài bạn chơi. Bạn nên ghi lại có bao nhiêu hand offsuit như
K8o, Q9o bị fold khi đấu với CO. Như đã đề cập ở trước, offsuit hands với 2 lá không gần nhau rất

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


khó để realize equity post-flop OOP, nhất là khi còn nhiều chip (Hand Range 80).
Chiến thuật 4-bet của nhà CO khi đấu với BB sẽ phân cực hơn so với chiến thuật của LJ và HJ, vì
thế BB sẽ call nhiều hand hơn và chơi chậm AA nhiều hơn (53%). Range call của BB sẽ được mở
rộng ra bởi những hand như KQs, 44, AQo (62%), A5s, A9s (27%), and A4s (86%).(Hand Range
81).

Hand Range 80: BB đấu với CO Open


• 3-bet 9.7% / • Call 25.7% / • Fold 64.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 81: BB đấu với CO 4-bet
• 5-bet 18.8% / • Call 49.6% / • Fold 31.5%

Đấu với nhà BN, nhà BB sẽ 3-bet với range rất tuyến tính và sẽ chơi hổ báo hơn nhiều khi so
với chiến thuật khi đấu với những nhà ở những vị trí đầu. Nhà BB sẽ 3-bet 13.4% lượng hand
và sẽ call với hầu hết suited hands, offsuit Ax, connectors và broadways. Range nhà BN đủ rộng
để nhà BB có thể call với nhiều hand hơn khi so sánh với những vị trí khác, vì nhà BN sẽ không

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


thể tự tin bet liên tục hay bet lớn hơn pot một cách qúa hổ báo do những hand mạnh đã bị pha
loãng (Hand Range 82).

Hand Range 82: BB đấu với BN Open


• 3-bet 13.4% / • Call 43.4% / • Fold 43.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 83: BB đấu với BN 4-bet
• 5-bet All-in 19.4% / • Call 54.1% / • Fold 26.5%

Khi nhà BN 4-bet, nhà BB sẽ phòng thủ hầu hết bằng việc call vì nhà BN đang khá phân cực.
Chiến thuật 5-bet của nhà BB bao gồm all in jamming AA (32%), AK, KK, QQ (55%), JJ (32%),
TT (31%), 99 (7%), A5s (45%), and A4s (43%). Range call sẽ được mở rộng ra để thêm những

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


hand có equity và equity realization tốt khi đấu với range 4-bet của BN, ví dụ như A7s+, K9s+,
AQo, A5s-A3s, tất cả hand đồng chất liên tiếp, và những đôi khác (Hand Range 83).
Vì đang có vị trí, chiến thuật 3-bet của BB khi nhà SB open sẽ rất phân cực, bao gồm những
hand khỏe nhất có thể 5-bet jam hoặc rất sẵn sàn call 4-bet có vị trí. Phần còn lại của range bao
gồm những hand có blocker tốt và có độ bao phủ tốt mà không quá bận tậm khi bị 4-bet fold, ví dụ
như Axo và K4o+. Range call cú open của nhà SB bao gồm hầu hết những hand trung bình mà có
thể realize được nhiều equity khi chơi có vị trí. Range fold của BB sẽ là những hand tệ nhất và sẽ
không thể tạo lợi nhuận khi chơi chúng (Hand Range 84).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 84: BB đấu với SB Open
• 3-bet 16.3% / • Call 48.3% / • Fold 35.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 85: BB đấu với SB 4-bet
• 5-bet All-in 12.6% / • Call 46.2% / • Fold
41.2%

Range 4-bet của nhà SB rất phân cực. Vì nhà BB có vị trí, nhà SB sẽ muốn call nhiều hand
hơn khi không 5-bet thường xuyên. Họ sẽ thường chơi chậm với AA (100%), KK (65%), QQ
(34%), AKs (87%) and JJ (28%) và call tất cả các hand có thể chơi được. Đối thủ sẽ fold những

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


hand tệ nhất trong range của họ (Hand Range 85).
Nhà BB muốn xây dựng range bán cực, với những hand có thể call khi có vị trí đối với 1 cú
limp/raise và những hand có thể dễ dàng raise/fold. Nhà BB sẽ chỉ 4-bet khoảng 7% lượng hand,
trộn những hand khỏe như TT+, AK và 1 số Ax và Kx có blocker (Hand Range 86-87).

Hand Range 86: BB đấu với SB Limp


• 3.5x 40.6% / • Check 59.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 87: BB đấu với SB L/R
• 4-bet 7.3% / • Call 41.3% / • Fold 51.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


06

LÝ THUYẾT CHƠI TOUR

Trong khi cash game và tournaments có thể khá tương tự nhau, nhưng thực chất chúng rất khác
nhau. Cash games thường chơi bàn 6 người không có antes và 100bb stacks, trong khi đó các bàn
tournaments thường chơi bàn 9 người có antes với đa dạng stack sizes xuyên suốt giải đấu. Những
yếu tố này, cộng thêm cấu trúc giải thưởng, khiến cho poker tournaments trở thành 1 thứ khác hoàn
toàn so với cash game.

Phương sai (Variance)


Phương sai là 1 trong những thuật ngữ thông dụng nhất trong thế giới poker, tuy nhiên hầu hết mọi
người không hiểu đầy đủ về nó. Theo thuật ngữ thống kê, phương sai là phương pháp để khảo sát
sự chênh lệch giữa 1 kết quả riêng lẻ và giá trị trung bình của 1 tập hợp các kết quả. Trong poker
phương sai là phương pháp đo lường độ chênh lệch của kết quả thực tế so với EV (Diagram 16).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 16: Một đồ thị phương sai thông thường

Phương sai thấp thì kết quả sẽ gần với mức trung bình, còn phương sai cao thì kết quả sẽ nằm xa
hơn mức trung bình.

Phương sai được tính như thế nào?

Nếu bạn sử dụng phần mềm theo dõi poker, nó có thể thông báo độ lệch chuẩn kết quả của riêng
bạn. Phương sai đơn giản tính bằng bình phương của độ lệch chuẩn. Nếu bạn biết độ lệch chuẩn là
S, bạn có thể tính phương sai như sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ngoài ra, phương sai cũng được tính bằng tay thông qua công thức:

Trong đó:

Ví dụ, trong 1 tệp mẫu nhỏ với chỉ 3 điểm dữ liệu như (1, 6, 11):

Khi đó:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Độ lệch chuẩn S sẽ là:

Ứng dụng trongPoker

Ví dụ bạn có lưu trữ 100,000 hand poker đã chơi tại sàn online cash games. Nếu bạn chia chúng
thành từng 100 hand nhỏ, bạn có thể tính được win rates với mỗi 100 hand này chỉ với việc cộng
thêm lượng big blind thắng và trừ đi lượng big blind thua mỗi 100 hands. Quá trình này sẽ tạo ra
1000 kết quả win rates khác nhau mà bạn đã trải qua trong suốt 100,000 hand mẫu. Phương sai win
rates của bạn với mỗi 100 hands càng nhiều, độ lệch chuẩn sẽ càng lớn.
Quay trở lại với phương trình phương sai:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chúng ta có thể thấy phương sai bị ảnh hưởng tới 2 yếu tố chính:

◆ Số lượng hand đã chơi. Khi mà số lượng hand được xác định là mẫu số, kết quả sẽ là số
lượng hand chơi càng lớn, tổng phương sai sẽ càng nhỏ hơn, và các tệp mẫu càng nhỏ
hơn, thì phương sai sẽ càng lớn hơn. Vì thế, người chơi thường xuyên sẽ có phương sai
thấp hơn so với người chơi ít.

◆ Sự chênh lệch của đường win rates giữa mỗi 100 hand mẫu và chỉ số thắng trung bình
của bạn. Khi mà chỉ số này được xác định là tử số, kết quả sẽ là chênh lệch càng lớn,
phương sai càng cao.

Những trò và sàn khác nhau sẽ có sự chênh lệch khác nhau giữa tỷ lệ thắng thực tế và tỷ lệ thắng
trung bình, và kéo theo là phương sai khác nhau và độ lệch chuẩn khác nhau.

Table 27: Độ lệch chuẩn của những trò chơi khác nhau

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Giá trị ở Table 27 được lấy theo máy tính phương sai pokerdope.com

Tại sao hiểu được phương sai lại quan trọng đến?

Hiểu được phương sai giúp bạn có cái nhìn tốt hơn về kết quả poker của bạn, ước tính được chuỗi
thua hợp lý, chọn game để luyện tập và xác định quản lý bankroll khôn quan hơn
Như trong Chương 4, tỷ lệ thắng của người chơi có thể sử dụng để ước tính khoản thu nhập trong
1 khoảng thời gian, nhưng 1 mình nó không thể cho bạn 1 bức tranh toàn cảnh. Bởi vì phương sai,
kết quả thực tế thường chênh lệch so với dự tính, vì thế chúng ta cần có máy tính phương sai như
ở trang pokerdope.com/poker-variance-calculator để có thể lên kế hoạch cho trò chơi và chuẩn bị
bankroll trong trường hợp gặp phải chuỗi thua (downswing).
Sử dụng máy tính phương sai PokerDope, chúng ta có thể ước tính được kết quả có thể chênh
lệch so với dự tính, mô phỏng 2 người chơi cash NLH dựa trên các mẫu hand khác nhau (Tables
28 and 29).

Table 28: Người chơi A: Win Rate = 2.5bb/100

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 29: Người chơi B: Win Rate = 5bb/100

So sánh kết quả 2 người chơi này chúng ta có thể kết luận được rằng, như dự kiến, độ chênh lệch
chuẩn giảm khi chúng ta tăng số lượng mẫu thử. Trong khi đó với tỷ lệ thắng cao không gây ảnh
hưởng tới độ lệch chuẩn, nó cũng làm giảm xác suất thua cuộc 1 cách đáng kể.

Phương sai trong Tour game

Một vài người đọc có thể đã nghe qua về poker tournaments có nhiều phương sai hơn cash
games, nhưng lý do tại sao lại như vậy?
Người chơi tournament thi đấu để giành lấy tiền thưởng phụ thuộc vào vị trí họ kết thúc trong
tournament và vì thế chip trong tournament không có bất kì giá trị nào và không thể đổi thành tiền
mặt. Vì vậy nếu 1 người chơi quản lý rất nhiều chip trong tournament, họ vẫn sẽ chẳng có gì nếu
họ không đưa bản thân nằm trong những vị trí có giải thưởng, thường sẽ là top 15-18%. Vì thế,
nếu như 1 người chơi tournament có tỷ lệ chiến thắng cao tầm 10bb/100, trái ngược hoàn toàn với
cash game, bạn sẽ không bao giờ biết được họ đã kiếm được bao nhiêu tiền sau khi chơi 1 vài
hand, hay họ đã kiếm được đồng nào hay chưa.
Để hiểu rõ hơn vì sao có nhiều phương sai trong tournament hơn là trong cash game, chúng ta có
thể nhắc đến 1 ví dụ đơn giản. Giả sử bạn vừa thua 1 hand mất 50bb trong 1 ván cash game. Nó
sẽ không quan trọng nếu bạn mất nó ở đầu buổi chơi hoặc sau 10 tiếng chơi. Bạn vẫn sẽ mất đúng
lượng tiền như thế. Hơn nữa, trong cash game, bạn luôn có thể nạp thêm tiền và quay lại mức

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


stack ban đầu giống như ngay trước khi bạn thua. Ở trong tournament, nếu bạn thua 1 hand và
mất 50bb sau khi đã chơi được 10 tiếng, nó không giống như việc bạn vừa thua ở đầu buổi chơi,
nhưng sau 10 tiếng, bạn đang rất gần với bàn final với hơn 90% số lượng người chơi đã bị loại.
Stack của bạn đáng giá hơn rất nhiều so với lúc mới vào giải đấu, và nếu bạn thua 1 lượng chip
nhất định, bạn không thể đơn giản nạp lại chip và quay lại đúng ván đấu và đúng tình huống đó.
Thay vào đó, bạn phải bắt đầu từ đầu, và thậm chí sau 10 tiếng nữa, bạn có thể vẫn chưa thể vào
sâu hơn được nữa trong 1 tournament khác với tình huống tương tự. Kết quả chứng minh sự thật
rằng thua 1 ván bài lớn trong tournament có thể đáng giá cả trăm nghìn đô la, và sẽ làm tăng
phương sai lên rất nhiều.
Trong trường hợp đó, có cách nào để làm giảm phương sai trong tournament? Chúng ta hãy cùng
xem nào …

Các thống kê về Tour


Tỷ lệ chiến thắng của 1 người chơi là thước đó cho việc họ kiếm chip giỏi như thế nào. Số liệu
này rất hữu hiệu khi áp dụng trong cash game vì chip có thể chuyển đổi trực tiếp sang tiền mặt, vì
thế người chơi có tỷ lệ chiến thắng cao hơn những người chơi khác trong cùng 1 game có thể nói
là đang chơi giỏi hơn. Hoặc chí ít, họ được mọi người nghĩ rằng đang kiếm được tiền trong dài
hạn. Tuy nhiên, trong tournament thì không có mối tương quan trực tiếp, vì thế 1 người chơi có tỷ
lệ chiến thắng cao có thể kiếm ít tiền hơn người chơi có tỷ lệ chiến thắng thấp. Có tỷ lệ chiến thắng
cao trong tournament cho ta thấy họ giỏi trong việc tích lũy chip như thế nào, chứ không liên quan
tới việc họ có giỏi trong việc kiếm tiền hay không.

Vì vậy, để đánh giá kỹ năng của 1 người chơi tournament, chúng ta cần phải có nhiều số liệu khác
nhau. Đối với người chơi online, rất dễ để theo dõi kết quả ví dụ như websites
www.sharkscope.com luôn theo dõi tất cả tournament được chơi ở tất cả các sàn thông dụng và
cung cấp nhiều số liệu hữu ích. Đối với người chơi live, sẽ khó hơn để nhận biết được kỹ năng
thực sự, vì số lượng game đã chơi để làm mẫu sẽ nhỏ hơn, và số liệu duy nhất được ghi lại là tổng
thu nhập.

Tổng tiền / Thu nhập

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đây hiện tại đang là số liệu nổi tiếng nhất trong giới poker, mặc dù nó không quan trọng lắm như
mọi người vẫn đang nghĩ. Đó là bởi vì bạn còn phải lấy con số này đi trừ đi tất cả chi phí, tiền thua
cuộc và thuế để biết chính xác số tiền người chơi đó kiếm được. Ví dụ, nếu 1 người chơi kiếm được
$100,000 trong 1 giải đấu như World Series of Poker (WSOP) nhưng tiêu mất $60,000 để buy-ins
không rút ra được và $20,000 tiền chi phí đi lại, họ sẽ chỉ kiếm được $20,000 lợi nhuận (và đó là
trước thuế nhé). Đương nhiên, giải thưởng là quan trọng vì dĩ nhiên 1 người chơi không bao giờ có
giải thưởng không thể là người chiến thắng, nhưng số liệu này không thể đánh giá hết được kỹ năng
người chơi.

Lợi Nhuận

Lợi nhuận liên quan tới tất cả số tiền 1 người chơi kiếm được sau khi trừ đi số họ đã thua. Con số
này có giá trị hơn so với tổng thu nhập. Ví dụ, nếu 1 người chơi có tổng thu nhập là 2 triệu $, nhưng
đã chi 3 triệu $ để buy-ins vào giải, họ thực chất đã lỗ 1 triệu $. Tuy nhiên, chỉ với chỉ số này không
thể kết luận tới trình độ chơi của họ được. Ví dụ, 1 người chơi thua có thể mất rất nhiều tiền trong
1 khoảng thời gian dài nhưng sau đó họ may mắn trong 1 giải siêu to khổng lồ, dẫn tới kết quả lợi
nhuận tổng rất lớn.

Vị Trí có tiền (In the Money% - ITM)

ITM là tần suất 1 người chơi được trả tiền và có tiền giải. Đối với người chơi tour online, con số
này (bao gồm cả tour bounty) thường sẽ tầm 15-18% đối với những người chơi chiến thắng. Thấp
hơn con số này nghĩa là người chơi còn quá chủ động trong quá trình sắp vào tiền hoặc đánh quá
hổ báo trong giai đoạn đầu của giải đấu. Mặt khác, ITM cao hơn thường chỉ những người chơi quá
bị động trong giai đoạn sắp vào tiền và bỏ bài qua quá nhiều vị trí. Ép phải vào ITM đánh đổi bằng
việc mất đi cơ hội xây dựng stack lớn thường sẽ là bất lợi. Trong tour live, ITM% sẽ cao hơn nhiều
so với online, bởi vì như giải thích từ trước, trò chơi đang có xu hướng trở nên mềm hơn, và vì vậy
1 vài người chơi có thể đạt được mức ITM% tầm 30-50%.

Tổng lợi tức đầu tư (Total Return on Investment - ROI)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tổng lợi tức đầu tư là chỉ số hiệu quả hơn so với lợi nhuận hoặc tổng thu nhập, nhưng vẫn có thể
sẽ bị hiểu nhầm nếu chỉ sử dụng 1 mình chỉ số này.
Ví dụ, 1 người chơi 2000 lần tour online $109 trong vòng 1 năm, với chi phí đầu từ là $218,000.
Nếu họ được trả $300,000 với lợi nhuận là $82,000, thì ROI sẽ là

ROI Trung bình

ROI trung bình được tính độc lập cho từng tournament đã chơi và sau đó các kết quả được tính
trung bình. Chỉ số này nói lên rất nhiều điều hơn các chỉ số khác về kỹ năng của người chơi liên
quan tới sàn họ đang chơi.
Ví dụ, có 1 người chơi tệ đã chơi tổng cộng 1999 tour online $109 trong 1 năm và anh ta thua sạch
tất cả tour đó. Vì vậy, anh ta quyết định thử 1 lần tại sàn lớn hơn $1050 và giành được giải nhất với
giải thưởng $300k.
Bây giờ hãy nghĩ về những kiểu người chơi khác nhau vẫm đang thắng trong các tour $109 với vài
lần tiến sâu vào chung kết và bàn final. Sau khi chơi 1999 games, họ thắng được $301,050 và quyết
định chơi sàn lớn $1050. Tuy nhiên, họ gặp bad beat và không giành được giải thưởng nào. Vì thế,
tổng tiền thắng sau 2000 games của họ là $300k.
Nếu chúng ta tính tổng ROI của cả 2 người chơi, kết quả sẽ hoàn toàn giống nhau giữa người chơi
tốt và người chơi kém gặp hên:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tuy nhiên, nếu chúng ta tính ROI trung bình cho người chơi tệ, chúng ta sẽ có kết quả khác
nhau:

Bằng cách phân tích ROI trung bình của 1 người chơi, chúng ta có thể có cái nhìn sâu hơn về
cách họ chơi poker trong dài hạn. Đương nhiên với ví dụ ở trên, ngay cả với những người chơi tệ
vẫn có thể ăn được tiền trong 1 vài tournament, vào sâu hơn và có suất trong bàn final với tần suất
nhất định, nhưng nó đã minh họa được quan điểm này.
Tuy nhiên, có 1 chỉ số ROI trung bình cao không đảm bảo người chơi này sẽ kiếm được tiền sau
khi chơi 1 vài game khác, và cũng như ta đã thấy, có 1 chỉ số ROI tệ cũng không chắc chắn được
người chơi này sẽ mất tiền nếu chơi tiếp thêm 1 vài game. Đây chính là do phương sai vốn có tại
MTTs.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Giảm phương sai và Tăng khả năng sinh lời
tại MTTs
Hai cách chính để giảm phương sai trong khi vẫn tăng khả năng sinh lời khi chơi nhiều bàn tour đó
là tăng chỉ số ROI trung bình của bạn lên và tăng tần suất bàn chơi. Đầu tiên, bạn nên tập trung vào
việc cải thiện ROI trung bình vì sẽ rất vô dụng nếu bạn chơi nhiều bàn trong khi bạn không thể
thắng được, vì thế bạn hãy chỉ tăng số bàn chơi lên một khi bạn đã chắc chắn thắng được những
ván bạn đã chơi.

Một cách khác để tăng khả năng sinh lời đó là chơi bàn mức lớn, mặc dù điều này cũng sẽ làm tăng
phương sai của bạn, và nhìn chung, bàn càng lớn, độ khó càng cao. Vì thế, bạn có thể đã dự đoán
ROI của mình sẽ bị giảm khi bạn chuyển lên những bàn lớn hơn. Đồng thời, cũng không có nhiều
bàn chơi tournament lớn như là những bàn tournament bé – trung bình, vì thế số lượng bàn chơi ở
mức cao trong 1 năm của 1 người chơi sẽ bị hạn chế và làm tăng phương sai. Chơi chế độ fast/turbo
tournament có thể giúp làm tăng số lượng bàn chơi, nhưng có thể chỉ số ROI ở đây cũng thấp hơn
so với các bàn chơi tốc độ bình thường do có ít thời gian hơn để lấy tiền từ những người chơi yếu
hơn, với hầu hết lối chơi sẽ ở pre-flop với mức stack thấp. Bounty tournament cũng tốt để làm giảm
phương sai, nhưng lợi nhuận kì vọng của bạn ở những tournament này sẽ thấp hơn bình thường vì
mức giải thưởng sẽ bị chia ra để làm tiền thưởng khi bạn thành công loại một người chơi khác, và
đối với người chơi yếu, những người ít có khả năng thắng giải đấu nhất, rất sẵn sàng chiếm lấy 1 ít
tiền thưởng bounty này bằng cách loại 1 vài người chơi trước khi bị loại. Mặt khác, vì 1 vài lý do
khác, bounty tournament phù hợp cho những người chơi yếu hơn.

Tăng số bàn chơi

Live MTTs sẽ đặc biệt thu hút hơn khi chúng cho bạn ROIs cao hơn so với khi chơi online với cùng
mức buy-in do sàn mềm hơn. Tuy nhiên, cùng lúc đó thì phương sai sẽ cao hơn nhiều khi chơi live
MTTs khi so sánh với online vì số lượng bàn chơi thấp. Vì thế, cách tốt nhất để tăng số lượng bàn
chơi đó là chơi online ( người chơi có thể chơi nhiều bàn cùng 1 lúc, nhiều hơn người chơi trực
tiếp)
Đối với người chơi mới, tôi để xuất nên chia ra 50% thời gian để chơi và 50% thời gian để học.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tăng kinh nghiệm thông qua thực chiến khá quan trọng vì sẽ có 1 vài khía cạnh chỉ có thể học bằng
cách thực chiến. Vì thế, đối với những người chơi mới, số lượng bàn chơi không phải là để kiếm
tiền, mà thay vào đó là để thành thạo thực tế và các khía cạnh lý thuyết của game nhiều hơn, và
chính vì thế nên chú tâm vào việc học. Tuy nhiên, những người chơi đang dành chiến thắng nên
dùng 80% thời gian để chơi và 20% thời gian để học. Sau khi ROI của người chơi đã đủ cao, bỏ ra
nhiều thời gian để học sẽ không có ảnh hưởng đáng kể nào, và trong cùng lúc đó, nếu người chơi
dừng hoàn toàn việc học, kỹ năng poker của họ sẽ bị khựng lại trong khi đối thủ vẫn đang tiếp tục
phát triển. Chậm nhưng chắc chắn, chúng sẽ trở nên tệ đi và vì vậy vẫn phải luôn tiếp tục cải tiến
nó. Tỷ lệ thời gian của tôi trong vài năm trở lại đây đã đảo ngược lại, 20% thời gian để chơi và 80%
thời gian để học, đây là điều tôi sẽ không khuyến khích cho những người thích thắng tiền. Tôi rất
vui vẻ tận hưởng công việc lý thuyết và chỉ dạy, ví dụ như viết sách GTO, nhiều hơn là việc tận
hưởng khi chơi poker. Dù vậy, tôi vẫn lên kế hoạch chơi nhiều bàn hơn trong 1 tương lai gần, chơi
cả online tournament lẫn chơi ngoài đời, cũng như cash games.

Tăng ROI cho bản thân

Cách dễ nhất để tăng ROI cho bạn là chơi ở mức bàn thấp để được chơi với những người chơi tệ.
Cách khó nhất đó là trở nên tốt hơn đối thủ của bạn. Và phần khó nhằn là bạn phải tự nghĩ ra cách
làm sao để thực hiện nó
Điều đầu tiên cần làm đó là đảm bảo bạn có thể thắng chip từ đối thủ của bạn. Sẽ rất khó để vào
sâu trong tournament nếu bạn không thể gom được nhiều chip bởi đưa ra những quyết định +EV,
vì thế bạn cần phải biết chơi game như thế nào cho tốt, dẫn tới việc phải học về chiến thuật pre-flop
và post-flop khi ở nhiều mức stack khác nhau, tỷ lệ pot, equity và tất cả những thứ được đề cập đến
trong sách. Tuy nhiên, như đã đề cập từ trước, chiến thắng trong tournament không phải chỉ đơn
giản đến từ việc tích trữ được chip.
Tournament giống như bộ môn nghệ thuật hơn là khoa học. Tôi thường thấy những người chơi cash
game nói về những người chơi hàng đầu MTT và thậm chí còn gọi họ với cái tên “người chơi
donkament” và những người chơi cash game này cũng không thể tự phát triển trong MTTs được.
Thậm chí tôi đã từng làm vậy trong quá khứ, nghĩ về tất cả mọi thứ cần có để có thể chiến thắng
trò chơi này đó là học GTO và đó chính là lý do chính tôi đã tìm hiểu về lý thuyết trò chơi ngay từ
khi mới bắt đầu. Đương nhiên, trở thành 1 phù thủy GTO giúp bạn chơi tốt hơn, nhưng có 1 vài kỹ
năng mềm những người chơi hàng đầu MTT cần phải phát triển để có thể thành công. Bao gồm
việc phải thấu hiểu cuộc sống của 1 người chơi tournament, vòng money bubbles, cách thay đổi
chiến thuật sau mỗi giai đoạn của tournament, hiểu sâu rõ về phân tích thông tin đối thủ, chưa kể

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


đề cập tới đọc bài, ý nghĩ, quản lý bankroll và trò chơi tâm lý.
Đã được 1 thời gian kể từ khi tôi viết cuốn sách này, tôi đã tìm thấy lý thuyết trò chơi quan trọng
nhất và tôi sẽ chia sẻ với bạn ngay bây giờ.

GTO poker không phải là về cân bằng, nó là về việc bắt bài đối phương. Chiến thuật cân
bằng nổi lên khi 2 người chơi đã biết rất rõ hết tất cả của đối phương, vì thế sẽ không cần
phải chơi cân bằng khi đối thủ của bạn không nhận thức được việc bạn đang làm gì hoặc
không biết làm gì tiếp theo khi đã bắt bài được bạn thậm chí ngay cả khi họ đã biết chính xác
bạn sẽ định làm gì tiếp theo.

Mặc dù suy nghĩ này có vẻ là thừa, nhưng hiểu thấu đáo điều này đã giúp tôi thanh đổi được tư duy
cốt lõi. Tôi đã từng cố gắng chơi tốt poker, để chơi giỏi. Giờ tôi chỉ muốn vượt qua được đối thủ
của mình. Tournament poker là trò chơi bắt bài đối thủ, và đây là lý do mà mấy gã như Daniel
Negreanu hay Phil Hellmuth là 1 trong những người chơi tournament thành công nhất trong lịch sử
poker, mặc dù họ vẫn chưa cần thiết phải thành thạo học thuyết poker. Daniel có thể đọc đối thủ
đang cầm AA check trên mặt Qxx khi anh fold top pair và Hellmuth có thể fold AK pre-flop khi
đấu với AA trong khi đang stack còn ít, và rồi sau đó 1 chút lại bluff điên cuồng trước Jungleman,
khiến anh ta phải fold trips và tặng cho anh ta danh hiệu “King of the Hill”.
Đây cũng chính là lý do vì sao Fedor Holz đã từng càn quét cả thế giới, thắng tất cả các giải đấu
với mức tiền lớn trước khi từ giã sự nghiệp để theo đuổi các dự án khác. Anh ấy đã nói trong buổi
phỏng vấn rằng anh ấy không nghĩ mình không có tài năng gì đặc biệt trong poker nhưng xung
quanh anh toàn những con người giỏi và anh đã trở thành 1 phần của cộng đồng tuyệt vời này, điều
đó đã giúp anh cải thiện kỹ năng cá nhân của mình. Điều khiến anh khác biệt so với những người
chơi khác trong đội tuyển Đức đó là khả năng đưa các học thuyết vào trong thực hành, thích ứng
tối ưu hơn đối thủ và tìm ra được điểm yếu đối phương.
Nguyên tắc và chiến thuật GTO được đề cập trong cuốn sách này có thể giúp người chơi cải thiện
trò chơi của họ, tránh những lỗi cơ bản và đưa ra những quyết định chính xác. Tuy nhiên, có nhiều
thứ cần phải có nữa để chiến thắng poker thay vì chỉ đang chơi tốt. Vì thế, lời khuyên của tôi để
tăng chỉ số ROI của bạn đó là học các học thuyết poker và tập trung làm sao đưa nó vào trong luyện
tập được. Nghiên cứu đối thủ và không bao giờ sợ đưa ra quyết định sai lầm hoặc trông ngu ngốc,
giống như Daniel, Phil hay Fedor đã không sợ, thậm chí khi chơi những ván đấu siêu lớn được cả
thế giới theo dõi.

Thấu hiểu thống kê và kết quả Tour

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 30 sử dụng công cụ máy tính phương sai tournament trên trang pokerdope.com để mô phỏng
kết quả của những người chơi có ROI trung bình khác nhau và phân tích kết quả có thể xảy ra sau
khi chơi 2000 trận MTTs Online $109 với lượng người chơi trung bình là 300 người.

Table 30: Mô phỏng các kết quả của 2,000 giải đấu buy in $109 Online MTTs

Thậm chí sau khi qua 2000 trận mẫu tournament với mức ROI trung bình là -25%, người chơi A
vẫn có thể tạo ra được lợi nhuận. Người chơi B, với ROI -10%, có thể chiến thắng được $36,865,
nhiều hơn cả kì vọng của người chơi D là $21,800, người có mức ROI là 10%. Người chơi C là 1
người chơi hòa vốn với khoảng 50% sẽ bị mất tiền, tuy nhiên kết quả có thể đâu đó trong khoảng -
$56,300 tới $88,690. Nếu người chơi B, với -10% ROI, có 1 buổi chơi may mắn, và người chơi F
với 50% ROI, có 1 buổi chơi tệ nhất, họ sẽ cùng có chung 1 kết quả là thắng ~$36k.
Nếu chúng ta đánh giá kỹ năng 1 người chơi thông qua việc đánh giá số tiền họ thắng, chúng ta có
thể nhầm lẫn cho rằng người chơi B và F có cùng kỹ năng như nhau hay người chơi C là người
thắng rất nhiều, trong khi thực tế họ là những người chơi hòa vốn có được 1 buổi chơi may mắn
(đây là hiện thực của khá nhiều người chơi đã trải qua 1 vài lần thành công). Sự thật là 1 vài người
chơi thắng được rất nhiều tiền thực tế là những người chơi thua cuộc đang gặp may mắn. Điều này
khi nói ngược lại vẫn đúng. Có những người chơi tốt đã từng trải qua những hôm đen đủi nhất dựa
trên tệp mẫu và đã có ý định từ bỏ trò chơi trước khi có thể thay đổi mọi thứ trở lại. Nếu chúng ta
sử dụng mẫu ít hơn là 200 games thay vì 2000 games, bài toán sẽ rất khó kiểm soát, như đã shown
ra trong Table 31.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 31: Mô phỏng kết quả khác nhau của 200 giải đấu buyin $109 Online MTTs

Trong 200 mẫu tournament, ngay cả 1 người chơi chắc chắn thắng như E, người đang có ROI 25%,
sẽ thua tiền 28% số lần chơi, và người chơi A với ROI -25% sẽ đôi khi ăn được $20,000 sau khi
chơi 200 tournament.
Rất dễ để đánh mất chính kiến và ảo tưởng sức mạnh về bản thân sau khi có 1 vài chiến thắng. Hy
vọng rằng điều đó chưa xảy ra với bạn, vì tôi sẽ chia sẻ 1 câu chuyện nhỏ sau cho bạn nghe.
Tôi đã học chơi poker từ năm 2009 và bắt đầu có những chiến thắng nhỏ tại các sòng casino địa
phương. Năm 2010, tôi tiến vào bàn final của 1 giải đấu và đã thắng được $2000, vì thế tôi đã
quyết định từ bỏ công việc ở Trung tâm cuộc gọi và sử dụng $2000 cùng 1 vài thẻ tín dụng để làm
bankroll (khá chắc nhiều người các bạn sẽ tự che mặt mình lại ngay bây giờ). Tới hết năm 2010,
tôi đã chơi được 1 và chỉ 1 MTT $300 và chiến thắng tổng $17,000 để tới 2011 PokerStars
Caribbean Adventure diễn ra tại Bahamas, lúc đó tôi cảm giác như đang ở đỉnh thế giới. Sau 1 năm
chơi poker, 1 vài chiến thắng cùng với việc đọc 1 vài cuốn sách, tôi đã sẵn sàng nghênh chiến cả
thế giới và đè bẹp Ivey, Durrr và tất cả những người chơi giỏi nhất còn lại trên thế giới! Đúng
không nhỉ?
Tôi đã kết thúc PCA Main Event và tiêu hết toàn bộ bankroll trong thời gian diễn ra chuỗi giải
đấu, bao gồm cả thẻ tín dụng, nhưng ít nhất tôi đã có vài tấm ảnh đẹp khi đang bơi cùng cá heo
cùng với bức ảnh cùng với thần tượng mọi thời đại của tôi – Daniel Negreanu.
Và thế là, tôi đã phá sản, và tệ hơn là giờ tôi còn bị nợ nần. Bằng cách nào đó, tôi lại có thêm $1000
có thể sử dụng trong thẻ tín dụng, thế là tôi bắt đầu cày lại bankroll bằng việc chơi live cash game
với tiền mang mệnh giá ở nước tôi. Tôi không thể cố gắng chơi được những bàn $1/$2 USD thêm
nữa. Tôi phải quay lại chơi với mức ₡500/₡500, tương đương với mức $1/$1. Và vì thế, bankroll

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


hiện tại của tôi là 10 buy-ins.
Tôi đã chơi tốt cùng với chút may mắn, bankroll đã được xây lên mức $5000. Nó giúp tôi trả tiền
thẻ tín dụng và vẫn còn 1 ít thừa lại, nhưng đến hết năm 2011, tôi lại tự tin thái quá và bắt đầu chơi
ở những bàn tiền USD, “high stakes” $1/$2 and $2/$5 games, mặc dù bankroll không cho phép.
Bằng cách nào đó, tôi tự bảo với bản thân rằng mình chỉ kém may mắn thôi và mình vẫn là 1 người
chơi giỏi (úp mặt lần nữa). Chắc các bạn cũng đoán được tôi đã vỡ bankroll 1 lần nữa. Lần này, tôi
đã đi xin việc.
Sau khi phá sản lần thứ 2, tôi hoàn toàn chán poker, tuy nhiên vẫn đổ tại do đen quá thôi. Tôi bỏ
chơi poker 1 năm nhưng sức hút của game vẫn còn rất nhiều và tôi đã thử vận may khi tham gia
giải $11 online rebuy MTT. Tôi đã chiến thắng được $10,000 và sau đó nhảy ngay lại vào những
bàn $1/$2. Khoảng thời gian này, tôi đã ăn được khoảng $6000 vào tháng 12 2012, nên tôi càng tin
hơn rằng tôi đang gặp may mắn. Tôi đã bảo với mình, “Mình sinh ra là dành cho poker, mình cần
phải tin tưởng vào bản thân”, và vì thế đến tháng 1 2013, tôi đã bỏ công việc phân tích tài chính
cũng như ở trường cao đẳng để toàn tâm toàn ý tập trung vào sự nghiệp poker.
Sau khi trở thành dân chuyên, tôi đã có 1 khởi đầu tốt và ngày lập tức biến bankroll từ $16,000 lên
$30,000. Tôi cảm thấy tôi đã làm được, và tôi bắt đầu chơi bàn $2/$5 thường xuyên hơn và có đi
vài chuyến qua các nước Mỹ Latin khác, hy vọng có thể thắng được danh hiệu Latin American
Poker Tour danh giá và đổi đời. Điều tồi tệ đã xảy ra khi tôi thổi bay gần hết bankroll của tôi.
Đây là một lời khuyên chung cho các bạn, cuộc sống sẽ không thay đổi khi bạn thắng 1 giải đấu
poker hay đến được vòng được vào tiền. Nếu bạn muốn thay đổi cuộc đời, bạn phải thay đổi thói
quen. Mỗi ngày, 1 hành động nhỏ cũng thay đổi cuộc đời của bạn theo chiều hướng xấu hoặc tốt.
Ước gì tôi biết được điều này từ trước.
Tại thời điểm hiện tại, tôi đã hoàn toàn từ bỏ việc nghiên cứu về poker. Tôi đã nghĩ tôi là 1 thiên tài
và tôi đã đọc hết tất cả sách hay nhất rồi. Tôi đã quá tự tin và có cho mình ô tô mới, chuyển đến 1
căn hộ mới và sống 1 cuộc sống mà tôi không thể đáp ứng được. Cứ như vậy, tôi bắt đầu đưa ra
nhiều quyết định sai lầm, vay rất nhiều tiền từ bạn bè, và khi tôi bắt đầu chuỗi ngày thua cuộc đen
đủi, điều không thể tránh khỏi đã xảy ra.
Tháng 6 2014, tôi chỉ còn đúng $2000 và đưa ra 1 quyết định. Tôi có thể quay trở lại tháng ngày
làm công ăn lương và quên hết đi tất cả về poker, hoặc bán đi căn hộ và quay trở lại ở với mẹ, cho
tôi 1 cơ hội cuối cùng để kiếm người hỗ trợ cho các giải đấu online và bắt đầu cọ sát với các bàn
mức thấp.
Để kết thúc câu chuyện dài này, tôi cuối cùng hiểu ra rằng tôi đã làm 1 cái gì đó sai và tôi không
giỏi như tôi đã nghĩ, chấp nhận lỗi lầm và cất đi phẩm giá của mình. Tôi ứng cử vào pocarr.com
nơi tôi có thể xem rất nhiều video luyện tập và nhận chỉ dạy từ những người chơi hàng đầu. Tôi bắt

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


đầu học GTO và sau đó tôi đã leo lên các bàn mức cao hơn rất nhanh chóng. Tôi cuối cùng cũng
trở thành 1 huấn luyện viên, và sau rất nhiều biến cố, đến cuối năm 2018 tôi cuối cùng có đã thể
nói là tôi đã làm được. Tôi luôn ước mơ có thể chơi WSOP Main Event và bây giờ tôi đang có vị
trí để đi Las Vegas hàng năm. Tôi chơi rất nhiều sự kiện có buy-in lớn, gồm cả những buổi main
event, và chơi các bàn $5/$10 and $10/$20 cash games. Tôi có chơi những bàn cao hơn, nhưng tôi
không muốn thổi bay bankroll đi 1 lần nữa.
Tôi muốn chia sẻ câu chuyện của tôi vì tôi nghĩ có thể nếu bạn tìm thấy cuốn sách cho bạn thấy
poker thực sự là như thế nào, thêm cả những thuật ngữ như phương sai, ROI, EV và win rates, tôi
có thể cứu bạn khỏi khá nhiều rắc rối. Thật ra, tôi không thể phàn nàn thêm gì cả, bởi mặc dù sau
tất cả lỗi lầm của tôi, tôi vẫn may mắn khi có được vị trí như ngày hôm nay. Và vì thế, khi viết cuốn
sách poker đầu tiên này, tôi đã không thể ngừng cười và cảm thấy rất biết ơn khi có được những cơ
hội được làm những điều mình thích.

Quản lý MTT Bankroll


Điều đầu tiên bạn cần làm là ước chừng xem nên bỏ bao nhiêu % số tiền bạn đang có ra để làm
bankroll. Nếu bạn là một vận động viên poker chuyên nghiệp, bankroll sẽ chiếm lượng lớn số tiền
bạn đang có, và nếu là dân nghiệp dư thì bankroll của bạn nên là số tiền bạn có thể bỏ ra được nếu
thua nhưng vẫn phải đủ lớn để bạn phải quan tâm đến nó.

Một khi bạn đã biết được độ lớn của bankroll của mình, bạn cần quyết định nên chơi loại trò chơi
nào. Tôi khuyên các bạn nên giữ bankroll ở mức 200 buy-ins. Đương nhiên, bạn càng có nhiều buy-
ins, khả năng bạn phá sản càng thấp. Nếu bạn muốn giảm khả năng phá sản xuống thấp nhất có thể
thì khuyến nghị của tôi là 1000 buy-ins.

Nếu bạn đã lên kế hoạch để trở thành dân chuyên, tôi khuyên bạn nên có 1 nguồn tiền tách riêng ra
khỏi bankroll để bạn có thể trang trải cho cuộc sống trong vòng ít nhất 6 tháng. Nếu bạn muốn tránh
vấn đề tài chính đau đầu, bạn nên để dành ra hẳn 1 năm hoặc hơn nữa.

Như bạn đã thấy, bankroll yêu cầu khá lớn so với những gì nhiều người chơi poker đang thực sự
có, trừ phi họ may mắn ăn được 1 tour siêu to từ rất sớm trong sự nghiệp. Vì lí do đó, tìm kiếm
người đầu tư cho mình đánh là 1 cơ hội tốt để chơi mức bàn cao hơn so với việc tự mình xoay sở.
Rất nhiều người hỗ trợ đưa ra đề nghị để cho người chơi giữ 1 nửa giải thưởng cùng danh hiệu,
nghĩa là cộng hết tiền thua và phải trả hết trước khi lợi nhuận được chia đôi. Ví dụ, nếu bạn tụt
xuống còn $5000 nhưng sau đó lại ăn được 1 tour $10,000. $5,000 sẽ bù lại vào phần lỗ, và $5,000

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


còn lại sẽ được chia đôi, bạn sẽ được $2,500 và người hỗ trợ sẽ được $2,500. Nếu bạn thắng tour
đầu tiên và ăn được $10,000, sẽ không cần phải bù lỗ, và thế là bạn và người hỗ trợ mỗi người sẽ
nhận được $5,000.

Tùy thuộc vào kỹ năng của bạn, bạn có thể đàm phán để có có giao dịch tốt hơn, ví dụ như 55/45
hoặc thâm chí 60/40 nếu bạn muốn. 1 vài người hỗ trợ đưa ra yêu cầu cho live tournament là 40/60,
nhưng họ sẽ bao trọn gói chi phí đi lại cho bạn.

Cuối cùng, nếu bạn chơi live tournament, bạn có thể giữ bankroll nhỏ hơn vì bạn sẽ có ROI cao
hơn và cũng ít người chơi live hơn so với chơi online. Điều này sẽ giúp bạn ít bị thay đổi thất
thường. Chỉ cần đảm bảo tài khoản cho chi phí đi lại. Nếu bạn không siêng năng cho lắm, chúng
có thể cộng dồn lại, khiến cho cả những người chơi thắng lớn thành ngươì thua cuộc.

Lựa chọn trò chơi


Tiêu đề lựa chọn loại trò chơi đã được bàn luận khi phân tích win rates cho những người chơi cash
game. Tương tự với cash game, trong tournament bạn cần quan tâm tới lợi thế của bạn trong mỗi
giải đấu bạn có thể tham gia. Đương nhiên, nếu bạn là người chơi giỏi nhất thế giới và có lượng
bankroll vô hạn, bạn chỉ việc đơn giản tham gia vào những bàn chơi cao tiền nhất bạn có thể tìm
thấy. Tuy nhiên chúng ta cũng chỉ là con người, chơi khá thường xuyên những bàn nhỏ hơn khi mà
chỉ số ROI và phương sai của chúng ta sẽ thấp hơn, hơn là việc chọn những bàn to có mức phương
sai cao hơn và ROI thấp hơn
Một vấn đề chính trong việc chọn tournament đó là có quá nhiều tournament với 1 mức buy-in cố
định, vì thế bạn cần phải chọn 1 khoảng buy-ins nhất định. Bạn sẽ tính mức buy-in trung bình
(ABI) và sau đó cân nhắc nó so với bankroll của mình.
Ví dụ, nếu bạn chơi 3 tournament với buy-ins lần lượt là $100, $200, $500, thì ABI sẽ là $267.
Chơi 1 khoảng buy-ins rộng sẽ tạo ra nhiều vấn đề. Vì khi khoảng tính rộng hơn, phương sai sẽ
càng nhiều hơn.
Table 32 thể hiện mức độ ảnh hưởng khi buy-ins trong 1 khoảng rộng sẽ ảnh hưởng tới kết quả
người chơi. Trong mô phỏng #1, người chơi dự kiến chơi 1,800 $109 MTTs, 149 $1,050 buy-in
MTTs, 49 $2,100 MTTs, 1 $5,200 MTT, và 1 $10,300 MTT, tổng cộng 2000 games. Trong mô
phỏng #2, người chơi cũng chơi 2000 games, nhưng thay vào đó lượng buy-ins sẽ luôn là $235.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 32: Các kết quả khác nhau khi buyin với khoảng rộng

Trong cả 2 trường hợp, người chơi đầu tư số tiền xấp xỉ bằng nhau và có EV giống nhau, nhưng
khả năng thua của trường hợp #1 cao hơn gấp 10 lần, khi họ định chơi 1 khoảng buy-ins rất rộng
và có thể bị giao động từ -$262,000 tới $1.4 triệu, trong khi đó viễn cảnh tồi tệ nhất trong trường
hợp #2 chỉ là -$36,000. Tôi đã học được bài học này vào năm 2016 khi tôi đã có chuỗi thua tồi tệ
nhất tôi từng trải qua. Tôi thắng gần $60,000 với trên 2,000 games midstakes online MTTs, nhưng
đã thua lại $120,000 khi chỉ chơi dưới 200 games high stakes MTTs, bao gồm cả $10,000 SCOOP
High ME và $5,000 WCOOP ME trong khi chỉ số ABI của tôi đang là $103. Chỉ thua 2 tour kia
thôi đã làm tôi bay mất 150 buy-ins! (Đau!)
Table 33 thể hiện kết quả thực sự 1 người chơi online thực tế và chỉ số của họ để bạn có cái nhìn
tương quan hơn giữa các kết quả và các thông số khác nhau. Số liệu được lấy từ trang
sharkscope.com.

Table 33: Kết quả MTT của những người chơi top thế giới

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ability là chỉ số được phát triển bởi sharkcope. Nó sẽ lên tới 100 và thể hiện khả năng của người
chơi dựa vào việc truy cập tất cả thông số khác. Kết thúc sớm liên quan tới tần suất 1 người chơi
kết thúc tournament không nằm trong top 10%, và Kết thúc muộn liên quan tới tần suất 1 người
chơi kết thúc tournament nằm trong top 10%.
Player 1 được cho là người chơi MTT online hay nhất thế giới. Sau 21,000 trận MTTs được chơi,
anh ấy đã đè bẹp mức stakes cao nhất với ROI trung bình tầm 50%, với lợi nhuận ròng đáng kinh
ngạc tới $2.6 triệu!
Players 2, 3, 4 and 5 cũng đã đè bẹp mức stakes cao nhất và là những người chơi hay nhất thế
giới.

Table 34: Kết quả của những người chơi MTT tốt tại Mid-high
Stakes

Players 6-10 là những người chơi tốt khi chơi ở mức stakes trung bình cao (Table 34). Kiểu người
chơi này có cơ hội trở thành 1 trong những người chơi tốt nhất thế giới. 1 trong số họ vẫn đang cố
gắng phát triển hơn nữa trong khi số còn lại bằng lòng với việc in tiền ở mức mid-stakes.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 35: Kết quả của những người chơi MTT trung bình tịa
Low-Mid-stakes

Players 11-15 thuộc stakes thấp và trung bình (Table 35). Trong nhóm này chúng ta bắt đầu thấy
ROIs trung bình thấp hơn và kết quả của họ cũng có độ chênh lệch lớn hơn, trong khi 1 số ít chỉ
thắng được ít tiền hay thậm chí còn thua tiền. Kiểu người chơi này sẽ dành nhiêù thời gian để vận
hành trò chơi của họ, đảm bảo rằng họ chơi đầy đủ các nguyên tắc cơ bản tốt. Họ nên tìm kiếm cho
mình 1 người hướng dẫn/hlv, hoặc tham gia vào hội nhóm những người học cùng nhau và hỗ trợ
lẫn nhau.
Players 11 and 14 rõ ràng đang chơi ở mức cao hơn so với trình độ hiện tại của họ.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 36: Kết quả của những người chơi MTT thua cuộc

Players 16-20 là những người chơi thua cuộc (Table 36). Tất cả họ đang chơi ở mức stakes quá
cao so với kĩ năng của họ. Họ nên dừng chơi ở những mức buy-in cao hơn, luyện tập nhiều hơn về
các kỹ năng, kỹ thuật, đọc sách lý thuyết, xem nhiều video hướng dẫn nhất có thể và chắc chắn nên
tìm 1 người hướng dẫn giúp họ sửa được những lỗi lớn nhất đang bị hổng. Chung quy lại, họ có vẻ
bị thua ra khỏi tournament khi đang trong giai đoạn đầu khá thường xuyên và không thể tiến sâu
vào giai đoạn cuối với tần suất phù hợp.

Trò chơi tinh thần


Có 1 vài cuốn sách viết về trò chơi tinh thần, ví dụ như Positive Poker (Poker Chủ Động) và Peak
Poker Performance (Trình Diễn Poker Đỉnh Cao) đều được viết bởi Dr. Patricia Cardner và
Jonathan Little, vì thế tôi không muốn dành quá nhiều thời gian ở phần này cuốn sách

Tuy nhiên, vẫn phải nhấn mạnh rằng trò chơi tinh thần là chìa khóa chính để thành công
trong poker và đặc biệt trong MTTs.

Trò chơi tinh thần là lỗ hổng lớn nhất của tôi trong suốt quá trình sự nghiệp poker và có vài khía
cạnh mà tôi đôi khi vẫn phải chật vật vượt qua. Cảm ơn huấn luyện viên tinh thần của tôi Elliot Roe
và Dr. Tricia Cardner, tôi đã có thể vượt qua hầu hết các giới hạn về tinh thần trong game, vì thế
tôi cũng rất khuyến nghị bạn đọc những cuốn sách về tinh thần trong trò chơi, nghe podcast, xem
video và, nếu có thể, hãy tìm cho mình 1 người huấn luyện viên nếu bạn thực sự muốn thành công
trong poker.
Với kinh nghiệm của tôi, sẽ có 1 vài điểm tư duy mà những người thành công thường có, trong khi
những người thua cuộc thường có xu hướng ngược lại hoàn toàn. Chúng có thể được tóm tắt lại
như sau:

Người thắng

◆ Thái độ tích cực

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ HIểu phương sai nhưng chịu toàn bộ trách nhiệm cho kết quả của họ

◆ Đạo đức làm việc tốt, làm việc nghiêm túc để cải thiện kĩ năng trò chơi và áp
dụng nó vào các bàn chơi
◆ Kiểm soát được cảm xúc

◆ Luôn tìm kiếm ý kiến phản hồi và sẵn sàng nhận chỉ trích

◆ Có định hướng mục tiêu trong dài hạn

◆ Tăng EV bằng cách chơi với những người chơi yếu hơn hầu hết thời gian

◆ Chỉ chơi nhiều bàn nhất có thể khi đã duy trì được tinh thần và chơi trò chơi 1
cách tốt nhất
◆ Quan tâm tới sức khỏe bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục, thiền và uống
nhiều nước
◆ Ngủ kĩ, đặc biệt là những tối trước sự kiện lớn

◆ Thói quen trước và sau khi chơi

◆ Tham gia mạng lưới những người chơi thành công poker và liên tục trao đổi các
ván bài và chiến thuật poker với họ

Người thua

◆ Thường có thái độ tệ

◆ Đổ lỗi cho phương sai, đen đủi, phòng poker hay thậm chí là do người chia vài
dẫn tới kết quả tồi tệ cho họ
◆ Lười, không bao giờ chịu tìm hiểu về trò chơi và cố gắng cày nhiều giờ trên các
bàn.
◆ Thường xuyên bị xuống tinh thần

◆ Không quan tâm tới lời chỉ trích

◆ Định hướng mục tiêu trong ngắn hạn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Có cái tôi lớn, vì thế luôn chơi với những đối thủ tốt hơn

◆ Chơi quá nhiều bàn và chơi như 1 cái máy

◆ Không quan tâm tới sức khỏe, ăn thức ăn không tốt và không bao giờ tập thể
dục
◆ Sử dụng đồ uống có cồn, chất kích thích

◆ Không có thói quen ngủ tốt, sẵn sàn đi chơi và quẩy đêm trước ngay trước ngày
sự kiện lớn
◆ Nhảy thẳng từ giường ra các bàn poker

◆ Kể những câu chuyện bị bad beat và phàn nàn tại sao họ lại đen như thế cho
bạn bè của họ

Cuộc sống Tournament


Tôi đã đề cập ở phần trước về việc MTTs cơ bản khác so với cash game, và những người chơi
thuộc top đầu MTT có thể nắm bắt tốt như thế nào khi điều chỉnh lối chơi ở những giai đoạn khác
nhau trong giải đấu. Đó là bởi vì họ hiểu được ý nghĩa của cuộc sống trong giải đấu

Chiến thắng một tour

Thắng 1 giải đấu có thể được nhìn nhận theo 2 cách. Chúng ta đều biết rắng người chiến thắng là
người đã thắng tất cả số chip, mặt khác chúng ta có thể nói người chiến thắng là người chơi còn trụ
lại cuối cùng.
Tournament là về sự sinh tồn, tồn tại lâu hơn so với đối thủ hơn là việc cố gắng tự mình loại bỏ họ.
Vì thế, cuộc sống trong Tournament liên quan tới giá trị khi vẫn còn chip trong 1 giải đấu Poker
Tournament
Nếu Tournament không được tính bằng Chip EV (cEV), thì còn yếu tố nào khác ảnh hưởng tới
quyết định trên bàn chơi không?

EV của những hand tương lai

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khái niệm này sẽ dể hiểu hơn với 1 ví dụ sau.

Ví dụ
Bạn đang chơi WSOP ME và đang chơi ván đầu tiên ở mức đầu tiên với 50,000 chips với mức
blind là 75/150 (hiện có 333bb). Tất cả đã fold đến vị trí SB, 1 gã điên, người sẽ luôn all-in mà
không cần nhìn bài. Bạn đang ở vị trí BB và caàm J8o. Liệu bạn sẽ call cú all-in kia không?
J8o sẽ dẫn trước 1 hand bài ngẫu nhiên, có 51,48% equity. Call với J8o sẽ tạo ra 10.9bb mỗi lần, vì
thế nó sẽ đáng giá 1,090bb/100. Phân tích theo góc nhìn từ cEV, đó sẽ là 1 cú call dễ dàng vì khi
fold sẽ là 0bb EV. Tuy nhiên, liệu có quá rõ ràng khi hầu hết mọi người đều sẽ không call với J8o
ở vị trí này mặc dù nó +cEV, tại sao lại như vậy?
Nếu bạn đợi 1 hand khỏe như AA vào lần kế tiếp để chơi tới bến với gã điên kia, bạn sẽ tạo ra được
+235bb mỗi hand hoặc 23,500bb/100. VÌ thế, sẽ đáng giá hơn rất nhiều để ngồi đợi cho vị trí tốt
hơn. Trong khi đây chỉ là 1 ví dụ và bạn phải tự hiểu ra rằng khi nào thì bạn mới có được vị trí tốt
hơn, nó củng cố cho việc ảo tưởng về giá trị dự kiến của những hand bài trong tương lai.

EV của tăng tiền thưởng


Chúng ta cần phải thẳng thắn về vấn đề này. Tránh thua tất cả số chip trong 1 giải đấu để tăng khả
năng bạn sẽ có mức tiền thưởng cao hơn bởi vì người chơi khác có thể sẽ bị loại ra trước bạn. Vì
thế, việc fold bài và vẫn sống ở trên bàn sẽ có giá trị, hy vọng những người chơi khác sẽ bị thua
cuộc. Đây là điều khá khác so với cash game khi mà EV cho việc fold bài sẽ luôn luôn bằng 0
Lý do chính cho yếu tố này là vì chúng không dễ để định lượng. Đây là lý do các mô hình toàn học
như Mô hình Chip độc lập (ICM) và Giả lập Trò chơi Tương lai (FGS) được sáng tạo ra.

Mô hình chip độc lập (The Independent Chip Model - ICM)

Trong cash game, nếu bạn vừa gấp đôi lượng stack cuả mình, bạn đã gấp đôi số tiền của mình,
nhưng trong tournament, số lượng chip và giá trị thực tế của chúng không có gì liên quan tới nhau.
Hãy cùng nhau xem qua ví dụ này.

Ví dụ
Bạn đang chơi giải có 10 người $10 buy-in SNG với tổng giải tưởng là $100. Chỉ có những người
lọt top 3 sẽ được trao giải, với giải nhất $50, giải nhỉ $30, giải ba $20. Để đơn giản hơn, sẽ không

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


có lãi sàn ở đây.
Bắt đầu chơi giải SNG, mỗi người sẽ được cung cấp 1,000 chips và chúng đáng giá $10. Nếu bạn
bị loại trước khi vào được vị trí có giải, bạn sẽ mất $10, và nếu bạn thắng giải đấu, bạn sẽ kết thúc
với 10,000 chips. Tổng giải thưởng là $100 nhưng bạn chỉ được trao giải $50. Vì thế, bạn kết thúc
trận đấu với 100% số chips nhưng chỉ nhận được 50% tổng giải thưởng.
Tăng stack của bạn lên không có nghĩa sẽ tăng giá trị của nó, vì thế thậm chí khi bạn vừa gấp đôi
số chip của mình ở hand đầu tiên ở SNG và kết thúc với lượng stack lalf 2,000 chips, giá trị mà
lượng chip bạn đang có vẫn không thay đổi. Lượng chip bạn thắng được không đáng giá bằng lượng
chip bạn đang đặt cược.

Đây được biết đến như Nguyên tắc Thu nhỏ Giá trị Chip: Trong giải đấu Tournament,
những đồng chip mạo hiểm sẽ đáng giá hơn nhiều so với lượng chip dành chiến thắng, và bạn
càng có nhiều chip, giá trị của từng đồng chip sẽ càng ít đi

ICM là mô hình toán học được thiết kế để ấn định giá trị tiền tệ vào lượng chip stack và được thể
hiện dưới dạng số phần equity trong tổng giải thưởng còn lại.
Dựa vào kích thước stack, ICM sẽ tính xác suất mỗi người chơi kết thúc ở từng vị trí và nhân xác
suất này với tiền thưởng ở từng vị trí. Việc tính toán này thường quá phức tạp để làm bằng tay,
nhưng may mắn là đã có những máy tính ICM online, ví dụ như bạn có thể dùng miễn phí ở trang
holdemresources.net/icmcalculator.
Quay lại với ví dụ 10 người chơi SNG, tưởng tượng có 4 người chơi còn lại với lượng chip được
phân bổ như sau (Table 37).

Table 37: Ví dụ của kết quả ICM

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Người chơi A có 60% tổng lượng chip, nhưng giá trị stack của anh ta không phải $60 vì nếu đạt
giải nhất thì chỉ thắng được $50. Và họ cũng không luôn luôn kết thúc với vị trí đầu tiên, nên giá
trị stack của họ sẽ bé hơn $50. ICM tính giá trị stack của anh ta là $40.39
Người chơi D có lương stack ít và chỉ chiếm 10% tổng lượng chip nhưng lượng stack này đáng giá
hơn nhiều so với$10
ICM được sử dụng rộng rãi ở những bàn final, mặc dù nó có xu hướng định giá quá cao những
stack thấp. 1 mô hình khác cũng được sử dụng đó là Chip Chop, nhưng Chip Cho có xu hướng định
giá quá cao những stack lớn. Sử dụng Chip Chop trong ví dụ của chúng ta, người chơi A chiếm
60% tổng lượng chip, sẽ nhận được số tiền $60, còn nhiều hơn cả tiền thưởng vị trí đầu tiên. Rõ
ràng nó rất không hợp lý.
Sự khác biệt giữa giá trị chip và giá trị tiền tệ được sinh ra từ 2 loại EV cho người chơi hành động:

◆ Chip Expected Value (cEV): số chip trung bình bạn mong đợi khi bạn thực hiện 1 hành
động
◆ Monetary Expected Value ($EV): lượng tiền trung bình bạn mong đợi khi bạn thực
hiện 1 hành động, dựa theo equity của bạn trong tổng giải thưởng.

Trong cash game, cEV và $EV là giống nhau (nếu bỏ qua lãi sàn), tuy nhiên, trong MTTs,
các quyết định của người chơi sẽ luôn thay đổi dựa trên $EV.

Hãy cùng xem 1 ví dụ sử dụng Holdem Resources Calculator (HRC) để tính cEV và chiến thuật
cân bằng push/fold ICM với mức blind 50/100.

Table 38: ICM chỉ đẩy allin khi bài mạnh

Ở Table 38 bạn có thể thấy CO, BN và SB muốn chơi chắc chắn như thế nào vì đang trong vòng
sắp vaò tiền. Rất nhiều hand là những hand có cEV có lợi nhuận khi all in thì lại là -$EV, vì thế

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


chúng không thể sử dụng để chơi nữa..

Table 39: ICM đẩy all-in với bài rộng

Ở Table 39 stack của BB và BN đã bị đổi cho nhau và bây giowfBN đang có lợi thể về lượng stack
lớn của mình và sẽ all in 2 lá bất kỳ dẫn tới những nhà BB và SB khó call hơn rất nhiều vì ICM.
Hiệu ứng ICM trong chiến thuật cân bằng phụ thuộc vào độ lớn của stack và cấu trúc tiền thưởng
của giải đấu. Giải đấu có giải thưởng tập trung ở top đầu sẽ chơi hổ báo hơn và giải đấu có cấu trúc
giải thưởng chia đều cho mọi người thì sẽ chơi chắc lại.
Nó cũng rất quan trọng khi bạn chú ý tới chiến thuật của đối phương, vì bạn không thể áp dụng sức
ép ICM đến những người chơi không có biết về ICM hay những người không chọn theo ICM. Việc
tính toán all-in/fold giả định tất cả người chơi đều theo chiến thuật cân bằng ICM. Nếu có 1 người
chơi không theo ICM và bạn đang chơi 1 hand đấu với họ, bạn có thể trả giá bằng EV của mình, và
EV đó sẽ được chuyển qua cho các người chơi khác trên bàn.
Ví dụ, ở Table 38, nhà SB thực hiện chiến thuật ICM khi all-in 14.9% lượng hand, nhưng giả sử
BB biết về ICM và vì thế call với chỉ 6.7% lượng bài. Nếu BB call với lượng cEV trong range bài
23.8%, cả 2 người chơi sẽ bị mất EV mặc dù họ đã chơi “đúng”

ICM và phầm mềm giải (Solvers)

Trước khi học thuyết Phần mềm solvers hiện tại ra đời, việc tính toán ICM là cách duy nhất để chọn
trong tình huống push/fold, nhưng đã số solver bây giờ đều kết hợp với cách tính của ICM, mở ra
1 thế giới mới để phát triển chiến thuật ở bàn final. Với nhiều loại cấu trúc giải thưởng và sự phân
chia stack khác nhau ở bàn final, gần như không thể để phát triển 1 chiến thuật bao gồm đầy đủ tất
cả các trường hợp, là điều vượt quá xa so với cuốn sách này. Thay vào đó, chúng ta nên tập trung

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


và việc học chiến thuật cân bằng thông thường, nhưng tôi khuyên các bạn nên tự tính toán ICM của
riêng mình và phát triển 1 giác quan làm sao để nhận biết được cách chơi “chuẩn” khi bước vào
tình huống bubble sắp vào tiền hay bàn final

Hạn chế của ICM

ICM được dựa theo 1 vài giả định nhất định để có thể tính toán được:

◆ Tính toán dựa trên số lượng hand đã thu thập, và bỏ qua những ván chơi trong tương lai, ví dụ
như mức blind tăng lên khi chơi tiếp, hoặc giá trị tương lai khi xây stack lớn và cho bạn khả
năng ép all-in đối với những nhà stack thấp.
◆ ICM giả định tất cả người chơi có kỹ năng như nhau
◆ Không có hình ảnh về những người chơi trong bàn
◆ Tính toán bị hạn chế tới 1 số lượng người chơi nhất định, thường chỉ dừng ở bàn final, hoặc 2
bàn final, vì thế mà ICM không thể áp dụng ở giai đoạn đầu khi mà người chơi còn cách quá
xa để tới được vị trí có tiền.
◆ ICM không quan tâm tới vị trí của người chơi. Ví dụ, stack 4bb ở BN có giá trị hơn so với vị
trí đầu tiên
Bởi những lý do ở trên, ICM không phải là hoàn hảo. Tuy nhiên, nó vẫn cung cấp $EV xấp xỉ chính
xác, giup người chơi đưa ra quyết định tốt hơn trong bàn final, giai đoạn sắp vào tiền và SNGs.

Hướng dẫn chung cho ICM

Rõ ràng, sẽ không thể cho chạy tính toán ICM trong khi đang chơi, nhưng phân tích các cách thiết
lập ICM khác nhau trong lúc nghiên cứu có thể giúp bạn phát triển được bản năng phán đoán đúng.
Tiếp theo, tôi tổng hợp 1 vài hướng dẫn hữu ích nhất:

◆Nên chơi chắc hơn trong tournament hơn so với cash game

◆Tránh những vị trí +cEV không quan trọng

◆Stack trung bình nên chơi chắc chắn lại nếu còn những nhà stack thấp, đặc biệt đang trong
giai đoạn sắp vào tiền

◆Stack lớn có thể đe dọa những nhà stack trung bình, đặc biệt trong giai đoạn sắp vào tiền khi

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


họ chỉ chơi với range rất hẹp

Phần thưởng của rủi ro – Risk Premium

Trong tournament, bởi vì quy luật giá trị chip giảm dần, chúng ta biết được số lượng chip bạn thắng
sẽ có thể không đáng giá bằng số lượng chip bạn đang có. Bạn có thể nghĩ về nó như đang mạo
hiểm thêm vì 1 pot có cEV đánh giá thấp. Vì vậy, trong giải đấu, bạn cần nhiều equity hơn so với
cash game để tạo ra lối chơi +$EV. Lượng euiqty thêm vào này được gọi là phần thưởng rủi ro
(Diagram 17).

Diagram 17: Phần thưởng của rủi ro

Quay lại với ví dụ 10 người ở SNG, chúng ta có thể thấy trong Table 39, BN đang là người có nhiều
chip nhất với 6,000 chip có thể all-in với bất kì 2 lá bài nào. Tôi đã đề cập rằng dựa vào ICM, các
nhà BB và SB đang bị ép phải chơi range rất hẹp bởi vì đang trong giai đoạn sắp vào tiền. Thực tế,
sau khi BN all-in thì trong 100% hand của SB, người có lượng stack thứ 2 với 1800 chip, sẽ chỉ call
với range gồm AA-TT. Nếu SB fold, thì range call của BB cũng chỉ từ AA-88, AKs và AQs.
Hãy thử tính cEV của BB khi call bằng AKo khi đấu với cú all-in từ BN, giả sử SB đã fold, dựa

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


theo equity ở Table 40.

Table 40: Equity đối đầu với 100% Range

Call với AKo rõ ràng sẽ tạo ra lợi nhuận về chip, vì thế bây giờ hãy tính $EV của nhà BB khi call
với AK ở cùng vị trí đó:

Sử dụng máy tính ICM HRC, giá trị stack của BB trước khi fold là $18.02. Thay vào đó, sau khi
call và dành chiến thắng, giá trị stack đã lên $27.12, vì thế $W được thêm vào stack nhà BB là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi đó:

Vậy là việc call AKo sẽ không mang lại lợi nhuận theo giá trị tiền tệ.
Sử dụng phương trình EV, chúng ta có thể tính toán equity cần có nhỏ nhất để thực hiện cú call có
lợi nhuận:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bây giờ hãy cùng làm tương tự với công thức $EV:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Để nhà BB có thể call hand bài với +$EV, hand bài cần pahri có 66.44$ equity, trong khi chỉ cần
47% equity để có thể call với +cEV. Lượng euiqty chênh lệch chính là phần thưởng rủi ro:

Ma trận tương quan của phần thưởng rủi ro - Risk Premium Correlation Matrix
Phần thưởng rủi ro thay đổi phụ thuộc vào kích thước stack của người chơi đang trong ván bài và
cao hơn khi call 1 cú bet lớn, đặc biệt nếu call tất cả số chip và đặt mạng sống trong giải đấu của

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


bạn vào nguy hiểm (Table 41).

Table 41: Trung bình giá trị của phần thưởng rủi ro MTT

Phụ thuộc vào cấu trúc giải thưởng của giải đấu và sự phân chia stack chính xác, phần thưởng rủi
ro có thể thay đổi. Nếu cấu trúc giải thưởng phân bổ rộng thì phần thưởng rủi ro sẽ cao hơn và nếu
cấu trúc giải thưởng tập trung hết vào các vị trí đầu tiền, phần thưởng rủi ro sẽ thấp đi. Nếu trong
giải đấu mà người nhất ăn hết, phần thưởng rủi ro sẽ bằng 0 vì sẽ chẳng có ích lợi gì khi được leo
lên trong bảng xếp hạng. Sự có mặt của những stack thấp sẽ tăng phần thưởng rủi ro của những
người chơi khác (đặc biệt giữa 2 nhà stack thấp với nhau)
Để call 1 cú bet nhỏ như min-raises, phần thưởng rủi ro có thể bé hơn 2% nhưng nó vẫn tạo ra điểm
khác biệt trong range phòng thủ của BB, đặc biệt với những hand tệ nhất trong range, sẽ làm giới
hạn cú call +cEV. 1 lý do khác nữa để phòng thủ chặt hơn khi đang ở BB khi bạn có phần thưởng
rủi ro cao đối với nhà open, là khi họ tiếp tục bet ở post-flop. Sẽ khá khó khăn cho nhà BB để call
nhiều pha bet và vì thế EQR sẽ trở nên thấp hơn so với cEV thông thường. Nên nhớ rằng phần
thưởng rủi ro là phần euiqty thêm cần có để có thể chơi có lợi nhuận. Nó có nghia là nó không chỉ
áp dụng trong việc call những cú bet, mà thậm chí là lúc nghĩ về việc bet. Vì lí do này, BB nên
phòng thủ rộng hơn đối với những nhà có phần thưởng rủi ro cao, khi mà đối thủ đang không biết
có nên bet nhiều vòng hay không và BB có thể realize equity dễ dàng hơn.

Giả lập trò chơi tương lai - Future Game Simulation (FGS)

Như đã đề cập ở trước, ICM không phải hoàn hảo và những mô hình mới hơn như FGS được phát
triển để đánh vào đúng những điểm hạn chế của ICM như:

◆ Vị trí của người chơi có liên quan tới blind

◆ Kích thước mức blind và ante liên quan tới stack

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Blind di chuyển xung quanh bàn

FGS chạy giả lập ICM bao gồm 1 số hand tiếp theo cho tới hand hiện tại, tính toán mỗi khả năng
có thể xảy ra và ICM EV của từng stack mỗi người chơi.
1 vài tính huống khi người chơi có thể dùng FGS tốt hơn ICM là khi:
◆ Mức blind chuẩn bị tăng lên
◆ Stack người chơi còn rất ít và sợ phải chơi và fold equity
◆ Có cơ hội cao nhà stack thấp sẽ bị loại sớm hoặc đóng blind tới chết (điều này thường hữu
dụng trong giai đoạn sắp vào tiền hoặc chơi giải đấu theo chuỗi)

Trong khi FGS là bản cải tiến của ICM và tạo ra những kết quả xấp xỉ gần nhất về $EV thực tế
trong tương lai, mô hình này vẫn có những điểm hạn chế riêng:

◆ FGS tính toán chuyên sâu hơn nhiều so với ICM, vì thế nó phải dành nhiều thời gian
hơn để tính

◆ FGS không quan tâm về post-flop và chỉ sử dụng công cụ tính toán push/fold cho 1 số
lượng người nhất định, vì thế không sử dụng được trong giai đoạn đầu của giải đấu

◆ Các kết quả đưa ra dựa vào FGS khác hoàn toàn so với ICM chỉ trong trường hợp bàn
còn quá ít người (6 người trở xuống), và stack còn ít hơn 10bb, với 1 số ít còn cực ít
(dưới 5bb)

Vị trí bị ảnh hưởng nhiều nhất là UTG, SB và BB.

Ý tưởng quan trọng nhất có thể rút ra từ những mô hình này đó là quy luật giảm dần giá trị
chip: Trong giải đấu poker, số chip mang ra để mạo hiểm đáng giá hơn rất nhiều so với số
chip ăn được, và càng nhiều chip thì giá trị của từng đồng chip càng giảm đi.

Cho tới bây giờ, các mô hình toán học chúng ta vẫn đang sử dụng để tính toán giá trị tiền mặt của
1 lượng chip, thông qua ICM và FGS, đều bị hạn chế trong tình huống tất cả người chơi đều đã vào
vòng có tiền, hoặc rất rất gần với nó, vậy điều gì sẽ xảy ra trong giai đoạn đầu của giải đấu? Liệu
quy luật giảm dần giá trị chip có còn đúng không? Những người chơi nên thận trọng hay tận dụng
rủi ro này? Còn yếu tố nào khác mà mô hình không thế tính toán tới, ví dụ như ngưỡng trình độ?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Vấn đề về sự “cờ bạc”

Giả sử trong 1 tình huống 2 người chơi bắt đầu với 1 lượng chip nhất định, đánh với nhau cho đến
khi 1 người bị “hết chip” khi chạm tới 0.

Những người chơi cờ bạc là những người chơi 1 trò chơi có 50% tỷ lệ chiến thắng sẽ cuối cùng bị
phá sản hoặc gấp đôi lượng tài sản.

Tung đồng xu (hai mặt cân bằng)

Giả sử có 1 trò chơi tung đồng xu với 2 người chơi có cơ thắng là 50% cho mỗi người. Sau mỗi lần
tung đồng xu, người thua phải chuyển 1 chip cho người thắng. Trò chơi kết thúc khi 1 người nắm
giữ toàn bộ số chip
Nếu người chơi 1 có n1 chip và người chơi 2 có n2 chip, khả năng người chơi 1 và người chơi 2 sẽ
mất hết sạch chip là:

Giả sử khi cả 2 người chơi có lượng chip bằng nhau. Cứ cho rằng mỗi người có 6 chip đi. Thì xác
suất mỗi người sẽ thua là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bây giờ hãy cho rằng 1 người chơi có nhiều chip hơn người còn lại. Người chơi 1 có 8 chip và
người chơi 2 có 5 chip. Vậy xác suất mỗi người thua sẽ là:

Chúng ta có thể kết luận rằng kể cả với tỉ lệ thắng bằng nhau, người chơi bắt đầu với ít chip hơn
vẫn dễ thua hơn.

Tung đồng xu (hai mặt không cân bằng)


Trong 1 trò chơi đồng xu không cân bằng, người chơi 1 có xác suất thắng là p, người chơi 2 có xác
suất thắng là q = 1-p, thì xác suất để mỗi người bị phá sản là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hãy cùng tập trung vào xác suất người chơi 2 sẽ thua, nó sẽ giống chính xác xác suất người chơi 1
giành chiến thắng:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Cho rằng trò chơi cá cược chỉ có 20 chip tất cả. Bạn là P1, vậy khi nào bạn sẽ có khả năng chiến
thắng với nhiều kiểu kích thước stack khác nhau:

◆ Trò chơi công bằng (cả 2 đều có tỷ lệ thắng giống nhau)

◆ Bạn có kĩ năng cao hơn ( 52% khả năng chiến thắng cho mỗi lần cá cược)

◆ Bạn có kĩ năng thấp hơn (48% khả năng chiến thắng cho mỗi lần cá cược)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 42: Xác xuất chiến thắng của trò chơi tung đồng xu

Với mức kĩ năng nhất định, xác suất chiến thắng của bạn sẽ tăng lên tuyến tính với kích thước stack
của bạn. Nếu bạn có 2 chip, tỷ lệ thắng chỉ là 10%, nếu bạn gấp đôi nó lên 4 chip, xác suất bạn
thắng cũng gấp đôi lên thành 20%. Nếu bạn có 10 chip (1 nửa số chip đang chơi) thì bạn sẽ có 50%
xác suất chiến thắng.
Nếu bạn có kĩ năng cao, xác suất thắng của bạn sẽ không tăng lên tuyến tính theo kích thước stack.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu bạn có 2 chip, tỷ lệ thắng chỉ là 19%, nếu bạn gấp đôi nó lên 4 chip, xác suất bạn thắng thành
34% (không gấp đôi lên). Nếu bạn có 10 chip (1 nửa số chip đang chơi) thì bạn sẽ có 69% xác suất
chiến thắng. Điều này được giải thích là do giá trị hàm số không phải là 1 đường thắng mà là hình
lõm xuống. Vì thế bạn càng có nhiều chip, đường giá trị sẽ càng ít dốc, và càng làm giảm giá trị
của những chip vừa thắng được vào trong stack (Diagrams 18 and 19).

Diagram 18: Trò chơi cân bằng (p=0.5)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 19: Chơi có kỹ năng (p=0.52)

Nếu kích thước stack của bạn được tăng lên, độ dốc của đường cong sẽ giảm đi. Ví dụ, nếu đường
cong dốc hơn ở điểm 2 hơn là điểm 18. Độ dốc là giá trị thêm vào của từng chip bạn thêm vào stack
của họ. Với kỹ năng giống hệt nhau, giá trị thêm vào của mỗi chip được thêm là 0.05, nhưng trong
trường hợp kỹ năng cao hoặc kỹ năng kém, giá trị hàm số không phải là 1 đường thẳng và vì thế
giá trị thêm vào của lượng chip được thêm vào sẽ phụ thuộc nhiều vào tổng số chip bạn đang có.
Chip cuối cùng thêm vào stack của bạn nếu họ có kỹ năng chơi tốt sẽ có giá trị thấp nhất (0.021).
Chip cuối cùng thêm vào stack của bạn nếu họ có kỹ năng chơi kém sẽ có giá trị cao nhất (0.096).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 20: Chơi không kỹ năng (p=0.48)

Khi bạn có kỹ năng kém (Diagram 20), xác suất thắng của bạn cũng không tăng theo hình dáng
tuyến tính với lượng stack. Nêsu bạn có 2 chip thì xác suất bạn thắng là 4%, nếu gấp đôi số chip
lên 4 thì xác suất là 10% (nhiều hơn gấp đôi). Nếu bạn có 10 chip (1 nửa lượng chip đang được
choi) thì xác suất bạn thắng chỉ là 31%.
Ví dụ, tưởng tượng bạn yêu cầu chơi tung đồng xu 1 lần 5 chip với mức stack là 10 chip. EV đối
thủ nhận được từ trò chơi này được tính bằng cách vẽ 1 đường thẳng từ điểm số 5 tới 15 và đường
giá trị bằng 1 nửa chỗ đó. Nếu kỹ năng bạn tốt, đường giá trị sẽ luôn dưới đường cong, nghĩa là bất
kì lần cá cược nào trong cEV sẽ có xác suất chiến thắng là -EV. Nếu kỹ năng bạn kém, đường giá
trị sẽ luôn ở trên đường cong, nghĩa là bất kì lần cá cược nào trong cEV sẽ có xác suất chiến thắng
là +EV.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 21: Chơi có kỹ năng (p=0.52)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 22: Chơi không kỹ năng (p=0.48)

Từ vấn đề về sự hủy hoại trong cờ bạc, chúng ta có thể kết luận rằng nếu bạn có kỹ năng
chơi tốt, bạn nên nâng cao cảnh giác và tránh cờ bạc nhiều hơn. Ngược lại, nếu bạn có kỹ
năng kém, bạn nên sẵn sàng cờ bạc hơn để kiếm 1 khoản lớn cho stack của bạn

Tất cả điều này đều cảm giác hợp lý. Nếu bạn có 1 kỹ năng vượt trội hơn hẳn khi đấu với người
chơi kém, bạn không nên quá vội vàng all-in pre-flop ngửa bài để ăn trọn đống big blind trong khi
bạn có thể từ từ nghiền nát chúng khi chơi post-flop và tận dụng những lỗi lầm đối thủ tạo ra. Cá
cược nhiều chip ở nhiều vị trí và làm tăng phương sai sẽ chỉ mang lại lợi ích cho những người chơi
yếu và sẽ cho họ những cơ hội tốt nhất để dành chiến thắng.
1 ví dụ khác có thể lấy từ trò chơi casino khi nhà cái sẽ giữ quyền kiểm soát cho chơi. Casino sẵn
sàng cho bạn chơi 100 ván $20 blackjack hơn là 1 ván $2000 blackjack. Khi giảm phương sai

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


xuống, bạn gần như chắc chắn sẽ thua.

Kết luận

Trong giải đấu sẽ có rất nhiều phần linh động, bao gồm nhưng không giới hạn, kích thước các bàn
chơi khác nhau, kích thước sòng, kích thước stack, cấu trúc blind, cấu trúc tiền thường, kỹ năng
người chơi, tiền thưởng và số lần re-buys. Sự xuất hiện của 1 vài phương sai khiến cho việc phân
tích mọi thứ chính xác trở nên không thể. Tuy nhiên, không có 1 mô hình nào có thể có tất cả các
yếu tố trên, và tạo ra 1 mô hinhf có thể xem từng phương sai một cũng gần như là không thể. Hơn
nữa, nếu như thuật toán có tồn tại, không kể đến những cỗ máy tối tân mạnh mẽ nhất có thể tính
toán ra kết quả và cung cấp chiến thuật hoàn hảo.

Đây là lý do tại sao có nhiều cách tiếp cận tới giải đấu poker. Không ai có câu trả lời chính xác để
nói “tối ưu” là gì, đặc biệt với phương sai cao là điều luôn hiện hữu ở MTTs. Đơn giản sao chép lại
“công thức chiến thắng” từ những người chơi đã chiến thắng những sự kiện MTT lớn nhất cũng
không đủ để trở thành 1 người chơi thắng cuộc trong dài hạn. Thường những người chơi giỏi nhất
thế giới sẽ dùng chiến thuật đặc biệt cho họ và mọi người sẽ mù quáng bắt chước theo sẽ rất có hại
và tạo ra nhiều kết quả tệ.
Trong giải đấu poker, giá trị tiền tệ cho lượng chip là không thể thay đổi, vì thế trạng thái cân bằng
cũng sẽ không đứng im. Thực chất nó rất biến động. Trạng thái cân bằng thay đổi liên tục và những
người chơi MTT hay nhất thế giới là những người thực sự hiểu được điều này và đang cố gắng
ghép những mảnh ghép lại, cố gắng hiểu khi nào nên dừng lại và khi nào nên vượt qua nó. Kỹ năng
này rất khó để làm chủ, và khi chỉ có 1 vài người có thiên bẩm trời phú, hầu hết chúng ta cần phải
mài giũa kỹ năng này sau 1 vài năm chơi và luyện tập, thử và mắc lỗi, chiến thắng và thua cuộc.
Tôi dám chắc rằng đây có thể là 1 kỹ năng quan trọng nhất cho bất kỳ người chơi MTT nào cần
phải sở hữu. Tất cả mô hình đã được nói trong chương này đều để muốn giúp cho bạn hiểu thêm
về sự khác biệt giữa tournament và cash game, về sự khác biệt giữa cEV và $EV, và độ quan trọng
khi bạn vẫn đang còn sống sót trong tournament. Mục tiêu là để sử dụng chiến thuật cân bằng làm
điểm bắt đầu và có thể phát triển đánh giá của bạn để xác định khi nào bạn nên theo và khi nào
cần làm khác đi để tối ưu hóa lợi nhuận.

07

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


CHIẾN THUẬT CHƠI MTT CÂN BẰNG:
CHƠI OPEN (RFI)

Chiến thuật cân bằng được trình bày trong chương này được sinh ra nhờ phần mềm solver hiện đại
và máy tính, dựa vào cEV trên bàn chơi 9 người với ante 12.5%. Đây là môi trường giải đấu phổ
biến, nhưng nó cũng tùy thuộc vào bạn để thích ứng với những trò chơi bạn đang chơi.
Trong các giải đấu, người chơi cần phải chơi nhiêù lại kích thước stack khác nhau, nhưng tuy nhiên,
có 1 hạn chế khi nói tất cả trong 1 cuốn sách, vì thế chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu vào 1 vài kích
thước stack quan trọng nhất khi giải đấu diễn ra (bao gồm 15bb, 25bb, 40bb và 60bb)
Trong tình huống không có ante và stack còn nhiều (thường là khi ở giai đoạn đầu tiên của giải
đấu), sẽ có rất ít tiền chết ở trong pot, vì thế range của mọi người thường là hẹp và chiến thuật cân
bằng ở đây khá giống với ở cash game ngoại trừ là không có lãi sàn. Kết quả là giá trị ở mỗi hand
được chơi sẽ tăng lên. Call cú bet và chơi post-flop sẽ trở nên đáng hơn.

Cách Open

Như đã đề cập ở trước, với stack chỉ còn khoảng 10bb, bạn nên chơi chiến thuật allin/fold vì EV
khi thua đối với stack thấp là không đáng kể khi so với những chiến thuật phức tạp hơn.
Sẽ rất quan trọng nếu bạn nghĩ trước các bước trước khi đưa ra quyết định pre-flop. Ghi chú lại
mức stack của bạn cũng như của những người chơi khác chưa hành động. Đánh giá xem họ thích
re-raising hay call không.
Bạn nên biết trước khi bạn raise là bạn muốn raise-fold hay raise-call. Có thể hand bạn chơi có thể
call all-in với range của 1 vị trí còn những vị trí khác thì không, hoặc bạn có thể call cú all-in 15bb
chứ không phải 20bb. Bạn cũng cần phải biết nếu hand của bạn sẽ chơi tốt hơn nếu all-in luôn hay
chỉ nên min-raise để không tự đưa bản thân vào vị trí khó trong trường hợp bạn min-raise, đối thủ
nhảy ra all-in và bạn không biết phải làm gì.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Điều này có vẻ quá rắc rối để suy nghĩ, đặc biệt cho những người thiếu kinh nghiệm, nhưng
nó rất quan trọng khi phải luôn có trách nhiệm và thận trọng trong tình huống của mình và
tránh làm như 1 cái máy.

Có những người chơi online sẽ chơi poker tốt khi họ chỉ chơi đúng 1 bàn nhưng sẽ tạo ra nhiều sai
lầm thường xuyên khi chơi nhiều bàn cùng lúc vì những lỗi ngớ ngẫn, có thể dễ dàng tránh được
bằng việc tập trung hơn.

Size bet
Sau khi kiểm tra nhiều trường hợp với solvers, đánh giá chung của tôi là bet-size khi open không
ảnh hưởng quá nhiều tới những hand tệ nhất trong range của bạn miễn là bạn đang dùng những size
bet hợp lý và chơi trong range phù hợp với cú bet đó. Lượng bet càng lớn, càng ít hand bạn có thể
chơi có lợn nhuận. Nếu bạn quyết định open với 3bb, bạn đang tự đẩy mình chơi range hẹp đi thay
vì bạn quyết định là sẽ min-raise, bằng không bạn sẽ mất tiền ở những hand yếu nhất trong range
của mình.
Lượng bet-size đẹp nhất khi open sẽ đâu đó khoảng 2bb tới 2.5bb từ BN tới UTG, và từ 2.5 đến 3.5
khi ở blind và khi các blind đấu nhau.
Tôi khuyên nên min-raise khi stack còn nhiều để tránh bị đẩy all-in ( đối thủ ít hơn 25bb) vì 2 lý
do chính:

◆ Raise-fold từ nhà có stack thấp khá là tốn kém và bạn không muốn bản thân bắt buộc
phải all-in. Ví dụ, bạn tố lên 3x từ UTG với 10bb và BB all-in, bạn cần phải call thêm
7bb nữa để chơi lấy pot 14.6bb. Tỷ lệ đang là 2 ăn 1, bạn sẽ bắt buộc phải call với bất
kì 2 làs bài nào trong range bạn đang chơi. Nếu thay vào đó bạn min-raise, bạn sẽ phải
call 8bb để chơi pot 13.6bb, tỷ lệ là 1.7 ăn 1, sẽ khiến bạn phải fold những hand tệ
nhất trong range của mình

◆ Một vũ khí chính người chơi có khi bị đối đầu với nhà open với stack thấp là có thể all-
in ngược lại, với lượng tố to hơn rất nhiều, đối thủ sẽ phải có 1 giá tốt hơn để all-in lại.
Ví dụ, bạn đang ở CO và open 2.5x với stack đang có 20bb, nhà BB sẽ phải mạo hiểm
19bb để thắng 5.125bb. Vậy cú bet này cần thành công khoảng:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu thay vào đó bạn chỉ tố 2x, cú bet này cần thành công khoảng:

Cú 3-bet của bạn và lượng sizing lớn sẽ thay đổi dựa vào vị trí người chơi và lượng stack được thể
hiện ở Tables 43 và 44.

Table 43: Size 3-bet khuyên dùng tại MTT

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 44: Size squeeze khuyên dùng tại MTT

Ở mức stack 30-35bb hoặc nhiều hơn, nguy cơ bị đẩy all-in thấp hơn vì rủi ro hơn phần thưởng
nhận được. Điều đó có nghĩa là bạn có thể tăng lượng raise size lên 2.3x và không phải lo lắng qúa
về việc cho đối thủ 1 cái giá tốt để đẩy all-in. Khi tăng lượng raise size, bạn đã giảm đi tỷ lệ tiền
đối thủ có trong pot, khiến họ khó khăn trong việc chơi những hand yếu trong range của họ. Với
100bb+, size open có thể từ 2.3 – 2.5x. Tôi đã từng thấy dân chuyên bet lớn hơn, nhưng tôi không
tìm thấy bằng chứng nào cho thấy bet lớn hơn sẽ có EV lớn hơn.
Nói chung, bạn sẽ muốn có bet-size lớn hơn khi stack vẫn còn nhiều và không có vị trí. Tôi thích
sử dụng cú 3-bet với size nhỏ hơn từ SB hơn là ở BB, vì nhà SB sẽ phải lo lắng việc BB đã có 1
hand bài tốt, vì thế việc bet nhỏ có thể tiết kiệm được 1 ít chip nếu điều đó xảy ra. Hơn nữa, range
3-bet của nhà SB thường ít phân cực hơn nhà BB, nên sẽ không lo lắng nhiều lắm nếu bị call khi ở
SB hơn là ở BB.
Nếu cú 3-bet của bạn chiếm 1/3 lượng stack, bạn đã rơi vào trạng thái “chắc chắn all-in” trừ phi
hand của bạn là siêu rác, vì thế tôi không khuyên các bạn đầu tư hơn 1/3 lượng stack với 1 hand tệ.
Trong trường hợp đó, bạn nên all-in luôn, giảm thiểu lựa chọn của đối phương thành việc chỉ call
hoặc fold..
Với mức stack ít hơn 40bb, tất cả cú 4-bet đều là all-in hết vì nếu bạn chọn 1 cú 4-bet không phải
all-in thì bạn cũng bị vào trạng thái “chắc chắn all-in” hoặc phải dùng size rất bé, điều đó sẽ cho
đối thủ 1 cái giá quá tốt để xem flop và realize equity. Với 50bb tới 100bb, bạn bắt đầu thấy những
cú 4-bet không phải all-in khoảng 2.25-2.5x khi có vị trí và 2.5-3x khi không có vị trí. Tất cả cú 5-

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


bet sẽ luôn luôn là all-in.
Trong giải đấu MTT online hiện đại, 1 vài người chơi vẫn sử dụng size bet nhỏ hơn khuyến nghị.
Đó là bởi vì mọi người vẫn sẽ fold khá thường xuyên khi dùng size bet này. Tuy nhiên, khi trò chơi
phát triển, cú bet lớn hơn sẽ trở thành định mức vì người chơi giờ sẽ hiểu rằng khi call cú tố bé và
realize equity sẽ luôn là 1 lựa chọn tốt. Đó là lý do vì sao những cú 5-bet hay 6-bet dở hơi giờ đã
gần như bị tuyệt chủng.
Như đã giải thích ở phần Hướng dẫn chung về bet-sizing ở pre-flop trong Chương 4, các vị trí đầu
nên có bet-size nhỏ hơn, vì thế sẽ sử dụng 1 cú open và 3-bet bé hơn khi ở những vị trí đầu tiên.
Tăng lượng bet dần lên khi càng tiến tới gần BN là 1 chiến thuật hợp lý khi tôi đã dùng nó trong trò
chơi của mình, nhưng nó sẽ có cái giá của nó khi chiến thuật của bạn sẽ bị phức tạp lên theo và bạn
không tìm thấy chứng cứ xác thực cho việc này có ảnh hưởng lớn đến những hand yếu nhất trong
range của bạn. Vì thế, tôi khuyên hãy đơn giản lại, dễ dàng sử lý chiến thuật hơn với những cú bet-
size bé hơn.

Sơ đồ allin/fold với stack ít


Sơ đồ dưới đây (Hand Ranges 88-95) được tạo ra bởi HRC khi sử dụng FGS. Những con số ở hàng
ngang thể hiện cho số bb lớn nhất có thể đẩy all-in với hand đó trong từng trường hợp. Hand có
màu đen có thể đẩy all-in khi có 10bb hoặc ít hơn. Ví dụ, SB có thể đẩy all-in 95o với 5bb hoặc ít
hơn, nhưng có thể all-in 95s với 10bb hoặc ít hơn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 88:
Stack cho SB allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 89:
Stack cho BN allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 90: Stack
cho CO allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 91: Stack
cho HJ allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 92:
Stack cho LJ allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 93:
Stack cho UTG+2 allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 94:
Stack cho UTG+1 allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 95:
Stack cho UTG allin

Giờ chúng ta sẽ tiếp tục thử xem cách phản ứng tốt nhất khi tất cả đã fold đến bạn. Chúng ta sẽ
quan tâm tới tất cả vị trí từ SB đi đúng 1 vòng tới UTB và tất cả mức stack khác nhau từ 10bb tới

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


80bb.

Chiến thuật Open từ SB


SB là vị trí ảnh hưởng chỉ số VPIP với số lượng hand lớn nhất khi tất cả fold tới bạn (trung bình
83%). Đó là bởi vì SB luôn có giá rẻ hơn để tham gia pot và không cần phải lo lắng khi chỉ còn 1
người chưa hành động. Table 45 là tổng hợp các hành động SB tại GTO với các mức stack khác
nhau.

Table 45: SB GTO Action Frequencies by Stack Depth

Chiến thuật SB với 15bb

Với 10-15bb, nên chơi chiến thuật push/limp/fold và khi stack đã nhiều hơn, bạn nên chơi ít hand
lại, dẫn tới việc limp trở thành chiến thuật có ưu thế.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi còn 15bb, solver khuyến khích nên all-in với những hand có blocker tốt như Ax, Kx, và những
hand có equity tốt để đấu lại range call nhưng không chơi được post-flop EqR, ví dụ như đôi nhỏ
(66-22), và những hand có 1 tỷ equity nhưng vẫn khó khăn trong việc call all-in ví dụ như suited
connectors (98s-65s). Range limp bao gồm những hand có equity cao có thể call all-in, như các đôi
(77+), broadways, suited Ax và Kx and hand như Q2o, J8o, T4s và 73s có equity ổn để limp nhưng
cũng không ngại việc fold khi bị all-in (Hand Ranges 96-98).
Tại mức 17bb, SB bắt đầu có những cú raise không phải all-in, và size raise sẽ lớn hơn khi stack
lớn hơn, từ 2.5x khi có 17bb cho tới 3.5 khi có 30bb. Khi stack lớn hơn, solver khuyên nên sử dụng
size raise lớn hơn nữa (lên tới 5x) nhưng sẽ không mất quá nhiều EV khi sử dụng size 3.5x, và tôi
tin rằng sử dụng size lớn hơn 3.5x là quá mức cần thiết.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 96: SB đối đầu BB (15bb)
• All-in 23.7% / • Limp 61.5% / • Fold 14.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 97: SB đối đầu BB 15bb (Limp bị
All-in)
• Call 21.3% / • Fold 78.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 98:
SB đối đầu BB 15bb (Limp bị 3x Raise)
• All-in 12.9% / • Call 49.1% / • Fold 38%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 99: SB đối đầu BB (25bb)
• All-in 1.8% / • Raise 3.3x 30% /
• Limp 50.3% / • Fold 17.9%

Chiến thuật SB với 25bb

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi có 25bb, SB bắt đầu mất range open all-in. Hand duy nhất bạn muốn open all-in đó là những
đôi bé (44-22) và 1 vài combo offsuit mid Ax (A9o, A8o). Chiến thuật giờ trở thành raise/limp/fold
(Hand Range 99).
Range limp sẽ có 1 vài hand bẫy với những Ax mạnh nhất (AKo-A9o), đôi trung bình (99-44) và 1
vài hand có equity tốt mà không muốn bị raise và bị ép fold khi bị all-in, ví dụ như KTo, Q9s and
76s. Range raise sẽ lại phân cực và được tạo bởi những hand mạnh nhất có thể call all-in, ví dụ như
các đôi (66+), offsuit Ax (A8o+), suited Ax (A5s+) and các hand broadways khỏe nhất. Phần còn
lại trong range raise sẽ tập trung vào việc có blocker, ví dụ như A7o-A2o, Kxo và những hand có
khả năng chơi với những pot chỉ có 1 lần raise, ví dụ như KJo, QTo, J8s, và 74s. Hand Ranges 100-
102).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 100:
SB đối đầu BB 25bb (Limp bị All-in)
• Call All-in 15.2% / • Fold 84.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 101:
SB đối đầu BB 25bb (Limp bị 3.3x Raise)
• All-in 11% / • Call 43.7% / • Fold 45.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 102:
SB đối đầu BB 25bb (3.3x Open bị All-in)
• Call All-in 30.1% / • Fold 69.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 103: SB đối đầu BB (40bb)
• Raise 3.5x 26.4% / • Limp 54.4% /
• Fold 19.2%

Chiến thuật SB với 40bb

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi có 40bb, sẽ không có range all-in và hầu hết các hand sẽ được chơi với chiến thuật hỗn hợp,
với những hand mạnh nhất sẽ được raise lên thường xuyên hơn là limp và những hand yếu hơn sẽ
limp nhiều hơn là raise (Hand Range 103).
Sau khi limp và ăn 1 cú raise 3.5x vào mặt, SB sẽ phòng thủ bằng việc all-in 5.9% range, bao
gồm các đôi (99, 88, 77, 33, 22), Axo khỏe (AQo, AJo) và đôi khi là 1 ít Axo yếu (ATo, A5o, A4o).
SB cũng sẽ có thể re-raise không all-in khoảng 2.75x bao gồm những hand khỏe nhất và sẵn sàng
all-in pre-flop, ví dụ như 55+, AT+ và KQs, và 1 vài bluff có blocker tốt như Axo và Kxo Hand
Ranges 104-105).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 104:
SB đối đầu BB 40bb (Limp bị 3.5x)
• All-in 5.9% / • Raise 2.75x 6.4% /
• Call 42% / • Fold 45.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 105:
SB đối đầu BB 40bb (3.5x Open bị 2.75x 3-bet)
• All-in 13.1% / • Call 40.4% /
• Fold 46.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chiến thuật SB với 60bb

Xu hướng thường thấy khi có stack nhiều đó là sẽ tăng tần suất limp hơn và giảm tần suất raise.
Không có bất kì hand nào chỉ chơi đúng 1 chiến thuật raise, nhưng có rất nhiều hand lại chơi được
chiến thuật limp.
Ở mức 60bb, sau khi limp và bị raise, stack còn quá nhiều để thực hiện limp/all-in, và vì thế chỉ
nên re-raise lên tầm 3.4x. Range limp/raise sẽ bao gồm những hand tốt nhất mà bạn sẵn sàng all-in
pre-flop và những hand có blocker tốt và 1 vài hand có độ bao phủ mặt board (Hand Ranges 106-
107).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 106: SB đối đầu BB (60bb)
• Raise 3.5x 15.1% / • Limp 69.9% / • Fold 15%

Nếu bạn raise và bị 3-bet vào mặt, bạn vẫn còn quá nhiều chip để có thể đơn giản là all-in 60bb.Hand
duy nhất bạn muốn all-in là AKo và A5s với tần suất thấp, và bạn vẫn sẽ an toàn nếu chỉ đơn giản
bỏ qua cách này và 4-bet lại với size bet 2.6x. Những hand nên 4-bet bao gồm KK, QQ, AK, và
Aqo, thêm 1 số bluff có blocker. Nhớ rằng solver luôn khuyến khích chơi chậm AA, call với nhiều

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


hand suited và fold hầu hết offsuit và disconnected hands khi bị 3-bet (Hand Range 108).

Hand Range 107:


SB đối đầu BB 60bb (Limp bị 3.5x)
• Raise 3.4x 11.7% / • Call 47% /
• Fold 41.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 108:
SB đối đầu BB 60bb (3.5x Open bị 2.75x 3-bet)
• All-in 2% / • Raise 2.6x 8.4% /
• Call 44.5% / • Fold 45.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chiến thuận Open ở BN
BN là 1 vị trí rất đặc biệt cho bạn sức mạnh không thể tưởng tượng được: không còn người chơi
khác có thể tham gia vào pot sau đó và có thể ép họ chơi không có vị trí. Vì lý do này, solver khuyên
nên phát triển 1 bộ range limp với mức stack tầm 10-30bb. Khi đã limp, solver thích limp khi bị
min-raise ở mức stack 10-12bb, và sẽ chơi chiến thuật push/limp/fold khi không có min-raise (Table
46).

Table 46: Tần suất hành động GTO của BN theo Stack (limp vẫn tính)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 109: BN 12bb (Limp)
• All-in 27.3% / • Limp 14.80% /
• Fold 57.90%

Với stack tầm 15-30bb, min-raise trở thành 1 phần quan trọng trong chiến thuật của BN bởi vì nó
cho phép chơi post-flop có vị trí.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 110: BN 20bb (Limp)
• All-in 8% / • Raise 2x 25.4% /
• Limp 12.9% / • Fold 53.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 111: BN 30bb
(Limp)
• All-in 0% / • Raise 2x 43% /
• Limp 8.2% / • Fold 48.8%

Với stack tầm 30bb, BN không cần phải open all-in nữa, khi stack đã quá nhiều. Bắt đầu với
stack tầm 40bb, solver sẽ dừng hoàn toàn việc limp và sẽ chơi chiến thuật đơn giản hơn là

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


raise/fold. Với lượng stack nhiều như này để all-in lại khi bị đối thủ open sẽ bao gồm rủi ro rất
lớn, và solver ủng hộ việc raise open khi gặp những nhà đã limp vì BN có thể phòng thủ tốt
những cú 3-bet bằng việc call có vị trí và realize được rất nhiều equity, điều sẽ không thể xảy
ra và sẽ bị ép fold nếu đối đầu với 1 cú all-in.
Quy luật chung khi limp đó là nên làm giống với khi ở Sb, bao gồm các những hand trap và 1
vài hand suited yếu có thế có lợi nhuận nếu thấy được flop với giá rẻ, cũng như 1 vài offsuit
high-mid hands có thể có top pair và straight draws khi mở flop.
Tổng kết lại, tần suất BN limp là khoảng 11.7%, và, mặc dù việc limp cho phép bạn có thể chơi
với range rộng hơn việc chỉ chơi raise/fold, nhưng cũng có 1 vài lý do vì sao những người chơi
hiện đại hiếm khi limp ở BN:

◆ Limp làm chiến thuật ở BN thêm phần phức tạp khi phải tạo ra range limp một
cách cân bằng

◆ Phương sai tăng lên khi người chơi sẵn sàng chơi post-flop thường xuyên hơn và vì
thế sẽ có nhiều pot có nhiều người chơi hơn, vì khi bạn limp thì SB cũng có 1 cái
giá tốt để theo cùng

◆ EV tổng tăng lên bởi việc limp ở BN sẽ không đáng kể bằng ở SB vì BN không có
giá rẻ hơn khi call và không chắc chắn sẽ chơi post-flop với chỉ 1 nhà.

◆ Người chơi vẫn fold quá nhiều ở BB để BN cướp, làm cho việc BN min-raise có
ích hơn nhiều so với việc đi limp

Chiến thuật BN không limp

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 47: Tần suất hành động GTO của BN theo Stack (không tính limp)

Ở Table 47 chúng ta có thể thấy stack càng lớn, BN càng có thể chơi nhiều hand hơn, bắt đầu
từ VPIP 38.9% với 10bb lên 55.5% với 80bb, với tổng tần suất raise tăng lên 16.6%. Một trong
những lý do chính cho việc tăng nhiều như thế là bởi vì lợi thế vị trí của BN khi có stack lớn.
Cách tốt nhất cho các vị trí blind có thể giảm thiểu bất lợi về vị trí đó làm all-in ngược lại, điều
mà rủi ro lớn rất nhiều so với lợi ích nhận được khi mức stack nhiều hơn 40bb, vì thế mà sẽ rất
khó cho các nhà blind muốn giảm equity của BN.
Do đã chắc chắn có vị trí, việc realize equity ở post-flop của BN là cao nhất và nó chỉ có thể
tăng lên khi stack lớn hơn nữa. Bằng việc all-in, BN từ bỏ lợi thế có vị trí, do đó tần suất open
all-in của nhà BN sẽ giảm đi rất nhiều khi stack càng ngày càng trở nên lớn, tụt xuống 3.5% khi
có 20bb và 0% khi có 25bb.

Range Open của BN với 15bb

Khi có 15bb, BN sẽ chia range ra thành 50% all-in và 50% min-raise (Hand Range 112). Vẫn
có những điểm tương đồng giống như cũ như những hand có equity tốt khi đối đầu với range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


call nhưng không thể chơi tốt post-flop nếu bị đẩy all-in (66-22, Ajo-A2o, broadways không
đồng chất và đồng chất liên tiếp to).

Hand Range 112: BN 15bb


• All-in 20.8% / • Raise 2x 18.5% /
• Fold 60.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 113: BN 25bb
• Raise 2x 46.3% / • Fold 53.7%

BN Open với 25bb

Khi có 25bb, sẽ không còn range all-in ở BN (Hand Range 113). Với mức stack này, việc có những

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


lá bài cao và có equity thô cao quan trọng hơn việc hand có khả năng chơi. Vì lý do này, những
hand như K7o có blocker K đối với range all-in của các nhà blind sẽ đáng giá hơn việc có 1 hand
có thể chơi được như 74s.
Sẽ rất ngạc nhiên nếu thấy BN fold hết những đôi như 33 và 22, nhưng những hand này không đủ
tốt để min-raise. Chúng có 2 con không phải là blocker (chúng không block những hand đối thủ có
khả năng chơi được) trong range all-in của đối thủ, vì thế bạn sẽ bị all-in ngược lại khá thường
xuyên hơn bình thường và sẽ bị ép fold đi ở pre-flop. Nếu ai đó call, đôi nhỏ vẫn không phải là lựa
chọn tốt. Hầu hết thời gian chúng sẽ bị trở thành là đôi dưới và bị ép chơi bị động và bị denied
equity, hoặc bluff và vào những tình huống phức tạp mà chúng ta đã đầu tư quá nhiều chip vào hand
này và không có nhiều out để cải thiện. Để làm cho vấn đề tệ hơn, implied odds cũng không hấp dẫn
làm với mức stack hiện tại. Vì thế, đơn giản hãy fold những hand này đi.

BN Open với 40bb

Với 40bb, BN sẽ chơi với range rộng hơn so với lúc có 25bb, và những hand có thể chơi tốt post-
flop, ví dụ như suited gappers, và những hands có implied odds cao như đôi bé, sẽ được tăng giá
trị. Tần suất 4-bet sẽ thấp hơn so với khi có 25bb vì SPR giờ sẽ có hơn và bạn có thể chơi post-flop
nhiều hơn, rất có ích cho việc realize equity post-flop của BN (Hand Range 114).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 114: BN 40bb
• Raise 2.3x 50.9% / • Fold 49.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 115: BN 60bb
• Raise 2.3x 54.4% / • Fold 45.5%

BN Open với 60bb

Với 60bb, BN sẽ mở rộng thêm range open của mình thêm nữa (Hand Range 115). Tần suất nhà

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BN 4-bet all-in giảm xuống vì giờ BN đã đủ nhiều chip để xây dựng range 4-bet không all-in. Thêm
vào đó, nhờ lợi thế vị trí của BN, nên với mức stack hiện tại, chiến thuật phòng thủ chính của BN
khi bị 3-bet đó là call có vị trí với tần suất lớn (chúng ta sẽ xem chiến thuật phòng thủ đối với 3-bet
trong cuốn sách này sau).

Chiến thuật Open của Cutoff


Có nhiều nhược điểm để thực hiện chiến thuật limp khi không ở vị trí blind và BN bởi vì vẫn còn
nhiều người chơi chưa thực hiện hành động và họ có thể limp theo hoặc thậm chí là raise. Bất kì
EV tiềm năng nào được tăng lên nhờ thực hiện chiến thuật limp cũng sẽ khó đủ để bù lại so độ phức
tạp của chiến thuật.

Hơn nữa, sẽ có những hạn chế khi máy tính hiện đại có thể làm và thêm hành động limp cho tất cả
người chơi trong giả lập bàn 9 người sẽ làm tăng thêm rất nhiều trường hợp khác nhau, cần phải
suy nghĩ rất nhiều và sẽ tạo ra những kết quả không nhất quán

Vì tất cả những lí do trên, tôi quyết định từ giờ sẽ không thực hiện chiến thuật limp ở vị trí CO và
bắt đầu tập trung phân tích chiến thuật raise/fold ( chiến thuật cũng phù hợp với cách chơi của trò
chơi hiện đại)
Như chúng ta thấy ở Table 48, tổng VPIP ở CO tăng lên khi stack tăng lên (giống với khi ở BN) từ
31.4% khi có 10bb lên 37.5 khi có 80bb với trung bình 33.69% ở tất cả các vị trí. Khi còn 10bb
hoặc ít hơn, CO nên chơi chiến thuật push/fold và bắt đầu kết hợp với việc min-raise khi đã lên
12bb. Tần suất all-in sẽ giảm đi khi stack lớn hơn, và sẽ tụt xuống 0% khi đã có 20bb.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 48: Tần suất hành động GTO của nhà CO theo Stack

Khi có 15bb, range all-in của CO bao gồm những hand có equity lớn, quá tốt để raise-fold nhưng
không đủ tốt để raise-call, ví dụ như KTo, QJo và T9s, đôi nhỏ và trung bình, Axs nhỏ và Axo trung
bình cao. Range min-raise bao gồm những hand còn lại mà bạn sẵn sàng raise-call, ví dụ như Ax,
đôi trung bình cao, broadways đồng chất và những hand có blocker dễ tạo top pair và có thể dễ
dàng raise-fold nếu bị đẩy all-in lại (Hand Range 116).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 116: CO 15bb
• All-in 13.6% / • Raise 2x 16.5% /
• Fold 69.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 117: CO 25bb
• Raise 2x 34.3% / • Fold 65.7%

Khi có 25bb, sẽ không còn range all-in (Hand Range 117). Và lại 1 lần nữa, với lượng stack này
thì khá là khó để chơi 33 và 22 bởi vì chúng ta có quá nhiều chip để open all-in và quá ít để có
implied odds tốt. Vì thế fold những hand này là cách chơi tốt nhất nếu bạn là người đầu tiên open
trong tất cả vị trí (ngoại trừ vị trí SB).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi có 40bb, CO có thể dễ dàng open với range rộng hơn so với khi có 25bb, bắt đầu kết hợp vvới
những hand có thể chơi tốt post-flop với mức stack này như 33 và 22, thêm 1 vài hand suited như
K2s, Q4s, T6s và 96s (Hand Range 118) Khi có 60bb, CO vẫn chơi range giống như cũ (Hand
Range 119)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 119: CO 60bb
• Raise 2.3x 37.1% / • Fold
62.3%

Chiến thuật Open từ Hijack


Từ vị trí ở giữa bàn, range phải trở nên hẹp hơn nếu so sánh với những vị trí cuối bởi vì sẽ có

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


nhiều người chơi chưa hành động ở sau hơn và bạn sẽ bị ép chơi không có vị trí nhiều hơn.
Khi mức stack lớn, việc không có lợi thế vị trí của MP và EP đã bắt đầu có ảnh hưởng và vấn
đề khi chơi không có vị trí sẽ cản trở khả năng realize equity post-flop đủ hiệu quả để mở rộng
range ra khi stack trở nên lớn hơn. Vì lí do này, từ MP và EP, sẽ không còn mối tương quan
giữa lượng stack và VPIP, thay vào đó chúng ta sẽ thấy VPIP thường cao nhất khi có 25-30bb,
và sau đó sẽ bị khựng lại hoặc giảm đi
Như bạn thấy ở Table 49, VPIP tổng của HJ thường sẽ là 26.89%. Khi còn 10bb hay thấp hơn,
bạn sẽ chỉ chơi chiến thuật push/fold. Khi có 12bb, bạn sẽ có range min-raise, là range bạn sẽ
chủ yếu dùng khi có 15bb (Hand Range 120). Khi có 17bb, lựa chọn all-in bắt đầu biến mất,
chiến thuật raise/fold bắt đầu sử dụng khi có từ 20bb trở lên.
Với 25bb, sẽ không còn range all-in (Hand Range 121). Range min-raise tập trung vào những
hand có lá bài giá trị cao, dễ dàng tạo top pair hoặc flush draws tốt.

Table 49: Tần suất hành động GTO của nhà Hijack theo Stack

Khi có 40bb, 1 vài hand sẽ được thêm vào khi chúng sẽ chơi tốt hơn với mức stack này như 33,
96s và 54s, nhưng range HJ nói chung vẫn không thay đổi quá nhiều từ 25bb tới 40bb (Hand
Range 122).
Khi có 60bb, tần suất HJ open vẫn giống như khi có 40bb, nhưng sẽ có 1 thay đổi nhỏ trong

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


range, khi bỏ ra những hand dạng cao-thấp ví dụ như K3s, A7o và Q6s, và thêm vào những
hand có thể biến thành những hand khỏe khi mở flop như 22 và đồng chất liên tiếp nhỏ (Hand
Range 123).

Hand Range 120: HJ 15bb


• All-in 7.7% / • Raise 2x 16.1% /
• Fold 76.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 121: HJ 25bb
• Raise 2x 27.8% / • Fold 72.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 122: HJ 40bb
• Raise 2.3x 28.6% / • Fold 71.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 123: HJ 60bb
• Raise 2.3x 28% / • Fold 71.7%

Chiến thuật Open nhà Lojack

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Cách chơi LJ giống như của HJ, nhưng range sẽ thu hẹp còn 22.54% vì bất lợi khi không có vị trí.
1 điểm khác biệt thú vị nữa đó là ở vị trí này đã có range raise-fold khi còn 10bb. Khi có 15bb thì
vẫn theo chiến thuật open all-in, nhưng khi lên tới 17bb, do lượng chip đã đủ lớn nên sẽ không cần
all-in nữa.

Table 50: Tần suất hành động GTO của nhà Lojack theo Stack

Ở Table 50 chúng ta có thể thấy, với 15bb, LJ thích có 1 range open all-in nhỏ khi chúng có thể
all-in pre-flop và hiện thực equity được 100%, ví dụ như 77-55, AQo, AJo, A9s, A8s và JTs+
(Hand Range 124).
Khi có 25bb, VPIP sẽ tăng đáng kể so với khi có 15bb. Với mức stack này, những hand dễ tạo
thành top pair, straight draws và flush draws, như J8s, T8s và 98s sẽ bắt đầu open, nhưng 44 va 33
vẫn phải fold vì chúng ta vẫn còn quá nhiều chip để có thể open all-in chúng (Hand Range 125).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 124: LJ 15bb
• All-in 4.9% / • Raise 2x 15.3% /
• Fold 79.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 125: LJ 25bb
• Raise 2x 24.1% / • Fold 75.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 126: LJ 40bb
• Raise 2.3x 23.6% / • Fold 76.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 127: LJ 60bb
• Raise 2.3x 23% / • Fold 77.2%

Khi có 60bb, LJ sẽ open chặt hơn so với khi có 40bb, giảm tần suất chơi những hand như broadways
đồng chất, đôi nhỏ và đồng chất liên tiếp nhỏ (Hand Range 127).
Khi có 40bb, range vẫn không thay đổi quá nhiều mặc dù có 1 sự thay đổi giữa những lá bài cao tới

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


những lá bài có liên kết nhau. (Hand Range 126).

Chiến thuật Open của UTG+2


Ở vị trí bắt đâu sớm như này, VPIP trung bình sẽ giảm dưới ngưỡng 20% vì bây giờ sẽ phải đi qua
ít nhất 6 người chơi khác. Rất nhiều hand sẽ bị giảm giá trị ví dụ khi như bị 3-bet hoặc phải chơi
post-flop không có vị trí với số lượng người chơi chưa hành động còn lại.

Table 51: Tần suất hành động GTO của nhà UTG+2 theo Stack

Table 51 thể hiện VPIP UTG +2 thường sẽ khoảng 21% khi có 25-30bb nhưng trung bình sẽ
khoảng 19.63%. Với việc có quá nhiều người còn lại vẫn chưa hành động sẽ khiến bạn ngần ngại
trong việc open all-in với quá nhiều chip vì xác suất 1 người nào đó đứng ra với 1 hand khỏe sẽ
tăng lên. Vì lí do này, tần suất open all-in sẽ bị giảm xuống, và điều này sẽ vẫn tiếp tục nếu vị trí
của bạn tệ hơn nữa.
Khi có 15bb, sẽ có 2.2% range là có thể all-in, nhưng khi thực hành, bạn nên chơi chiến thuật

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


raise/fold bởi vì tất cả các hand đã all-in cũng chả khác gì những hand mang ra min-raise (Hand
Range 128). Khi có 17bb thì range all-in biến mất hoàn toàn
Khi cos 25bb, những Ax nhỏ và đồng chất liên tiếp khỏe nhất có thể raise được (Hand Range 129).
Khi có 40bb, broadway không đồng chất bắt đầu mất giá trị và đồng chất liên tiếp nhỏ bắt đầu phù
hợp hơn (Hand Range 130).

Khi có 60bb, suited connectors nhỏ như 87s-65s và suited high-low yếu như K7s, K6s, Q8s và J8s
sẽ bắt đầu cảm thấy khó để chơi. Range sẽ thay đổi tập trung vào những hand mạnh mà ít khi bị dẫn
trước, thêm 1 số đôi nhỏ như 44 và 33 khi chúng có thể biến thành hand khỏe khi xem flop và khá
dễ khi chơi post-flop (Hand Range 131).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 128: UTG+2 15bb
• All-in 2.2% / • Raise 2x 15.3% /
• Fold 82.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 129: UTG+2 25bb
• Raise 2x 21.3% / • Fold 78.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 130: UTG+2 40bb
• Raise 2.3x 20.6% / • Fold 79.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 131: UTG+2
60bb
• Raise 2.3x 19% / • Fold
80.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chiến thuật Open của UTG+1
Ở vị trí này, chỉ số VPIP trung bình là 16.75% và cao nhất là 18.60% khi có 25bb. Khi có
12bb, range open của bạn sẽ chia thành 50% all-in và 50% min-raise.

Table 52: UTG+1 GTO Action Frequencies by Stack Depth

Chơi ở vị trí UTG+1 khá rõ ràng.


Khi có 15bb, stack còn quá nhiều để all-in, vì thể sẽ chỉ dung chiến thuật raise/fold
(Hand Range 132).
Khi có 25bb, A4s, A3s và những suited connectors khỏe nhất sẽ được thêm vào (Hand
Range 133).
Khi có 40bb, range sẽ thu hẹp lại khi so sánh với khi có 25bb, tập trung vào những hand có khả
năng chơi được và dễ dàng tạo bài nut hoặc nut draws khi mở flop. Offsuit broadways yếu hơn
bắt đầu giảm giá trị khi chúng khá khó call khi bị 3-bet và tạo top pair sẽ không còn giá trị nhiều
bằng lúc stack còn ít. (Hand Range 134).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi có 60bb, range sẽ thu hẹp dần so với lúc có 40bb. Offsuit broadways sẽ không còn thể chơi
được nữa, cũng như là suited connectors. Range sẽ thay đổi tập trung vào những loại bài có
equity thô và block tốt (Hand Range 135).

Hand Range 132: UTG+1 15bb


• All-in 0.5% / • Raise 2x 15.1% /
• Fold 84.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 133: UTG+1 25bb
• Raise 2x 18.6% / • Fold 81.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 134: UTG+1 40bb
• Raise 2x 17.6% / • Fold 82.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 135: UTG+1 60bb
• Raise 2x 16.5% / • Fold 83%

Chiến thuật Open của UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Không ngạc nhiên gì khi UTG chính là vị trí có range hẹp nhất trong tất cả các vị trí, với chỉ số
VPIP trung bình khoảng 15.42% với tất cả mức stack khác nhau. Khi mà stack trở nên lớn hơn,
VPIP cũng không tăng quá nhiều. Thay vào đó, sẽ thay đổi những loại hand được chơi. Khi stack
còn ít thì sẽ tập trung vào những hand có equity cao và có blocker tốt, và khi stack trở nên lớn hơn
thì sẽ tập trung vào những hand có thể tạo bài nut hoặc nut draws

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 53: Tần suất hành động GTO của nhà UTG theo Stack

Table 53 cho ta thấy chỉ số VPIP trung bình của UTG là 15.22%. Khi có 10-14bb UTG chơi chiến
thuật hỗn hợp giữa min-raise và open all-in. Khi có hơn 15bb, range all-in biến mất và chiến thuật
trở thành raise/fold. VPIP sẽ cao nhất khi có 20-30bb và giảm dần khi stack bắt đầu lớn hơn. Khi
stack lớn hơn, tần suất open cũng sẽ giảm đi ở những bài offsuit broadways và tăng lên với những
bài suited connectors và đôi nhỏ, mặc dù tần suất khá nhỏ vì mục đích chính của nó là để cung cấp
thêm độ phủ cho mặt bàn (Hand Ranges 136-139).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 136: UTG 15bb
• Raise 2x 14.1% / • Fold 85.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 137: UTG 25bb
• Raise 2x 16.8% / • Fold 83.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 138: UTG 40bb
• Raise 2x 15.8% / • Fold 84.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 139: UTG 60bb
• Raise 2x 15.2% / • Fold 84.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


08

CHIẾN THUẬT CÂN BẰNG MTT: PHÒNG


THỦ
Phòng thủ với nhà Open

Phòng thủ chuẩn xác khi đối đầu với nhà open raise là điều thiết yếu trong mọi ván poker và càng
phải đúng trong giải đấu poker với tất cả mức stack và vị trí có thể xảy ra.
Phần này sẽ trình bày 1 hướng dẫn hoàn thiện về cách chơi từ hầu hết mọi vị trí quan trọng
(BB, SB, BN, MP và EP) sau khi ai đó đa tham gia pot bằng 1 cú raise. Đầu tiên chúng ta sẽ cùng
thảo luận vài vấn đề chung và sau đó nghiên cứu chiến thuật riêng được khuyến nghị bởi solvers
cho tất cả các vị trí với mức stack lần lượt là 15bb, 25bb, 40bb và 60bb.

Cơ sở lý thuyết
Dưới đây là những chủ đề quan trọng cần lưu ý mỗi khi quyết định phải làm như thế nào khi gặp
open raise.

Tần suất hành động trung bình với nhà Open

Hai bảng dưới đây sẽ cho bạn ý tưởng về tần suất bạn nên phản hồi với việc open raise dựa theo vị
trí của bạn (Table 54) và theo của đối thủ (Table 55). Lưu ý rằng chỉ số giữa các nhà blind bị bỏ
qua vì chúng sẽ được thể hienj ở phần blind đấu blind.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 54: Phản ứng trung bình với lệnh Open từ các vị trí khác nhau

Table 55: Phản ứng trung bình với nhà Open dựa trên ví trí đối thủ

Đối đầu với nhà Open Allin

Khi đối mặt với 1 cú open all-in, sẽ có 2 khả năng xảy ra: hoặc là người chơi all-in sẽ có stack gấp
đôi hoặc là không. Nếu tổng số lượng bạn call nhiều hơn 1/3 số stack, bạn nên all-in ngược lại,

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


ngoại trừ 1 vài trường hợp có yếu tố ICM/Bubble rất nặng khi mà bạn chỉ có thể call và đôi khi fold
nếu đối thủ khác cũng quyết định call all-in.
Nếu cú call ít hơn 1/3 số stack thì bạn chỉ nên call với những hand trong range hoặc min-re-raise
nếu mức all-in quá nhỏ và bạn muốn sẽ chỉ đấu với nhà all-in kia thôi. Sẽ không cần phải mạo hiểm
mọi thứ nếu vẫn còn rất nhiều nhà còn chưa hành động với mức stack lớn. Ví dụ, UTG all-in 6bb
và mọi người đều có 35bb. Nếu bạn ở vị trí CO, bạn có thể dễ dàng call 6bb và hy vọng những
người khác chơi thật, họ chỉ all-in ngược lại với những hand tốt nhất, hy vọng bạn sẽ call với toàn
bộ range của mình. Đương nhiên, bạn sẽ vẫn có 1 ít bài rác trong range, nhưng bạn cũng sẽ có tất
cả những hand khỏe.

Range bài bạn call phụ thuộc vào pot odds bạn đang nhận được, vị trí, và vị trí của người
đẩy all-in. Vị trí càng ở đầu và stack càng lớn, range bạn call lại càng hẹp đi

Cách tốt nhất để thành thạo khi chơi stack ít đó là luyện tập với nhiều mức stack khác nhau trong
phần mềm push/fold. Ghi chú với những người chơi có ý định all-in với những hand gì, so sánh với
việc bạn thấy họ đã đánh như thế nào, và thử nghiệm bộ range định call của mình ở nhiều vị trí
khác nhau. Bạn có thể tìm thấy 1 vài người chơi all-in khá chắc và 1 vài thì khá thoải mái, dẫn tới
việc bạn phải điều chỉnh range call của mình.

Call quá nhiều

Khi đang băn khoăn có nên tham gia vào pot sau khi 1 người raise hay 1 người call, chơi range hẹp
so với khi chỉ có 1 người raise và chưa có ai call. Nó có vẻ phản trực quan khi bây giờ sẽ có nhiều
tiền chết hơn ở trong pot và người call sẽ thông báo rằng họ có thể đang không có 1 hand khỏe (vì
nếu có thì họ đã 3-bet rồi). Tuy nhiên, nếu sau khi loại bỏ phần mạnh nhất trong range của những
người call, range của họ vẫn khá khỏe và có thể có nhiều hand có thể call được cú 3-bet. Vì lí do
đó, 3-bet quá nhiều hand sẽ trở nên bất lợi vì bạn sẽ phải chơi post-flop với 1 range khỏe và cân
bằng.
Khi mà bạn đã ép phải chơi chặt hơn bình thường, range của bạn sẽ thường sẽ tốt hơn khi đi 3-bet
lại thay vì chỉ call. Tuy nhiên, vẫn có 1 vài hand giữ equity khá tốt ngay kể cả khi đang chơi pot
nhiều người và cũng có khả năng dẫn trước 1 ít range đối thủ, do đó việc call nhiều hơn vẫn có thể
là 1 lựa chọn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Một vài hand có thể chơi tốt trong pot nhiều người như Axs, suited connectors, suited
broadways và đôi trung bình và nhỏ. Offsuit high-low hand, ví dụ như offsuit gappers, K5o và
Q7o, là những lựa chọn cực kỳ tệ khi chơi pot đông người vì nó thường sẽ bị dẫn trước và sẽ
khó để realize equity, đặc biệt khi không có vị trí.

Big Blind Đối đầu Small Blind


BB đấu với SB là 1 tình huống rất khác so với việc nhà open có vị trí post-flop. Đây là trường hợp
duy nhất BB có vị trí trong tất cả mọi hand. Vì lí do này, BB có thể realize equity nhiều hơn so với
khi BB phòng thủ với các vị trí khác. Điều này cũng cho phép BB phòng thủ hiệu quả trước cú open
raise của nhà SB và có thể chơi nhiều hand có lợi nhuận hơn so với lúc chúng được chơi không có
vị trí. Bạn sẽ thấy khi SB raise, thường sẽ là size lớn (hoặc có thể all-in) để cho nhà BB có tỉ lệ odd
tệ nhất để phòng thủ. Khi đối mặt với cú raise, BB thường sẽ có các lựa chọn là fold, call và re-
raise.

Khi mà BB có thể dễ dàng phòng thủ trước cú raise, SB sẽ thường limp hơn, kết quả là BB sẽ có
cơ hội được check lại và xem flop có vị trí hoặc raise và re-open lên.

Phần này sẽ phân tích chi tiết chiến thuật cân bằng của BB cho tất cả các tình huống.

BB đối đầu với SB allin

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 56: Tần suất hành động của BB khi đối đầu SB allin

Tình huống đơn giản nhất BB có thể gặp đó là khi SB all-in. Trong trường hợp đó, range call của
nhà BB phụ thuộc vào tỉ lệ pot odds được tạo ra bởi stack của SB. Nhà SB càng có ít chip đẩy all-
in, range nhà BB sẽ càng có nhiều hand mà có đúng lượng equity để call, và càng nhiều chip SB
đẩy all-in, range nhà BB sẽ càng có ít hand để phòng thủ mà không để bị đối thủ bắt bài cách chơi.
Đối với vài người đã có kinh nghiệm qua những phần mềm push/fold, range call mà không bị đối
thủ bắt bài thường có vẻ hẹp hơn bình thường. Đó là bởi vì sự kết hợp giữa các yếu tố như hiệu ứng
tổ hợp và sự thật là SB có những lựa chọn khác (limp hoặc raise mà không cần phải all-in) đã làm
ảnh hưởng rất nhiều tới cả range call và all-in.
Khi có 12bb và gặp phải tình huống all-in, BB sẽ call tất cả đôi, Ax, broadways, Kxs, K5o+,
Q7s+, J8s+ and T8s+. Range sẽ thu hẹp lại 1 chút khi có 15bb (Hand Range 140). Khi có 25bb, BB
không thể call có lợi nhuận với nhiều hand, vì thế range call lại thu hẹp còn lại các đôi 33+, A7o+,
A6s+, suited broadways, KQo và QJo (QJo có nhiều equity đối với range cân bằng all-in của nhà
SB hơn KJo)
Khi còn ít hơn 30bb, lựa chọn duy nhất khi 3-bet của nhà BB là all-in. Solver khuyến khichsneen
bẫy với các đôilớn 88+ và range all-in lại là những hand có equity cao mà không chơi post-flop tốt,
ví dụ như đôi nhỏ 77-22 và Axo (Hand Range 142)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 140: BB đối đầu với SB allin (15bb) • Call 28.9% / • Fold 71.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 141: BB đối đầu với SB allin (25bb) • Call 17.8% / • Fold 82.2%

BB đối đầu với SB Raise

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 57: Tần suất hành động của BB khi đối đầu với SB Raise

Khi có 40bb, solver sẽ không còn 3-bet all-in nữa và chiến thuật 3-bet trở nên phân cực hơn, bao
gồm những hand mạnh nhất trong range, TT+ và AJ+, cùng với 1 vài bluff được tạo bởi những hand
offsuit có blocker tốt như Axo và Kxo, hoặc có độ bao phủ mặt bàn tốt như J7o, T4s và 98o (Hand
Range 143). Đối với cú 4-bet all-in, BB sẽ call với 66+, AJs+ và ATo+ (Hand Range 144)
Khi có 60bb, BB sẽ 3-bet với tần suất giống như khi có 40bb, nhưng phần bluff trong range sẽ thay
đổi. Nó có nghĩa tần suất 3-bet sẽ giảm bớt đi của 1 số hand riêng biệt để bao gồm nhiều loại kết
hợp hơn nữa, cung cấp độ phủ mặt bàn tốt hơn. (Hand Range 145). Khi bị 4-bet 2.6x, BB sẽ 5-bet
27.4%, gồm có JJ+ và AQ+, nhưng sẽ chơi châm AA 68% số lần chơi, call với những hand suited
connectors khỏe nhất, AJ và các đôi nhỏ (Hand Range 146)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 142: BB đối đầu với SB 3.3x Raise (25bb) • All-in 10.6% / • Call 53.8% / • Fold
35.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 143: BB đối đầu với SB 3.5x Raise (40bb) • 3-bet 12.3% / • Call 52% / • Fold
35.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 144: BB đối đầu với SB 4Bet (40bb) • Call 46% / • Fold 54%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 145: BB đối đầu với SB 3.5x Raise (60bb) • 3-bet 12.1% / • Call 54.3% / • Fold
33.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 146: BB đối đầu SB 4-bet (60bb) • All-in 27.4% / • Call 14.2% / • Fold 58.5%

BB đối đầu với SB Limp

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 58: Tần suất hành động của BB đối đầu với SB Limp

Nhà BB sẽ check lại trung bình 56% tổng số lần khi nhà SB limp và raise 44%. Size raise sẽ tăng
dần lên khi stack tăng dần lên, từ 2x khi có 10bb lên tới 3.5x khi có 30bb. Khi có stack lớn, solver
khuyên nên raise lớn hơn, nhưng EV sẽ không tụt đáng kể khi dùng size 3.5x khi stack đã lớn hơn
30bb. Tôi tin rằng việc sử dụng size bet lớn hơn là không cần thiết, đặc biệt trong môi trường là
chiến thuật limp đang không cân bằng và việc fold quá nhiều khi BB raise. Thực tế, kể cả khi dùng
bet size nhỏ cũng có thể và nên dùng để bắt bài những người chơi yếu.
Khi có 12bb, BB sẽ all-in 20.3% tổng số lần, raise 2.5x 25.2% và check 54.5%. Range all-in bao
gồm những hand có blocker tốt và equity cao nhưng khó realize equity ở post-flop như những đôi
nhỏ, Axo và Kxo. Range raise sẽ phân cực, có những hand sẵn sàng raise/call và 1 số hand có độ
bao phủ mặt bàn tốt và sẵn sàng raise/fold mà không cần phải đắn đo. Khi ở mức stack này, solver
check tất cả hand suited mà không sẵn sàng raise/call vì BB không có đủ equity denied khi all-in.
Range khi có 15bb sẽ hẹp hơn nhưng gần như tương tự (Hand Ranges 147-148)
Khi có 25bb, BB all in với tần suất thấp hơn khi có 12bb, nhưng những hand solver chọn để all-in
theo nguyên tắc có blocker nhưng realize equity ở post-flop khá tệ như các đôi nhỏ. Range raise đôi
khi sẽ có những hand suited tệ nhất như J4s, 96s và 62s khi mà chúng có thể cho BB chơi post-flop
tốt hơn (Hand Ranges 149-150)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi có 40bb và 60bb, BB không còn range all-in khi SB limp nữa, range raise giờ bao gồm cả
những hand suited và offsuit có blocker và có độ bao phủ mặt bàn tốt. Lượng stack naỳ đủ lớn để
BB call cú limp/raise của Sbvoiws nhiều hand suited nhờ có vị trí, vì thế việc re-raise cũng khống
quá là thảm họa bởi vì những hand suited tốt nhất luôn luôn có thể call và chơi post-flop. (Hand
Ranges 151-154)

Hand Range 147: BB đối đầu với SB Limp (15bb) • All-in 8.2% / • Raise 3x 33.7% / • Check
58.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 148: BB đối đầu với SB Limp/Push (15bb) • Call 43.4% / • Fold 56.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 149: BB đối đầu với SB Limp (25bb) • All-in 4.4% / • Raise 3.3x 37.8% / • Check
57.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 150: BB đối đầu với SB Limp-Push (25bb) • Call 29.8% / • Fold 70.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 151: BB đối đầu với SB Limp (40bb) • Raise 3.5x 44% / • Check 56%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 152: BB đối đầu với SB Limp-Raise (40bb) • All-in 11.1% / • Call 39.3% / • Fold
49.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 153: BB đối đầu với SB Limp (60bb) • Raise 3.5x 43.8% / • Check 56.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 154: BB vs SB Limp-Raise (60bb) • All-in 4.1% / • 4-bet 2.2x 1.4% / • Call 41.5% /
• Fold 53%

Phòng thủ ở BB với nhà IP (60bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 62: Tần suất hoạt động của BB (60bb)

Với 60bb, tần suất phòng thủ của BB tăng nhẹ (65,63%) so với 40bb (62,91%). Điều này có thể
là do một số hand yếu hơn bây giờ có implied odds tốt hơn, cho phép BB phòng thủ rộng hơn,
hoặc nó có thể là một chức năng của cách mô phỏng được thiết kế.

Vũ khí chính IP phải giảm OPP EQR khi stack đang lớn là overbet pot.

Vì vậy, tôi hy vọng sẽ thấy tần suất phòng thủ của BB thấp hơn một chút trong các mô phỏng
mà overbet được cho phép. Trong trò chơi hiện tại, người chơi vẫn không sử dụng overbets thường
xuyên như họ nên về lý thuyết, vì vậy những tần suất phòng thủ của BB này sẽ hoạt động tốt trong
các trò chơi hiện đại. Tôi khuyên bạn nên giảm bớt những hand yếu hơn trước những đối thủ thực
sự khó chơi, những người có khả năng overbet và gây nhiều áp lực ở post-flop.

Với 60bb, range 3-bet của BB ít phân cực hơn so với 40bb, bao gồm nhiều hand đồng chất hơn
với khả năng chơi post-flop tốt. Như đã chứng minh cho đến nay, range thay đổi khi range của đối
thủ thay đổi, từ 3-bet 16,80% so với BN xuống chỉ 5,3% so với UTG và đồng thời fold với những
cú open của BN là 18,10% thời gian và 44,10% so với UTG .

Khi đối mặt với 4-bet, BB có range flat tốt so với LP, nhưng có thể dễ dàng chỉ 5-bet hoặc fold
với EP(Hand Ranges 175-182).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 175: BB vs BN (60bb) • 3-bet 16.8% / • Call 65.1% / • Fold 18.10%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 176: BB vs BN 4-bet (60bb) • All-in 24.2% / • Call 40.5% / • Fold 35.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 177: BB vs CO (60bb) • 3-bet 11.7% / • Call 63.1% / • Fold 25.20%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 178: BB vs CO 4-bet (60bb) • All-in 27.9% / • Call 36.5% / • Fold 35.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 179: BB vs LJ (60bb) • 3-bet 7.4% / • Call 56.5% / • Fold 36%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 180: BB vs LJ 4-bet (60bb) • All-in 36.6% / • Call 13.1% / • Fold 50.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 181: BB vs UTG (60bb) • 3-bet 5.3% / • Call 50.6% / • Fold 44.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 182: BB vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 40.3% / • Call 6.1% / • Fold 53.7%

Phòng thủ ở vị trí Small Blind

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phòng thủ ở vị trí SB (15bb)
Trung bình, SB nên VPIP 22% hand với 15bb, chơi 3-bet hoặc all-in khi LP open, all-in tiếp nhiều
nhất là 28,2% với BN và 22,5% với CO. Ở vị trí middle và trước đó, range của người open trở nên
đủ mạnh để việc SB all-in tiếp sẽ không kiếm được đủ các cú fold mong muốn nữa, vì vậy giải
pháp là bắt đầu call một số hand không còn là những hand để all-in tiếp có lãi nữa mà là những cú
call có lãi. Vì vậy, tần suất 3-bet giảm xuống trong khi tần suất flat call tăng lên khi range của nhà
open mạnh hơn.

Bảng 63: Tần suất hành động của SB (15bb)

Vì BB thường sẽ call khi SB call, những hand như đồng chất liên tiếp, Ax bé đồng chất,
broadway có thể tạo nên những cú call tốt với vị trí hành động sớm bởi chúng giúp giữ lại equity
trong những pot nhiều nhà. Sẽ rất thú vị khi chứng kiến cách AA được chơi slowplay bởi SB 25-
33% thời gian (Hand Ranges 183-186).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 183: SB vs BN (15bb) • All-in 28.2% / • Call 0.0% / • Fold 71.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 184: SB vs CO (15bb) • All-in 22.5% / • Call 0.1% / • Fold 77.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 185: SB vs LJ (15bb) • All-in 14.7% / • Call 5.4% / • Fold 79.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 186: SB vs UTG (15bb) • All-in 9.4% / • Call 11.6% / • Fold 79%

Phòng thủ ở vị trí SB (25bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 64: Tần suất hành động của SB (25bb)

Với 25bb, các xu hướng tương tự đã thấy trước đây xảy ra rằng SB đến VPIP ít thường xuyên
hơn khi range của nhà open ngày càng mạnh.

Những hand không đồng chất sẽ hầu hết bị fold trừ khi cầm Ax để all-in tiếp với LP. Những
hand broadway không đồng chất có thể call với LP, nhưng phải bị fold khi đối mặt với EP. Các
pocket pair bé sẽ là những hand tuyệt vời để all-in tiếp với LP nhưng chơi tốt hơn khi call với EP
do thiếu equity fold. Hãy nhớ lưu ý cách SB chọn các hand mạnh như A5s-A2, AJo và ATo để 3-
bet/fold với EP, trong khi range để 3-bet với BN là A8o-A3o, KJo và KTo (Hand Ranges 187-
194).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 187: SB vs BN (25bb) • All-in 14.2% / • 3-bet 6.5% / • Call 6% / • Fold 73.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 188: SB vs BN 4-bet (25bb) • Call 58.2% / • Fold 41.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 189: SB vs CO (25bb) • All-in 11.2% / • 3-bet 5.5% / • Call 9.9% / • Fold 73.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 190: SB vs CO 4-bet (25bb) • Call 57.9% / • Fold 42.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 191: SB vs LJ (25bb) • All-in 6.4% / • 3-bet 5.3% / • Call 12.6% / • Fold 75.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 192: SB vs LJ 4-bet (25bb) • Call 59.1% / • Fold 40.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 193: SB vs UTG (25bb) • All-in 3.5% / • 3-bet 4.8% / • Call 14.2% / • Fold 77.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 194: SB vs UTG 4-bet (25bb) • Call 52.8% / • Fold 47.2%

Phòng thủ ở vị trí SB (40bb)


Với 40bb, SB có range để 3-bet all-in rất nhỏ so với vị trí late và middle bao gồm những hand như
88-66, 44, 33, AQo, AJo, A4s, A3s, KJs, KTs, QTs và JTs, nhưng range là rất nhỏ đến mức, trên

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


thực tế, tôi không muốn có range để 3-bet all-in.

Bảng 65: Tần suất hành động của SB (40bb)

Với mức độ stack lớn này, range để call của SB là đồng đều với mọi vị trí, trong khoảng trung bình là
12.21%. Khác biệt lớn nhất là hand Axo trung bình và broadways không đồng chất bị fold với EP
trong khi chúng có thể thi thoảng call với LP.
Range để không all-in 3-bet tăng mạnh từ 6.6% với UTG lên 14.1% với BN, với vị trí SB mở
rộng range value khi gặp BN bao gồm những hand như AQs-ATs, AJo và 55+ và range để 3-
bet/fold bao gồm những hand như A9o-A7o, K7s-K5s và broadway không đồng chất (Hand
Ranges 195-202).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 195: SB vs BN (40bb) • All-in 2.3% / • 3-bet 14.1% / • Call 11.7% / • Fold 71.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 196: SB vs BN 4-bet (40bb) • Call 52.8% / • Fold 47.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 197: SB vs CO (40bb) • All-in 1% / • 3-bet 12.1% / • Call 12.7% / • Fold 74.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 198: SB vs CO 4-bet (40bb) • Call 49.1% / • Fold 50.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 199: SB vs LJ (40bb) • All-in 1% / • 3-bet 8% / • Call 12.2% / • Fold 78.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 200: SB vs LJ 4-bet (40bb) • Call 50.8% / • Fold 49.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 201: SB vs UTG (40bb) • 3-bet 6.6% / • Call 12.7% / • Fold 80.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 202: SB vs UTG 4-bet (40bb) • Call 49.2% / • Fold 50.8%

Phòng thủ tại vị trí SB (60bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 66: Tần suất hành động của SB (60bb)

VPIP trung bình của SB là 24%, từ 33.4% VPIP với BN đến 19.4% với UTG. Vì stack trở nên lớn
hơn, có xu hướng ưu tiên các hand để 3-bet với khả năng chơi post-flop tốt hơn, do khả năng cao
ván chơi sẽ đến với flop, buộc Sb phải chơi OOP ở post-flop. Đồng thời, vì nhà IP quá deep để all-
in 4-bet, SB sẽ có thể call nhiều hand khi đối mặt với 4-bet và chơi post-flop với những hand có
equity cao chơi tốt ở những pot 4-bet (Hand Ranges 203-210).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 203: SB vs BN (60bb) • 3-bet 16.2% / • Call 17.2% / • Fold 66.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 204: SB vs BN 4-bet (60bb) • All-in 19.3% / • Call 53.8% / • Fold 26.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 205: SB vs CO (60bb) • 3-bet 12.3% / • Call 15.6% / • Fold 72.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 206: SB vs CO 4-bet (60bb) • All-in 20.6% / • Call 41.8% / • Fold 37.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 207: SB vs LJ (60bb) • 3-bet 8.1% / • Call 13.9% / • Fold 78.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 208: SB vs LJ 4-bet (60bb) • All-in 36.5% / • Call 22.1% / • Fold 41.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 209: SB vs UTG (60bb) • 3-bet 5.6% / • Call 13.8% / • Fold 80.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 210: SB vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 38.5% / • Call 13.9% / • Fold 47.6%

Phòng thủ ở vị trí Button

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phòng thủ ở vị trí BN (15bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 67: Tần suất hành động của BN (15bb)

Với 15bb, VPIP của BN là, trung bình, 15% số hand. Range để call là đồng đều ở mức 5% với
những hand bao gồm chủ yếu là những hand đôi từ trung bình đến bé, broadway đồng chất, Ax
đồng chất và AA chơi slowplay (Hand Ranges 211-213).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 211: BN vs CO (15bb) • All-in 14.3% / • Call 4.1% / • Fold 81.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 212: BN vs LJ (15bb) • All-in 10.6% / • Call 4% / • Fold 85.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 213: BN vs UTG (15bb) • All-in 10.6% / • Call 4% / • Fold 85.4%

Phòng thủ ở vị trí BN (25bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 68: BN Action Frequencies (25bb)

Với 25bb, VPIP của BN trở thành 21% số hands, all-in tiếp một cách hổ báo với CO ở mức
5.9%, nhưng hầu như là không bao giờ với UTG ở mức 1.2%. Thực tế, những range để all-in tiếp
là rất nhỏ khi đối đầu với EP nên tôi muốn loại bỏ nó và chơi một chiến thuật đơn giản, dễ áp dụng
hơn.

Range để không 3-bet all-in giữ mức đồng đều ở khoảng 3.32%, cũng như range để call ở khoảng
14.22%. Những hand có equity tốt và sẽ được lợi từ việc có vị trí ở post-flop, bao gồm những hand
đôi nhỏ và trung bình, Ax đồng chất, đồng chất liên tiếp và broadway cộng thêm một vài hand bẫy
với AA và KK (Hand Ranges 214-219).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 214: BN vs CO (25bb) • All-in 5.9% / • 3-bet 3% / • Call 13.5% / • Fold 77.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 215: BN vs CO 4-bet (25bb) • Call 58.9% / • Fold 41.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 216: BN vs LJ (25bb) • All-in 3.5% / • 3-bet 3.5% / • Call 13.8% / • Fold 79.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 217: BN vs LJ 4-bet (25bb) • Call 56.3% / • Fold 43.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 218: BN vs UTG (25bb) • All-in 1.2% / • 3-bet 3.7% / • Call 14.6% / • Fold 80.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 219: BN vs UTG 4-bet (25bb) • Call 59.3% / • Fold 40.7%

Phòng thủ ở vị trí BN (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 69: Tần suất hành động của BN (40bb)

Với 40bb, BN không có range để 3-bet all-in. Tần suất VPIP tăng phụ thuộc vào độ mạnh từ
range của nhà open, từ 21.1% với UTG đến 27.1% với CO. Ở trường hợp này, cả range để 3-bet
và call tăng theo kiểu tuyến tính.

Range để 3-bet là phân cực, tập trung vào những hand Ax không đồng chất với kicker trung
bình và broadway không đồng chất với LP và thay thế chúng bằng Ax đồng chất khi đối đầu với
EP, với Kxs trung bình đến bé sẽ thường xuyên trở thành những hand để bluff tuyệt vời. Range để
call bao gồm những hand đôi từ trung bình đến nhỏ, đồng chất liên tiếp, broadway đồng chất và
broadway không đồng chất kết hợp khi đối đầu với LP (Hand Ranges 220- 225).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 220: BN vs CO (40bb) • 3-bet 7.5% / • Call 19.6% / • Fold 72.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 221: BN vs CO 4-bet (40bb) • Call 50.1% / • Fold 49.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 222: BN vs LJ (40bb) • 3-bet 6.9% / • Call 16.9% / • Fold 76.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 223: BN đối đầu với 4-bet của LJ (40bb) • Call 50.3% / • Fold 49.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 224: BN đối đầu với UTG (40bb) • 3-bet 5.2% / • Call 15.9% / • Fold
78.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 225: BN vs UTG 4-bet (40bb) • Call 49.6% / • Fold 50.4%

Phòng thủ ở vị trí BN (60bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 70: Tần suất hành động của BN (60bb)

Với 60bb, tần suất VPIP của BN giữ ở cùng mức như đã thấy trước đó, tăng lên khi range của
người open yếu đi. Tần suất call giữ ở mức đồng đều không chênh lệch nhiều, nhưng tần suất 3-
bet giảm đi vì range của người open trở nên mạnh hơn.

Range để 3-bet của BN rất phân cực, nhưng với stack cho phép chơi ở post-flop bạn vẫn sẽ
không muốn 3-bet những hand rác và phải chơi stack lớn ở post-flop với những hand có equity
thấp đối đầu với một range mạnh.

Range để call với 60bb của BN sẽ duy trì ở mức tương đồng với range 40bb, với nhiều những
hand đôi, đồng chất liên tiếp và broadway đồng chất (Hand Ranges 226-231).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 226: BN vs CO (60bb) • 3-bet 11.5% / • Call 16.9% / • Fold 71.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 227: BN vs CO 4-bet (60bb) • All-in 31.1% / • Call 18.7% / • Fold 50.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 228: BN vs LJ (60bb) • 3-bet 8.6% / • Call 15.6% / • Fold 75.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 229: BN vs LJ 4-bet (60bb) • All-in 33.5% / • Call 16.5% / • Fold 50.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 230: BN vs UTG (60bb) • 3-bet 5.5% / • Call 16.3% / • Fold 78.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 231: BN vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 35.8% / • Call 11.7% / • Fold 52.4%

Phòng thủ ở vị trí Cutoff

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phòng thủ ở vị trí CO (15bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 71: Tần suất hành động của CO (15bb)

Với 15bb, CO không có range để call vì, khác với BN, CO phải lo lắng về việc BN sẽ call hoặc
squeeze sau đó. Việc chia nhỏ range của CO tồn tại rủi ro lớn nên, với 15bb, cách tốt nhất để xử
lý tình huống này đơn giản là all-in tiếp toàn bộ những range có thể chơi, tăng từ 8.3% khi đối đầu
với UTG (all-in 66+, AJo+, ATs+, KTs+, QJs) đến 13.3% với HJ (thêm các hand A9s, A5s, ATo
và KQo) (Hand Ranges 232-233).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 232: CO vs LJ (15bb) • All-in 11.7% / • Fold 88.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 233: CO vs UTG (15bb) • All-in 8.3% / • Fold 88.7%

Phòng thủ ở vị trí CO (25bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 72: Tần suất hành động của CO (25bb)

Với 25bb, CO all-in tiếp một range khá nông nên, trong thực tế, tôi muốn bỏ qua nó và chơi
chiến thuật 3-bet/call/fold thay thế.

CO 3-bet không all-in trung bình 3.78% số hand. Range này cũng khá nông và phân cực. CO
call trung bình 10.08% với capped range bao gồm những hand đôi trung bình đến bé, broadway
đồng chất, ATo+ và KJo+

Call một capped range không phải vấn đề lớn vì CO được bảo vệ khỏi độ mạnh range của người
open. Điều quan trọng cần lưu ý là cách mà range để call của CO duy trì ở mức khá đồng đều.
Khác với BN, CO phải lo lắng về việc phải chơi OOP ở post-flop, và điều này hạn chế số hand có
thể được mở kể cả khi đối đầu với những range rộng (Hand Ranges 234-237).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 234: CO vs LJ (25bb) • All-in 2.8% / • 3-bet 3.8% / • Call 10% / • Fold 83.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 235: CO vs LJ 4-bet (25bb) • Call 59.7% / • Fold 40.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 236: CO vs UTG (25bb) • All-in 1.2% / • 3-bet 4.2% / • Call 9.7% / • Fold 85%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 237: CO vs UTG 4-bet (25bb) • Call 57.2% / • Fold 42.8%

Phòng thủ ở vị trí CO (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 73: Tần suất hành động của CO (40bb)

Với 40bb, CO chơi chiến thuật 3-bet/call/fold. Range để 3-bet là phân cực, 3-bet 4.9% khi đối
đầu với UTG và tăng tần suất lên 6.7% với HJ. Những hand để bluff tuyệt vời nhất là Ax và Kx
đồng chất với x trung bình đến bé, AJo, ATo, và KQo, KJo và K9s-J9s kết hợp cũng như là mở
rộng range để value với 88+ và AQo+ khi đối mặt với những range rộng hơn.

Range để call chủ yếu bao gồm những hand đôi trung bình đến bé, Ax đồng chất, broadway
đồng chất và đồng chất liên tiếp cao, AA và AKs chơi slowplay theo thời gian (Hand Ranges 238-
241).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 238: CO vs LJ (40bb) • 3-bet 6.2% / • Call 12.3% / • Fold 81.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 239: CO vs LJ 4-bet (40bb) • Call 50.9% / • Fold 49.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 240: CO vs UTG (40bb) • 3-bet 4.9% / • Call 12.8% / • Fold 82.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 241: CO vs UTG 4-bet (40bb) • Call 49.9% / • Fold 50.8%

Phòng thủ ở vị trí CO (60bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 74: Tần suất hành động của CO (60bb)

Range để 3-bet của CO tập trung vào những hand blocker, với tần suất thấp các hand Ax và Kx
đồng chất và không đồng chất, chọn call với những hand broadway đồng chất, đồng chất liên tiếp,
đôi và AKo-AJo.

Khi đối mặt với 4-bet của UTG, CO có xu hướng all-in hầu hết range đang tiếp diễn ở pre-flop
(39%), với range để call thấp ở mức 7.7%. Khi đối mặt với 4-bet của HJ, range để call của CO
tăng lên đến 22% và range để all-in giảm xuống 29%, chọn chơi slowplay AA. Một trong những
lý do chính là vì range để 3-bet của CO đối đầu với UTG phân cực hơn với LJ, và hầu hết các hand
chơi 5-bet sẽ tốt hơn một cú call (Hand Ranges 242-245).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 242: CO vs LJ (60bb) • 3-bet 7.5% / • Call 11.7% / • Fold 80.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 243: CO vs LJ 4-bet (60bb) • All-in 29.3% / • Call 22.2% / • Fold 48.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 244: CO vs UTG (60bb) • 3-bet 5.2% / • Call 13.0% / • Fold 81.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 245: CO vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 39.1% / • Call 7.7% / • Fold 53.2%

Phòng thủ ở vị trí Hijack

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phòng thủ ở vị trí HJ (15bb)
Phòng thủ từ vị trí HJ khi đối đầu cú raise open với 15bb bao gồm việc all-in tiếp một range tuyến
tính với tần suất trung bình 9.3%, all-in tiếp 8.5% khi đối đầu UTG với 66+ AJo+, ATs+, KTs và
QJs, thêm vào A9s, KQo và JTs khi đối đầu HJ (Hand Ranges 246-247).

Bảng 75: Tần suất hành động của HJ (15bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 246: HJ vs LJ (15bb) • All-in 10.4% / • Fold 89.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 247: HJ vs UTG (15bb) • All-in 8.5% / • Fold 91.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 76: Tần suất hành động của HJ (25bb)

Với 25bb, chiến thuật GTO là all-in trung bình 1.45%. Một lần nữa, tần suất này là quá thấp đến
mức, trong thực tế, nó nên bị loại bỏ range để all-in mà thay vào đó chơi chiến thuật 3-bet/call/fold.
Nếu một hand được chơi với một chiến thuật kết hợp giữa call/all-in, chơi nó như một cú call đơn
thuần, và nếu chiến thuật kết hợp bao gồm 3-bet không all-in/all-in, chơi nó như một cú 3-bet
không all-in đơn thuần.

Range để 3-bet trung bình 4.43% là phân cực, bao gồm những hand mạnh nhất của range và
những hand để bluff đa dạng như ATs-A7s, AJo, ATo, KTs, K9s, và KQo. Lưu ý rằng range này
khá mạnh so với nó ở vị trí LP, CO và BN.

Range để call trung bình là 7.25% và bao gồm những hand như đôi trung bình 99-55, AQo, AJo,
KQo, broadways đồng chất và một vài hand Ax đồng chất bao gồm AQs-A8s, A7s, A5s và A4s
(Hand Ranges 248-251).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 248: HJ vs LJ (25bb) • All-in 1.8% / • 3-bet 4.5% / • Call 7.3% / • Fold 86.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 249: HJ vs LJ 4-bet (25bb) • Call 59.4% / • Fold 40.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 250: HJ vs UTG (25bb) • All-in 1.1% / • 3-bet 3.9% / • Call 8% / • Fold 87%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 251: HJ vs UTG 4-bet (25bb) • Call 62.9% / • Fold 37.1%

Phòng thủ ở vị trí HJ (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 77: Tần suất hành động của HJ (40bb)

Với 40bb, HJ 3-bets trung bình 5.48% với range phân cực. Những hand để 3-bet/folds là Ax
đồng chất với x trung bình đến bé, AJo, ATo, KQo, và một vài Kxs.

Range để call bao gồm những hand đôi, AQo, AJo, KQo, broadways đồng chất và đồng chất
liên tiếp. Tần suất để những hand đồng chất liên tiếp được call tăng khi range của người raise đầu
tiên trở nên rộng hơn (Hand Ranges 252-255).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 252: HJ vs LJ (40bb) • 3-bet 6.1% / • Call 9.2% / • Fold 84.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 253: HJ vs LJ 4-bet (40bb) • Call 51% / • Fold 49%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 254: HJ vs UTG (40bb) • 3-bet 4.9% / • Call 8.9% / • Fold 86.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 255: HJ vs UTG 4-bet (40bb) • Call 49.2% / • Fold 50.8%

Phòng thủ ở vị trí HJ (60bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 78: Tần suất hành động của HJ (60bb)

Với 60bb, HJ 3-bet trung bình 6.13%, 3-betting với tần suất cao nhất khi đối đầu với LJ (7.4%)
và tần suất thấp nhất khi đối đầu với UTG (5.20%). Range để 3-bet là phân cực nhưng range để 3-
bet/fold bao gồm những hand có equity cao với những lá bài chặn tốt và khả năng chơi post-flop
tốt như AQo- ATo, A9s- A5s, KQo, KJs-K8s.

Range call bao gồm những hand đôi, AQo-AJo, KQo, broadways đồng chất, Ax đồng chất và
tần suất thấp những hand đồng chất liên tiếp cao.

Khi đối mặt với 4-bet của UTG, HJ chủ yếu phòng thủ bằng 5-bet all-in (39.2%), call với tần
suất thấp (6.9%) và fold 53.9%. Khi đối mặt với 4-bet của LJ, chiến thuật của HJ bao gồm 4-bet
ít hơn (28.2%) và call nhiều hơn (24.5%) so với chiến thuật khi chơi với 4-bet của UTG (Hand
Ranges 256-259).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 256: HJ vs LJ (60bb) • 3-bet 7.4% / • Call 8.8% / • Fold 83.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 257: HJ vs LJ 4-bet (60bb) • All-in 28.2% / • Call 24.5% / • Fold 47.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 258: HJ vs UTG (60bb) • 3-bet 5.2% / • Call 9.3% / • Fold 85.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 259: HJ vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 39.2% / • Call 6.9% / • Fold 53.9%

Phòng thủ ở vị trí UTG+1

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 79: Tần suất hành động của UTG+1

Với 15bb, UTG+1 đối đầu với all-in từ UTG một range tuyến tính ở mức 7.1%. Với 25bb, không
có range để all-in, và UTG+1 kết hợp một range call 3.6% bao gồm JJ-66, AQo+, và broadways
đồng chất. Range 3-bet ở mức 5.1% ít phân cực hơn bình thường với 25bb từ vị trí LP hoặc MP vì
nó sử dụng những hand mạnh hơn một chút như 3-bet/folds. Với 40bb, range 3-bet tăng nhẹ lên
4.80% và hình thái của range thay đổi để bao gồm thêm Ax đồng chất (A9s-A5s) và ít đi broadways
đồng chất. Ngược lại, range call tăng lên 4% và kết hợp thêm nhiều broadways đồng chất hơn là
3-bet với 25bb.

Với 60bb, UTG 3-bets thường xuyên hơn và call ít hơn so với mức 40bb. Lý do chính là vì, ở
mức 40bb, phản ứng chính của UTG là 4-bet all-in, điều này khiến cho UTG+1 phải fold rất nhiều
hands, bỏ lỡ equity. Tuy nhiên, với 60bb, UTG sẽ chủ yếu phòng thủ lại 3-bet bằng cách call hoặc
chơi OOP. Vì lý do này, UTG+1 nhận được nhiều equity ở post-flop và thu lợi nhuận bằng cách
3-bet một range rộng hơn (Hand Ranges 260-266).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 260: UTG+1 vs UTG (15bb) • All-in 7.1% / • Fold 92.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 261: UTG+1 vs UTG (25bb) • 3-bet 5.1% / • Call 3.6% / • Fold 91.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 262: UTG+1 vs UTG 4-bet (25bb) • Call 59.7% / • Fold 40.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 263: UTG+1 vs UTG (40bb) • 3-bet 4.8% / • Call 4% / • Fold 91.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 264: UTG+1 vs UTG 4-bet (40bb) • Call 59.7% / • Fold 40.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 265: UTG+1 vs UTG (60bb) • 3-bet 5.7% / • Call 2.9% / • Fold 91.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 266: UTG+1 vs UTG 4-bet (60bb) • All-in 40.5% / • Call 4.4% / • Fold 55.1%

09

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


CHIẾN THUẬT CÂN BẰNG MTT: ĐỐI
ĐẦU VỚI 3-BET

Các yếu tố chính


Khi đối mặt với 3-bet sau khi open raise từ bất kì vị trí nào, sau đây là những yếu tố chính ảnh
hưởng đến quá trình đưa ra quyết định của bạn:

◆ Vị trí của bạn: Range open của bạn mạnh đến mức nào ở vị trí này?

◆ Vị trí của đối thủ: Range 3-bet của họ mạnh đến mức nào?

◆ Những người chơi còn hành động: Còn bao nhiêu người chơi còn hành động sau cú 3-
bet của đối thủ? Càng nhiều người chơi còn lại, khả năng đối thủ đang bluff là càng thấp
và càng ít hand bạn cần phòng thủ để duy trì không bị khai thác.

◆ Size bet: 3-bet có phải là cú bet all-in? Bạn có lựa chọn để 4-bet với fold equity không?
Bạn có odd hợp lý để call hand của bạn với size 3-bet và range đang chơi?

◆ Vị trí liên quan: Nếu bạn call 3-bet, bạn có vị trí ở post-flop không? Mức độ để nhận
được equity của bạn ở post-flop như thế nào?

◆ Hình thái range: Range 3-bet là phân cực hay tuyến tính? Hand của bạn chơi ở post-
flop khi đối đầu với range của đối thủ tốt đến mức nào ?

◆ Phần bù rủi ro: Stack của bạn đang lớn đến mức nào trong tour? Bạn có mức phần
bù rủi ro cao hay thấp so với đối thủ? Đối thủ có mức phần bù rủi ro cao hay thấp khi
đối đầu với bạn?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Những tình huống của trò chơi trong tương lai: Nếu bạn call và thua, điều này sẽ ảnh
hưởng đến stack còn lại của bạn như thế nào?
Bạn có mất khả năng raise/fold hay bạn có đặt bản thân vào tình huống ICM biên do số
lượng stack còn lại không? Bạn có trở thành chip lead và có khả năng all-in những stack
trung bình nếu bạn thắng hand đó không?

◆ Bluffing: Đối thủ có khả năng bluff quá đà hoặc bluff quá ít tại một vị trí cụ thể nào
không?

◆ Lợi nhuận của lệnh call: Nếu lệnh call gần với 0 cEV, khả năng là $EV sẽ bị mất đi
một chút.

Chương này nghiên cứu cách để phòng thủ khi đối đầu với 3-bet ở trạng thái cân bằng nhưng,
như đã nêu ra xuyên suốt quyển sách này, các range cơ bản chỉ nhằm mục đích hướng dẫn. Bạn
nên luôn luôn chủ động suy nghĩ về tất cả những yếu tố đề cập trên khi đối mặt với 3-bet trong trò
chơi, và có thể điều chỉnh theo đó.

Vì không thể bao gồm các range cho tất cả các vị trí có thể và độ lớn của stack chỉ trong một
quyển sách, tôi sẽ đưa ra một vài những tình huống quan trọng và thông dụng nhất. Vì các range
thay đổi theo kiểu tuyến tính, hãy chú ý nghiên cứu các xu hướng và bù đắp những sơ hở cho bất
kỳ chiến lược nào còn thiếu bằng cách ngoại suy từ những chiến lược đề cập tại đây. Một lần nữa,
thay vì cố gắng ghi nhớ những chiến lược cố định, điều quan trọng là phải nắm được những khái
niệm sau: range được tạo nên như thế nào, loại hand nào tốt nhất để raise, call hoặc fold và lí do
tại sao bộ giải chọn mỗi loại hand để thực hiện những hành động nhất định.

Bằng cách cố gắng nắm bắt được tại sao bộ giải chọn đưa ra quyết định của nó, bạn sẽ
có thể đưa ra những quyết định tốt hơn trong trò chơi, sử dụng lý thuyết làm lợi thế của
bạn để tối đa hoá EV.

Thêm vào đó, bạn không bao giờ nên lo lắng về việc phải cố gắng áp dụng những chiến thuật
một cách hoàn hảo nhất. Không ai có thể khai thác bạn nếu bạn linh hoạt hoặc đơn giản hoá đôi
lúc miễn là những ý chính của các chiến lược được áp dụng chính xác.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Stack bé Open 2x đối đầu với All-in (10-25bb)
Những bảng sau đây mô tả tần suất hành động khi đối mặt với 3-bet theo vị trí của bạn (Table
80), vị trí của đối thủ (Table 81) và độ lớn của stack (Table 82).

Tỉ lệ fold trung bình sau khi bạn thực hiện lệnh raise tối thiểu đối đầu với lệnh all-in với stack
bé (10-25bb) là 55.04% và tỉ lệ call trung bình là 44.96%.

Bảng 80: Tần suất Hành động theo Vị trí

Bảng 81: Tần suất Hành động đối đầu với


các Vị trí

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 82: Tần suất Hành động theo Độ lớn
của Stack

Stack hiệu dụng càng lớn mà bị all-in, nhà open càng ít khi phải phòng thủ. Vị trí mà người chơi
thực hiện all-in càng sớm, nhà open càng phải phòng thủ chặt chẽ hơn, ngoại trừ SB, vì bị call nhẹ
hơn BB (điều này là vì BB có quyền call, kết thúc hành động, nên range all-in mạnh hơn SB). Khi
đối mặt với lệnh all-in, range call nên bao gồm x% cao nhất của số hand mang lại equity cao nhất
so với range all-in theo như stack hiệu dụng. (Hand Ranges 267-294).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 267: BN 15bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 42.6% / • Fold 57.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 268: BN 15bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 44.9% / • Fold 55.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 269: BN 25bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 29.5% / • Fold 70.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 270: BN 25bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 31.6% / • Fold 68.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 271: CO 15bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 45.1% / • Fold 54.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 272: CO 15bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 50.2% / • Fold 49.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 273: CO 15bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 43.8% / • Fold 56.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 274: CO 25bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 31% / • Fold 69%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 275: CO 25bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 31.3% / • Fold 68.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 276: CO 25bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 31.6% / • Fold 68.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 277: LJ 15bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 47.9% / • Fold 52.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 278: LJ 15bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 51.3% / • Fold 48.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 279: LJ 15bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 51% / • Fold 49%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 280: LJ 15bb (2x vs HJ All-in) • Call All-in 46.2% / • Fold 53.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 281: LJ 25bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 32.5% / • Fold 67.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 282: LJ 25bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 33.9% / • Fold 66.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 283: LJ 25bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 29.4% / • Fold 70.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 284: LJ 25bb (2x vs HJ All-in) • Call All-in 27.2% / • Fold 72.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 285: UTG 15bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 50.3% / • Fold 49.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 286: UTG 15bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 52.9% / • Fold 47.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 287: UTG 15bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 51.1% / • Fold 48.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 288: UTG 15bb (2x vs HJ All-in) • Call All-in 45.7% / • Fold 54.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 289: UTG 15bb (2x vs UTG+1 All-in) • Call All-in 41% / • Fold 59%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 290: UTG 25bb (2x vs BB All-in) • Call All-in 30.5% / • Fold 69.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 291: UTG 25bb (2x vs SB All-in) • Call All-in 34.5% / • Fold 65.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 292: UTG 25bb (2x vs BN All-in) • Call All-in 33.9% / • Fold 66.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 293: UTG 25bb (2x vs HJ All-in) • Call All-in 30.6% / • Fold 69.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 294: UTG 25bb (2x vs UTG+1 All-in) • Call All-in 27.9% / • Fold 72.1%

Stack trung bình Open đối đầu với 3-bet


không all-in (25-40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những bảng sau đây thể hiện tần suất hành động cho stack trung bình open đối đầu với lệnh
3-bet không all-in dựa theo vị trí của đối thủ (Tables 83-84) và độ lớn của stack (Table 85).

Bảng 83: Tần suất Hành động đối đầu với nhà Blind
(IP)

Bảng 84: Tần suất Hành động đối đầu với những
nhà khác (OOP)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 85: Tần suất hành động theo Độ lớn của Stack

Khi đối mặt lệnh 3-bet không all-in với stack 25-40bb, size 4-bet duy nhất của bộ giải là all-
in. Ở tình huống này, có sự khác biệt về mặt chiến thuật khi so sánh giữa có vị trí và ngoài vị
trí để đối đầu với nhà 3-bet.

Khi là IP, tỉ lệ fold trung bình với 3-bet thấp hơn khi nhà open là OOP. Đồng thời, nhà open
nên có khả năng sẽ 4-bet khi OOP và sẽ call 3-bet và chơi post-flop khi có vị trí để 3-bet.

Đồng thời cũng tồn tại mối tương quan giữa độ lớn của stack và tần suất 4-bet khi nhà open
là IP. Trong trường hợp này, stack càng lớn, tần suất 4-bet càng giảm và nhà open càng nên
giảm bớt lệnh call và chơi flop. Ngược lại, khi nhà open là OOP, tần suất 4-bet giữ đồng đều ở
mức ~22.84% và tần suất call thật sự giảm đi khi stack trở nên lớn hơn, từ tần suất call trung
bình 44.19% với 25bb xuống 23.03% với 40bb. Điều này là vì stack lớn hơn sẽ khó khăn hơn
cho người chơi OOP nhận được equity ở post-flop.

Nói ngắn gọn, khi đối mặt với lệnh 3-bet và có vị trí, nhà open nên 4-bet nhiều hơn với stack
bé và call nhiều hơn với stack lớn, và khi nhà open là OOP, họ nên fold nhiều hơn với 3-bet
khi có stack lớn và call nhiều hơn khi có stack bé.

Những loại hand chơi 4-bet tốt hơn thì thay đổi dựa theo vị trí. Nhìn chung, bộ giải thích 4-
bet all-in với những hand có equity và range call tốt nhưng khả năng chơi không tốt lắm, như
những hand đôi trung bình, Ax khác chất to và Ax đồng chất nhỏ. Những hand có xu hướng
call tốt là AA, KK, đồng chất liên tiếp, broadways đồng chất, và Ax đồng chất to. Tần suất mà

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


những hand này bị 4-bet hoặc call dựa vào độ lớn của stack và vị trí liên quan của nhà open
đối đầu với nhà 3-bet. Để chi tiết hơn, hãy phân tích những biểu đồ sau đây (Hand Ranges 295-
322).

Hand Range 295: BN 25bb (2x vs BB 3-bet) • All-in 12.4% / • Call 45.4% / • Fold 42.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 296: BN 25bb (2x vs SB 3-bet) • All-in 21.1% / • Call 33.1% / • Fold 45.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 297: BN 40bb (2.3x vs BB 3.5x 3-bet) • All-in 8.8% / • Call 45.4% / • Fold 45.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 298: BN 40bb (2.3x vs SB 3.3x 3-bet) • All-in 10.4% / • Call 52.1% / • Fold 37.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 299: CO 25bb (2x vs BB 3.25x 3-bet) • All-in 12.2% / • Call 49.6% / • Fold 38.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 300: CO 25bb (2x vs SB 3x 3-bet) • All-in 19.7% / • Call 39.5% / • Fold 40.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 301: CO 25bb (2x vs BN 2.75x 3-bet) • All-in 22.9% / • Call 38.3% / • Fold 38.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 302: CO 40bb vs BB 3.5x 3-bet • All-in 9.6% / • Call 46.8% / • Fold 43.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 303: CO 40bb vs SB 3.3x 3-bet • All-in 12.7% / • Call 45.2% / • Fold 42.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 304: CO 40bb vs BN 3.25x 3-bet • All-in 18% / • Call 30.9% / • Fold 51%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 305: LJ 25bb (2x vs BB 3.25x 3-bet) • All-in 13.2% / • Call 49% / • Fold 37.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 306: LJ 25bb (2x vs SB 3x 3-bet) • All-in 18.6% / • Call 44.6% / • Fold 36.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 307: LJ 25bb (2x vs BN 2.75x 3-bet) • All-in 23.7% / • Call 44.7% / • Fold 31.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 308: LJ 25bb (2x vs HJ 2.75x 3-bet) • All-in 21.8% / • Call 42.7% / • Fold 35.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 309: LJ 40bb vs BB 3.5x 3-bet • All-in 7.8% / • Call 56.2% / • Fold 36%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 310: LJ 40bb vs SB 3.3x 3-bet • All-in 9.2% / • Call 58.7% / • Fold 32.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 311: LJ 40bb vs BN 3.25x 3-bet • All-in 21.8% / • Call 27.2% / • Fold 51%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 312: LJ 40bb vs HJ 3.25x 3-bet • All-in 19.3% / • Call 24.7% / • Fold 56%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 313: UTG 25bb (2x vs BB 3.25x 3-bet) • All-in 17.2% / • Call 44.5% / • Fold 38.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 314: UTG 25bb (2x vs SB 3x 3-bet) • All-in 21.5% / • Call 42.2% / • Fold 36.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 315: UTG 25bb (2x vs BN 2.75x 3-bet) • All-in 22.4% / • Call 47.4% / • Fold 30.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 316: UTG 25bb (2x vs HJ 2.75x 3-bet) • All-in 24.4% / • Call 40.5% / • Fold 35.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 317: UTG 25bb (2x vs UTG+1 2.75x 3-bet) • All-in 22.5% / • Call 37.8% / • Fold
39.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 318: UTG 40bb vs BB 3.5x 3-bet • All-in 10% / • Call 49.5% / • Fold 40.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 319: UTG 40bb vs SB 3.3x 3-bet • All-in 12.5% / • Call 50.8% / • Fold 36.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 320: UTG 40bb vs BN 3.25x 3-bet • All-in 24.3% / • Call 26.3% / • Fold 49.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 321: UTG 40bb vs HJ 3.25x 3-bet • All-in 25.4% / • Call 18.9% / • Fold 55.7%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 322: UTG 40bb vs UTG+1 3.25x 3-bet • All-in 26.1% / • Call 9.7% / • Fold 64.2%

Stack lớn Open đối đầu với lệnh 3-bet không


all-in (60-80bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 86-87 mô tả tần suất hành động khi đối mặt lệnh 3-bet không all-in dựa theo vị trí của bạn.

Bảng 86: Tần suất hành động đối đầu với lệnh 3-bet không all-in của nhà blind (IP)

Bảng 87: Tần suất hành động đối đầu với lệnh 3-bet không all-in từ những vị trí khác
(OOP)

Với stack lớn hơn ở mức 60-80bb lệnh 4-bet all-in bắt đầu biến mất và bị thay thế bằng lệnh 4-
bet không all-in. Với độ lớn của stack, tần suất tổng thực hiện lệnh 4-bet khi có vị trí bằng gần nửa
so với 25-40bb, và tần suất 4-bet của OOP giảm từ 22.84% xuống 18.23%. Mặt khác, tần suất call

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


tăng ở cả hai trường hợp, vì stack lớn hơn khiến việc chơi ở post-flop trở nên hấp dẫn hơn (đặc
biệt là khi có vị trí) và rất nhiều hand sẵn sàng chỉ chơi flop thay vì 4-bet/fold và mất equity ở pot.
Như đã đề cập trước đây, với độ lớn stack lớn hơn và đặc biệt khi nhà open có vị trí đối với nhà
3-bet, họ sẽ có động lực lớn hơn để call 3-bet và chơi post-flop IP. Vì lý do này, các nhà blind nên
tăng size 3-bet của họ khi stack trở nên lớn hơn. Nếu họ không làm vậy, nhà open sẽ call một range
rất rộng và nhận được equity của rất nhiều hand mà họ đáng ra đã fold. Tần suất hành động ở đây
đưa ra với giả sử những người chơi sử dụng size bet đủ lớn.

Đối đầu với 5-bet sau 4-bet trở nên khá đơn giản. Nói chung, hãy call bất kỳ hand cao nào và
fold những cú bluff với loại lá bài chặn của bạn. EP có thể chơi rất tốt chiến thuật không 4-bet
với các nhà blind vì không có nhiều hand thực sự muốn 4-bet ở vị trí mà biết được độ phân cực
range 3-bet của các nhà blind.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 323: BN 60bb (2.3x vs BB 3-bet) • All-in 3.5% / • 4-bet 3.9% / • Call 52.4% / • Fold
40.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 324: BN 60bb (2.3x vs SB 3-bet) • All-in 2.4% / • 4-bet 6% / • Call 55.8% / • Fold
35.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 325: CO 60bb (2.3x vs BB 3-bet) • All-in 1.6% / • 4-bet 7.1% / • Call 52.2% / • Fold
39.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 326: CO 60bb (2.3x vs SB 3-bet) • All-in 1.4% / • 4-bet 8.7% / • Call 58.6% / •
Fold 31.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 327: CO 60bb (2.3x vs BN 3-bet) • All-in 2.8% / • 4-bet 15.5% / • Call 39% / • Fold
42.8%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 328: LJ 60bb (2.3x vs BB 3-bet) • All-in 0% / • 4-bet 6.8% / • Call 56.1% / • Fold
37.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 329: LJ 60bb (2.3x vs SB 3-bet) • All-in 0% / • 4-bet 8% / • Call 64.1% / •
Fold 27.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 330: LJ 60bb (2.3x vs BN 3-bet) • All-in 0% / • 4-bet 19.2% / • Call 42.3% / •
Fold 38.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 331: LJ 60bb (2.3x vs HJ 3-bet) • All-in 4.5% / • 4-bet 16.9% / • Call 34.3% / •
Fold 44.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 332: UTG 60bb (2.3x vs BB 3-bet) • All-in 2.7% / • 4-bet 1.6% / • Call 59.5% /
• Fold 36.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 333: UTG 60bb (2.3x vs SB 3-bet) • All-in 2.5% / • 4-bet 6.3% / • Call 64.8% /
• Fold 26.3%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 334: UTG 60bb (2.3x vs BN 3-bet) • All-in 4.8% / • 4-bet 16.0% / • Call 43.6% /
• Fold 35.5%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 335: UTG 60bb (2.3x vs HJ 3-bet) • All-in 2.1% / • 4-bet 19.0% / • Call 38.5% / •
Fold 40.4%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 336: UTG 60bb (2.3x vs UTG+1 3-bet) • All-in 5% / • 4-bet 15.8% / • Call 28.2% /
• Fold 51%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


10

LÝ THUYẾT CHƠI POST-FLOP

Các chiến lược và nguyên tắc chơi post-flop được trình bày trong chương này dựa trên dữ liệu tổng
hợp từ hàng nghìn mô phỏng GTO, được phân tích bằng phần mềm tùy chỉnh. Các range và cấu
trúc bet là đại diện cho các trò chơi ante không rake phản ánh một giải đấu nhiều bàn với độ lớn
của stack từ 20bb đến 40bb nhưng kết quả và phương pháp tổng thể có thể áp dụng cho hầu hết
các tình huống post-flop của NLH và có thể được mở rộng sang các độ lớn khác nhau của stack và
các biến thể trò chơi khác.

Tất cả các biểu đồ và số liệu được sử dụng trong chương này đều được tạo ra từ các giải pháp GTO
đại diện cho một số tình huống post-flop quan trọng nhất, cung cấp các giá trị gần đúng có thể giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về cách chơi post-flop. Tuy nhiên, chúng không phải là một câu trả lời chắc
chắn khi nói đến chơi poker nói chung. Nếu bạn muốn biết thêm về điều này, vui lòng truy cập
www.gtopoker.io.

Post-flop có thể được chia thành ba vòng; flop, turn và river. Mặc dù cả quyển sách có thể viết
về mỗi vòng, chúng tôi không thể đề cập hết tất cả mọi thứ về cách chơi post-flop.

Tôi đã cố gắng hết sức để sắp xếp dữ liệu theo cách hợp lý đối với tôi. Trọng tâm sẽ là tìm kiếm
các mẫu, xu hướng vị trí và phát triển các phương pháp có thể dễ dàng nhận ra và áp dụng trong
các trò chơi trên cả ba vòng đặt cược.

Lý thuyết về Bet

Tại sao chúng ta bet trong poker? Nếu bạn hỏi xung quanh, hầu hết người chơi không thực sự
biết làm thế nào để trả lời câu hỏi này. Một số người bet vì họ cảm thấy thích nó. Những người
khác có thể bet vì họ thực sự thích hand của mình hoặc vì họ nhận thấy điểm yếu của đối thủ và
nghĩ rằng họ có thể kiếm lợi từ đó. Có thể là có nhiều khả năng chia tiền ở flop và vì vậy họ muốn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


bet để bảo vệ. Mặc dù tất cả những lý do này có thể có phần xác đáng, nhưng chúng vẫn còn quá
chủ quan.

Một số chuyên gia và những người xem các video đào tạo có trình độ cao hơn một chút sẽ cho
bạn biết điều gì đó như “một lệnh bet phải để lấy value (để được call bởi một hand tệ hơn) hoặc
để bluff (để tạo ra hand tốt hơn là fold) . ”

Định nghĩa này chắc chắn nghe có vẻ chính xác hơn rất nhiều so với những định nghĩa trước,
nhưng vẫn chưa đầy đủ vì có nhiều trường hợp bet là cách chơi chính xác ngay cả khi bạn chỉ được
call bởi những hand tốt hơn và sẽ không bao giờ tạo được hand tốt hơn thay vì fold.

Điều quan trọng là cố gắng ngừng suy nghĩ về poker bằng cách phân loại bet chỉ là bluff hoặc
bet value bởi vì điều đó chỉ có ý nghĩa ở river nếu bạn có một range phân cực hoàn hảo và đang
bet để chống lại những kẻ bắt bluff. Trong tất cả các tình huống khác, bet phức tạp hơn thế.

Bet để “bluff”, để “value”, vv là kết quả của bet, không phải lý do để bet. Nếu bạn bet và
đối thủ của bạn call với hand tệ hơn, bạn đã thực hiện được lệnh bet value. Nếu họ fold hand
tệ hơn so với bạn, bạn đã bluff thành công.

Đó chỉ là những kết quả có thể xảy ra khi bạn bet hand của mình đối đầu với range phân phối,
và chúng phụ thuộc vào hand thực tế của đối thủ tại thời điểm bạn bet, đây là điều bạn không kiểm
soát được. Vì vậy, rất nhiều lần bạn bet nhưng bạn không biết chính xác mình đang bet value hay
bluff.

Nếu bạn nghĩ về bet một cách khoa học và bài bản hơn bằng cách áp dụng các khái niệm lý
thuyết trò chơi, bạn có thể đưa những lý do cá cược thành hai khái niệm chính:

◆ Tận dụng lợi thế việc biết các lá bài của mình

◆ Thu được equity hoặc ngăn cản đối thủ nhận equity

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tận dụng lợi thế việc biết những lá bài của mình

Trong mô hình poker GTO, người ta cho rằng đối thủ của bạn biết toàn bộ chiến lược của bạn. Vì
vậy, bạn sẽ không bao giờ gây bất ngờ cho đối thủ GTO bằng cách giữ một thứ gì đó như 72o trên
flop sau khi bạn open từ UTG bởi vì nếu bạn open với 72o, nó sẽ là một phần của range RFI ở
UTG của bạn và đối thủ GTO của bạn sẽ có đầy đủ kiến thức về range đó. Trong trường hợp đó,
bạn chỉ nên chơi những range chắc chắn sẽ không dễ khai thác ngay cả khi đối thủ có đầy đủ kiến
thức về chúng.

Tuy nhiên, kể cả ở mô hình GTO này, bạn vẫn có một lợi thế về mặt thông tin so với đối
thủ. Bạn biết chính xác những lá bài của mình trong khi họ chỉ biết về range của bạn. Lợi thế
thông tin bạn có là sự khác biệt giữa những lá bài bạn thực sự nắm giữ và range của bạn, và
lợi thế thông tin này có giá trị khi những quyết định đối thủ đưa ra chênh lệch rất nhiều so
với những gì bạn đang thực sự nắm giữ

Ví dụ, hãy tưởng tượng về những loại hand khác nhau bạn có thể có ở một tình huống poker:

Hand loại A, Hand loại B và Hand loại C.

Bây giờ tưởng tượng cách chơi chính xác của đối thủ là:

◆ Fold khi bạn cầm hand loại A

◆ Call khi bạn cầm hand loại B

◆ Raise khi bạn cầm hand loại C

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu range bet của bạn chỉ bao gồm hand loại A, đối thủ của bạn sẽ chơi khá tầm thường. Tất cả
những gì họ phải làm là luôn fold khi bạn bet. Nguyên tắc tương tự cũng được áp dụng cho những
loại hand khác.

Bằng cách kết hợp nhiều loại hand khác nhau trong range của mình, bạn khiến đối thủ khó khăn
hơn trong việc liên tục đưa ra cách chơi chính xác đánh bại bạn. Do đó, sự đa dạng range tăng lợi
thế về thông tin của bạn và hãy tận dụng nó để bạn có thể ép đối thủ phải mắc sai lầm.

Sai lầm được định nghĩa là một quyết định mà họ đáng ra đã không thực hiện nếu họ có thể
biết được những lá bài của bạn, không phải một quyết định tệ khi đối đầu với range của bạn.

Đây là loại sai lầm sẽ không diễn ra nếu bạn đang chơi với một đối thủ GTO hiểu rất rõ về chiến
thuật của bạn.

Ví dụ về sai lầm mà một người không chơi GTO có thể mắc phải đối với range của bạn là khi
bạn có một range phân cực hoàn hảo (bao gồm những hand có 100% hoặc 0% equity) và đối thủ
của bạn đẩy all-in để bắt bluff, khiến cho lối chơi của bạn tầm thường. Bạn call khi có hand thắng
và fold khi cầm hand thua mọi lúc. Với thành phần trong range của bạn, lối chơi đúng của đối thủ
để chống lại bạn là luôn luôn check, sau đó khi bạn bet, anh ta sẽ phải call với tần suất dựa trên
size bet của bạn. Đôi lúc đối thủ sẽ call và thua khi bạn bet value và đôi lúc, đối thủ sẽ fold khi bạn
bluff. Đây là loại sai lầm bạn có thể ép một người chơi GTO phạm phải kể cả khi họ có thông tin
hoàn hảo về thành phần range của bạn.

Những range mạnh là những range mà lợi thế về thông tin rất có giá trị và khi lối chơi chính xác
của đối thủ thay đổi linh hoạt dựa trên những phần trong range bạn nắm giữ ở mỗi thời điểm cụ
thể.

Hãy nhắc lại về giải pháp cho trò chơi clairvoyance toy với stack $100 pot $100. EV trò chơi
của P1 là $75. Bây giờ hãy nghĩ về trò chơi này với góc nhìn về thông tin, P1 có thông tin hoàn
hảo, vì range của đối thủ chính xác là một hand, KK, và P2 có lượng thông tin tệ nhất có thể. Họ
biết đối thủ có xác suất nắm giữ hai hand bằng nhau và hành động chính xác khi đối mặt với lệnh
bet là hoàn toàn trái ngược dựa trên việc đối thủ nắm giữ hand nào.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bây giờ hãy giả sử P1 chỉ có một loại hand trong range, là nuts hoặc không gì cả. P2 sẽ có một
quyết định đơn giản. Trong trường hợp này, hành động bet sẽ không mang lại bất kỳ value nào vì
P2 sẽ không bao giờ call khi P1 có AA và P2 sẽ luôn luôn call khi P1 cầm QQ. Vậy một lần nữa,
P1 sẽ không bao giờ bet. Trong trường hợp này, EV của mỗi người chơi là $50, nhưng trong trò
chơi thực tế range của P1 là 50% AA và 50% QQ, bet có value, và cách để tính value khi P1 có
quyền chọn bet là so sánh EV của trò chơi với quyền chọn bet so với trò chơi mà quyền chọn bet
bị loại bỏ:

Ở trò chơi này, quyền chọn bet chiến thuật của P1 có value là $25 và lý do P1 có thể kiếm được
value bằng cách bet là vì thành phần range. Hơn nữa, nếu các lá bài được tiết lộ, P2 sẽ chỉ call khi
thấy được P1 có QQ và sẽ không bao giờ call khi P2 cầm AA. Nếu những lá bài được tiết lộ, bet
sẽ không còn ý nghĩa gì nữa và họ sẽ check 100% và nhận được 100% equity, kết quả mang lại
cho mỗi người $50 EV.

Với việc hand bị tiết lộ, lợi thế của P1 không còn. Giải pháp gốc của trò chơi này cho P1 là bet
100% số thời gian với AA và 50% số thời gian với QQ, nhưng P1 không thể thực hiện chiến thuật
này nếu chơi mở bài. Tất cả EV P1 có được từ việc bet đến từ việc thông tin bất đối xứng này.
Không có lý do gì để P1 bet nếu không có lợi thế về việc biết được các lá bài của mình trong khi
đối thủ thì không.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Điều tương tự diễn ra khi chơi poker thực sự và có những lá bài chưa được mở. Nếu bạn chơi
range của mình theo cách đợi các lá được mở ra hiệu quả, đối thủ có thể rất dễ dàng có lợi thế. Ví
dụ, giả sử range bet của bạn lệch nhiều về flush draws ở những flop có 2 chất. Trong trường hợp
đó, cách chơi chính xác cho đối thủ sẽ là call lệnh bet, sau đó chơi vô cùng hổ báo ở lá turn không
liên quan mặt board. Vì vậy, range đa dạng có thể được mở rộng thành một khái niệm gọi là độ
bao phủ mặt board. Có độ bao phủ mặt board tốt nghĩa là range của bạn có thể tạo nên những hand
mạnh trong đa dạng các lần chia, hoặc tất cả các lần chia có thể nếu bạn đang chơi chiến thuật cân
bằng hoàn hảo.

Toàn bộ những lý do để bet và raise trong poker xoay quanh khái niệm tận dụng lợi thế thông
tin về việc biết những lá bài của mình trong khi đối thủ chỉ biết về range của bạn. Điều này là lý
do đầu tiên để bet.

Mỗi lần bạn bet, bạn ép đối thủ phải đưa ra quyết định và vì vậy bạn phải xác định range
bet của mình là gì, nếu bạn xây dựng nó theo cách mà những quyết định chính xác để đánh
bại bạn là rất khác nhau dựa vào việc bạn đang nắm giữ phần nào của range, đối thủ của
bạn sẽ không thể liên tục đưa ra những quyết định tốt, và kết quả là họ sẽ mất EV.

Nói chung, bạn sẽ muốn xây dựng range bet của mình theo cách mà đối thủ không thể liên tục
đưa ra quyết định đúng chống lại những lần nắm giữ khác nhau trong range của bạn. Bạn muốn
tạo ra khác biệt lớn giữa EV của đối thủ khi họ call và bạn cầm hand loại A trong range của mình
so với khi họ call và bạn cầm hand loại B hoặc C trong range của mình. Điều tương tự cũng được
áp dụng với raise. Bạn muốn có một sự khác biệt đáng kể về EV khi họ raise mà bạn cầm hand A
và khi họ raise mà bạn cầm hand B hoặc C trong range của mình. Điều này tạo nên một range bet
thật sự mạnh. EV fold luôn bằng 0, nên trường hợp này không ảnh hưởng gì.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nhận Equity hoặc Ngăn cản Đối thủ Nhận Equity

Một lần nữa nhắc lại về trò chơi clairvoyance toy khi mà P1 có một range phân cực và P2 có một
range cô đặc. Như đã đề cập trước đó, trong ví dụ này mỗi người chơi có 50% equity, nhưng EV
của P1 sẽ được xác định bởi độ lớn lệnh bet của họ, và vì size bet của họ sẽ luôn là all-in, EV của
họ sẽ trực tiếp tỉ lệ với độ lớn của stack.

Nếu stack của P1 chiếm 10% pot, EV của họ sẽ là $54.6. Nếu độ lớn stack của họ chiếm 50%
pot, EV của họ tăng lên $66.7. Với lệnh bet bằng size pot, EV của họ tăng lên $75. Với 2x pot, EV
là $83.5. Với 10x pot, EV là $95.4. Stack càng lớn, P1 càng có thể sử dụng cấu trúc range để nhận
được nhiều hơn equity và ngăn cản P2 nhận equity một cách hiệu quả. Nên, trong trò chơi này,
việc P2 có 50% equity không quan trọng. Nếu stack đủ lớn, P1 có thể lấy được nhiều hơn cả phần
“đóng góp ngang bằng” vào pot. Ngược lại, vì stack bé hơn, P1 trở nên kém hiệu quả hơn trong
việc ngăn cản equity của P2, dẫn đến việc cả 2 người chơi lấy được nhiều hơn mức đóng góp vào
pot.

Thành phần range là một nhân tố quan trọng để xác định mức equity các người chơi nhận được
nhiều hơn mức equity thuần.

Khi stack lớn, các vòng đặt cược càng còn lại nhiều và đối thủ của bạn chơi càng tốt, việc
cân bằng range càng quan trọng và equity thuần càng trở nên không đáng kể. Khi stack bé,
tất cả tiền sẽ thường xuyên đẩy vào pre-flop hoặc trong flop khiến cho equity thuần trở thành
nhân tố chi phối.

Khi stack càng lớn, cuộc chơi sẽ diễn ra trên nhiều vòng đặt cược hơn, điều này làm tăng nhu
cầu xây dựng nên các range cân bằng tốt.

Xây dựng chiến lược bet ở post-flop hợp lý không phải một việc dễ dàng. Bạn không chỉ cần
phải duy trì lợi thế thông tin của mình ở flop, mà còn cần ở tất cả các vòng đặt cược sau. Độ bao
phủ bài chia là cần thiết cho cả range bet và check. Nếu bạn không có độ bao phủ bài chia đúng,
kể cả range ở flop của bạn được xây dựng tốt để khiến đối thủ khó ra quyết định ở flop, họ vẫn có
thể khai thác bạn ở những vòng đặt cược sau.

Poker là trò chơi về equity, bạn có bao nhiêu và bạn có thể nhận nó hiệu quả đến mức nào. Bet
giúp ghi nhận equity vì nó loại bỏ equity của đối thủ và nó cũng giúp xây dựng SPR theo cách có

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


lợi cho việc ghi nhận equity của bạn. Thành phần range luôn là chìa khoá để xác định chiến thuật
bet tối ưu nhất. Vì lý do này, ở phần tiếp theo, tôi giới thiệu một khái niệm mới gọi là Equity
Buckets giúp nắm được rõ hơn phương pháp chơi ở post-flop.

Những hành động chiến thuật

Giờ chúng ra đã nắm được khái niệm hành động bet, chúng ra có thể đi sâu hơn về những hành
động chiến thuật khác như:

◆ Fold

◆ Check

◆ Call

◆ Raise

Fold

Ở lý thuyết trò chơi, fold hand trong khi được check free là một chiến thuật bị chi phối nghiêm
ngặt và không bao giờ nên sử dụng. Ngay cả khi bạn nghĩ rằng hand của mình thực sự tệ và bạn
biết rằng bạn sẽ fold với bất kỳ lệnh bet nào sau đó, bạn cũng không bao giờ nên chủ động fold
trước. Hãy đợi để đối thủ của bạn thực hiện lệnh bet trước khi bỏ bài của bạn vì bất kể hand của
bạn có thể tệ đến thế nào, nó sẽ luôn có một vài equity hoặc equity backdoor đối với hầu hết những
phân phối range thông thường. Equity này có thể nhận được nếu đối thủ cũng check mà cho phép
lá bài free được chia. Trong một vài trường hợp, bạn có thể tìm được thời điểm thích hợp biến
hand của mình thành một cú bluff và ăn được pot sau đó.

Quan trọng hơn cả, duy trì lợi thế thông tin của bạn trước đối thủ là chìa khoá. Nếu mỗi lần bạn
có hand tệ đều bỏ thay vì check, vậy khi bạn không chủ động fold trước, đối thủ sẽ biết bạn có một
hand tốt và sẽ có thể điều chỉnh theo hợp lý, chỉ cho phép bạn hành động khi họ có một hand mạnh.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Fold chỉ là hành động hợp lý khi đối mặt với lệnh bet từ đối thủ và bạn đánh giá rằng không một
lựa chọn chiến thuật nào khác (call hoặc raise) mang lại lợi nhuận.

Check

Check khi có vị trí khác biệt rất cần thiết so với check khi không có vị trí. Check flop khi có vị
trí loại bỏ một cách hiệu quả một vòng bet, hữu ích cho những phần yếu hơn của range IP. Khi bạn
IP, check ngay lập tức nhận lại equity, bằng cách xem lá tiếp theo hoặc bằng cách showdown.

Ngược lại, check khi OOP không đảm bảo nhận lại được equity vì rất nhiều lần người chơi OOP
sẽ đối mặt với lệnh bet sau khi check và sẽ bị ép phải fold một vài hand và từ bỏ equity trong pot,
khiến việc cần thiết phải cân bằng range thậm chí lớn hơn khi check OOP so với IP. Range check
của IP chỉ cần phải cân bằng trung bình ở lá turn, trong khi range check của OOP cần phải được
cân bằng ở flop để có thể đối phó với những cú bet có thể của IP sau đó.

Call

Call một lệnh bet ở một pot đối đầu ghi nhận equity, bằng cách đến vòng showdown hoặc xem
thêm một lá.

Raise

Raise một lệnh bet là đặt một lệnh bet hiệu quả lớn hơn lệnh bet trước đó, vì vậy các nguyên tắc
tương tự áp dụng cho bet cũng áp dụng cho raise. Bạn sẽ chỉ muốn raise để tận dụng lợi thế biết
chính xác lá bài của mình hoặc nếu raise có thể giúp bạn ghi nhận equity hiệu quả hoặc ngăn cản
đối thủ nhận equity.

Tất cả các hành động khác nhau bạn thực hiện đều truyền tải thông tin. Một khi bạn thực hiện
hành động, bạn chỉ có thể cầm hand hiện hữu trong range thực hiện hành động đó. Một trong những
sai lầm lớn nhất tôi nhất những tân binh mắc phải là cố gắng đưa ra một hand mà họ chắc chắn
không bao giờ có thể có theo như cách hành động được đưa ra. Đó là lý do điều quan trọng không

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


chỉ có khả năng đọc bài đối thủ chính xác, mà còn phải nhận biết được range của chính mình và
đảm bảo giữ chúng cân bằng tốt.

Nếu những gì đối thủ đang cố diễn cho bạn xem không hợp lý, khả năng là họ không có bài.

Equity Buckets (EQB)


Trước đó ở Chương 1 chúng ta đã bàn luận về hình thái range, và đề cập ba dạng range chính:

◆ Range tuyến tính

◆ Range phân cực

◆ Range cô đặc

Chúng ta cũng đã thiết lập rằng một range có thể capped hoặc uncapped và hầu hết các range sẽ
thuộc một hoặc nhiều loại cùng lúc. Mặc dù cách phân loại range này phù hợp với hầu hết tình
huống ở pre-flop và có thể được sử dụng để có được ý tưởng chung chung về phân phối equity của
range, nó thiếu mức độ chi tiết.

Như đã thấy ở phần lý thuyết trò chơi, thành phần range là một trong những nhân tố quan trọng
nhất ảnh hưởng đến hành động. Vì lý do này, tôi giới thiệu một khái niệm mới gọi là Equity Buckets
(Rổ Equity), chuyển trọng tâm từ cách các range được phân loại theo phân phối equity chung của
chúng sang cách các hand trong một range cho trước có thể được phân loại dựa trên một hand so
với equity range. Điều này cung cấp cho chúng ta mức độ chi tiết cần thiết để giúp chúng ta nắm
được cách chơi post-flop tốt hơn:

◆ Những Hand mạnh: Những hand có một hand so với range equity lớn hơn hoặc bằng 75%

◆ Những Hand tốt: Những hand có một hand so với range equity lớn hơn hoặc bằng 50%
nhưng nhỏ hơn 75%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Những Hand yếu: Những hand có một hand so với range equity lớn hơn hoặc bằng 33%
nhưng nhỏ hơn 50%

◆ Những Hand rác: Những hand có một hand so với range equity nhỏ hơn 33%

Bằng cách đặt mỗi hand ở range của người chơi vào rổ equity, chúng ta có một ý tưởng rõ ràng
hơn về việc phân bổ equity ở post-flop của range và có thể chính xác hơn về mức độ một range
phù hợp với các hình thái khác nhau. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là cách mà value của một
hand không phải là tĩnh mà thay vào đó là động, liên quan đến những range đang chơi và loại
board (Table 88).

Bảng 88: EQ Values của các loại hand ở những loại mặt Board khác nhau

Chúng ta có thể thấy cách mà một hand như top pair có thể mạnh với 82% EQ ở mặt flop AQT
nhưng chỉ có 60% EQ ở mặt flop T98 hai lá đồng chất. Một hand như two pair ở AQT có nhiều
equity hơn một set ở T98.

BB với Rổ Equity IP (Tất cả flop)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Rổ equity ở flop trung bình giữa UTG với BB và BN với BB cho những range GTO MTT với độ
lớn stack 20, 30 và 40bbs (Diagrams 23 and 24).

Diagram 23

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 24

Theo như biểu đồ EQB xuyên suốt 1,755 flop, gần nửa range của BB tạo bởi những hand rác có
ít hơn 33% equity, trong khi người chơi IP (BN-UTG) chỉ có trung bình 6% hand rác trong range
của họ. Mặt khác, người chơi IP có 22% những hand mạnh có ít nhất 75% equity, trong khi chỉ 7%
trong range của BB là những hand mạnh. Cả hai người chơi có số lượng hand yếu ngang nhau,
23% cho BB và 29% cho IP. Cuối cùng, range của người chơi IP có 43% những hand tốt trong khi
BB chỉ có 25%.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Size Bet ở Post-flop
Điều chủ chốt khiến NLH khác với những trò chơi poker khác là khả năng bet bất kỳ mức nào, từ
mức chỉ một big blind đến toàn bộ stack của bạn, ở bất kỳ thời điểm nào. Khi chúng ta đề cập
những chiến thuật kết hợp ở Chương 4 chúng ta đã chứng minh rằng chơi một chiến thuật kết hợp
hơn là all-in hoặc fold sẽ mang lại EV. Những câu hỏi sau đây khá thú vị:

◆ Khả năng có thể sử dụng một vài size bet ở post-flop quan trọng như thế nào?

◆ Chúng ta cần có bao nhiêu size bet?

◆ Lối chơi GTO thực thụ có yêu cầu sử dụng số lượng size bet vô tận không, hay có giới
hạn cho EV đạt được bằng cách thêm vào nhiều size bet và tăng mức độ phức tạp cho chiến
thuật của chúng ta?

◆ Có thể có trường hợp tồn tại size bet GTO tối ưu luôn luôn tối đa hoá EV của chúng ra
không?

NLH là một trò chơi tiếp diễn mà sơ đồ trò chơi đầy đủ với những size bet vô hạn không thể rút
ra. Vì vậy, để có thể giải quyết một cách toán học bất kỳ trường hợp NLH nào với bộ giải GTO
hiện đại, chúng ta phải sử dụng lệnh bet trừu tượng với lượng size bet vô tận. Nếu cách chơi tối ưu
thực thụ yêu cầu sử dụng số lượng size bet vô cực hoặc rất lớn, những ứng dụng bộ giải tính toán
sẽ bị hạn chế, thậm chí là vô dụng. Hơn nữa, như đã đề cập trước đây, cái giá của việc áp dụng
những chiến thuật cực kỳ phức tạp có thể vượt quá giá trị nó mang lại và có thể, ở thực tế, ảnh
hưởng đến kỳ vọng của bạn vì những chiến thuật càng phức tạp thì càng khó để thực hiện. Không
giống như máy tính, đối với con người, thậm chí nhiều hơn một vài size bet qua các vòng cược
khác nhau có thể nhanh chóng vượt ngoài tầm kiểm soát.

Ở phần này chúng ta sẽ sử dụng kết quả từ trò chơi toy đã biết và bộ giải hiện đại để trả lời
những câu hỏi trên, để hiểu hơn về size bet GTO và sử dụng kết quả đó để xây dựng những chiến
lược vừa mạnh vừa đủ đơn giản để áp dụng hiệu quả.

Lệnh Raise bằng Pot


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
Lệnh bet bằng pot hoặc raise bằng pot là lệnh bet đưa ra chính xác tỉ lệ 2-1 hay 33% pot odds cho
đối thủ. Bet bằng pot được sử dụng khá rộng rãi ở Pot Limit Omaha (PLO) như là lệnh bet hoặc
raise lớn nhất có thể mà người chơi có thể thực hiện. Vì lý do này, người chơi PLO sẽ thấy quen
thuộc hơn so với người chơi NLH.

Cách để tính một lệnh bet bằng pot rất đơn giản. Giả sử pot là $100, và bạn muốn bet 1/2-pot.
Những gì bạn cần làm là nhân $100 × 1/2 = $50. Nhưng nó sẽ trở hơn khó hơn nếu bạn muốn thực
hiện một lệnh raise bằng pot sau khi đã có người bet.

Để tính một lệnh raise bằng pot, sử dụng công thức sau:

Tính lệnh bet trước đó.


Tính tổng pot bao gồm cả khoản bet tương ứng của bạn trước khi bạn
raise. Thêm vào lượng thêm của khoản bet tương ứng của bạn.

Ví dụ
Pot là $100 và đối thủ bet $50, bạn nên raise bao nhiêu nếu bạn muốn raise bằng pot?

Nếu bạn muốn raise một tỉ lệ so với pot, công thức sẽ như sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Full pot = 100%, nên lệnh raise bằng pot vẫn giữ nguyên:

Nếu bạn muốn raise một mức khác như 50% pot, phép tính sẽ là:

Lệnh raise 25% pot là:

Nhắc lại Alpha và MDF


EV phải được so sánh giữa tất cả các hành động khác nhau một người chơi có thể thực hiện. Tôi
đã xem rất nhiều top pro, và thậm chí những huấn luyện viên poker nổi tiếng, phạm sai lầm khi sử
dụng Alpha Number và MDF để điều chỉnh những lối chơi tệ. Cuộc thảo luận thường diễn ra như
sau:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


“Lệnh bet ở flop rất có lợi nhuận, nó chỉ phải thực hiện X% số thời gian và đối thủ đang
fold nhiều hơn thế, do đó tôi kiếm được tiền!”

Mặc dù tuyên bố đó có thể đúng, chúng ta không thể quên rằng số liệu Alpha và MDF đến từ
đâu. Chúng được suy ra từ phương trình EV. Họ cho rằng EV khi check hand của bạn là 0 và mỗi
khi bạn bị call và đang bluff bạn sẽ thua pot và khoản bet của bạn. Tuy nhiên, ở flop hầu hết các
hand poker sẽ luôn luôn có một vài equity, thậm chí những hand tệ nhất cũng có thể cải thiện ở
những vòng cược sau. Vì lý do này, số liệu Alpha và MDF bị sai lệch. Thực tế, BB không phải
phòng thủ nhiều hand như là MDF đưa ra, vì họ không phải khiến cho hand tệ nhất của IP bàn
quan với 0. IP phải khiến họ trở nên bàn quan với EV của việc check lại. Đồng thời, IP sẽ không
luôn luôn thua toàn bộ pot khi họ bị call và đang bluff vì đôi lúc hand bluff này sẽ giúp lấy được
equity khiến cho việc bet liên tục mang lại lợi nhuận nhiều hơn kỳ vọng.

Những số liệu này trở nên phù hợp hơn ở river khi không còn lá bài nào được chia thêm và bạn
biết nếu hand của mình có equity ở pot hay không. Khi quyết định bet hay check một hand, bạn
cần so sánh EV của cả hai hành động và chọn hành động bạn nghĩ sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn
kỳ vọng.

Alpha và MDF có thể được sử dụng như một hướng dẫn tương đối, nhưng bạn không thể xây
dựng chiến lược cốt lõi của mình chỉ dựa trên chúng và nghĩ rằng đó là GTO.

Chia nhỏ Range thành nhiều Size Bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bạn cần bao nhiêu size bet với một flop cho trước? Bạn có nên chia nhỏ range nhiều nhất có thể
bằng cách bet những lượng khác nhau dựa theo độ mạnh của hand?

Trò chơi Toy [0-1]

Trò chơi Toy [0-1] có thể được sử dụng để phân tích những tình huống đối đầu khi cả hai người
chơi có những range đối xứng. Ở trò chơi này, cả hai người chơi được chia một số ngẫu nhiên nằm
trong khoảng từ 0 đến 1 (bao gồm cả số thập phân như .04563) đại diện cho hand của họ. Những
số lớn hơn sẽ đánh bại số bé hơn. Trò chơi này được chơi trên một vòng cược. Nếu IP bet, OOP
chỉ có thể call hoặc fold, và không thể x/r.

Ở lập trình này, cả hai người chơi có thể có số lượng hand vô tận vì tồn tại vô hạn số nằm giữa
0 và 1. Kết quả chung là chiến lược tối ưu cho IP là sử dụng số size bet vô hạn dựa trên độ mạnh
hand của họ. Vì vậy IP nên lựa chọn một hand có giá trị, ví dụ 0.99, và đi đôi với nó là một hand
bluff được chọn từ một trong những hand yếu nhất ở range, ví dụ 0.01. Sau đó IP bet một mức cụ
thể thay đổi theo độ mạnh value của hand, sử dụng size bet lớn nhất với hand có value mạnh nhất,
size bet lớn thứ hai với hand có value mạnh thứ hai, size bet lớn thứ ba với hand có value mạnh
thứ ba và tương tự vậy.

Chúng ta có thể tái hiện trò chơi Toy [0-1] vào bộ giải GTO hiện đại bằng việc đưa cho cả hai
người chơi một range cố định gồm 10 hand được lựa chọn kĩ càng để không có hiệu ứng lá bài
chặn:

Hero: IP với range bao gồm A♣A♦, K♣K♦, Q♣Q♦, J♣J♦, T♣T♦, 9♣9♦, 8♣8♦, 7♣7♦, 6♣6♦,
5♣5♦

Villain: OOP với range bao gồm A♠A♥, K♠K♥, Q♠Q♥, J♠J♥, T♠T♥, 9♠9♥, 8♠8♥, 7♠7♥, 6♠6♥,
5♠5♥

Mặt board: 2♥2♠2♦3♠3♥ vậy không có liên quan gì với những range trên.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Độ lớn của stack: 2x Pot
Size bet: cả pot, 2/3-pot và 1/3-pot.

Ở ví dụ này chúng ta có kết quả tương tự dự đoán ở trò chơi Toy [0-1] với hand mạnh nhất của
Hero là AA sử dụng size bet lớn nhất, KK sử dụng size bet mạnh thứ hai và cuối cùng QQ sử dụng
size bet bé nhất và cân bằng chúng với 55, và 66 sử dụng cả ba loại size bet (tỉ lệ của 55 trong
range không đủ để tạo nên tất cả tần suất bluff nên một phần nhỏ tỉ lệ của 66 được sử dụng để tạo
nên sự khác biệt). JJ-77 luôn luôn được check.

Phản ứng của Villain ở trò chơi Toy này là luôn luôn call AA với mọi size bet, sau đó thêm vào
đủ số hand khác để khiến những cú bluff của IP trở nên bàn quan với lệnh bet hoặc check.

Trò chơi Toy [0-1] Ví dụ A

Tuy nhiên, trò chơi toy này có một vài hạn chế mà poker không có. Ví dụ, ở poker, đối thủ có thể
raise lệnh bet của bạn nên, nếu bạn sử dụng size bet ⅓ pot, họ sẽ biết bạn chỉ có thể cầm QQ hoặc
55 và sử dụng thông tin đó để tấn công range capped của bạn bằng cách raise với một range phân
cực chống lại sự phân phối đó, ví dụ AA, KK hoặc một bài cú bluff. Điều này sẽ cho phép đối thủ
kiếm được thêm EV (Hand Range 337).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 337: Không cho phép x/r • Bet Full Pot 15% / • Bet 2/3 Pot 14% / • Bet 1/3 Pot
15%/ •
Check 56%

Trò chơi Toy [0-1] Ví dụ B

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu Villain được cho phép x/r đối với size bet ⅓-pot, họ có thể tận dụng thông tin Hero đang đưa
ra để có lợi thế về cách xây dựng range của Hero. Vì vậy, Hero ngay lập tức thay đổi không bao
giờ sử dụng size bet đó và QQ sẽ chuyển hoàn toàn sang size bet 2/3-pot (Hand Range 338).

Hand Range 338: OOP x/r vs the 1/3 Bet-size • Bet Full Pot 15% / • Bet 2/3 Pot 28% / • Bet 1/3
Pot 0%/ • Check 57%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trò chơi Toy [0-1] Ví dụ C

Nếu chúng ta được cho phép x/r với cả ba loại size bet khác nhau, Hero không còn có thể chia nhỏ
range thành nhiều size bet và sẽ điều chỉnh để chỉ sử dụng lệnh bet bằng pot, thu hẹp range value
thành KK+ và check lại với QQ-66 (Hand Range 339).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 339: OOP x/r allowed vs all bet-sizes • Bet Full Pot 30% / • Bet 2/3 Pot 0% / • Bet
1/3 Pot 0%/ • Check 70%

Trò chơi Toy [0-1] Ví dụ D

Nếu chúng ra đưa cho Hero lựa chọn all-in và bet pot thêm vào trong khi Villain được cho phép
x/r, Hero sẽ chia nhỏ range của họ thành hai size bet:

◆ Size bet all-in được sử dụng với AA 42% số thời gian và cân bằng bởi bluff với 55 26% số
thời gian.

◆ Size bet bằng pot được sử dụng với KK 100% số thời gian và được cân bằng với AA
58% số thời gian, điều này giúp IP được bảo vệ khỏi OOP x/r và với 55 74% số thời gian là
bluff.

All-in là một size bet đặc biệt bởi nó giới hạn quyền chọn của Villain thành chỉ call và fold. Ở
độ lớn stack 2x pot này, OOP không thể sử dụng một cách hiệu quả thông tin đưa ra bởi Hero cho
mục đích khai thác.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 340: IP All-in allowed (2x Pot) • Bet All-in 7% / • Bet Pot 24% / • Check 69%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu chúng ta tăng SPR lên 3, Hero sẽ không bao giờ all-in và quay lại chỉ sử dụng size bet bằng
pot. Với SPR là 3, bluff với 55 bắt đầu trở nên quá đắt đỏ vì range của OOP đủ mạnh để phòng
thủ một cách hiệu quả(Hand Range 340).

Tóm tắt

Bảng 89: Tóm tắt kết quả trò chơi Toy

Ở trò chơi Toy A, khi Villain không được cho phép x/r, Hero có thể chia nhỏ range bet thành
ba size bet khác nhau cho phép nắm bắt được 56.11% pot.

Ở trò chơi Toy B nếu chúng ta cho phép Villain chỉ được x/r đối với size bet 1/3-pot, phản ứng
của Hero là dừng sử dụng size bet đó và EV của họ sẽ giảm xuống 54.98%. Nếu chúng ta cố định
chiến thuật của Hero ở trò chơi Toy B để ép sử dụng size bet ⅓ pot, mặc dù nó có thể bị khai thác
bởi Villain’s x/r, EV của Hero giảm xuống 54%.

Ở trò chơi Toy C, Hero quay lại một size bet duy nhất do sự khai thác bởi OOP x/r.
Ở trò chơi Toy D, độ lớn stack của Hero cho phép họ chia nhỏ range của mình thành all-in hoặc
bằng pot khi SPR bằng 2, điều này đảm bảo kiếm được lượng EV nhỏ trong tổng số 55.06% EV.
Tuy nhiên, Hero hầu như vẫn giống như trò chơi Toy C chỉ sử dụng lệnh bet bằng pot. Nếu ta tăng
SPR lên 4 ở trò chơi Toy D, Hero sẽ không sử dụng size bet all-in nữa mà chọn chỉ sử dụng size
bet bằng pot và không bị mất EV vì đã giới hạn Hero chỉ ở mức bet bằng pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Giới hạn Hero chỉ sử dụng mức bet bằng pot giúp giữ lại EV, trong khi giới hạn mức bet ⅓ pot
chỉ giảm EV của Hero xuống 53.27%. Vì vậy, chọn size bet sai sẽ mất EV.

Hiệu ứng SPR


Thử những kết quả SPR khác nhau vào chiến thuật của Hero cho thấy ưu tiên cho các size bet sau:
(Table 90).

Bảng 90: Những size bet tối ưu trong một vòng cược của trò chơi Toy [0-1] (Những ô
được tô màu là lệnh bet all-in)

◆ Nếu SPR bằng 1 hoặc nhỏ hơn, size bet tối ưu thực tế là all-in.

◆ Đối với SPR 1-2, range được chia nhỏ thành pot và all-in.

◆ Đối với SPR 3, bet all-in bị dừng sử dụng và range bet chia nhỏ thành 75% pot và 125%
pot

◆ Đối với SPR 5 đến 10, range bet chia nhỏ thành 75% pot và 150% pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu chúng ta đơn giản hoá chiến thuật của Hero vào một vòng cược của trò chơi Toy [0-1] bằng
cách loại bỏ size bet ít được sử dụng nhất khỏi sơ đồ trò chơi với tất cả các mức SPRs, để lại cho
Hero một lựa chọn size bet duy nhất, EV mất đi giảm khi SPR giảm và EV mất đi trung bình với
tất cả các mức SPRs là 0.21% pot (Table 91).

Bảng 91: So sánh size bet đơn và đôi của Hero

Kết luận

Sử dụng những size bet khác nhau khá nguy hiểm và còn nguy hơn ở những vòng bet sớm. Chia
nhỏ range thành những size bet khác nhau sẽ cung cấp thông tin đối thủ có thể tận dụng để chống
lại bạn khi họ có quyền chọn raise hoặc bet. Hiệu ứng này được phóng đại khi bet diễn ra ở nhiều
vòng cược. Cách mà range tương tác với mặt board và các lá bài được mở ra thay đổi mức equity
là trường hợp của poker thực tế. Khi mặt board chia ra có thể thay đổi value của hand và có những
hiệu ứng lá bài chặn có thể bởi mặt board hoặc hand của Villain chặn những hand value hoặc bluff,
nên sử dụng ít size bet hơn.

Vì lý do này, chúng ta không phải lo lắng việc lối chơi tối ưu bao gồm những size bet vô hạn vì
luôn luôn có sự cân bằng giữa mức EV có thể đạt được bằng cách sử dụng size bet hoàn hảo với
tỉ lệ cụ thể trong range và mức độ bạn thua bởi việc đưa cho đối thủ thêm thông tin về hand bạn
nắm giữ.

Mặc dù bộ giải GTO có thể chia nhỏ và cân bằng nhiều size bet thì EV đạt được, trong hầu hết
các trường hợp, không đủ đáng kể để đảm bảo độ khó gia tăng cho người chơi có thể áp dụng
chúng.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tôi đã thử rất nhiều size bet khác nhau trong hàng ngàn những mô phỏng GTO ở post-flop trên
tổng 1,755 flop và phát hiện rằng hầu hết flop sẽ có một hoặc hai size bet chiếm ưu thế. Nếu những
size bet gần nhau, ví dụ 25% pot hoặc 33% pot, chúng sẽ có EV gần như y hệt nhau, khiến cho bộ
giải không phân biệt chúng. Nếu bộ giải chia nhỏ range của người chơi đồng đều giữa hai size bet
tương tự, sơ đồ trò chơi có thể đơn giản hoá bằng cách loại bỏ size bet tần suất thấp hơn và chỉ giữ
lại size bet tần suất cao mà không mất đi EV vì hầu hết thời gian sự chênh lệch EV nằm trong
khoảng cân bằng Nash. Điều tương tự có thể được thực hiện nếu một size bet hoàn toàn chiếm ưu
thế và bộ giải chọn một vài size bet khác không thường xuyên. Những size bet tần suất thấp có thể
bị loại bỏ khỏi sơ đồ trò chơi và chiến thuật mới chỉ sử dụng size bet tần suất cao hơn sẽ giúp giữ
lại EV. Cuối cùng, nếu bộ giải chia nhỏ range thành hai size bet chênh lệch rất lớn, cả hai size bet
có thể bị thay thế bởi size bet khác có giá trị ở giữa.

Đơn giản hoá chiến thuật bằng cách loại bỏ size bet bé nhất và chỉ để lại size bet lớn thường
làm giảm tần suất bet vì nhiều hand có lợi nhuận với size bet nhỏ hơn không còn là một lệnh bet
mang lại lợi nhuận với size bet lớn hơn. Ngược lại, loại bỏ size bet lớn khỏi mô phỏng mà chỉ để
lại size bet nhỏ sẽ thường tăng tần suất bet của người chơi.

Cả lý thuyết và thực tế đều đồng tình với tiền đề rằng việc chia nhỏ range thành nhiều size
bet không thêm lượng EV đáng kể vào chiến thuật của bạn chống lại đối thủ GTO có thể phản
ứng đúng cách. Tuy nhiên, thay đổi size bet khai thác của bạn với những phần khác nhau của
range chống lại một người chơi bạn nghĩ là sẽ mắc sai lầm có thể cực kỳ lợi nhuận.

Size bet tối ưu


Có tồn tại size bet tối ưu mà luôn luôn tối đa hoá EV của bạn không?
Size bet ảnh hưởng bởi độ phân cực range của người chơi và số vòng đặt cược còn lại. Trước đó ở
Chương 2, chúng ra đã nói về trò chơi Clairvoyance Toy một vòng cược cho thấy cách thức, với
một range phân cực đối đầu với một range bắt bluff, size bet tối ưu là bet toàn bộ chip của bạn, và
size bet tối ưu cho người chơi với range không phân cực là bet 0 chip (luôn luôn check).
Ở trò chơi Toy [0-1] một vòng cược, chúng ta đã thấy rằng size bet tối ưu khi những range của
người chơi đối xứng là bet lớn nhưng vì cả hai người chơi có range giống nhau nên có giới hạn về
độ lớn của lệnh bet có thể và giới hạn đó phụ thuộc vào SPR. Nhưng NLH được chơi ở nhiều vòng
cược, vậy việc chơi nhiều vòng cược ảnh hưởng lối chơi ở trò chơi toy này như thế nào?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Size bet theo cấp số nhân

Size bet tối ưu giúp tối đa hoá EV cho người chơi với range phân cực ở bản nhiều vòng cược của
trò chơi Clairvoyance Toy được đưa ra bởi sự tăng trưởng theo cấp số nhân của pot. Điều này đặt
ra một cấu trúc bet mà tỉ lệ với pot giống nhau được bet ở mỗi vòng để lệnh bet ở river luôn luôn
là all-in.

Công thức chung để tính ra size pot cuối cùng sau một số vòng đặt cược là:

Trong đó:
FP = Size Pot cuối cùng

SP = Size Pot khởi điểm

R = Tỉ lệ tăng trưởng của Pot

S = Số vòng đặt cược

Có thể sắp xếp lại để tính ra tỉ lệ tăng trưởng của Pot (R) sau đó sử dụng để tính Size bet theo
cấp số nhân. (Chứng minh cho khái niệm này vượt ngoài phạm vi của văn bản này. Nếu bạn muốn
mở rộng về nó bạn có thể tìm thấy thông tin chi tiết ở cuốn The Mathematics of Poker bởi Bill
Chen và Jerrod Ankenman.)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ví dụ
Trò chơi: Cash game trực tiếp
Stacks: Hero $1,900, Villain: $1,000

Players: 9
Blinds: $5/$10 (không ante)
Pre-flop: Hành động fold đến Hero ở vị trí SB raise $35, Villain ở vị trí BB call, và chúng ta đến
với flop. Hero nên bet bao nhiêu ở mỗi vòng cược nếu muốn sử dụng size bet theo cấp số nhân?

Chúng ta cần phải tìm ra tỉ lệ tăng trưởng của pot (R). Ở ví dụ này, bet được tính qua ba vòng
đặt cược bắt đầu từ flop, do đó pot khởi điểm là $70, size pot cuối cùng khi cả hai người chơi all-
in sẽ là $2,000 và số vòng đặt cược là 3.

Đầu tiên chúng ta tính tỉ lệ tăng trưởng của pot (R):

Do đó size bet theo cấp số nhân được đưa ra là:

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nếu Hero muốn sử dụng size bet theo cấp số nhân, điều cần thiết là phải bet quá pot một chút ở
mỗi vòng đặt cược:

Điều quan trọng phải nhận ra rằng áp dụng size bet theo cấp số nhân khi stack quá lớn dẫn đến
lệnh bet vô cùng lớn (thường sẽ là những lệnh bet quá đà). Ở poker thực tế, các range sẽ không
bao giờ là phân cực hoàn hảo và bet quá lớn ép buộc Villain phải fold phần yếu hơn ở range của
họ và họ sẽ chỉ theo tiếp với những hand mạnh nhất. Nếu bạn bet đủ lớn để khiến Villain chỉ call

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


khi bạn bị đánh bại, bạn sẽ không thể bet value thêm được vì bet sẽ khiến bạn mất tiền. Do đó, có
một hạn chế với size bet Hero có thể sử dụng qua các vòng đặt cược. Đặc biệt khi stack lớn, hạn
chế này sẽ ít hơn là size bet theo cấp số nhân.

Size bet theo cấp số nhân chỉ áp dụng cho những tình huống khi range của một người chơi là phân
cực hoàn hảo (bao gồm những hand với 100% equity và những hand với 0% equity) và range của
người chơi khác là 100% bắt bluff, điều mà sẽ không bao giờ xảy ra ở poker thực tế. Vậy, không
có khả năng size bet theo cấp số nhân trở nên tối ưu đối với Hero, nhưng ít nhất nó cho chúng ta
ý tưởng tốt về chiến thuật của Hero khi range của họ là phân cực: đặt những lệnh bet lớn qua nhiều
vòng cược!

Hiệu ứng Range Phân cực

Chúng ta quay lại với trò chơi Toy [0-1] một vòng cược với giả lập sau:

The board: 2♥2♠2♦2♣3♥

The SPR: 4
Bet-sizes: 30% Pot, 60% Pot, 90% Pot, 120% Pot, All-in
Hero: IP
Villain: OOP
Ở trò chơi toy này Villain luôn luôn check với Hero, nhưng được phép raise nếu Hero bet. Ở
giả lập này cả hai người chơi luôn có 50% equity.

[0-1] Trò chơi Toy A: Hero có bất lợi lớn về độ phân cực
Range của Hero là QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66
Range của Villain là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


[0-1] Trò chơi Toy B: Hero có bất lợi ít về độ phân cực
Range của Hero là KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55
Range của Villain là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44

[0-1] Trò chơi Toy C: Range đối xứng


Range của Hero là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44
Range của Villain là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44

[0-1] Trò chơi Toy D: Villain có bất lợi ít về độ phân cực


Hero’s range is AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44
Villain’s range is KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55

[0-1] Trò chơi Toy E: Villain có bất lợi lớn về độ phân cực
Range của Hero là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44
Range của Villain là QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66

Bảng 92: Thống kê của Hero theo độ phân cực của range

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


EV của Hero tăng vì có được lợi thế về độ phân cực (Table 92). Size nhỏ 30% Pot không bao
giờ được sử dụng và những size bet lớn hơn được sử dụng nhiều hơn vì range của Hero có được
lợi thế về độ phân cực.

◆ Trò chơi Toy A (Range của Hero phân cực lớn): Chiến thuật là luôn luôn check và
chia nhỏ pot 50% số thời gian.

◆ Trò chơi Toy B (Range của Hero phân cực ít): Hero có thể bắt đầu bet ~15% số thời
gian sử dụng size bet 60% và không sử dụng những size bet lớn hơn.

◆ Trò chơi Toy C (các range đối xứng): Range của Hero chia nhỏ giữa những size bet
lớn hơn ở mức 90% và 120% nhưng all-in vẫn chưa được sử dụng.

◆ Trò chơi Toy D (Hero bắt đầu có một chút lợi thế về độ phân cực): size bet all-in
bắt đầu được sử dụng, nhưng size bet ưu tiên là bet quá 120%.

◆ Trò chơi Toy E (Hero có lợi thế lớn về độ phân cực): all-in trở thành size bet tối
ưu, những size bet nhỏ và vừa không bao giờ được sử dụng.

Nếu range của Hero trở nên phân cực hoàn hảo và range của Villain trở thành chỉ bắt bluff,
chiến thuật sẽ là Hero chỉ sử dụng size bet all-in.

Bet qua nhiều vòng đặt cược

Trò chơi Toy nhiều vòng đặt cược [0-1]


The board: 2♥2♠2♦2♣ (chơi ở turn)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


The SPR: 4
Bet-sizes: 30% Pot, 60% Pot, 90% Pot, 120% Pot, All-in
Hero: IP
Villain: OOP

Ở trò chơi toy này Villain check với Hero ở turn nhưng được phép raise nếu Hero bet. Cả hai
người chơi có thể bet, raise, call hoặc fold ở river.

Sử dụng những ví dụ về sự phân phối range tương tự như phần Hiệu ứng Độ phân cực của
Range, chúng ta có thống kê về độ phân cực của range sau đây (Table 93).

Bảng 93: Số liệu thống kê của Hero dựa theo độ phân cực của range

Ở lập trình này, Hero không chỉ có lợi thế về độ phân cực, mà còn có lợi thế equity, do dó kỳ
vọng thậm chí còn lớn hơn nhiều so với trò chơi toy một vòng đặt cược. Đồng thời, bet qua nhiều
vòng đặt cược luôn luôn có lợi cho người chơi có range phân cực.

Ở trò chơi Toy A và B, Hero có range không phân cực. Ở trò chơi toy một vòng cược, Hero vẫn
có thể bet với tần suất thấp khi ta loại bỏ KK và 44 khỏi range của anh ta. Tuy nhiên, ở bản trò
chơi nhiều vòng cược, thậm chí chỉ một chút bất lợi về độ phân cực cũng khiến cho Hero phải
dừng việc thực hiện bất kỳ một lệnh bet nào. Mặc dù có vị trí, Hero chọn sẽ không bao giờ bet, vì
check lại giúp loại bỏ hiệu quả một vòng cược khỏi sơ đồ trò chơi, cho phép Hero đến với lá river
với toàn bộ range của mình. Trong khi đó bet có thể khiến Hero phải fold một vài hand vì x/r. All-

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


in cũng sẽ không giúp cho Hero vì range của Villain mạnh hơn range của Hero và đặt một lệnh
bet rất lớn với range yếu hơn dẫn đến thua cuộc.

Ở trò chơi Toy C, các range đối xứng và Hero bắt đầu sử dụng size bet nhỏ hơn vào mức 30%
Pot lần đầu tiên. Vì Hero có lợi thế về độ phân cực, tần suất bet tổng thể tăng lên, và những size
bet lớn hơn được áp dụng. Với SPR 4, size bet theo cấp số nhân với hai vòng cược là 100% pot,
nhưng size bet được chọn lựa bởi bộ giải nhỏ hơn thế rất nhiều, nên range của Hero phải phân cực
hơn rất nhiều so với Villain để size bet lớn hơn trở nên chiếm ưu thế. Ở trò chơi Toy E, chiến thuật
của Hero là bet nhỏ ở turn với tần suất cao, kết hợp tỉ lệ phân cực và không phân cực của range.
Hành động này thường được biết đến là range merging (hợp nhất range) . Lý do Hero chọn bet
một range hợp nhất thay vì một range phân cực là vì khả năng Villain sẽ bet ở river. Nếu Hero quá
phân cực range bet ở turn, chọn size bet lớn với phần trên và giữa của range, check lại những hand
trung bình như TT-88, thì Villain có khả năng bet ở river và tất công capped range của Hero và do
đó tăng kỳ vọng. Bằng cách bet một range hợp nhất với size bet nhỏ hơn ở turn, Hero phải tăng
tần suất bet, giảm thiểu ảnh hưởng việc check lại một capped range yếu hơn. Hơn nữa, sau khi
Villain đã call lệnh bet ở turn, Villain sẽ hầu hết check với Hero, sau đó Hero sẽ có thể check
những hand có độ mạnh trung bình, và nhận được equity.

Nếu chúng ta tăng lợi thế độ phân cực của Hero bằng cách giảm range của Villain xuống JJ-77
(Trò chơi Toy F), Hero sẽ có thể bet 100% range ở lá turn. Size bet 30% vẫn duy trì với tần suất
lớn nhất, nhưng size bet 60% bắt đầu biến mất, trong khi tần suất size bet 90% tăng lên và Hero
bắt đầu tiến đến bet quá 120% (Table 94).

Bảng 94: Kết quả của trò chơi Toy F

Kết luận

Range của Hero càng phân cực so với range của Villain, Hero càng nên sử dụng size bet lớn hơn.
Nếu bet diễn ra ở nhiều vòng cược, Hero nên chọn những size bet nhỏ hơn ở những vòng cược

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


đầu và chọn bet một range hợp nhất, đợi đến khi những vòng cược tiếp theo bắt đầu phân cực
range bet của mình, trừ khi anh ta có một lợi thế độ phân cực thêm vào rất lớn. Ở trường hợp đó,
size bet của anh ấy sẽ tiếp cận thành size bet theo cấp số nhân trừ khi SPR quá cao vì có nguy cơ
range của Villain bao gồm trap, điều này làm giảm lợi nhuận của việc bet lớn. Vì lý do này, lệnh
bet all-in hiếm khi được sử dụng ở những vòng bet đầu trừ khi stack quá bé.

Size bet dựa trên bài chia


Chúng ta đã biết rằng bạn không cần chia nhỏ range thành những size bet khác nhau ở flop, nhưng
bạn có nên có những size bet khác nhau cho những flop khác nhau không?
Những flop khác nhau sẽ có ảnh hưởng khác nhau tới equity và độ phân cực của range. Thí
nghiệm của chúng ra với trò chơi Toy [0-1] chứng minh rằng size bet bị ảnh hưởng bởi độ phân
cực range và đồng thời việc sử dụng size bet sai có thể mất EV. Điều này cho thấy rằng chơi GTO
ở những loại flop khác nhau bao gồm việc sử dụng những size bet cụ thể với từng flop.

Để kiểm tra giả thuyết này tôi đã cho chạy tất cả 1,755 flop ở Single Raised Pot (SRP) giữa BB
và BN với stack hiệu dụng 40bb. Ở một mô phỏng tôi đã sử dụng bốn size bet khác nhau: bet tối
thiểu, 1/3-pot, 1/2-pot và 2/3-pot, và có được EV trung bình của IP qua tất cả các flop tính theo tỉ
lệ riêng của mỗi pot, theo thứ tự để đại diện cho tất cả 22,100 flop cụ thể. Sau đó tôi chạy lại một
kịch bản tương tự chỉ sử dụng size bet 1/3-pot. Kết quả được tóm tắt ở Bảng 95.

Bảng 95: Tóm tắt các mô phỏng với những size bet khác nhau

Mức chênh lệch EV trung bình qua tất cả các flop là -0.14% pot, hoặc 0.9bb/100, khi sử dụng
một size bet so với bốn size bet. Tuy nhiên, phép thử này so sánh mô phỏng một size bet so với
mô phỏng có bốn size bet và có thể tối đa hoá EV của mỗi combo bằng cách chọn bất kỳ một trong

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


số bốn size bet hiệu dụng. Điều này khác với việc chạy mỗi một trong số 1,755 mô phỏng chỉ sử
dụng size bet tốt nhất trong số bốn size bet ở mỗi flop. Đồng thời, nếu tôi làm vậy, EV của việc
chỉ sử dụng “size bet tối ưu” trong số bốn lựa chọn không thể lớn hơn EV của việc sử dụng 4 size
bet mà có thể tối đa hoá EV của mỗi combo vì nếu trong trường hợp đó, bộ giải sẽ chỉ lựa chọn
một trong số chúng ngay cả khi có bốn lựa chọn. Hầu hết, EV của việc giải mỗi flop với chỉ một
size bet tối ưu phải giống với EV của một mô phỏng có cả bốn size bet.

Giả định lối chơi hoàn hảo từ mỗi người chơi, EV mất đi trung bình khi chỉ sử dụng size bet
1/3-pot ở giả định không quá 0.9bb/100. Con số này có thể thay đổi với những độ lớn stack khác
nhau và những range khác nhau, nhưng đưa ra cho chúng ta khởi điểm hợp lý, vì đây là mức trung
bình qua tất cả 1,755 flop. Nó không giống như khi thua -0.9bb/100 ở một flop, nên con số này rất
đáng kể. Tuy nhiên, nó giả định lối chơi hoàn hảo từ cả hai người chơi và ta biết rằng điều này
khác xa so với poker thực tế, rằng cả Hero và Villain đều sẽ mắc sai lầm.

Một số người ủng hộ việc đơn giản hoá những chiến lược của họ bằng cách “một size bet cho tất
cả” dựa trên tiền đề rằng việc điều chỉnh size bet theo flop là không đáng, với EV nhỏ, nếu có, đạt
được khi so sánh với việc sử dụng size bet hợp lý xuyên suốt 1,755 flop. Mặc dù tôi biết điều này
có lý, tôi không đồng tình với cách “một size bet cho tất cả” này. Đúng vậy, sẽ không có quá nhiều
EV thắng được khi đối đầu với một người chơi GTO khi thay đổi size bet của bạn ở những flop
khác nhau. Tuy nhiên, bạn sẽ không đấu với một người chơi GTO. Cố gắng nỗ lực hơn nữa để
hiểu được cách mà một vài flop khác với những cái còn lại và sử dụng size bet nào thì hợp lý hơn.
Với cách mà range tương tác với mặt board sẽ không chỉ giúp hand của bạn dễ chơi hơn, mà còn
gây ra nhiều khó khăn hơn cho đối thủ khiến họ không quen khi đối mặt với nhiều size bet khác
nhau. Kể cả khi người chơi GTO có thể phòng thủ với tần suất call, fold và raise chính xác khiến
cho những size bet của bạn trở nên vô nghĩa hay chỉ tốt hơn một chút so với size bet “thông
thường”, điều đó có thể không xảy ra với đối thủ con người phải chật vật để phòng thủ lại những
điều không thông thường. Bạn sẽ không gặp phải vấn đề đó. Nếu đối thủ của bạn sử dụng size bet
GTO hoặc gần giống thế để đấu với bạn, bạn nên biết cách phòng thủ. Nếu đối thủ sử dụng một
size bet không phải GTO, vậy bạn có thể thử khai thác lựa chọn size bet kém tối ưu này.

Ví dụ

Bạn ở vị trí BB với stack hiệu dụng 30bb, UTG raise mức tối thiểu, các hành động fold đến bạn
và bạn call. Flop chia ra J♠2♥2♦ và bạn check.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở một flop có đôi như J22, cách chơi GTO của UTG khi bị check là bet mức tối thiểu ở flop
100% thời gian và điều này sẽ mang lại EV vào mức 77.05. Nếu đối thủ của bạn bet ⅔ pot, họ sẽ
không còn tiếp tục bet toàn bộ range được nữa, vì nếu làm vậy, bạn sẽ có thể khai thác họ bằng
cách chuyển sang một chiến thuật chỉ x/r sẽ khiến EV của Villain giảm xuống 71.1. Nếu họ là một
người chơi tốt và biết giảm tần suất C-bet của họ xuống để khớp mức cân bằng mới, họ nên thực
hiện c-bet ở flop 42.45% thời gian và EV của họ sẽ là 74.10. Nếu người chơi này đủ khôn ngoan
để biết một chiến thuật c-bet GTO ⅓ pot tốt là như nào từ vị trí UTG đấu với BB ở mặt J22, tại
sao họ sử dụng một chiến thuật kém tối ưu làm mất EV thay vì tiếp tục theo GTO? Cơ hội là họ sẽ
không c-bet với tần suất GTO cho size bet đó và range của họ có khả năng bị mất cân bằng cao,
do đó thậm chí sẽ có nhiều khoảng trống để khai thác hơn.

Để kiếm tiền từ chơi poker, bạn không cần phải chơi GTO hoàn hảo ở mỗi vòng và không
cần phải biết size bet tối ưu chính xác nhất cho mỗi flop bất kỳ vì đối thủ của bạn cũng không
thể tự chơi GTO hoàn hảo. Tất cả những gì bạn phải làm là đưa ra, trung bình, nhiều quyết
định tốt hơn họ, đủ để tạo nên một tỉ lệ thắng vững chắc, và liên tục cải thiện để họ không thể
bắt kịp bạn.

Hầu hết thời gian bộ giải không có sự khác biệt với những size bet giống nhau. Ví dụ, không có
quá nhiều khác biệt giữa bet 25% hoặc 33% Pot, hay 60% hoặc 67% Pot. Hầu hết thời gian nó đủ
tốt để biết rằng flop là flop “size bet lớn” hay flop “size bet nhỏ”. Đối với MTTs, tôi khuyên dùng
hai size c-bet: bet tối thiểu và bet quá 120% kết hợp. Nếu bạn muốn đơn giản hoá chiến thuật của
mình thành chỉ một size bet, bạn có thể lựa chọn ⅓-pot xuyên suốt board, điều mà thực tế hầu hết
những người chơi MTT trực tuyến đang sử dụng trong những trò chơi hiện đại. Chiến thuật này
hoạt động hiệu quả đối với đa số vì nó đơn giản hoá sơ đồ trò chơi, nó rất dễ áp dụng, và nó cho
phép bạn c-bet với tần suất cao ở hầu hết các mặt board. Điều này ép Villain phải đưa ra quyết
định, để lộ thông tin về range của họ với mức phí thấp. Nó cũng khai thác xu hướng đa số, vì hầu
hết người chơi vẫn fold quá đà khi gặp những lệnh bet nhỏ.

Lời khuyên của tôi là hãy trở nên thuần thục với ít nhất một vài size bet (một cái lớn và một cái
nhỏ), và biết cách áp dụng chúng chính xác. Lúc này bạn có một chiến thuật vững chắc bạn có thể
đấu lại những đối thủ khó nhằn khiến họ phải liên tục đoán bài bạn trong khi bạn vẫn có thể phòng
thủ hiệu quả khi họ là những người chơi không sử dụng chiến thuật thông thường. Đối với những
người chơi yếu hơn, bạn có thể kết hợp chúng và chơi một chiến thuật khai thác. Đừng sợ bị khai
thác ngược lại khi chơi với đối thủ bạn không hiểu vì kể cả khi họ biết bạn đang làm gì, cơ hội là
họ sẽ không biết được cách điều chỉnh chính xác chống lại bạn. Cứ tiếp tục tấn công họ cho đến
khi họ bắt đầu chống trả. Nếu bạn nghĩ có thể thoát khỏi việc c-bet ở tần suất cao hơn là tối ưu

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


chống lại đối thủ hoặc ép họ phải fold hoặc call size bet của bạn, hãy cứ làm vậy! Hãy luôn tỉnh
táo và nhận thức được tình huống mình gặp phải.

Size bet và Những Bộ giải Hiện đại


Những bộ giải GTO hiện đại có thể được thiết lập cho một vị trí cụ thể với một vài size bet, nhưng
nó tuỳ thuộc vào người sử dụng để nhập vào những size bet đó. Bộ giải GTO không thể tự đưa ra
những size bet tối ưu và xây dựng sơ đồ trò chơi cho chúng ta. Công việc này phụ thuộc vào chúng
ta phải sử dụng kiến thức và kinh nghiệm là những người chơi poker để nhập vào size bet mà
chúng ra cho rằng đại diện tốt cho tình huống chúng ta muốn làm mẫu và giải sơ đồ trò chơi với
những biến đó.

Khi bạn chọn những size bet mà người chơi có thể sử dụng ở bất kỳ vị trí nào, bạn đang giới
hạn hành động của họ với chỉ những lựa chọn đó. Ví dụ, nếu bạn nhập size bet ở flop là 1/2-pot và
2/3-pot, chúng chỉ là những size bet người chơi có thể sử dụng ở flop. Một ví dụ khác, nếu bạn
không đưa cho người chơi OOP quyền chọn x/r ở flop, nếu họ chỉ có thể call hoặc fold, điều này
sẽ ảnh hưởng đến chiến thuật bet của IP vì IP bây giờ biết rằng có 0% khả năng OOP sẽ x/r ở flop.
IP lúc này sẽ bet ở tần suất cao hơn để không mất đi equity đã đóng vào pot. Vì lý do này, điều
quan trọng là phải đảm bảo được tất cả những người chơi ở mô phỏng GTO có size bet phù hợp
và có thể phản ứng lại hiệu quả ở hầu hết các trường hợp để giải pháp của bộ giải không bị lệch
do cấu trúc bet tệ ảnh hưởng đến một trong những người chơi ở vòng cụ thể - trừ khi bạn đang tích
cực cố gắng khai thác một sơ hở đã biết của đối thủ.

Việc sử dụng nhiều size bet nhất có thể khá hấp dẫn trong GTO, tuy nhiên, sử dụng quá nhiều
size bet là không thực tế vì mỗi size bet được thêm vào sẽ làm tăng kích thước sơ đồ trò chơi theo
cấp số nhân. Điều này gần như là không thể đối với con người để áp dụng chính xác tất cả chúng
vào trò chơi. Hơn nữa, sơ đồ trò chơi càng lớn yêu cầu khả năng tính toán cao hơn và mất nhiều
thời gian hơn để bộ giải có thể hoàn thành mô phỏng, đồng thời khiến việc sử dụng quá nhiều size
bet trở nên không thực tế.

Chúng ta đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan của việc xây dựng sơ đồ trò chơi
chính xác nhất có thể đại diện cho nhiều tình huống đồng thời cố gắng làm cho kích thước của
những mô phỏng GTO có thể quản lý được và các chiến thuật đủ đơn giản để áp dụng vào trò chơi.
May mắn rằng, chúng ta không thật sự cần phải thử tất cả các size bet có thể, vì thử một cái gì đó
như căn bậc hai của Pi là vô nghĩa. Hầu hết những người chơi poker bet một tỉ lệ đối với pot, nên

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


size bet như 1/2-pot và 2/3-pot là những khoảng hợp lý. Thử nghiệm những size bet thông dụng
và tìm thấy những cái mà bộ giải ưa chuộng cụ thể có thể giúp chúng ta phát triển những chiến
lược áp dụng dễ dàng trong khi vẫn phù hợp với trò chơi.

Đôi khi bộ giải sẽ đưa ra một xu hướng ưa thích rõ ràng cho việc hành động với một hand vì
EV cho hành động đó cao hơn nhiều so với EV thực hiện hành động khác. Rất nhiều lần EV ghi
nhận bởi bộ giải cho một combo riêng lẻ sẽ hầu như giống hệt nhau với những hành động khác
nhau, như bet hoặc check và điều này có thể khiến người chơi nghĩ rằng cách chơi post-flop không
quan trọng vì mọi thứ không có khác biệt gì. Đây là một sai lầm rất lớn. Những EV ghi nhận bởi
bộ giải giả định rằng cả hai người chơi đều chơi ở mức cân bằng. Nếu chúng ta bắt đầu thay đổi
tần suất của các hand đến mức mà toàn bộ chiến thuật và thành phần range không còn giống nhau,
các range sẽ trở nên có thể khai thác và EV không còn được đảm bảo, vì Villain có khả năng điều
chỉnh chiến thuật của họ.

Tưởng tượng một tình huống giả định mà chiến thuật GTO là bet tất cả các hand trong range
với tần suất 50%. Ở tình huống này, bạn sẽ không có sự khác biệt giữa bet hoặc check mỗi combo.
Nếu bạn chọn nửa trên những hand mạnh nhất của range và bet chúng với tần suất 100% và check
một nửa yếu hơn 100%, tần suất bet/check tổng thể của bạn có thể giống nhau nhưng hiển nhiên
chiến thuật mới sẽ dễ bị khai thác hơn rất nhiều so với GTO. Một đối thủ nhận ra điều này có thể
bắt đầu fold nhiều hơn khi bạn bet và tất công những lệnh check của bạn bằng cách chơi rất hổ
báo. Đương nhiên, nó là không thể để chơi tất cả combo với những tần suất GTO chính xác, nhưng
quan trọng là phải cố gắng giữ các range cân bằng một cách hợp lý và duy trì độ bao phủ mặt
board. Nếu những thay đổi qúa lớn, chúng sẽ không được chú ý, nên trước khi thực hiện bất kỳ
thay đổi lớn nào đến chiến thuật GTO, hãy nghĩ rằng nó không ảnh hưởng, đầu tiên hãy cố định
chiến thuật mới vào bộ giải và chạy lại nó. Xem rằng có bất kỳ khoản EV mất đi nào được thêm
khi đối đầu một đối thủ khai thác tối thiểu không trước khi áp dụng chúng vào trò chơi của bạn.

Điều tối quan trọng cần nhớ là sự không khác biệt giữa hai hoặc nhiều hành động được tạo nên
bởi cách chơi của đối thủ. Nếu họ không nhận ra rằng chiến thuật của họ về cơ bản là thiếu sót và
không cân bằng, thì một vị trí có vẻ gần trở nên nhị phân hơn và đối với Villain cụ thể đó, một
hành động nhất định sẽ luôn mang lại kỳ vọng cao hơn bất kỳ cái nào khác.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


11

LÝ THUYẾT VỀ
CÁCH CHƠI Ở
FLOP

Vậy, bạn đã nỗ lực để tìm hiểu cách chơi ở pre-flop và biết được những range của người chơi là gì
một cách tổng quát. Ba lá bài đầu tiên ở mặt board được chia và bạn tự hỏi, phải làm gì bây giờ?
Chà, ở phần này chúng ta sẽ học những loại flop khác nhau, cách mà những flop khác nhau tương
tác với range của người chơi, và ảnh hưởng của sự tương tác này ở những chiến thuật bet post-
flop.

Phép đẳng cấu đồng chất


Phép đẳng cấu (Isomorphism) là một khái niệm chung xuất hiện ở một vài khía cạnh của toán học.
Isomorphism bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp iso, có nghĩa là “bằng nhau”, và morphosis, có nghĩa là
“hình thành nên” or “hình dạng nên”. Hai hoặc nhiều vật thể là đẳng cấu khi chúng không thể
được phân biệt với nhau bằng cách chỉ sử dụng một tập hợp các thuộc tính được chỉ định.

Như ta đã thấy ở Chương 1, bằng cách đại diện cho những hand như A♠K♠, A♥K♥, A♣K♣,
A♦K♦ trong cùng một hình vuông chia ô 13×13 như AKs, và lặp lại quá trình tương tự với tất cả
những hand đồng chất, đôi và không đồng chất khác, chúng ta có thể giảm đi một cách hiệu quả
1,326 combo xuống thành 169 hand poker. Điều này có thể xảy ra vì những hand đồng chất chỉ trở
nên liên quan đến post-flop khi chúng tương tác với các lá bài chung, và ở pre-flop không có bộ
đồng chất nào tốt hơn hoặc tệ hơn bộ nào khác (chúng tương đương về mặt chiến thuật - nói cách
khác, đẳng cấu).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Dựa trên những tiền đề trước đó, không có lý do gì để một người chơi có bộ đồng chất cụ thể
trong range của mình thường xuyên hơn những bộ còn lại. Nên, phép đẳng cấu đồng chất cũng có
thể được áp dụng vào 22,100 flop cụ thể, một cách hiệu quả giảm trò chơi xuống 1,755 flop đặc
trưng về mặt chiến thuật.

Bốn flop A♠K♠Q♠, A♥K♥Q♥, A♣K♣Q♣, và A♦K♦Q♦ có thể lấy để nghiên cứu như thể chúng
là cùng một flop vì ở mỗi flop, bất kỳ range cho trước nào cũng sẽ luôn luôn có chính xác cùng
một số lượng flop thùng, draw thùng, set, top pair, vv, và một hand như thùng sẽ luôn được chơi
giống nhau dù là bất kỳ chất nào. Ví dụ J♠T♠ ở mặt A♠K♠Q♠ sẽ được chơi giống như J♥T♥ ở mặt
A♥K♥Q♥.

Có hai lý do chính chúng ta muốn giảm kích thước trò chơi. Điều đầu tiên là, vì là con người,
nó dễ dàng để “học” chiến thuật cho chỉ 1,755 flop hơn là 22,100. Điều thứ hai là để tiết kiệm thời
gian tính toán của bộ giải. Thay vì phải tính toán lặp đi lặp lại những flop dư thừa, chúng ta có thể
chỉ chạy một trong những flop đẳng cấu và ngoại suy từ các kết quả đó.

Mặt Board Động và Tĩnh


Khái niệm về sự biến động của flop lần đầu tiên được giới thiệu bởi Will Tipton trong cuốn sách
xuất sắc của ông Expert Heads Up No Limit Hold’em, Volume1: Optimal and Exploitative
Strategies (D&B Xuất bản).

“Vậy, thuộc tính quan trọng thứ hai liên quan đến kết cấu của flop là khả năng các quân
bài tương lai sẽ thay đổi giá trị liên quan hand của những người chơi. Khả năng này là một
tính chất của flop kết hợp với range của người chơi. Chúng ta sẽ gọi những board có khả
năng thay đổi giá trị bởi lá river là “động”. Những board mà những hand tốt có khả năng
duy trì độ mạnh và những hand yếu vẫn duy trì yếu là “tĩnh’’”.

Về bản chất những board biến động (hay động) là những cái mà equity hand của người chơi có
thể thay đổi đáng kể về giá trị ở những vòng cược sau, và board tĩnh là những cái mà equity hand
có xu hướng tương đối không đổi ở hầu hết các lần chia bài. Các board thấp và liên tiếp với những
khả năng tạo nên draw thùng và sảnh là rất động, và những flop không đồng chất không liên tiếp
với lá bài cao có xu hướng tĩnh.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ví dụ, ở pot một vòng raise với vị trí BB và EP thông thường, flop 8♥7♥3♦ có thể là một board
động vì có rất nhiều lá bài có thể được chia và làm tăng hoặc giảm giá trị hand ở range của cả hai
người chơi. Bất kỳ lá bài cơ nào cũng sẽ tạo nên thùng, và bất kỳ 5, 6, 9, T hoặc J có thể tạo nên
sảnh. Đồng thời, bất kỳ lá turn hay river nào cao hơn 8 có thể khiến một hand ngẫu nhiên phát
triển thành một pair mạnh hơn top pair ở flop, trong khi ở flop như K♠7♦2♥, giá trị của hand sẽ
duy trì đồng đều với hầu hết các lá turn và river.

Sơ đồ Phân loại Flop


Rất nhiều những người chơi poker không bao giờ nghiên cứu trò chơi. Họ học bằng cách chơi, và
điều này có thể là cách làm tốt nhất khi bạn lần đầu tiên tiếp cận với poker. Tuy nhiên, bạn sẽ sớm
nhận ra rằng, với vô số các tình huống khác nhau có thể xảy ra, kể cả khi bạn đã chơi poker 24/7
hàng năm trời, nó là điều không thể để học được tất cả mọi thứ chỉ bằng cách chơi. Nhiều người
chơi hiểu điều này và họ tiến đến bước tiếp theo bằng cách tìm các huấn luyện viên chuyên nghiệp,
nhưng kể cả người huấn luyện viên giỏi nhất cũng không thể trả lời tất cả các câu hỏi của bạn 24/7.
Ngay cả khi có thể, họ cũng chắc chắn không phải luôn có câu trả lời đúng cho mỗi điểm. Vì lý
do này, con người đã cố gắng phát triển những phần mềm trợ giúp nhiều năm nay. Nó đã thành
công trong các trò chơi như cờ vua, nơi mà những người chơi có thể truy cập những công cụ hàng
đầu từ máy tính của họ và thậm chí cả điện thoại thông minh để có được những câu trả lời ngay
lập tức về cách chơi chính xác ở một vị trí nhất định trong cờ vua.

Ở poker hiện đại chúng ta có quyền truy cập vào các bộ giải GTO và, giống như trong cờ vua,
nay chúng ra có thể nhận được câu trả lời ngay lập tức về cách chơi ở bất kỳ vị trí nào với bất kỳ
thời điểm nào. Tuy nhiên, một lần nữa chúng ta đối mặt với vấn đề của việc có quá nhiều vị trí để
có thể nghiên cứu sâu từng cái một. Có tới 1,755 flop đặc trưng cho bất kỳ vị trí nào, nên phương
pháp này rất không hiệu quả và vô cùng tốn thời gian. Do đó, chúng ta cần một hệ thống tốt hơn.

Việc phân chia là một quá trình thực hiện nhóm các thứ dựa trên điểm tương đồng của chúng
để khiến chúng dễ nhận dạng và nghiên cứu hơn. Những flop có điểm tương đồng có xu hướng
được chơi theo cách giống nhau. Ở phần này, tôi mô tả một sơ đồ phân loại flop đầy đủ toàn diện,
hiệu quả chia nhỏ vấn đề, dễ dàng giải quyết hơn trong khi vẫn theo dõi được toàn diện trò chơi.

Cấu trúc của Flop

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Cấu trúc flop là điều đầu tiên cần nhìn vào khi board được chia. Có ba loại cấu trúc flop có thể, và
cách chơi post-flop sẽ thay đổi dựa vào đó hoàn toàn.

◆ Flop Trip: Một flop trip một flop bao gồm tất cả các lá bài bằng nhau. Ví dụ:
A♥A♣A♠, 7♥7♠7♦ or 3♣3♠ 3♦.

◆ Flop có đôi: Một flop có đôi khi nó bao gồm hai lá bằng nhau. Một flop có đôi có
thể là ba chất, ví dụ K♥K♣5♠ hoặc hai chất, ví dụ Q♦8♦8♣.

◆ Flop không có đôi: Một flop là không có đôi khi tất cả các lá bài không bằng nhau, ví
dụ: Q♥7♦4♣ hoặc A♥K♥Q♠.

Kết cấu của Flop

Kết cấu của flop cũng rất quan trọng và có ba dạng.

◆ Đồng chất: Một flop đồng chất là flop bao gồm tất cả các lá cùng một chất, ví dụ
A♥K♥T♥ hoặc J♠6♠5♠.

◆ Hai chất: Một flop hai chất là flop bao gồm hai lá cùng chất và một lá thuộc chất khác.
Có ba loại flop hai chất. Nếu lá bài cao nhất và ở giữa đồng chất, flop được gọi là hai
chất cao-giữa, ví dụ A♥K♥Q♠. Nếu lá bài giữa và thấp nhất đồng nhất, flop được gọi là
hai chất giữa-thấp, ví dụ J♥6♠5♠. Nếu lá bài cao nhất và thấp nhất đồng chất, flop được
gọi là hai chất cao-thấp, ví dụ A♥9♠2♥.

◆ Ba chất: Một flop ba chất là một flop bao gồm tất cả các lá khác chất nhau, ví dụ
Q♥9♠7♦, 6♦4♣2♠ hoặc K♣J♦7♥.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 96: Tất cả các flop có thể phân loại theo cấu trúc và kết cấu

Thứ hạng Flop

Thứ hạng flop dựa trên lá bài cao nhất của nó. Ví dụ, Kxx đại diện cho tất cả flop bao gồm một
lá king và hai lá khác là king hoặc thấp hơn (Bảng 97).

Như chúng ta có thể thấy, thứ hạng của flop càng cao, càng nhiều flop thuộc thứ hạng đó tồn
tại. Những board A-cao là phổ biến nhất, với 21.74% tổng số flop là Axx. Nhận thấy 85% tổng số
flop là thứ hạng 9 hoặc cao hơn trong khi 15% còn lại là 8 hoặc thấp hơn.

Flop sảnh

Các flop có thể được phân dựa trên số sảnh có thể tạo được (Bảng 98). Ví dụ, ở mặt flop AQ7
không có khả năng tạo được sảnh nào. Ở mặt KT9 có một khả năng tạo sảnh (với QJ). Ở mặt 875
có hai khả năng tạo sảnh (96 và 64). Cuối cùng, ở mặt JT9 có ba khả năng tạo sảnh (KQ, Q8 và
87).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 97: Tất cả flop có thể phân loại bởi thứ hạng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 98: Tất cả flop có thể phân loại số sảnh có thể tạo

Những flop không tạo được sảnh cũng có thể được phân loại tiếp dựa theo số lượng OESDs có
thể, nhưng ở phạm vi quyển sách này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào số lượng tạo được sảnh.

Các Nhóm Flop

Một vài flop có thể được ghép với nhau thành một nhóm và những nhóm phụ dựa theo thứ hạng.
Ví dụ, những flop A54, A53, A52, A43, A42 và A32 khá giống nhau ở nhiều tình huống, chúng
có thể được xử lý nhưng những flop hoàn toàn giống nhau: Ace với hai lá bài thấp.

Đầu tiên hãy ghép tất cả các lá bài theo thứ hạng:

Bài cao (H): Bất kỳ lá K, Q, J, T


Bài trung bình (M): Bất kỳ lá 9, 8, 7, 6
Bài thấp (L): Bất kỳ lá 5, 4, 3, 2
Ace (A): Chỉ có A

Giờ các flop có thể được phân loại sử dụng các thứ hạng của lá bài như sau (Bảng 99).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 99: Tất cả flop có thể phân loại bởi thứ hạng lá bài

Tập hợp con Flop

Như đã thường xuyên đề cập trước đó, có 22,100 flop có thể ở hold’em và, sử dụng phép đẳng cấu
đồng chất, chúng ta có thể giảm con số đó xuống 1,755 khác nhau về mặt chiến thuật. Đối với
những mục đích thực tế, con số này vẫn là quá lớn. Vì lý do này, những người chơi poker, cũng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


như là những nhà lập trình và lý thuyết, đã cố gắng đơn giản hoá trò chơi bằng cách tạo ra những
tập hợp con flop nhỏ hơn đại diện chính xác toàn bộ trò chơi.

Nỗ lực đầu tiên được đưa ra để phát triển một tập hợp con của các flop được thực hiện bởi nhà lý
thuyết poker Will Tipton. Phương pháp của ông ấy bao gồm việc đầu tiên tạo ra những điều kiện
mà một tập hợp con tốt phải thoả mãn sau đó tìm ra tập hợp con tối thiểu của các flop thoả mãn tất
cả.

Những điều kiện cho tập hợp con đề xuất của Tipton:

◆ Bất kỳ lá bài cụ thể nào xuất hiện

◆ Một draw thùng của một chất cụ thể xuất hiện

◆ Một flop một chất của một chất cụ thể xuất hiện

◆ Một board có pair với pair đó thuộc một thứ hạng cụ thể xuất hiện

◆ Một flop tạo được ba sảnh thuộc bất kỳ rank nào xuất hiện

◆ Một board với bất kỳ hai lá trong một thứ hạng cách nhau một đơn vị xuất hiện

◆ Một board với bất kỳ hai lá trong một thứ hạng cách nhau hai đơn vị xuất hiện

Tập hợp con flop của Tipton bao gồm 103 flop nhưng, không may, nó có một vài vấn đề và
không thể sử dụng để đại diện cho toàn bộ trò chơi. Phương pháp của ông ấy khá hợp lý và được
phát triển bởi những người khác, nhưng tôi thấy rằng nó quá khó để giảm đáng kể kích cỡ trò chơi
trong khi vẫn giữ được tất cả các tính chất đặc trưng của nó. Tôi cũng đã thử những cách tiếp cận
khác nhau, bằng cách lựa chọn một flop đại diện của cấu trúc, kết cấu, thứ hạng, nhóm và số sảnh
có thể tạo được khác nhau, và số lượng tập hợp con flop ít nhất tôi có thể tạo là 356 flop.

PioSOLVER bởi Kuba và Piotr đã tạo ra một phương pháp khác, bao gồm việc xác định một số
chỉ số mà một tập hợp con tốt phải thoả mãn, sau đó chạy phần mềm tuỳ chỉnh để tìm ra tập hợp

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


con tốt nhất của N phần tử đạt điểm cao nhất trên các chỉ số đó. Các chỉ số họ sử dụng là equity so
với toàn bộ range, so với 50% range và so với AA, cũng như là EV từ tất cả 1,755 flop.

Kuba và Piotr đã thử một vài chỉ số và nhận định rằng việc kết hợp EV và EQ hoạt động tốt hơn
bất kỳ cách nào khác chỉ bao gồm EV. Họ phát triển những tập hợp con có các kích cỡ khác nhau,
bao gồm 25, 49, 74, 95 và 184 flop. Càng nhiều flop trong tập hợp con, kết quả bạn nhận được
càng chính xác. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp SPR ca, vì bằng các cách khác nhau, các
thành phần của range có thể hit một vài mặt board trở nên rất mạnh và tạo nên những tình huống
thú vị hơn dẫn đến việc người chơi phải chơi những pot rất lớn. Để đại diện chính xác những tình
huống đó, bạn cần phải có nhiều flop nhất có thể. Bạn có thể tìm những tập hợp con và thông tin
chi tiết ở blog của họ www.piosolver.com. Những tập hợp con pre-flop của họ được tối ưu hoá để
ước lượng chính xác equity và EV cho bộ giải pre-flop, không phải những chiến thuật post-flop.
Vì lý do này, những tập hợp con không được đảm bảo sẽ tạo nên một khoảng ước lượng tốt cho
lối chơi post-flop. Đó là lý do tại sao tôi quyết định thử một cách tiếp cận khác và chỉ sử dụng siêu
máy tính để giải toàn bộ trò chơi, tất cả 1,755 flop ở nhiều vị trí khác nhau, và tạo nên phần mềm
tuỳ chỉnh để phân tích dữ liệu. Chương này được viết sử dụng kết quả của nghiên cứu đó. Bạn có
thể tìm thêm thông tin chi tiết của nghiên cứu này trên www.gtopoker.io.

Donk Bet (DK) ở Flop


Villain là IP (BN, CO, MP, EP), raise và hành động fold đến Hero ở vị trí BB và call. Ở vị trí này
bạn nên biết được khá rõ range pre-flop của Villain nhờ vị trí, độ lớn stack của họ và bất kỳ xu
hướng nào bạn có thể nhận ra. Bạn cũng biết range phòng thủ ở BB của mình như nào, hand nào
bạn có khả năng sẽ 3-bet ở pre-flop nhất và hand nào bạn sẽ call với Villain ở tình huống này. Flop
được chia và đến lượt bạn hành động. Bạn nên bet hay check?

Đây là tình huống phổ biến nhất trong poker. Hầu hết những hand poker sẽ được chơi
heads-up ở pot chỉ một người raise giữa BB và IP. Do đó chơi post-flop tốt sau khi phòng thủ
ở blind là điều quan trọng nhất đối với bất kỳ người chơi poker nào để thành công.

Vậy, đây sẽ là tình huống post-flop đầu tiên chúng ta nghiên cứu.
Ở tình huống giữa BB và IP này, người chơi IP thường được cho là có “lợi thế bet” vì họ đã
chơi hổ báo ở pre-flop. Vì lý do này, IP được kỳ vọng sẽ tiếp tục hổ báo ở flop bằng tần suất bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


khi bị check. Loại bet này được thực hiện nhờ sự hổ báo của vòng cược trước được gọi là bet tiếp
tục (c-bet). Vì IP được kỳ vọng sẽ c-bet ở flop vơi tần suất rất cao, BB cũng được kỳ vọng sẽ check
khi đối đầu với người chơi hổ báo ở pre-flop và không bao giờ có lợi thế bet. Khi người chơi ở BB
không check mà thay vào đó lấy lợi thế bet bằng cách đặt lệnh bet, theo quy tắc của poker hành
động này được gọi là donk bet, vì nó là lệnh bet ngược lại với quan niệm thông thường. Nhưng
quan niệm thông thường về việc không giành lấy lợi thế bet từ người chơi hổ báo ở flop này có ý
nghĩa về mặt khái niệm từ góc độ lý thuyết trò chơi không?

Đầu tiên, ở lý thuyết trò chơi không có gì gọi là “lợi thế bet”, nên việc giành lấy lợi thế bet từ
người chơi khác không có nghĩa lý gì trong GTO. Như chúng ta đã thấy ở lý thuyết bet, đặt lệnh
bet là một chức năng của việc tận dụng lợi thế thông tin, thành phần range và SPR với mục đích
ghi nhận equity hoặc ngăn cản đối thủ ghi nhận equity. Nếu chúng ta muốn xác nhận hoặc phản
bác ý kiến chung về donk bet, chúng ta phải nhìn nó thông qua các nguyên tắc GTO.

Tôi đã tổng hợp dữ liệu về các giải pháp GTO qua tất cả các flop có thể ở các tình huống BB với
BN và BB với UTG ở pot chỉ một người raise với các độ lớn stack 20bb, 30bb và 40bb. BN và
UTG được sử dụng vì chúng đại diện cho những range rộng và chặt chẽ nhất, trong khi chiến thuật
của các vị trí khác sẽ nằm đâu đó ở giữa. Kết quả cho thấy tần suất donk bet tổng thể của BB là
chỉ 2% (với size bet 1/4 và 2/3) và tần suất c-bet trung bình của IP là 84%. Mô phỏng GTO đồng
tình với quan niệm chung về việc donk bet không được sử dụng rộng rãi và c-bet thì rất phổ biến.
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kĩ hơn vào các số liệu, có một vài vị trí mà bộ giải thực sự ưa chuộng
donk bet với tần suất cao (Bảng 100).

Bảng 100: Số liệu thống kê BB và IP (20bb/30bb/40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trung bình, flop có tần suất donk bet cao nhất là 654r (67%), và một trong những flop có tần
suất donk bet thấp nhất là A76r (0.3%), tại sao tần suất bet của BB ở mặt A76r quá thấp so với
654r?

Nếu bet rõ ràng là lựa chọn mang lại EV cao nhất cho bất kỳ hand nào ở range của BB, bộ giải
sẽ luôn làm thế. Nếu bet không có khác biệt gì với check, thì hand sẽ được chơi với một chiến
thuật kết hợp. Nếu một hand không bao giờ được bet, nó là vì bet sẽ làm giảm EV so với check.

Quay lại công thức EV:

EV của việc bet một hand phụ thuộc vào tần suất Villain fold, tần suất họ raise, tần suất họ call
và mức equity Hero có khi bị call. Range của Villain càng mạnh, họ sẽ càng ít fold, họ sẽ càng
raise thường xuyên hơn và Hero sẽ càng có ít equity hơn khi bị call.

Bộ giải GTO giả định chơi với một đối thủ GTO biết về chiến thuật của bạn và sẽ call, raise và
fold một cách tối ưu chống lại bạn. Nếu range của IP mạnh đến mức họ sẽ không fold quá nhiều
khi gặp lệnh bet và, ngược lại, có thể raise rất nhiều và call hiệu quả, thì bet trở nên ít hấp dẫn hơn
rất nhiều so với sự phân phối range yếu hơn.

Rõ ràng IP có lợi thế equity với 62% equity so với BB là 38% ở mặt A76r, điều này tất nhiên sẽ
làm giảm lợi nhuận của lệnh bet của BB, trong khi ở mặt 654r, BB có lợi thế equity với 51% equity
so với 49% của IP, khiến lệnh bet của BB có lợi nhuận hơn ở kết cấu flop này.

Range so với equity của range là nhân tố quan trọng để phát triển chiến thuật bet khi có bất lợi
đáng kể về equity. Tuy nhiên, như đã bàn luận ở phần lý thuyết bet, thành phần range thậm chí
quan trọng hơn equity thuần.

Áp dụng khái niệm của rổ equity đã được giới thiệu trước đó, chúng ta có thể vượt ra ngoài
equity thuần và có ý tưởng tốt hơn về thành phần range cho cả hai người chơi ở những flop khác
nhau (Diagram 25).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 25: Rổ equity trung bình của BB so với IP với stack 20bb/30bb/40bb

Về định nghĩa của những hand mạnh, tốt, yếu và hand rác, xem phần Rổ Equity của
Chương 10.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở mặt 654r, BB có 7% những hand mạnh, và IP chỉ có 4%, trong khi ở A76r, BB có 8% những
hand mạnh và IP đáng kinh ngạc có 31% hand manh! Điều xảy ra là, ở A76r, top pair của IP (bất
kỳ Ax) có trung bình 85% equity so với range của BB, trong khi một top pair ở 654 sẽ có trung bình
65% equity. Thêm vào đó, ở 654r, tất cả hand Ax của IP sẽ có trung bình 49% equity, một cách hiệu
quả biến chúng thành những hand yếu. Ở 654r, những hand tốt của BB tăng từ 17% lên 40% và
những hand rác giảm từ 49% xuống 18% khi so với A76r.

Bởi vì sự phân phối này, người chơi IP sẽ được khuyến khích giảm tần suất c-bet ở mặt 654r,
do phần lớn range của họ là những hand yếu và không chơi tốt với một flop check/raise. Do đó,
bằng cách check lại thường xuyên hơn, IP có thể xem lá turn miễn phí và nhận lại equity. BB phản
ứng lại bằng cách donk bet nhiều hand, ép IP phải fold hoặc bỏ nhiều tiền hơn vào pot với những
hand mà họ chỉ muốn check sau đó và xem lá turn miễn phí.

Donk bet có lý ở mặt 654r vì nó ngăn cản EQR của IP, và đồng thời giúp BB ghi nhận equity
bằng cách tận dụng lợi thế thông tin của việc dẫn đầu với một range cân bằng tốt mà không dễ bị
tấn công bởi IP. Điều này tận dụng được lợi thế của việc IP thiếu những hand mạnh mà có thể raise
để lấy value. Điều này cũng hạn chế số lượng hand có thể raise để bluff, dẫn đến việc IP có tần
suất raise tổng thể thấp vào mức 20% ở 654r, trong khi đó IP có tần suất raise ở A76r vào mức
53% (Tần suất GTO so với size donk bet ở mức 1/4-pot).

Donk bet ở mặt A76r không hợp lý vì nó không giúp BB ngăn cản EQR của IP. Trong trường
hợp này, điều ngược lại thực sự xảy ra, bởi vì range của IP rất mạnh ở mặt board này khiến cho
donk bet có thể bị raise với tần suất cao đến mức ảnh hưởng bị đảo ngược. BB sẽ trở thành người
bị ép phải tiếp tục bỏ thêm nhiều tiền vào pot với những hand muốn xem lá turn với giá rẻ hoặc
fold, giảm equity của họ và dẫn đến mức EQR thấp và mất EV đối với OOP (Bảng 101).

Bảng 101: Số liệu thống kê giữa BB và BN ở A76r với 30bb đối


với những chiến thuật khác nhau của BB.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


A76r là mặt quá tốt để IP c-bet 100% range của họ và không phải lo lắng về việc bị x/r quá
thường xuyên. Vì lý do này, BB không cần phải dẫn đầu bằng những hand mạnh nhất để kiếm
value vì IP sẽ tiếp tục bỏ tiền vào pot với toàn bộ range của họ khi bị check. Nếu BB bắt đầu dẫn
đầu với hand mạnh ở mặt A76r, nó chỉ giúp IP vì lúc này họ sẽ có thể chọn fold những hand yếu
mà chỉ tiếp tục bỏ tiền vào pot dưới dạng c-bet và chỉ tiếp tục khi nó mang lại lợi nhuận.

Nếu chúng ta ép BB donk bet mỗi khi họ có top pair hoặc hơn (10%), EV tổng của họ giảm từ
25 xuống 13, vì chiến thuật này bị khai thác rất lớn. Ở giải pháp GTO, range check được bảo vệ
rất tốt vì BB không bao giờ dẫn đầu nhưng, ở chiến thuật cố định, BB donk bet những hand mạnh
nhất của họ, khiến range check bị ảnh hưởng. Điều này khiến cho EV của họ sau khi check giảm
xuống 5.6. Trong trường hợp này, EV của BB khi bet là đặc biệt cao vì range bet mạnh nhưng bet
chỉ xảy ra 10% số thời gian, trong khi check xảy ra 90%.

Nếu BB bắt đầu bao gồm nhiều hand bluff vào range dẫn đầu của họ, IP sẽ bắt đầu call rộng
hơn và thường xuyên raise khi gặp donk bet. Nếu BB thử một chiến thuật chỉ dẫn trước với những
hand yếu, kết quả sẽ còn tệ hơn vì bây giờ IP sẽ có thể raise 100% thời gian, khiến cho BB không
chỉ thua toàn bộ pot khi bet, mà còn mất size bet 1/4-pot. Vì lý do này, nó tốt hơn là OOP không
chia nhỏ range của họ và check 100% ở mặt A76r.

Nếu chúng ta chia nhỏ tất cả các flop dựa trên tần suất bet, chúng ta có thể có ý tưởng tốt hơn
về cách mà các range tương tác với các flop (Bảng 102).

Bảng 102: Số liệu thống kê của BB theo tần suất bet

Không có gì đáng ngạc nhiên, equity và EV flop cao nhất dành cho BB cũng là những board có
tần suất donk bet cao nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng cần biết là tần suất donk bet cao là một ảnh

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


hưởng và không phải một nguyên nhân. Như chúng ta sẽ thấy ở phần này, nguyên nhân chính của
việc BB có equity và EP cao hơn ở một vài flop là cách mà các range được phân phối lần lượt dẫn
đến tần suất donk bet cao hơn.

Những Flop có Tần suất Donk Bet cao (50%+)

Có khoảng 34 flop riêng biệt dẫn đến donk bet trung bình quá 50% số thời gian chống lại cả BN
và UTG. Chúng là thứ hạng 7-x-x và 6-x-x với flop tạo nên được một đến ba sảnh. Số lượng sảnh
flop càng cao, size donk bet càng nhỏ và tần suất donk bet được sử dụng càng lớn. Những flop ba
chất được donk bet với tần suất cao hơn flop hai chất và, nhìn chung, flop một chất bị donk bet ít
hơn rất nhiều.

•• •• •• r• I I•

rim fm
ffij

Rainbow 48% 3% 49% 48% 49% 102%

Rainbow 49% 8% 43% 49% 52% 105%

Rainbow 43% 23% 35% 51% 54% 107%

TwoTone 31% 26% 43% 50% 52% 103%

Rainbow 50% 13% 37% 50% 52% 104%

TwoTone 35% 20% 46% 49% 50% 100%

(§)

Rainbow 33% 28% 39% 51% 52% 102%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


TwoTone 33% 26% 42% 51% 52% 101%

Rainbow 12% 55% 33% 51% 54% 107%

TwoTone 11% 48% 40% 51% 52% 102%

lBl

Rainbow 41% 13% 47% 49% 50% 102%

mJ

Rainbow 17% 40% 43% 49% 52% 105%

TwoTone 30% 21% 50% 50% 49% 99%

Rainbow 49% 16% 36% 49% 50% 102%

TwoTone 35% 19% 46% 49% 49% 98%

mil

Rainbow 18% 46% 36% 50% 54% 107%

TwoTone 32% 35% 33% 51% 54% 105%

rm
Rainbow 10% 60% 29% 50% 53% 106%

TwoTone 29% 31% 41% 51% 51% 100%

Bảng 103: Những flop có tần suất Donk Bet cao

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở những flop có tần suất donk bet cao, BB có trung bình 50% equity và có khả năng nhận được
điều nhiều hơn mức equity đó (103% EQR), nắm giữ trung bình là 52% pot (Bảng 103). Lý do
chính BB nhận được nhiều hơn mức equity đó là do cách equity được phân phối (Biểu đồ 26).

Biểu đồ 26: EQB ở những flop có tần suất donk bet


cao

Ở đây, range của BB phân cực hơn là IP. BB có lợi thế về cả những hand mạnh và tốt, trong khi
50% range của IP là những hand yếu khó khăn hơn để nhận equity và do đó chỉ thu được lợi nhuận
nhờ việc chơi một cách bị động. Cách xây dựng range này gợi nhớ về trò chơi Clairvoyance Toy,
với IP có range phân cực hơn, khiến cho BB muốn được bet dẫn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 27

Với độ lớn của stack mức giữa 30-40bb, BB sẽ muốn bet những hand mạnh 73% số thời gian,
hand tốt 64%, hand yếu 59%, và những hand rác được bet 49%. Size donk bet được sử dụng nhiều
nhất là 1/4- pot, với size bet 2/3-pot được sử dụng trung bình 5% (Biểu đồ 27). Nếu chúng ta cho
phép size bet lớn hơn ở mô phỏng, BB thậm chí sẽ chọn bet quá pot với tần suất thấp, nhưng thành
phần range tổng thể ở loại board bonk bet này có vẻ ưa chuộng donk bet nhỏ (Biểu đồ 28).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 28

Với stack hiệu dụng 20bb, size donk bet 2/3-pot được ưa chuộng. Dường như ở mức 20bb, SPR
của BB đủ nhỏ để BB hài lòng với rất nhiều hand có equity tốt ở flop, nên size bet lớn hơn bảo vệ
equity của BB bằng cách khiến đối thủ fold nhiều hơn và giúp BB ghi nhận equity bằng cách lấy
được hết tiền ở flop khi equity của họ cao. Những hand mạnh nhất của BB có vẻ ưa chuộng size
bet nhỏ hơn vì chúng không dễ bị tổn hại, nên họ không ngại việc bị call thường xuyên hơn.

Khi stack lớn hơn, không có nhiều hand sẵn sàng bị all-in ở flop nên, thay vào đó, size donk bet
nhỏ hơn cho phép BB call một lệnh re-raise và xem lá turn mà không phải bỏ vào toàn bộ tiền từ
flop.

Những hand mạnh và tốt cũng là một phần quan trọng của range check. Càng nhiều lệnh check,
càng cần những hand mạnh và tốt ở range check để range duy trì cân bằng và được bảo vệ.

Donk bet cũng trung bình xảy ra thường xuyên hơn với UTG (67% số thời gian) hơn là với BN
(53% số thời gian). Điều này là vì những board donk bet cao thường bị bỏ qua thường xuyên hơn
bởi range của UTG.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ví dụ về range donk bet

BB đối đầu UTG ở mặt 654r (stack hiệu dụng 30bb)

Những hand mạnh được bet 77% thời gian

◆ Sảnh là những hand mạnh nhất BB có thể có ở flop này. Sảnh nhỏ nhất 32 dễ bị tấn công
nhất và nó không ngăn chặn được range tiếp tục của IP, nên nó sẽ được bet 91%, trong khi
sảnh khác 87 được bet 80% và 73 chỉ được bet 50%.

◆ Bộ ba. Bộ ba mạnh nhất được bet ở tần suất rất cao (94%). Bộ ba nhỏ hơn được bet
không quá thường xuyên (16-31%), bởi vì chúng không block được top pair.

◆ Hai đôi được bet ở tần suất rất cao. 54 được bet với tần suất cao nhất (96%), kế tiếp là 64
(94%) và 65 được bet tần suất thấp nhất (73%) vì nó chặn range tiếp tục của IP nhiều hơn
và cũng ít bị tấn công nhất.

Những hand tốt được bet 70% thời gian

◆ Overpairs. Overpairs mạnh nhất TT và 99 được bet 100% thời gian, đôi trung bình 88 và
77 được bet 38% thời gian.

◆ Top Pairs được bet 78% thời gian. Những top pair với kicker cao nhất và có OESD
được bet với tần suất cao nhất. Với kicker trung bình thì đươc check thường xuyên hơn.

◆ Second Pairs được bet 71% thời gian. Những second pair với kicker cao nhất và có OESD
được bet với tần suất cao nhất. Với kicker trung bình thì đươc check thường xuyên hơn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Third Pairs được bet 65% thời gian. Những third pair với kicker cao nhất và có OESD
được bet với tần suất cao nhất. Với kicker trung bình thì đươc check thường xuyên hơn.

◆ Under Pairs 22-33 được bet 78%. 22 được bet thường xuyên hơn 33.

Những hand yếu được bet 61% thời gian

◆ OESD được bet 67% thời gian. Hand 7x được bet thường xuyên hơn 3x.

◆ Ace cao được bet 67% thời gian theo kiểu tuyến tính ngược. Hand A cao yếu nhất được
bet thường xuyên hơn là A cao mạnh nhất. Ví dụ, A9s được bet 99%thời gian và AQs chỉ
được bet 40%.

◆ King cao được bet 54% thời gian theo kiểu tuyến tính ngược.

◆ Gutshots được bet 70% thời gian. Những hand có 2 lá cao hơn board được bet thường
xuyên hơn hand chỉ có một lá cao hơn board.

Những hand rác được bet 62% thời gian

◆ Air, không có đôi, không thùng, hai lá bài cao hơn board hoàn toàn không kết nối và
gutshot với 2 và không đôi và combo với draw thùng back door được bet thường xuyên
hơn với combo không có thùng back door.

Những Flop có Tần suất Donk Bet Trung bình (25%-50%)

Có khoảng 100 flop được donk bet 25-50% thời gian. Những ví dụ chính về những flop đó là: các
phân họ không có đôi 8MM, 8ML, 8LL, 7ML, 7LL, 6LL, và 5LL với khả năng tạo từ một đến ba
sảnh. Flop đồng chất duy nhất là 764, và những flop có đôi là 766, 755, 655 (Biểu đồ 29).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 29

Donk bet xảy ra với tần suất bằng nhau khi đối đầu với UTG và BN, vào khoảng 35% thời gian
và check xảy ra 65% thời gian, vì sự phân phối equity không thay đổi quá nhiều ở cả hai trường
hợp.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 30

Ở những flop donk bet trung bình, equity rất sát nhau. IP có ít lợi thế hơn, 52% so với của BB
là 48%. Tuy nhiên, range của BB phân cực hơn với phần lớn range là những hand mạnh, tốt và
rác, trong khi IP vẫn có rất nhiều những hand yếu có thể thu lợi từ việc chơi bị động và xem những
lá bài miễn phí để ghi nhận equity. (Biểu đồ 30).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 31

Với 30-40bb, những hand mạnh ưa chuộng sử dụng size bet lớn hơn ở những board có đôi và
size bet nhỏ hơn ở những board không có đôi. Những hand được bet tuyến tính dựa theo equity
với những hand có equity cao nhất được bet thường xuyên hơn những hand equity thấp. Cấu trúc
của range bet giống với cái mà ta đã thấy trước đó ở những flop có tần suất donk bet cao, bet những
loại hand giống nhau, nhưng thực hiện với một tần suất thấp, check mọi thứ thường xuyên hơn nên
range check được bảo vệ hơn (Biểu đồ 31).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 32

Với 20bbs, chiến thuật donk bet cực kỳ phân cực, bet hầu hết những hand mạnh, tốt và rác. Vì
lý do này, size bet lớn hơn được ưa chuộng, với size bet nhỏ hơn được sử dụng theo cách ngược
lại, hầu hết với những hand yếu, nhưng cũng một vài lúc với những hand mạnh, tốt và rác để chiến
thuật trở nên cân bằng (Biểu đồ 32).

Những flop có tần suất donk bet thấp (10%-25%)

Xấp xỉ 181 flop riêng biệt được donk bet với tần suất từ 10% đến 25%. Ở tình huống này size bet
67%-pot được ưa chuộng (9%) hơn là size bet 25%-pot (7%). BB donk bet thường xuyên để chống
lại BN (16%) nhiều hơn một chút so với UTG (14%).

Những phân họ flop được donk bet không có đôi là: ALL, 9MM, 8MM, 8ML, 8LL, 7ML, 7LL,
6LL, 5LL, và 4LL.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những phân họ có đôi là: 99A, 88A, 77H, 77M, 77L, 66A, 66H, 66M, 66L, 55A, 55H, 55M,
55L, 44H, 44M, 44L, 33M (Biểu đồ 33).

Biểu đồ 33

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 34

Ở những flop có tần suất donk bet thấp, sự chiếm ưu thế từ range của IP là rõ ràng (Biểu đồ 34).
Equity của OOP giảm xuống 45% và ghi nhận dưới mức vào 6%, chỉ nắm giữ 43% pot. Số lượng
hand rác của OOP cuối cùng chiếm nhiều hơn số lượng hand yếu. Tỉ lệ hand mạnh và tốt của OOP
thấp hơn rất nhiều so với IP. Vì lý do này, check bắt đầu trở thành chiến thuật chiếm ưu thế.

Ở những flop có tần suất donk bet thấp, range donk bet phân cực hơn một chút và, vì lý do này,
size bet lớn hơn được ưa chuộng. Donk bet dường như không quá bị ảnh hưởng bởi độ lớn stack
và vì vậy tần suất là giống nhau với các mức stack hiệu dụng 20bb, 30bb và 40bb (Biểu đồ 35-36).

Biểu đồ 35

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 36

Những flop không donk bet (0%-10%)

Đa số các flop thuộc vào nhóm này. Khá nhiều các flop không được bao gồm trong bất kỳ nhóm
nào. Nói chung, điều này có nghĩa là những flop bộ ba, đồng chất, có đôi với lá bài cao, hai chất
không kết nối, HXX và AXX là những flop tệ để donk bet.

Nhìn chung, những flop thuộc nhóm này khá tệ cho BB, cung cấp trung bình 39% equity và EQR
thấp vào mức 76%, cho EV trung bình vào mức 30% pot. Ở những mặt board này, range IP mạnh
đến mức có thể ép OOP check với tần suất cao, với tần suất donk bet trung bình là khoảng 1%.
Range của OOP quá yếu đến mức có không có những hand đủ mạnh so với IP để có thể chia nhỏ
hand nên, đối với hầu hết các phần, loại bỏ lựa chọn donk bet ở những loại flop này không làm
giảm EV của BB quá đáng kể. Chơi với tần suất check 100% được khuyên dùng.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu 37

Những nhóm flop có cấu trúc và kết cấu giống nhau có xu hướng được chơi theo cách
giống nhau. Nên nếu bạn muốn đào sâu hơn vào thành phần range donk bet, tôi đề xuất chạy
những flop mẫu từ mỗi nhóm tần suất donk bet ở bộ giải GTO để bạn làm quen với những vị
trí khác nhau, cách phản ứng với flop raise và cách theo những vòng cược sau đó.

Value của Donk Bet


Quan niệm chung cho rằng donk bet rất tệ và không nên thực hiện. Tuy nhiên, như chúng ta vừa
thấy, donk bet được sử dụng rộng rãi bởi bộ giải trên một vài kết cấu của flop. Cho rằnh donk bet
hiếm khi được sử dụng, sai lầm có thể lớn thế nào để lựa chọn một chiến thuật đơn giản mà luôn
luôn check với những người chơi hổ báo ở pre-flop khi OOP ở SRP?

Ở Bảng 104 chúng ta có thể thấy các chỉ số flop chính của BB và BN với stack hiệu dụng 30bb
ở flop 654r. Chiến thuật GTO được so sánh với một mô phỏng mà lựa chọn donk bet của BB được

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


loại bỏ khiến BB check 100% range của họ. can see the key flop metrics of BB vs BN with a 30bb
effective stack on the 654r flop.

Bảng 104: Số liệu giũa BB và BN với 30bb ở flop


654r

654r là một trong những flop donk bet cao nhất. Khi BB mất khả năng dẫn trước ở board này,
họ mất 1.1% pot hoặc 6.5bb/100 và EQR giảm 2.25%. Ở pot 5.6bb, chơi chiến thuật donk bet
100% tiêu tốn của BB 6.27bb/100 khi đối đầu với một đối thủ khai thác tối thiểu.

Value của donk bet sẽ thay đổi dựa trên SPR và value của lựa chọn để người chơi OOP bet là
gì. Ví dụ, ở flop A76r, OOP nên donk bet khoảng 0.4% thời gian, nếu chúng ta loại bỏ quyền chọn
donk bet của BB, EV tổng thể của họ vẫn giữ nguyên.

Donk bet chỉ xảy ra với tần suất cao ở số lượng nhỏ những flop mà cũng có tần suất thấp, nên
ảnh hưởng từ việc mất EV do chọn một chiến thuật đơn giản luôn luôn check khi là OOP sẽ không
quá đáng kể xét tổng thể. Thêm vào đó, áp dụng những chiến thuật donk bet chính xác có thể rất
khó khăn trong trò chơi. Điều đó nói lên rằng, nếu bạn đang chơi một trò thật sự khó khăn nơi mọi
lợi thế đều được tính đến, thì việc dành thời gian nghiên cứu và kết hợp donk bet có thể trở thành
một công cụ rất có giá trị, đặc biệt khi đối thủ của bạn không quen đối phó với flop donk bet, khiến
họ mắc nhiều sai lầm mà bạn có thể tận dụng.

Bạn cũng đương nhiên có thể lựa chọn donk bet khai thác chống lại những người chơi yếu. Ví
dụ, nếu bạn biết Villain sẽ c-bet ở tần suất cao nhưng sẽ không bao giờ raise donk bet mà không
có hand mạnh, bạn có thể đặt một lệnh bet nhỏ với một vài hand có tác dụng như một lệnh bet
chặn, cho phép bạn xem được lá bài tiếp theo giá rẻ giá rẻ với một vài hand yếu trong khi vẫn đưa
ra cho bạn thông tin về bài của đối thủ.

Một ví dụ khác là nếu bạn biết Villain chơi hổ báo quá mức và sẽ hầu như luôn luôn raise một
flop donk bet. Khi đó, bạn có thể dẫn trước với những hand rất mạnh để nhử Villain raise. Điều

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


này hiển nhiên sẽ khiến bạn có nguy cơ bị khai thác ngược, nên nó đòi hỏi bạn phải nắm bắt vô
cùng chắc chắn về xu hướng của đối thủ.

Sức mạnh của Vị trí


Ở phần này, chúng ta sẽ sử dụng những flop có tần suất donk bet cao và thấp 654r và A76r ở tình
huống giữa BB và BN với stack hiệu dụng 30bb. Chúng ta sẽ so sánh những mô phỏng GTO so
với những mô phỏng giả định được sửa đổi để giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tác động của việc là
IP và OOP ở post-flop.

GTO: Giải pháp GTO được sửa đổi với những size bet flop mới cho cả hai người chơi: 1.25-pot,
2/3-pot, 1/4- pot.

Hoán đổi vị trí: Giải pháp được sửa đổi mà range của các người chơi được hoán đổi, nên bây giờ
OOP có range của BN và người chơi IP có range của BB.

Bảng 105: Kết quả của việc hoán đổi range của BN và BB từ góc độ BN

Hero ở vị trí BN và open một mức GTO trung bình 49% range open và hành động fold đến
Villain ở BB call với một mức trung bình 64% range GTO. Bây giờ tưởng tượng rằng vị trí bị hoán
đổi ở flop, nhưng cả hai người chơi giữ nguyên range gốc. Bây giờ Hero là OOP với range 49%
của BN, và Villain là IP với range call 64% của BB (Table 105).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hãy bắt đầu bằng việc phân tích điều gì sẽ xảy ra với Hero sau khi hoán đổi vị trí.
Ở mặt A76r, range của Hero là rất mạnh so với Villain đến mức Hero vẫn sẽ ghi nhận quá mức
equity, nhưng không nhiều bằng khi có vị trí. EV của Hero giảm từ việc nắm giữ 75% xuống chỉ
có thể nắm giữ 68.3% pot, mất đi 6.7% pot. Chiến thuật của Hero cũng sẽ có những thay đổi. Nó
vẫn là tối ưu để bet 100%, nhưng bây giờ size bet 125% và ¼-pot được sử dụng nhiều hơn size bet
⅔-pot.

Khi chơi ở IP, chiến thuật của Hero hầu hết luôn luôn nhắm đến việc sẽ bet suốt ba vòng đặt
cược. Vì lý do này, size bet 67% được sử dụng thường xuyên hơn vì nó cho phép có thể triple
barrel một cách hiệu quả. Khi chúng ta hoán đổi các vị trí, một vài thành phần ở range của Hero
chỉ muốn chơi hai vòng cược. Vì vậy, sau khi overbet ở flop và bị call, Hero sẽ hầu hết all-in hoặc
check ở turn. Sau khi check và đối mặt lệnh bet, Hero sẽ hầu hết x/r all-in hoặc fold. Bằng cách
này, Hero giảm bớt bất lợi về vị trí.

Ở mặt 654r, Hero có bất lợi về range nên, không giống như ở mặt A76r, bet toàn bộ range không
được khuyên dùng vì rủi ro bị check-raise (điều mà sẽ huỷ hoại equity của Hero) tăng lên đáng kể.
Nên, có vị trí, Hero chỉ có thể bet khoảng 48% thời gian sau khi BB check. Khi Hero là OOP với
range của BN ở flop, tần suất bet tổng giảm xuống 9.23% và size bet được sử dụng nhiều nhất là
125%. Một lần nữa, Hero nhắm đến việc chơi trò chơi hai vòng cược và all-in ở turn với tần suất
cao hợp lý.

Những hand yếu chiếm 51% range của Hero. Khi là IP những hand này sẽ được check lại hầu
hết thời gian để ghi nhận equity và sẽ muốn chơi những pot bé, để tránh rủi ro bị x/r và mất equity.
Không may rằng, khi check OOP, Hero không được đảm bảo để xem lá turn và thay vào đó sẽ
thường xuyên phải đối mặt lệnh bet và bị ép phải từ bỏ equity với rất nhiều hand mà có thể hưởng
lợi từ việc xem lá turn miễn phí. Vì lý do này, khi OOP, Hero phải check nhiều hand mạnh mà có
thể x/r ở flop, ép Villain bet ít thường xuyên hơn, và từ đó cho phép những hand yếu của Hero ghi
nhận equity. Nếu Hero không bảo vệ range check, Villain sẽ bet ở tần suất cao hơn, tiêu tốn rất
nhiều EV của Hero. Vì lý do này, tần suất check của Hero thậm chí còn cao hơn khi OOP với bất
lợi về range. Khi OOP ở 654r, EQR của Hero giảm từ 100% xuống 79%, tốn 9.7% pot!

Tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích tình huống tương tự từ góc nhìn của Villain, với BB bây giờ có
vị trí, và so sánh với mô phỏng GTO. Ở những tình huống hoán đổi chúng ta sẽ giả định OOP
check 100% thời gian với IP, nên các range là giống như khi BB là OOP (Bảng 106).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 106: Kết quả của việc hoán đổi các range giữa BN và BB từ góc độ BB

Ở mặt A76r range của Villain quá yếu do với Hero đến mức, kể cả khi có vị trí, tốt nhất là check
back 100% thời gian vì bet có thể dẫn đến việc bị x/r ở tần suất rất cao. Điều khác biệt chính là,
sau khi check back ở flop, Villain ghi nhận nhiều equity hơn rất nhiều khi OOP và bị ép fold rất
nhiều những hand yếu và rác mà sẽ được cải thiện hoặc có draw ở turn. Điều này dẫn đến khoản
tăng EV vô cùng lớn từ 25% khi OOP lên 37.8% khi IP với mức kiếm được tổng cộng là 12.8%!

Ở mặt 654r gần như tất cả các hand muốn bet khi OOP vẫn sẽ muốn bet khi Villain là IP. Điều
khác biệt chính là bây giờ size bet lớn hơn không còn quá cần thiết và Villain lựa chọn sử dụng
size bet 25% hầu như tuyệt đối. Ở trường hợp này BB tăng EV nhờ việc nắm giữ thêm 10% pot.

Những range đối xứng: Giải pháp đã được sửa đổi mà cả hai người chơi có range hoàn toàn giống
nhau. Chúng ta sẽ nghiên cứu một ví dụ với cả hai người chơi có range của BB và ví dụ khác với
cả hai người chơi có range của BN (Bảng 107-108).

Bảng 107: Những range đối xứng từ góc độ IP

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 108: Những range đối xứng từ góc độ OOP

Mặc dù có những range giống nhau, người chơi IP nắm giữ trung bình 5% pot nhiều hơn là 50%
equity, với EQR tổng là 110%. Trong khi đó OOP chỉ ghi nhận 90% equity, nắm giữ trung bình
chỉ 45% pot.

Những thí nghiệm khác nhau mà sử dụng những mẫu flop khác nhau, hoặc thậm chí một
tập hợp con lớn các flop, đưa ra các kết quả phù hợp với giá trị của các vị trí trong khoảng
5-10% pot.

Càng nhiều vòng cược còn lại, lợi thế thông tin của IP càng lớn vì IP hành động cuối cùng ở
mỗi vòng cược. Như đã đề cập trước đó, mỗi hành động được đưa ra trên bàn đều chứa đựng thông
tin, nên mỗi khi OOP đưa ra hành động, điều này tiết lộ một vài thông tin về range của họ cho IP,
người mà có thể sử dụng thông tin này làm lợi thế trước khi đưa ra hành động. Việc này tiếp diễn
đến river, thời điểm mà IP sẽ có hầu hết những thông tin hoàn chỉnh có thể bao gồm range của
OOP. Hơn nữa, khi nghiên cứu những chiến thuật kết hợp ở Chương 4, chúng ta đã thiết lập rằng
có sự tương quan trực tiếp giữa độ lớn stack hoặc SPR và khả năng ghi nhận equity của Hero.
Những stack lớn hơn có lợi cho người chơi IP và bất lợi cho OOP. Vì lý do này, OOP có xu hướng
sử dụng size bet lớn hơn IP, để khiến nhiều đối thủ fold hơn hoặc kết thúc hand bài ngay lập tức
hoặc, nếu bị call, giảm thiểu bất lợi về vị trí bằng cách giảm SPR.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Một phương thức khác OOP thực hiện để giảm thiểu bất lợi vị trí là tránh chia nhỏ range ở flop
nơi mà họ có bất lợi range rất lớn và do đó không đưa ra bất kỳ thông tin nào cho IP bằng cách
check 100% thời gian, như đã thấy ở phần donk bet của chương này.

Là IP với một range yếu không tệ bằng là OOP với một range yếu. Nhìn chung, những range
mạnh sẽ ghi nhận phần lớn equity của họ và đôi lúc thậm chí ghi nhận quá mức khi là OOP, trong
khi những range yếu ghi nhận dưới mức quá đà equity của họ khi OOP. Vì lý do này, fold quá đà
big blind để cướp đã từng là một chiến thuật chủ yếu trong poker cả trực tiếp và trực tuyến trong
nhiều năm vì người chơi thường cố gắng tránh những tình huống bất lợi này. Điều này lần lượt tạo
ra cơ hội cho những người chơi tinh ý tận dụng điều này bằng cách nới lỏng range open và tấn
công big blind của những người chơi chặt chẽ. Sau đó, người chơi bắt đầu điều chỉnh lại chiến
thuật BB của họ và bắt đầu call rất rộng với những lệnh raise open, dẫn đến cách phòng thủ của
BB có quá nhiều hand biên khiến cho việc chơi post-flop trở nên quá khó khăn cho BB, ảnh hưởng
EQR tổng của họ.

Hiện nay, với những bộ giải hiện đại, cả lối chơi pre và post-flop nói chung đã được cải thiện
đáng kể, dẫn đến việc những người chơi phòng thủ gần giống với cách tối ưu từ BB. Điều này đặc
biệt đúng ở cash game trực tuyến high stake nơi hầu hết người chơi dùng chiến dùng GTO pre-
flop cơ bản và giờ đây buộc phải tìm kiếm những lợi thế khả thi từ chỗ khác. Tuy nhiên, thậm chí
ở trình độ cao nhất, người chơi vẫn sẽ phạm sai lầm. Trò chơi không được giải hoàn toàn và luôn
có lỗ hổng cho sự cải thiện và khai thác.

Mục tiêu của chương này là để nâng cao hiểu biết cơ bản của người chơi về trò chơi để họ
có khả năng tự tìm ra những khía cạnh và biến chúng thành những chiến thuật chiến thắng
áp dụng vào trò chơi của riêng họ.

12

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


C-BET tại Flop

C-bet tại flop là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong poker. Nó là một tiêu đề phức tạp
đã được nghiên cứu và bàn luận bởi những tay chơi poker và những nhà lý thuyết hàng thập kỉ.
Trái ngược với hầu hết những quyển sách lý thuyết thông thường khác, tôi quyết định bắt đầu bàn
luận flop với BB thay vì trực tiếp đi vào c-bet. Điều này là vì tôi muốn những người đọc trước hết
hiểu rõ các khái niệm về bet nói chung, cách mà hành động ở post-flop là công cụ của các vị trí
liên quan của người chơi, sự phân phối range và SPR. Sau khi nghiên cứu lệnh bet OOP và sức
mạnh của vị trí, tất cả những gì còn lại là để hiểu c-bet ở flop để phân tích những tình huống từ
góc nhìn của người chơi IP.

Như những gì chúng ta đã làm khi nghiên cứu donk bet, đối với phần này chúng ta sẽ sử dụng
dữ liệu tổng hợp từ hàng nghìn giải pháp GTO với các độ lớn stack 20bb, 30bb và 40bb với những
range bắt đầu cơ bản GTO MTT. Những range của riêng bạn có thể khác với những cái sử dụng
cho những mô phỏng này, nhưng tôi nhận ra rằng, với điều kiện những range sử dụng là “hợp lý”,
kết quả chung cho lối chơi post-flop sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể. Nếu những range cơ bản của
riêng bạn khác quá nhiều với những chiến thuật cân bằng, bạn vẫn có thể hưởng lợi bởi việc nắm
rõ điểm cân bằng và sau đó áp dụng những lý thuyết đã bàn luận ở chương này để hiểu được cách
mà range thông thường của bạn khác với GTO và cách mà bạn có thể chệch khỏi điểm cân bằng
để tấn công mạnh hơn vào sự mất cân bằng đã được giới thiệu ở những chiến thuật mới. Có bộ
giải của riêng bạn và chạy một vài mô phỏng tùy chỉnh có thể giúp bạn hiểu rõ hơn tác động này
và tìm ra cách khai thác tốt chống lại những xu hướng phổ biến.

Ở phần trước chúng ta đã tìm ra rằng, từ góc nhìn GTO, không có quá nhiều động lực để OOP
bet ở flop, nhưng IP thì sao? Chiến thuật cân bằng của họ là gì? Họ có động lực để bet hoặc check
không? Họ có thể chơi một chiến thuật đơn thuần chỉ luôn luôn check back ở flop mà không có
sự mất EV đáng kể theo cách mà BB có thể không?

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng109: Kết quả của lối chơi check back 100% của IP

Nếu IP chơi một chiến thuật mà luôn luôn check back ở flop, họ sẽ có khoản EV mất đi vào
mức 26bb/100, do đó c-bet ở flop vô cùng quan trọng đối với IP. Ở phần này, chúng ta sẽ nghiên
cứu những nguyên tắc đằng sau c-bet ở flop và sử dụng kiến thức để phát triển một cách hiệu quả
những chiến thuật c-bet.

Những chỉ số flop tổng quát


Phân tích này bắt đầu tại điểm quyết định của IP sau khi BB check. Đối với những phép tính này,
chúng ta sử dụng những mô phỏng mà BB có quyền chọn donk bet. Tuy nhiên, donk bet xảy ra
rất không thường xuyên và, nhìn chung, check những range GTO sẽ duy trì cân bằng tốt thậm chí
khi mà donk bet được sử dụng rộng rãi. Do đó, chúng ta có thể kỳ vọng chiến thuật tổng thể của
IP không bị ảnh hưởng và có thể áp dụng cho những người chơi có range donk bet GTO và những
người check 100% thời gian.

Những người chơi có range donk bet không GTO nhìn chung khá dễ khai thác vì range donk
bet của họ có xu hướng luôn luôn mạnh hoặc luôn luôn yếu, nên tất cả những gì bạn cần để chống
lại họ là tìm ra chiến thuật của họ. Nếu họ luôn luôn donk bet những hand mạnh, bạn có thể bắt
đầu fold quá đà phần dưới của range khi họ bet và bet ở tần suất cao khi họ check. Nếu họ donk
bet những hand yếu, bạn có thể raise để bluff họ ở flop, trap họ với những hand thực sự mạnh
mạnh của bạn mà không cần quá nhiều sự bảo vệ, và check back flop nhiều hơn một chút so với
bình thường để tránh bị x/r bằng một range check nghiêng mạnh về những hand mạnh.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng110: Những chỉ số tổng quát giữa IP và BB

Cả BN và UTG đều ghi nhận quá mức equity 15%, nhưng vì range của UTG có equity cao hơn,
họ có khả năng nắm giữ tỉ lệ pot lớn hơn là BN (Bảng 110).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 38: Rổ equity giữa BB và IP

Rõ ràng IP có lợi thế range tổng thể. Như kỳ vọng, ~15% range của UTG mạnh hơn rất nhiều
~44% range của BN (Biểu đồ 38). Điều này phù hợp với tần suất c-bet cao hơn của UTG.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 39

Những hand mạnh


Những hand mạnh được khuyến khích bet và tăng size pot nhưng, như chúng ta đã biết, chỉ bet
những hand equity cao và check những hand equity thấp có thể là một chiến thuật rất dễ bị khai
thác. Vì lý do này, IP cũng phải bet một vài hand yếu hơn ở flop để range c-bet được cân bằng.

Đôi lúc check back những hand mạnh rất phù hợp ở những tình huống khi chúng không cần quá
nhiều sự bảo vệ. Khi chúng block range c-bet của Villain, hoặc khi chúng quá nut đến mức sẽ
không ảnh hưởng gì nếu bạn đưa ra một lá bài miễn phí để Villain có thể cắn câu phần nhỏ hoặc
bắt đầu bluff, check behind với một vài hand mạnh của bạn là hợp lý. Việc này còn được gọi là
“trap”. Một lợi ích thêm nữa là check những hand mạnh cũng giúp bảo vệ range check của bạn.

Những hand tốt

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những hand tốt cũng được hưởng lợi từ bet và kiếm được value từ những hand tệ hơn cũng như
là để bảo vệ vì khiến đối thủ fold những hand có equity. Tuy nhiên, đôi lúc nó là hợp lý để check
back hand tốt của bạn khi range của BB là rất phân cực với những hand mạnh hơn của bạn hoặc
có rất ít equity. Bằng cách check behind, bạn đưa ra cho Villain cơ hội lấy một vài equity với
những hand rác hoặc bluff với chúng, trong khi vẫn kiểm soát được size pot khi bạn bị đánh bại.
Hành động này còn được gọi là “kiểm soát pot”.

Những hand yếu


Những hand yếu hưởng lợi từ việc check back khi range của Villain mạnh và bạn có rủi ro bị x/r
và phải bỏ hand của mình. Tuy nhiên, chúng cũng có thể là một cú semi-bluff khi range đối thủ
của bạn khá yếu và không thể x/r bạn với tần suất cao.

Những hand rác


Những hand rác sẽ không cải thiện quá thường xuyên khi được check back, nên chúng thường
được c-bet thường xuyên hơn là những hand yếu. Chúng hầu hết hưởng lợi từ equity fold. Nếu bị
call, chúng vẫn có một vài equity ở pot, nhưng equity đó khá thấp và bạn không ngại bet/fold
chúng khi gặp x/r. Bet những hand rác của bạn thường được biết đến là một cú “bluff đơn thuần”.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 40
Tần suất c-bet và size bet của UTG lớn lơn BN vì range của UTG mạnh hơn của BN. Nhìn chung,
càng nhiều hand mạnh ở range của bạn so với đối thủ, bạn càng phải bet thường xuyên hơn. Điều
này là vì càng nhiều hand mạnh mà range bet của bạn có, bạn càng có thể bet những hand khác ở
range của mình vì range của bạn được bảo vệ. Thực tế rằng range UTG nói chung mạnh hơn BN
cũng cho phép sử dụng size bet lớn hơn thường xuyên hơn (Biểu đồ 41).

Biểu đồ 41

Size bet càng lớn thường được sử dụng càng ít thường xuyên khi stack bé, và việc sử dụng
những lệnh bet lớn hơn (và thậm chí bet quá mức) trở nên phù hợp khi stack lớn hơn. Điều này có
ý nghĩa vì, nói chung, khi stack bé, những lệnh bet lớn không cần thiết để lấy được tất cả tiền sau
hai hoặc ba vòng cược. Không cần phải đưa ra phần quá lớn từ stack của bạn khi SPR thấp. Điều
ngoại lệ duy nhất là lệnh bet all-in, cái mà được sử dụng thường xuyên hơn khi stack ít đi, vì tỉ lệ
risk/reward cao hơn rất nhiều khi toàn bộ chip của bạn được bỏ vào và bạn được đảm bảo ghi nhận
equity (Biểu đồ 41).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 42

Vì BB có nhiều hand không đồng chất liên tiếp hơn IP, những flop với nhiều khả năng tạo sảnh
hơn sẽ, như kỳ vọng, có lợi cho BB. Nên, tần suất c-bet giảm vì có nhiều khả năng tạo sảnh ở flop.
Những flop không có khả năng tạo sảnh nào sẽ có tần suất c-bet cao nhất.

Với những flop không có khả năng tạo sảnh, chúng ta có thể tạo ra một nhóm phụ cho số những
draw sảnh hai đầu có thể (Biểu đồ 42).

Không ngạc nhiên rằng, những flop với ba OESDs là những flop có tần suất c-bet thấp nhất và
size bet lớn hơn, vì BB sẽ có nhiều draw sảnh có thể xảy ra và những hand mạnh của IP cần được
bảo vệ nhiều hơn (Biểu đồ 43).

Flop 2xx duy nhất là 222 và nó được c-bet 100% thời gian. Những flop Axx là những flop được
c-bet nhiều thứ hai, với tần suất c-bet 96%. Những flop 3xx chỉ là 333, 322 hoặc 332 và được c-
bet 93% thời gian. Những flop Kxx được c-bet 88%, Qxx và Txx được c-bet 85% và, như kỳ vọng,
những flop trung bình và thấp được c-bet ở những tần suất thấp nhất, với 6xx có tần suất thấp nhất
vào mức chỉ 62% (Biểu đồ 44).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 43

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 44

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 45

Biểu đồ 45 cho thấy tần suất IP nên bet phân loại theo kết cấu flop. Rõ ràng, những board có đôi
nên được bet mức tối thiểu thường xuyên. Điều này sẽ được nghiên cứu chi tiết hơn ở những phần
sau.

C-bet tại Flop theo Cấu trúc


Cấu trúc flop là một trong những đặc điểm chính ảnh hưởng đến lối chơi post-flop vì các chiến
thuật sẽ phải thay đổi rất nhiều nếu đặc điểm của flop là bộ ba, có đôi hoặc không có đôi.

Bộ ba tuyệt đối là một trong những flop tốt nhất dành cho IP, người có thể nắm giữ trung bình
81% pot với kết cấu này. Những board có đôi, mặt khác, cung cấp cho BB rất nhiều những hand
mạnh, phân cực hoá range của họ và cho phép họ phản công. Sự phân cực range này là một trong
những lý do chính tại sao bet rất nhỏ là tối ưu ở board có đôi. Những lệnh bet nhỏ ép BB phải tiết
lộ rất nhiều thông tin về hand bài họ đang nắm giữ, vì có rất nhiều những hand rác và yếu BB phải

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


fold, bất kể size bet nào của IP, và IP thua mức tối thiểu khi phải bet/fold ở flop với phần dưới
range của họ.

Nói chung, những lệnh bet nhỏ được ưa chuộng khi range của IP có sự phân phối không phân
cực với phần lớn các hand là tối, nhưng không quá ổn, và tần suất thấp của những hand rác và yếu.
Trong trường hợp sự phân phối range của IP phân cực hơn với tỉ lệ lớn hơn những hand mạnh, yếu
và rác, những size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên hơn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


IP EQB on Trips BB EQB on Trips

•Strong •Good •Weak •Trash IP EQB •Strong •Good •Weak •Trash BB

on Paired Flops EQB on Paired Flops

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash IP EQB

in Unpaired Flops BB EQB Unpaired Flops

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


•Strong • Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 46

Bảng 111: Những chỉ số của IP theo


Cấu trúc Flop

Biểu đồ 47

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 48

Ở những flop với bộ ba, có một đặc điểm rõ ràng là size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên
hơn với những thứ hạng thấp, trong khi 1/3-pot là size bet được thấy sử dụng thường xuyên nhất.

Ở những flop có đôi, bet tối thiểu rõ ràng là size bet ưa chuộng cho hầu hết các thứ hạng ở flop,
mặc dù ⅓ pot được ưa chuộng ở những nhóm flop AAM, AAL và LLL, 1/2-pot hiếm khi được sử
dụng, trong khi ⅔ pot không bao giờ được sử dụng. Những nhóm flop được check nhiều nhất là
MMH, HHA, LLM, LLH, LLL, MMM, MML và LLA. Như kỳ vọng, những flop có đôi ở thứ
hạng thấp và trung bình có xu hướng có lợi cho BB hơn là IP, do đó chúng được check thường
xuyên hơn là những flop bao gồm đôi cao hoặc A.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 49

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 50

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở những flop không có đôi, những nhóm flop ít được c-bet nhất là LLL, MMM, MML, MLL
và HMM. Chúng ta vẫn thấy rất nhiều size bet kết hợp, do đó chúng ta phải nghiên cứu sâu hơn
vào kết cấu của những flop không có đôi để nắm được rõ hơn cách tiếp cận chúng.

C-bet tại Flop dựa theo Kết cấu (Những flop


không có đôi)
Những flop không có đôi chiếm 82.82% tổng số flop. Ở phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu kĩ hơn về
những kết cấu khác nhau của các flop không có đôi và cách chúng ảnh hưởnhg đến phân phối
range và những chiến thuật ở flop của người chơi.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


IP EQB in Monotone Flops BB EQB Monotone Flops

•Strong • Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash IP EQB

Two Tone Flops BB EQB Two Tone Flops

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


IP EQB Rainbow Flops BB EQB Rainbow Flops

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 51

Bảng 112: Những chỉ số của IP theo


Kết cấu Flop

Biểu đồ 52
Những flop đồng chất được c-bet nhiều nhất nhưng chúng cũng có mức EV thấp nhất cho IP. Ở
kết cấu này, phần trăm hand mạnh của IP giảm mạnh một biên độ lớn, trong khi phần trăm hand
mạnh của BB tăng vì rất nhiều hand có thể là hand rác ở kết cấu flop khác nhưng giờ có khả năng
tạo thùng và rất nhiều hand của IP có thể mạnh ở những kết cấu khác bị giảm equity. Phần trăm

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


những hand yếu của BB cũng tăng, vì rất nhiều hand có thể chắc chắn là hand rác ở những kết cấu
khác giờ đây có cơ tạo draw thùng. Sự phân phối range này tạo nên tình huống tương tự như ở
những board có đôi, với BB có sự phân phối phân cực, trong khi IP ít phân cực hơn. Vì lý do này,
sử dụng những size bet nhỏ hơn được ưa chuộng vì chúng sẽ kiếm được nhiều cú fold hơn từ những
hand có equity tệ của BB trong khi không phải chơi quá nhiều những hand tốt, nhưng không quá
ổn của IP.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tôi thường thấy những người chơi phạm phải sai lầm bet lớn ở những flop đồng chất, cho rằng
họ phải bảo vệ hand tốt của mình và khiến BB fold. Vấn đề ở đây là nếu size bet của bạn quá lớn,
bạn ép BB phải fold những hand yếu mà có thể tiếp tục đương đầu với những lệnh bet nhỏ hơn và
sẽ cô lập bản thân chống lại phần trên range của họ mà sẽ đánh bại bạn hoặc có một tấn equity.

Biểu đồ 53

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 54

Thứ hạng càng thấp và càng kết nối với board, IP càng ít c-bet, với MMM, LLL, MML, và
HMM là những flop ít được c-bet nhất. Những flop có khả năng tạo ba sảnh được check 31% thời
gian, những flop với hai sảnh được check 28% thời gian, flop với một sảnh được check 17% và
những flop không sảnh chỉ được check 10% thời gian. Độ lớn stack cũng có ảnh hưởng, với stack
càng lớn thì càng có khả năng check ở flop.

Chúng ta có thể đơn giản hoá chiến thuật ở những flop đồng chất bằng cách chỉ sử dụng size bet
⅓ pot hoặc bet tối thiểu mà không bị mất EV đáng kể.

Một lần nữa, chúng ta thấy được xu hướng của những thứ hạng thấp được c-bet ít thường xuyên
hơn. Tuy nhiên, chúng ta thấy sự khác biệt lớn ở cách mà size bet được sử dụng so sánh với những
flop đồng chất, với những size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên hơn. Một lần nữa, đây là
tính năng của cách là equity được phân bổ ở những flop hai chất, với IP có 24% những hand mạnh
so với 5% của BB.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 55

Ở những flop ba chất, lợi thế range của IP thậm chí còn lớn hơn ở flop hai chất, dẫn đến sự ưa
chuộng thậm chí lớn hơn nữa cho những size bet lớn hơn. Những hand mạnh ở những flop ba chất
thường cũng có xu hướng mạnh ở turn và river. Ngược lại, ở những flop hai chất, sự hiện diện của
draw thùng dẫn đến sự biến đổi equity mạnh mẽ hơn. Việc không có draw thùng ở flop cũng tăng
phần trăm số hand rác của BB mà có thể có draw thùng ở board hai chất. Vì những lý do này, IP
sẽ có khả năng triple barrel hiệu quả hơn ở những flop ba chất và lấy được toàn bộ số tiền ở river.

Phát triển những chiến thuật c-bet của IP


Điều đầu tiên bạn nên cân nhắc khi quyết định c-bet là trình độ kĩ năng của đối thủ. Nếu Villain là
một người chơi yếu mà hoàn toàn bị nhìn thấu, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn. Nếu bạn
nghĩ họ có khả năng call lệnh overbet của bạn qua ba vòng cược một cách nhẹ nhàng, thì bạn nên
bằng mọi cách để value từ họ bất cứ khi nào bạn có những hand dẫn trước range call của họ.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Mặt khác, nếu bạn có một hand có rất ít equity và lá bài chặn xấu, bạn nên từ bỏ hoặc bet nhỏ, cố
gắng để lấy pot ngay thời điểm đó, và sẵn sàng bỏ nếu lệnh bet đầu tiên của bạn bị call vì loại
người chơi này sẽ không dễ dàng fold, bất kể bạn chọn size bet nào. Như với ví dụ này, có rất
nhiều tình huống khác nhau bạn nên điều chỉnh size bet và tần suất để kiểm soát được range của
đối thủ. Vấn đề với việc thực hiện những điều chỉnh này xảy ra khi đối thủ của bạn thông minh,
nhận biết được và có khả năng phản công khai thác ngược lại bạn. Khi đó, bạn cần có một chiến
thuật vững chắc để không bị khai thác thay thế.

Nếu Villain là một người chơi tốt, hoặc ít nhất bạn nghĩ rằng họ sẽ có khả năng phòng thủ tốt ở
những flop đặc trưng với các range trong lối chơi, thì có hai khái niệm chính cần xem xét:

◆ Tần suất c-bet GTO ở flop

◆ Size c-bet

Ở phần này, chúng ta tập trung vào hai yếu tố chính này và cố gắng sử dụng chúng để phát triển
trực giác của chúng ta để chúng ta có thể phát triển hiệu quả những chiến thuật c-bet của mình.

Tất cả những mô phỏng mà được sử dụng để phát triển dữ liệu trong phần này có những size bet
ở flop giống nhau: bet tối thiểu, 1/3-pot, 1/2-pot và 2/3-pot. Chúng ta có thể phân loại các size bet
ở flop thành hai nhóm dựa theo size c-bet được ưa chuộng bởi bộ giải: We can categorize flop bet-
sizes into two groups according to the c-bet size that is preferred by the solver:

◆ Size bet lớn: 1/2-pot, 2/3-pot

◆ Size bet nhỏ: bet tối thiểu, 1/3-pot

Chúng ta cũng có thể phân loại flop dựa theo tần suất c-bet như sau:

◆ Những flop tần suất c-bet cao (80%+)

◆ Những flop tần suất c-bet trung bình (60%-80%)

◆ Những flop tần suất c-bet thấp (ít hơn 60%)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trong poker, hiếm khi có trường hợp điều gì đấy đúng 100% thời gian, và hệ thống rổ equity là
không ngoại lệ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể sử dụng biểu đồ EQB để nắm rõ hơn về cách mà
phân phối range của người chơi ảnh hưởng đến lối chơi post-flop bằng cách nghiên cứu EQB ở
những phân mục flop được sử dụng trước đó.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


High Cbet % {IP) High Cbet % (OOP)

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong • Good •Weak •Trash Mid

Cbet % {IP) Mid Cbet % (OOP)

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash Low

Cbet % (IP) Low Cbet % (OOP)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 56: Size bet lớn: Rổ equity trung bình ở flop

Nhìn chung, khi một size bet lớn được sử dụng bởi IP, BB có range không phân cực nhất với
khoảng 4-5% những hand mạnh và số lượng những hand tốt nhiều hơn, 19-36%. Khi một size bet
nhỏ được sử dụng, BB có 7-9% những hand mạnh (gấp hai lần số lượng hand mạnh) và số lượng
hand tốt ít hơn, 20-27%. Do đó, IP tăng size khi OOP có rất nhiều hand có khả năng call ở flop,
và giảm size khi OOP khả năng có nhiều hand raise hơn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


High Cbet % (IP) High Cbet % (OOP)

• Strong • Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash Mid

Cbet % {IP) Mid Cbet % (OOP)

•Strong •Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash Low

Cbet % {IP) Low Cbet % {OOP)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


•Strong • Good •Weak •Trash •Strong •Good •Weak •Trash

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 57: Size bet nhỏ: Rổ Equity trung bình ở Flop

Một xu hướng thú vị khác là cách mà tần suất c-bet của IP tăng khi nhiều hand rác ở range của
BB và giảm khi range của IP trở nên kém phân cực hơn. Khi số lượng những hand mạnh ở range
của họ giảm, số lượng những hand tốt và yếu trong range tăng.

Thực tế, ở 80%+ số flop c-bet, bạn có thể thắng bằng việc c-bet 100% thời gian với mức EV bị
mất là rất ít hoặc không có, thậm chí khi đối đầu với một đối thủ khai thác tối thiểu. Vì lợi thế
range quá rộng của IP, có rất ít cơ hội để Villain có thể tấn công flop c-bet.

Ở những flop có tần suất c-bet trung bình, range của IP vẫn chiếm ưu thế so với BB, nhưng các
range giờ khá gần nhau, vì range của IP trở nên phân cực hơn bằng cách có ít những hand mạnh
và nhiều hand yếu hơn là ở những flop c-bet cao, trong khi range của BB trở nên mạnh hơn. Bởi
vì việc chuyển đổi thành phần range này, IP không thể thắng bằng cách c-bet ở tần suất cao mà
không tốn EV, thậm chí khi đối đầu với những người chơi yếu, vì range của họ có thể hit flop rất
tốt, giúp họ dễ dàng phòng thủ lại những lệnh bet ở flop. Thay vì bet một range hợp nhất, IP chia
nhỏ range của họ, check back những hand tốt, không phải những hand tuyệt có thể hưởng lợi từ
việc giữ pot nhỏ và xem lá tiếp theo miễn phí ở tần suất cao, trong khi c-bet một range phân cực
hơn, dẫn đến những size bet lớn hơn trở nên ưu thế hơn.

Chơi ở turn sau khi check back ở flop có thể khá thử thách và, vì lý do này, tôi thường thấy
người chơi biện hộ rằng họ bet những hand mà đáng ra nên check ở flop để họ không phải đối mặt
với việc chơi ở turn quá khó khăn. Một trong những lập luận điển hình nhất lệnh bet còn được gọi
là “bet lấy thông tin”. Một vài người chơi sẵn sàng bet ở flop với một hand yếu mà đáng ra có thể
hưởng lợi từ việc check back và chơi một pot nhỏ, chỉ để tăng pot lên trong những tình huống mà
BB có khả năng sẽ x/r ở flop. Hoặc, thậm chí tệ hơn, họ sẽ call một flop x/r chỉ để fold khi gặp
lệnh bet ở turn 100% thời gian khi bài họ không được cải thiện. Sai lầm vô cùng to lớn này thường
gặp ở những người chơi nghiệp dư và thậm chí những người chơi chuyên nghiệp vì họ muốn tránh
bị mất “lợi thế bet dẫn trước”. Họ sẵn sàng bỏ thêm nhiều tiền vào pot chỉ để fold khi gặp người
chơi quá hổ báo và rồi có thể cảm thấy tốt hơn vì đã thực hiện một lệnh “fold tốt”.

Chơi poker đơn giản hơn khi bạn có range mạnh hơn và bạn là người duy nhất bet, đặt đối
thủ vào một bài kiểm tra, nhưng đó không thể là lời biện hộ cho việc bị -EV vì chơi quá mức
những hand của mình.

Poker không chỉ là cố gắng thắng mỗi một hand bạn chơi một cách cố chấp, mà thay vào
đó là về việc kiếm được EV cao nhất mỗi lần chơi.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Đôi khi cách chơi mang lại EV cao nhất đơn giản là từ bỏ.
Hãy học cách cân bằng range để bạn không trở thành một con mồi dễ dàng, và chơi hổ báo
một cách có chọn lọc và thông minh, là điều tạo nên sự khác biệt giữa người chơi mới và
người chơi chuyên nghiệp.

Hướng dẫn C-bet ở IP tổng quát


◆ Bạn không cần phải biết thành phần range chính xác theo từng combo. Tất cả những gì
bạn cần đưa ra những quyết định sáng suốt là biết rõ về thành phần của mỗi rổ equity của
đối thủ.

◆ Nếu đối thủ có rất nhiều hand rác trong range, bạn nên c-bet ở tần suất cao và kỳ vọng
khiến đối thủ phải fold thường xuyên. Nếu họ có rất ít những hand mạnh so với bạn, bạn
nên tăng mức c-bet!

◆ % c-bet cao và những flop có size bet lớn chắc chắn là những flop tốt nhất cho IP.
Chúng cho phép lối chơi hổ báo và bạn nên kỳ vọng sẽ nắm giữ được hầu hết pot.

◆ % c-bet thấp và những flop có size bet nhỏ là những flop tốt nhất cho BB. Equity trở nên
gần nhau và bạn nên cẩn trọng, thường xuyên bet nhỏ và ở tần suất thấp.

◆ Những loại hand mà bộ giải thường check back ở flop hầu như giống nhau.
Sự thay đổi là tần suất chúng được check.

◆ Bet-fold những hand có equity cao ở flop là một thảm hoạ. Nếu range của bạn không đủ
mạnh để c-bet 100% mà không gặp rủi ro bị x/r vớt tần suất cap, bạn nên chia nhỏ range,
c-bet một range phân cực hơn và check back những hand tốt và yếu mà có thể hưởng lợi từ
việc xem lá turn miễn phí.

◆ Nếu bạn có một range check ở mặt flop cho trước, check back những hand mạnh mà chặn
range c-bet của đối thủ, đặc biệt là khi, ở flop đó, bạn có khả năng kiếm được nhiều cú fold.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Nếu bạn kỳ vọng đối thủ fold rất nhiều hoặc raise lệnh bet của bạn, bạn nên bet nhỏ ở tần
suất cao, và nếu bạn kỳ vọng họ call rất nhiều, bạn nên tăng mức bet.

◆ Đừng đặt bản thân vào sơ đồ quyết định mà bạn không thoải mái. Nó là điều hoàn toàn
khác để hỏi bản thân cách mà bộ giải sẽ chơi ở một vị trí khó nhằn và hỏi cách chơi tốt
nhất bạn có thể nghĩ đến bây giờ là gì.

◆ Tốt hơn là nên có một kế hoạch, kể cả là đơn giản, hơn là không có kế hoạch gì.

◆ Ở những pot nhiều nhà, blocker quan trọng hơn là độ mạnh thuần của hand.

◆ Thông thường, hãy chơi bị động ở pot nhiều nhà. Không nên bet với draw quá thường
xuyên trừ khi chúng là nut.

◆ Đừng bao giờ nghĩ về một hand chung chung. Hãy luôn nghĩ về bối cảnh hiện tại.

◆ Những hand với equity backdoor và không có value showdown thường sẽ là những cú
semi-bluff tốt.

◆ Nếu bạn có một range check, hãy chắc chắn rằng check back những hand mạnh với một
vài tần suất khác nhau để bạn không dễ dàng bị khai thác bởi những người chơi hổ báo
sau khi bạn check.

◆ Nếu bạn không chắc chắn về chiến thuật ở flop với range của mình, bạn có thể mặc định
c-bet ⅓ pot ở hầu hết các tình huống stack ít và trung bình.

◆ Nếu bạn không chắc chắn rằng mình nên bet hay check, hỏi bản thân điều gì sẽ xảy ra
nếu bạn bị raise. Nếu hand của bạn ghét bị raise và bạn có khả năng đối mặt lệnh x/r,
thì bạn nên check.

◆ Nếu BB không có range donk bet ở những flop donk bet tốt, bạn nên c-bet ít thường
xuyên hơn mức cân bằng vì bạn sẽ bị x/r thường xuyên hơn.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ Nếu bạn của bạn có thể lấy được value suốt ba vòng cược, nó sẽ hầu như lý tưởng để
bắt đầu bet ở flop

◆ Đừng cố gắng loại bỏ những người chơi giải trí với top pair. Thường xuyên hơn là không,
họ sẽ không fold nó.

Tình huống dẫn trước hoặc ở phía sau

Đôi lúc range của IP quá mạnh so với BB đến mức, kể cả nếu họ có thể c-bet kiếm lợi nhuận 100%
và nhận được nhiều nhà fold, chiến thuật bao gồm check back flop với tần suất cao. Điều này xảy
ra ở những flop mà range của BB cực kỳ phân cực với những hand mạnh và rất nhiều những hand
rác với ít những hand ở mức giữa.

Ví dụ
Board: A♠T♥T♦

Tình huống: BB và UTG

Độ lớn stack: 30bb

EQB của IP: 57% những hand mạnh, 37% tốt, 5% yếu và 1% rác
EQB của BB: 7% mạnh, 12% tốt, 0% yếu và 81% rác.
Tình huống này thường được biết đến là dẫn trước hoặc ở phía sau vì đối thủ sẽ có hand khủng
hoặc ít đến không có gì, không có nhiều ở mức giữa. Ở thiết lập này, IP sẽ muốn check back ở flop
với rất nhiều những hand tốt để kiểm soát pot, với một lượng lớn những hand mạnh để trap. IP
cũng muốn c-bet tất cả các hand rác và hầu hết những hand yếu, cân bằng với những hand mạnh
và một vài hand tốt. Điều này cho phép IP thường xuyên thắng những pot không cạnh tranh ở flop
với hand rác trong khi vẫn có thể bắt bluff hiệu quả ở những vòng cược sau sau khi check back ở
flop.

Khi đối mặt với x/r, bạn nên luôn luôn cân nhắc range của đối thủ và range của bạn so với equity
range. Nếu Villain có khả năng x/r flop ít hơn mức trung bình đề xuất, họ sẽ có thể mất những cú
bluff tối ưu. Range của họ sẽ lệch nhiều về những hand mạnh và equity tổng thể của bạn sẽ thấp
hơn rất nhiều những gì bạn kỳ vọng. Nếu trong trường hợp đó, bạn có thể khai thác Villain bằng
cách fold quá đà ở flop. Kể cả nếu họ đã bluff bạn một lần, tần suất của họ vẫn là quá ít để bạn

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


phải mạo hiểm tiếp tục với những hand mạnh trung bình. Phụ thuộc vào đối thủ, bạn thậm chí có
thể đặt ra một vài những hand mạnh mà bạn sẽ không bao giờ phải cân nhắc fold với bất kỳ đối
thủ nào.

Nếu range của đối thủ thiên về draw, bạn có thể 3-bet một cách hổ báo với những hand tốt và
mạnh mà có thể hưởng lợi từ việc được bảo vệ. Nếu range của Villain phân cực với những hand
mạnh hoặc bluff, range của bạn sẽ chơi tốt hơn nếu là những hand bắt bluff. Hãy để họ phải bỏ
thêm nhiều tiền vào với những cú bluff và đừng raise back với những hand mạnh trung bình.

Những ví dụ C-bet ở IP

Chiến thuật Flop ví dụ 1

% c-bet cao và size bet lớn: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠ (40bb)

Biểu đồ 58: % c-bet cao và size bet lớn: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠
(40bb)

Nếu chúng ta đưa cho IP quyền chọn sử dụng lệnh bet 120%, bộ giải sẽ sử dụng chúng 14.15%
thời gian, mặc dù điều này không kiếm thêm EV cho IP. Mặt khác, đơn giản hoá chiến thuật thành

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


c-bet 100% cho size bet ⅓ pot mất đi 1.07% pot, hoặc 6.6bb/100. Đơn giản hoá chiến thuật thành
c-bet 100% sử dụng size bet ⅔ pot bảo toàn tất cả mức EV của IP.

Biểu đồ 59

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 113: Phân tích range c-bet của UTG ở mặt A♥Q♦3♠

Ở A♥Q♦3♠, UTG có tất cả những hand rất mạnh, như AA, QQ và AK, trong khi BB có thể 3-
bet AA và QQ tất cả thời gian và AK hầu hết thời gian. Việc thiếu những hand nut ở range của BB
cho phép IP bet lớn qua nhiều vòng cược, ghi nhận quá mức 72% equity và nắm giữ 85% pot.

Đối mặt với lệnh x/r tối thiểu


Ở mặt flop này, IP có lợi thế range cực kỳ lớn và, ở điểm cân bằng, sẽ chỉ đối mặt với flop x/r
khoảng 5% thời gian. Range x/r của OOP bao gồm những hand như 33, AQ, A3, Q3, AJ, một vài
AT- A7, và bluff như gutshot và một vài bottom pair cộng thêm BDFD và BDSTD.

Phản ứng thông thường của UTG nên là fold khoảng 30% range của họ, bao gồm hầu hết những
hand đôi, K cao mà không có gutshot và không có gì. Range 3-bet của UTG bao gồm những hand
như AK, AJ, tần suất nhỏ AQ, và khoảng 5% set để value, cộng thêm một vài KJo, QJs và QTs
mà không có BDFD và khoảng một nửa JJ để bluff. 52% range của UTG call với lệnh x/r và chơi
ở turn với bất kỳ top pair, middle pair và gutshot nào.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chiến thuật Flop ví dụ 2

% c-bet cao và size bet nhỏ: BB với UTG ở mặt Q♥J♥T♥ (40bb)

Biểu đồ 59: % c-bet cao và size bet nhỏ: BB và UTG ở mặt Q♥J♥T♥ (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 60

Ở mặt Q♥J♥T♥, UTG có lợi thế range đáng kể, nên họ sẽ muốn c-bet ở tần suất cao, nhưng
range của BB quá phân cực, với nhiều hand không có khả năng tiếp tục ở flop nếu UTG sử dụng
size bet lớn. Cùng lúc đó, BB có nhiều những hand mạnh sẵn sàng tiếp tục với những size bet lớn.
Nên, bằng cách bet lớn UTG có thể khiến BB chơi dễ dàng hơn, cho phép họ fold chính xác những
hand yếu và tiếp tục với một range rất mạnh. Nếu thay vào đó, UTG bet mức tối thiểu, điều này sẽ
câu dẫn BB chơi tiếp với nhiều hand yếu mà UTG hoàn toàn chiếm ưu thế, giữ cho range của họ
rộng hơn ở những vòng cược sau.

Bảng 114: Phân tích range c-bet của UTG ở mặt Q♥J♥T♥

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Chiến thuật ở flop này có thể đơn giản hoá thành bet tối thiểu 100% mà không có khoản EV
nào mất đi. Rất nhiều lần, khi mọi người thấy các tần suất nhỏ được sử dụng, họ phát hoảng, nghĩ
rằng chơi với mức độ đó là không thể nào, và họ đã đúng. Chỉ có bộ giải mới có khả năng kết hợp
như vậy nhưng, như ta đã thấy ở phần size bet post-flop, chúng ta không cần sử dụng nhiều loại
size bet, vì một loại size bet sẽ giúp bảo toàn EV của tất cả chiến thuật.

Đối mặt với lệnh x/r 50% Pot


Range x/r của BB ở mặt flop này bao gồm nhiều những hand mạnh như thùng, sảnh, set và hai
đôi, cùng với đó là draw thùng và draw sảnh và không quá nhiều air.

Phản ứng của UTG với một flop x/r ở kết cấu này là hầu như không bao giờ 3-bet, fold khoảng
35% thời gian và call 65% còn lại. Range c-bet của UTG bao gồm khá nhiều các hand là hai đôi
hoặc tốt hơn, một đôi với draw sảnh và khá nhiều những hand có draw thùng.

Chiến thuật Flop ví dụ 3

% c-bet trung bình và size bet lớn: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bbs)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 61: % c-bet trung bình và size bet lớn: BB với UTG ở 9♥8♥4♦ (40bbs)

Biểu đồ 62

Ở kết cấu flop này, IP có 59% equity và có khả năng nắm giữ 69.04% pot. Đơn giản hoá chiến
thuật thành size bet duy nhất ⅔ pot bảo toàn hầu hết EV của IP, 68.95%, với mức EV mất đi là -
0.09 hoặc -0.6bb/100.

Chiến thuật c-bet 100% không thể được áp dụng vào flop này vì nó tốn của UTG mức EV mất
đi là 4.25% pot, hoặc -24bb/100. Ở điểm cân bằng, tần suất x/r của BB so với UTG là khoảng 4%,
nhưng so với chiến thuật c-bet 100%, BB có thể tấn công UTG bằng cách tăng tần suất x/r lên mức
rất lớn 48.42%.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 115: Phân tích range c-bet của UTG ở mặt 9♥8♥4♦

Phân tích chiến thuật của UTG như sau:

Những hand mạnh


Những hand mạnh được bet hầu hết thời gian. Những hand như AA, top set và middle set được
check back ~8%.

Những hand tốt


Những hand tốt được chơi một cách bị động, với những hand được tạo như middle pair hầu hết
được check. Những draw tốt như combo draw và draw thùng hầu hết được c-bet, trong khi những
hand yếu như OESD hầu hết được check. Top pair sẽ muốn được check back 24% thời gian và có
thể c-bet theo kiểu tuyến tính ngược, với kicker mạnh nhất A9 được c-bet 100% và T9s được c-
bet 66%.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những hand yếu
Những hand yếu duy nhất ở range của IP mà không có bất kỳ draw nào là K cao và A cao. Thông
thường, những combo với BDFD được c-bet thường xuyên hơn so với những combo không có
BDFD.

Những hand rác


Hand duy nhất với ít hơn 33% equity ở range của IP là 65s, và nó được c-bet khoảng 95% thời gian.

Đối mặt với lệnh x/r tối thiểu


Ở flop này, BB chỉ nên x/r khoảng 4% thời gian, với việc thiếu đi những hand mạnh trong range.
Range x/r flop bao gồm những hand như hai đôi, overpair, draw combo, và một vài overcards có
BDFD.

Phản ứng của UTG ở điểm cân bằng là fold khoảng 32% thời gian, bao gồm hầu hết là overcard
không có BDFD. UTG 3-bet all-in ~13.5%, và 3-bet một size nhỏ hơn khoảng 8% thời gian. Range
3-bet bao gồm những hand như overpair, top pair top kicker và draw thùng nut (đặc biệt với hai
overcard) và một vài hand bluff với những hand như A♥ cộng thêm một overcard. Phần còn lại
của range là call, với tần suất call ~47%.

Chiến thuật Flop ví dụ 4


% c-bet trung bình và size bet nhỏ: BB và BN ở mặt J♠6♥6♦ (40bbs)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 63: % c-bet trung bình và size bet nhỏ: BB với BN ở J♠6♥6♦ (40bbs)

Ở mặt flop này, range của BB rất phân cực và có số lượng tốt những hand mạnh vào mức 14%,
không quá cách biệt so với 23% của BN. Đặc biệt hơn, range của BB có 8.9% trip sixes, trong khi
BN chỉ có 5%. Vì lý do này, BN không thể sử dụng size lớn, nhưng BB vẫn có 52% hand rác mà
sẽ khó khăn để tiếp tục đối đầu kể cả với lệnh bet tối thiểu. Điều này cho phép BN có tần suất c-
bet tổng thể cao vào mức 72%.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 64

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 116: Phân tích Range c-bet của BN ở mặt J♠6♥6♦ Chiến

thuật của BN chia ra như sau:

Những hand mạnh


Một vài những hand mạnh như tứ quý (66) và cù lũ (JJ) block range c-bet của BB, nên họ hưởng
lợi từ việc trap và check back flop với một vài tần suất. Điều này đưa ra cho Villain cơ hội để bắt
đầu bluff hoặc bắt được một vài equity. Đồng thời, range của IP được bảo vệ khi họ check back ở
flop. Overpair QQ+ sẽ thích được check back flop với một vài tần suất khi chúng block BDFDs
của BB mà đáng ra sẽ tiếp tục ở flop. Vậy nên, một hand như K♣K♦ có khả năng c-bet hơn là một
hand như K♠K♥.

Những hand tốt


Những hand tốt là đôi TT-22 (ngoại trừ 66) và chúng được c-bet một nửa số thời gian.

Những hand yếu


Át cao đồng chất được c-bet tuyến tính, với những hand mạnh nhất AK-AQs được c-bet 100%,
sau đó là những hand trung bình ATs-A7s được c-bet 80% và những hand Át bé A5s-A2s chỉ được
c-bet 34%. Lý thuyết là Át cao càng mạnh càng có equity tốt hơn so với range x/r của BB, nên IP
sẽ muốn có chúng thường xuyên hơn khi đối mặt với x/r. Đồng thời, chúng cũng có những lá
blocker tốt hơn với top pair, và được call bởi Át cao yếu hơn thường xuyên hơn.

Những hand rác


Những hand Air được c-bet 75% thời gian.

Đối mặt với lệnh x/r 50% Pot

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tần suất x/r tổng của BB ở mặt board này là khoảng 27%, với một range phân cực bao gồm một
vài hand mạnh như bộ ba, một vài top pair tốt và một số những hand rất yếu như các combo thùng
và sảnh backdoor.

Phản ứng cân bằng của BN đối với x/r là fold khoảng 35% hand, 3-bet 11% sử dụng lệnh raise
tối thiểu và call 54%. Range fold của BN bao gồm tất cả những hand air, và rất nhiều Át và K cao
với chỉ một lá overcard đối với flop J. Range 3-bet của BN là cực kỳ phân cực, bao gồm những
hand như A6 và K6, một vài top pair mạnh, bluff với hai lá overcard với thùng backdoor hoặc
thùng và sảnh backdoor. Range call bao gồm bất kỳ hand đôi+, hầu hết Át và K và Q cao với
backdoor equity.

Chiến thuật Flop ví dụ 5

% c-bet thấp và size bet lớn: BB với BN ở mặt 8♥6♦2♠ (40bbs)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 65: % c-bet thấp và size bet lớn: BB với BN ở mặt 8♥6♦2♠ (40bbs)

Biểu đồ 66

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở mặt 862r, BB có ít những hand mạnh so với BN. Điều này khuyến khích BN sử dụng size bet
lớn. Tuy nhiên, BN cũng có nhiều những hand tốt và yếu mà hưởng lợi từ việc chơi một pot nhỏ
và xem lá turn miễn phí. Sự phân phối range này dẫn đến size bet lớn phân cực hơn với tần suất c-
bet thấp.

Bảng 117: Phân tích range C-bet của BN ở mặt 8♥6♦2♠

Chiến thuật của người chơi IP phân tích như sau:

Những hand mạnh


Điều quan trọng là IP phải có một vài hand mạnh có thể tiếp tục ở những lần chia tiếp theo. Vì lý
do này, một vài hand mạnh như top set và top pair có kicker yếu được check back với một vài tần
suất. Thực tế, top set sẽ muốn được check back hoặc bet nhỏ. Vì tôi ủng hộ một size bet theo flop,

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


tôi nghĩ chiến thuật tốt sẽ là luôn check back top set ở vị trí này. Một xu hướng mà thường làm
mất EV của IP mà tôi luôn thấy xảy ra là c-bet tất cả những hand mạnh và tốt ở flop và check back
một range không cân bằng và capped mà có thể bị tấn công bởi BB ở những vòng cược sau.

Những hand tốt


Những hand tốt rất muốn check back thường xuyên và ghi nhận equity thay vì bị raise khỏi pot.
Những đôi trung bình và bé hầu hết muốn được check back flop, ngoại trừ 77, hand này có thể bet
một nửa thời gian, vì nó có thể lấy được value từ đôi trung bình. Những đôi trung bình mạnh nhất
như A6 và K6 hầu hết được c-bet và những đôi yếu hơn thường được check back. Đôi thấp nhất
với kicker cao nhất hầu hết được c-bet, và những phần còn lại được check back. Át cao mà không
có thùng backdoor được c-bet theo kiểu tuyến tính ngược (A6o được c-bet thường xuyên hơn AQo)
ngoại trừ AKo, hand được bet và những hand có thùng backdoor được c-bet tuyến tính (AKs được
c-bet thường xuyên hơn A3s).

Những hand yếu


Những hand yếu được c-bet tuyến tính ngược khi chúng không thể call một flop x/r. Ví dụ, K6o
được c-bet thường xuyên hơn K9o, và cũng được c-bet thường xuyên hơn KQo. Nên, hand Kx
mạnh nhất sẽ chơi tốt ở nhiều vòng turn có thể được check back, trong khi những hand yếu hơn
nên được bet/fold. Draw sảnh hai đầu hầu hết được check back, trong khi sảnh lọt khe và Q cao
với hai overcard hầu hết được c-bet.

Những hand rác


Q-cao, J-cao và 10-cao yếu không có draw được c-bet thường xuyên hơn là không, nhưng bạn phải
từ bỏ và check back một số chúng vì c-bet toàn bộ hand rác sẽ khiến cho range c-bet của bạn quá
yếu.

Đối mặt với lệnh x/r 50%


Ở mặt 862r, range của BB không có nhiều hand mạnh, do đó tần suất x/r ở flop cân bằng khá thấp,
ở mức ~8%. Range x/r hầu hết bao gồm những hand như top pair với kicker tốt, một vài sảnh hai
đầu, những hand yếu như draw sảnh lọt khe cộng thêm draw thùng backdoor và một vài overcard
ngẫu nhiên.

Phản ứng cân bằng của BN là fold 43% thời gian, call 34% và 3-bet all-in 23%. Range 3-bet
của BN bao gồm những hand như QQ-99, top pair kicker+ tốt, và một vài hai overcard ngẫu nhiên

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


với draw thùng backdoor như KTs, Q9s, J9s và T9s. Range call là khá nhiều bất kỳ các đôi, sảnh
lọt khe hoặc draw tốt hơn và hầu hết overcard với draw thùng backdoor. Air và overcard không có
draw thùng backdoor luôn luôn được fold.

Chiến thuật Flop ví dụ 6

% c-bet thấp và size bet nhỏ: BB với BN ở mặt 5♥5♦4♥ (40bbs).

Biểu đồ 67: % c-bet thấp và size bet nhỏ: BB với BN ở mặt 5♥5♦4♥ (40bbs)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 68

Ở mặt flop này, BN không có lợi thế về range đáng kể, do đó sẽ ưa thích những size bet nhỏ
hơn. Thực tế, hầu hết range của BN tạo bởi những hand tốt, với sự phân phối không phân cực mà
dẫn đến tần suất c-bet thấp, vì nhiều những hand tốt và yếu ở range của BN sẽ được hưởng lợi từ
việc check back ở flop.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 118: Phân tích range c-bet của UTG ở mặt 5♥5♦4♥

Chiến thuật của người chơi IP được chia ra như sau:

Những hand mạnh


Những hand mạnh được chơi chậm ~28% thời gian. Tứ quý hầu hết được check back, cù lũ được
check back khoảng 22% thời gian, xám hầu như luôn được c-bet và overpairs được c-bet theo kiểu
tuyến tính ngược. TT được c-bet 76%, JJ 64%, QQ 50%, KK 40% và AA 22%, vì những đôi càng
lớn cần ít phải bảo vệ hơn và trở thành những hand tuyệt vời để call ở nhiều lần chia sau khi check
back ở flop. Combo Át cao draw được c-bet ~55%.

Những hand tốt

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những hand tốt được c-bet ~59% thời gian. Đôi trung bình 66-99 được c-bet hầu như 100%, draw
sảnh hai đầu hầu hết được c-bet, sảnh lọt khe hầu hết muốn được check back và draw thùng Át cao
được c-bet tuyến tính, với những kicker mạnh nhất được c-bet thường xuyên hơn so với những
hand có kicker yếu. Draw thùng K cao và Q cao được c-bet tuyến tính ngược, với những kicker
cao nhất được check back thường xuyên hơn và draw thùng yếu hơn được c-bet ~ ⅔ thời gian.

Những hand yếu và rác


Air được c-bet khoảng 64% thời gian, hầu hết được bet/fold với flop x/r và chỉ tiếp tục khi có draw
thùng backdoor chất rô và tần suất nhỏ khi có cơ.

Đối mặt với Pot x/r 25%


Ở mặt 5♥5♦4♥, BB không phân cực như khi ở mặt J66r bởi vì, ở mặt 5♥5♦4♥, nhiều những hand
của BB có thể là rác ở J66 giờ đây có draw thùng, sảnh hai đầu hoặc một vài loại sảnh lọt khe.
Điều này khiến cho BN c-bet ở flop ít thường xuyên hơn là ở 5♥5♦4♥. BB nên x/r ở flop với lệnh
c-bet ⅓-pot với một range mà có sự kết hợp của những hand mạnh như cù lũ, xám, draw thùng,
draw sảnh, sảnh lọt khe, và những combo có equity backdoor.

Chiến thuật GTO của BN với một flop x/r là 3-bet ở flop 19% thời gian sử dụng lệnh raise 25%-
pot, call 56% và fold 25%. Range 3-bet của BN bao gồm những hand như 38% xám (hầu hết với
kicker cao), 34% overpairs (hầu hết là JJ-66), 26% draw thùng (hầu hết là draw thùng Át cao với
hai overcards) và một vài hand bluff với A♥ và K♥. Range fold hầu hết là air và overcards không
có draw hoặc thùng backdoor. Range call được tạo bởi bất vì hand đôi + và những draw mà bị
raise và overcard với draw thùng backdoor.

Ghi chú về Kết hợp và Cân bằng


Điều quan trọng là phải hiểu rằng tất cả những sự kết hợp xảy ra với tất cả các loại hand qua những
ví dụ về range không cần phải ghi nhớ. Nó chỉ đơn giản phục vụ cho mục đích diễn giải cách mà
bộ giải chia nhỏ các range. Ở trò chơi đấu lại đối thủ con người, quyền chọn với bất kỳ hand cho
trước nào có xu hướng nhị phân hơn và một hành động sẽ dẫn đến sự kỳ vọng cao hơn bất kỳ hành
động nào khác. Việc kết hợp có thể được sử dụng như một phương thức phòng thủ chống lại những
người chơi tốt nhưng, thậm chí sau đó, có được tần suất chính xác vừa là không khả thi lẫn cần
thiết.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Phát triển Chiến thuật C-bet khi OOP
C-bet khi OOP cơ bản khác với c-bet khi IP. Khi bạn là người chơi có vị trí, Villain sẽ thường chơi
từ các vị trí blind với một range rộng vào khoảng 50%-70% hands. Khi Villain cold calls (và do
đó trở thành IP), range của họ sẽ chặt chẽ hơn rất nhiều, khoảng 4%-20% hands. Sự khác biệt đáng
kể này ở range pre-flop của Villain dẫn đến sự phân phối equity ở post-flop đối xứng tạo nên tần
suất bet tổng thể giảm. Các range càng chặt, bạn càng ít được khuyến khích bắt đầu bet ở flop.

Bây giờ khi bạn OOP, có một vấn đề khác bạn không gặp phải khi là IP. Check ở flop không ngay
lập tức cho phép bạn xem lá turn và ghi nhận equity vì, khi bạn check flop từ OOP, người chơi IP
có quyền chọn bet và ép bạn phải fold một vài hand. Vì lý do này, bạn phải check một range mạnh
hơn khi OOP so với khi IP, vì range của bạn có thể bị tấn công ngay lập tức bởi Villain. Điều này
ép buộc bạn phải check một range mà nó không chỉ được cân bằng ở lá turn trung bình khi hành
động thành x/x. mà còn là một range mà được cân bằng ngay lập tức và có thể chống lại sự hổ báo.

Độ lớn của stack có ảnh hưởng đáng kể đến chiến thuật pre-flop và do đó các range cold call sẽ
khác biệt rất lớn từ độ lớn của stack này với stack khác, dẫn đến sự phân phối equity ở post-flop
khác nhau. Ở phần này, chúng ta sẽ tập trung vào cold call của BN vì BN là vị trí từ ngoài các nhà
blind mà thường cold call nhiều nhất. Về phía người open, chúng ta sẽ tập trung vào CO và UTG,
để cung cấp hai ví dụ đặc biệt nhất của thiết lập này, một chống lại range open rộng nhất có thể,
và một chống lại range open chặt nhất. Cách chơi từ các vị trí khác sẽ rơi vào hai thái cực này.

Những độ lớn stack chúng ta sẽ nghiên cứu là 40bb và 20bb, thông thường cho một thiết lập
MTT với 12.5% antes, và cấu trúc bet sau đây:

◆ OOP có thể bet (20bb): all-in, 2/3-pot, 1/2-pot, 1/3-pot, min-bet

◆ OOP có thể bet (40bb): 3/4-pot, 2/3-pot, 1/2-pot, 1/3-pot, min-bet

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 119: Thống kê tổng quát Hero với BN

Tình huống tuyệt vời nhất cho Hero là khi chơi ở UTG với 40bb. Ở thiết lập này, cả hai người
chơi hầu như có số hand giống nhau ở range của họ nhưng range của Hero chiếm ưu thế so với
BN ở tất cả các thiết lập khác. Range của BN chặt hơn Hero, tạo nên một tình huống công bằng
hơn mà sẽ có lợi tuyệt đối cho BN, với điều kiện họ đang chơi ở post-flop khi IP.

Đương nhiên, đối với BN để có được tình huống post-flop ưa thích này, họ phải chấp nhận rủi
ro khi call lậnh raise open ở vị trí đầu tiên. Vậy nên nó không giống như việc BN có thể cold call
dễ dàng bất kỳ hand nào, vì họ có thể bị rủi ro từ các nhà blind và đồng thời rủi ro chơi post-flop
có nhiều nhà.

Ranges in Play

The following hand ranges identify the ranges in play for the subsequent analysis (Hand Ranges
341-348)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 341: CO RFI 40bb
• Open 2.3x 36.4% / • Fold 63.6%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 342: BN vs CO 40bb
• 3-bet 7.5% / • Call 19.6% /
• Fold 72.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 343: UTG RFI 40bb
• Open 2.3x 15.8% / • Fold 84.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 344: BN vs UTG 40bb
• 3-bet 5.2% / • Call 15.9% / • Fold 78.9%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 345: CO RFI 20bb
• Open 2x 31.8% / • Fold 68.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 346: BN vs CO 20bb
• All-in 12.3% / • Call 8.4% / • Fold 79.2%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 347: UTG RFI 20bb
• Open 2x 15.9% / • Fold 84.1%

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hand Range 348: BN vs UTG 20bb
• All-in 4.6% / • 3-bet 0.3% /
• Call 12.2% / • Fold 82.9%

Nhìn chung, các chiến thuật có thể đơn giản hoá thành hai size bet, một size bet lớn và một size
bet nhỏ, phụ thuộc vào từng flop. Với 40bb, bạn có thể sử dụng ¾-pot và bet tối thiểu hoặc ⅓-pot,

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


và với 20bb là ⅔-pot và bet tối thiểu hoặc ⅓-pot. Tôi không thử size bet ¼-pot, nhưng tôi nghĩ
rằng nó có thể hiệu quả và có tiềm năng thay thế lệnh bet tối thiểu và ⅓-pot. Với những stack lớn
hơn, overbet nên được sử dụng.

Biểu đồ 69: Những rổ Equity ở Pot 3-bet với 40bb

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 70

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 71: Những rổ Equity ở Pot 3-bet với 20bb

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 72

UTG c-bet thường xuyên hơn rất nhiều so với CO. Thực tế, range của CO nhìn chung yếu hơn
BN và CO có thể dễ dàng lựa chọn chiến thuật check 100% với tối thiểu hoặc không EV mất đi.
Điều này giống BB với tình huống IP khi mà BB có thể lựa chọn không bao giờ donk bet ở flop.
Chiến thuật này rất hiệu quả như một cách khai thác chống lại đa số vì hầu hết người chơi có xu
hướng tự động bet ở flop khi OOP check đến họ, trong khi chiến thuật cân bằng là cố gắng vào
pot một nửa số thời gian. Check ở flop với tất cả các hand cho phép Hero chơi chiến thuật
check/raise một cách hổ báo, lấy được lợi thế từ việc hổ báo của IP, trong khi giảm thiểu được
hiệu ứng SPR và bất lợi về vị trí.

Nhiều người chơi mắc sai lầm vì c-bet quá thường xuyên khi OOP, đặc biệt với cả những hand
yếu và rác, chỉ để x/f ở turn hầu hết thời gian. Đây là một sơ hở nghiêm trọng mà có thể bị tấn
công dễ dàng bởi những đối thủ giỏi quan sát mà có thể call lệnh bet ở flop rồi sau đó tấn công ở
turn 100% thời gian khi được check tới.

Tổng quan Chiến thuật Range C-bet: UTG và


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
BN 40bbs
Khá giống với c-bet khi IP, c-bet khi OOP sẽ phụ thuộc nhiều vào board. Ở phần này, chúng ta sẽ
nghiên cứu UTG và BB với 40bb c-bet để có được cái nhìn tổng quát về cách mà các chiến thuật
thay đổi khi so sánh với chơi khi IP.

Biểu đồ 73

Kể cả khi OOP, range của UTG vẫn đủ mạnh để c-bet hầu hết thời gian, check ở flop trung bình
32%. Những hand mạnh được check 19% thời gian, nhiều hơn 3 lần so với Hero khi IP. Check ở
flop không ngay lập tức đưa đến lá turn, nên Hero vẫn phải lo lắng về IP bet sau khi check ở flop.
Vì lý do này, Hero cần phải có, trung bình, một range check mạnh hơn và cân bằng hơn, cho phép
Hero x/r ở flop với tần suất hợp lý, từ đó bảo vệ anh ta khỏi việc IP bet quá thường xuyên với size
bet lớn khi được check đến.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Khi Hero là IP, những hand rác thường được c-bet thường xuyên hơn là những hand tốt và yếu,
khiến cho range c-bet phân cực hơn. Tuy nhiên, khi Hero là OOP, vai trò này đảo ngược và những
hand tốt và yếu được c-bet thường xuyên hơn những hand rác

Khi Hero là IP, những hand rác được c-bet thường xuyên hơn những hand tốt và yếu, khiến cho
range c-bet phân cực hơn. Tuy nhiên, khi Hero là OOP, vai trò này đảo ngược và những hand tốt
và yếu được c-bet thường xuyên hơn những hand rác. Lý do cho điều này là vì Hero vẫn phải hành
động đầu tiên ở turn, điều mà sẽ cung cấp thông tin cho đối thủ về độ mạnh hand của họ. Nếu họ
bet quá nhiều những hand equity thấp khi OOP, range ở turn trung bình của họ sẽ quá yếu và kết
quả là bị khai thác. Vì lý do này, thay vì bỏ ra quá nhiều chip với nhiều những hand rác chỉ để sau
đó phải từ bỏ pot, Hero chỉ đơn giản cần check chúng với dự định fold hầu hết thời gian với lệnh
bet ở flop. Cho rằng range check của họ cũng có nhiều hand mạnh hơn khi họ là IP, Hero có thể
kỳ vọng ở flop sẽ thực hiện x/x thường xuyên hơn, ghi nhận equity miễn phí.

Biểu đồ 74

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Kết cấu của hầu hết lệnh c-bet là bộ ba. Hero có nhiều hơn những overpair và overcard cao mà
có thể tạo thành những đôi lớn thường xuyên hơn IP, và range của IP có nhiều những loại hand
đồng chất, liên tiếp mà hoàn toàn là hand rác và thường xuyên phải fold. Những mặt board có đôi
được c-bet rất thường xuyên và, trái ngược với tình huống giữa IP và BB, Hero khi OOP sử dụng
những size bet lớn ở những board có đôi, đặc biệt là những flop có thứ hạng thấp. Khi Villain ở vị
trí BB, range của họ rộng hơn rất nhiều và có thể kết nối với bộ ba theo nhiều cách, nhưng khi họ
ở vị trí BN, số hand có thể tạo bộ ba ít hơn. Điều này tạo nên tình huống mà range của IP bị capped,
trong khi OOP thì không, cho phép OOP sử dụng một size-bet lớn hơn, đặc biệt ở những board
thấp và trung bình.

Người chơi OOP có một lợi thế phân cực đáng kể ở những flop ba chất, cho phép họ sử dụng
size-bet lớn hơn thường xuyên hơn. Ở những flop hai chất, equity và EQR của nhiều những hand
mạnh của OOP bị giảm đi do sự xuất hiện của draw thùng, dẫn đến tần suất c-bet giảm đi. Những
board một chất cải thiện sự phân phối equity của IP đáng kể. Điều này dẫn đến việc OOP sử dụng
size-bet nhỏ hơn và c-bet chỉ khoảng 50% số hand.

Biểu đồ 75

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở những flop Axx và high card, OOP có lợi thế range và c-bet hầu hết thời gian, trong khi ở
những flop trung bình và thấp thì sự phân phối equity là đối xứng, dẫn đến việc OOP chơi bị động
hơn rất nhiều.

Biểu đồ 76

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 77

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Range của IP kết nối tốt ở những board mà có khả năng tạo sảnh và những board với draw sảnh,
vì range cold call của BN có rất nhiều những hand đồng chất liên tiếp và những đôi từ trung bình
đến bé. Vì lý do này, OOP chơi bị động hơn ở loại board động này, trong khi những board tĩnh
không kết nối không có khả năng tạo sảnh thì có lợi hơn cho Hero vì chúng không cải thiện range
của IP quá nhiều.

C-bet ở những Pot 3-bet


Ở một pot 3-bet, những range để chơi thường hạn hẹp hơn ở pot chỉ một lần raise. Thêm vào đó,
cách mà các range ở pre-flop được xây dựng thường dẫn đến sự phân phối equity ở post-flop phân
cực hơn đối với những người chơi hổ báo ở pre-flop và sự phân phối cô đặc hơn đối với những
người chơi chỉ call ở pre-flop. Ở phần này, nghiên cứu của chúng ta sẽ tập trung vào cả chiến thuật
c-bet của IP và OOP, với stack bắt đầu là 40bb và MTT thông dụng cấu trúc ante 12.5% với những
range GTO ở pre-flop. Tôi khuyên bạn nên xem qua Chương 8 và 9 và xem lại những range 3-bet
ở pre-flop và range call đối với những ván đấu sau.

Stack hiệu dụng 40bb: Hero là một người chơi hổ báo ở pre-flop và Villain là nhà call.

IP 3-bet
BN với CO / BN với MP / BN với EP / CO với MP / CO với EP / EP với EP

OOP 3-bet
BB với BN / BB với CO / BB với EP / SB với BN / SB với CO / SB với EP

Post-flop SPR: 1.7 đến 2.


Các size c-bet: all-in, 1/2-pot, 1/3-pot, 1/4-pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 120: Số liệu thống kê của Hero (IP 3bet)

Bảng 121: Số liệu thống kê của Hero (OOP 3bet)

Một vài điều rất thú vị là cách mà bộ giải xử lý để tạo nên những tình huống post-flop giống
nhau từ các range pre-flop khác nhau, đặc biệt khi IP 3-bet. Equity, EQR và EVs của các người
chơi là đồng nhất trên board. Thực tế, EQB cũng tương tự và điều này dẫn đến việc các chiến thuật
c-bet của IP đồng nhất ở hầu hết các ván đấu.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 78: Rổ equity 3-bet khi IP của Hero

Biểu đồ 79: Rổ equity 3-bet khi OOP của Hero

Ở những pot 3-bet, người chơi hổ báo ở pre-flop sẽ thông thường có một lợi thế phân cực, với
hầu hết tỉ lệ lợi thế hand mạnh là 2 chọi 1, hand tốt là 1,5 chọi 1 và với ⅓ range của người chơi

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


call là những hand rác. Sự phân phối equity này khiến cho những size bet nhỏ thường được ưa
chuộng hơn, đặc biệt khi Hero là IP.

Tổng quan Chiến thuật 3-bet khi IP


Sau khi 3-bet ở IP, chiến thuật của Hero ở flop sẽ là hầu hết sử dụng một size-bet nhỏ. Chiến thuật
có thể dễ dàng được đơn giản hoá thành chỉ bet ¼ pot. Trung bình, IP check back ở flop 38% thời
gian. Với kinh nghiệm của tôi, hầu hết người chơi có xu hướng c-bet nhiều hơn mức đáng có vì
họ có xu hướng c-bet những hand bài air. Xu hướng này xảy ra vì đa số sẽ không x/r flop ở những
pot 3-bet một cách hổ báo như họ nên có, điều này cho phép IP thu được lợi nhuận khi c-bet những
hand rác. Do đó, một điều chỉnh ngược tốt từ OOP sẽ là tăng tần suất x/r ở những pot 3-bet.

Biểu đồ 80

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 81

Cho rằng IP có range check back đáng kể, nhiều những hand mạnh được check back, đặc biệt
khi chúng chặn range c-bet của Villain. Ví dụ top set QQ ở mặt Q82r được check back 68% thời
gian.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 82

Bộ ba và những flop ba chất có đôi là kết cấu được c-bet thường xuyên nhất, với những flop hai
chất và đồng chất được c-bet ít thường xuyên nhất. Ở những flop hai chất, OOP có một vị trí tốt
để x/r với nhiều draw thùng, mà có thể ép Hero phải bỏ pot. Vì lý do này, những flop hai chất được
check back ở tần suất cao, cho phép nhiều những hand tốt và yếu của IP ghi nhận equity.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 83

Những board thấp và Kxx là những thứ hạng được c-bet thường xuyên nhất. Những board trung
bình được check back với một tần suất trung bình vì chúng kết nối rất tốt với range của OOP,
nhưng IP vẫn có rất nhiều overpair trong range của họ. Những flop Qxx và Jxx, mặt khác, kết nối
tốt với range của những người chơi call ở pre-flop và cũng làm giảm đi nhiều hand của IP xuống
thành đôi mạnh thứ hai hoặc thứ ba, khiến cho IP được khuyến khích check back.

Axx là một board thú vị. Đa số có xu hướng c-bet ở những flop Axx 100% thời gian. Tuy nhiên,
ở những mô phỏng mà các board Axx là tĩnh và phân cực range của OOP vì chúng sẽ hoặc là có
một hand mạnh, một hand trung bình mà không thể call nhiều lệnh bet, hoặc rất nhiều hand rác
mà không thể tiếp tục chơi flop, nhưng cũng sẽ không cải thiện nhiều ở hầu hết vòng turn. Cho
rằng giá trị những hand này sẽ không thay đổi nhiều và, với SPR thấp, tất cả tiền có thể dễ dàng
được bỏ vào ở hai vòng cược. Vì lý do này, check back ở flop để có được thông tin thêm từ OOP
khi họ phải hành động ở turn mang rất nhiều ý nghĩa, cho phép IP bảo vệ range check back ở flop
với rất nhiều những hand mạnh, trong khi cũng ghi nhận equity với những hand mạnh trung bình.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Tổng quan Chiến thuật 3-bet khi OOP
Trung bình, Hero ghi nhận ít equity hơn khi OOP so với khi IP. Khi Hero là IP, có thể check back
một range yếu hơn mà có khả năng sẽ cải thiện ở turn, trong khi từ OOP, range check của Hero
phải đủ cân bằng để đối mặt với bất kỳ sự hổ báo nào từ IP. Đôi lúc Hero cũng phải sử dụng những
size bet lớn hơn khi OOP để không đưa ra cái giá quá tốt cho IP tiếp tục với một range rộng. Sử
dụng những size bet lớn hơn cũng giúp cho Hero bằng cách giảm thiểu SPR, và bất lợi về vị trí.

Range 3-bet của SB, ở mức trung bình, mạnh hơn một chút so với range của BB. Điều này cho
phép Hero c-bet nhỏ thường xuyên hơn khi ở SB so với BB.

Biểu đồ 84

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 85

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 86

Khi OOP, Hero c-bet với tần suất cao hơn với hầu hết tất cả các kết cấu flop, ngoại trừ board
một chất mà có thể bị c-bet ở tần suất tương tự. Từ OOP, Hero sẽ sử dụng những size bet lớn hơn
so với khi IP.

Sau lệnh 3-bet từ vị trí blind, Hero sẽ muốn được c-bet những board thấp với tần suất cao, cho
rằng họ có một range mạnh hơn với nhiều overpairs. Những board trung bình được check thường
xuyên hơn khi chúng có khả năng tạo sảnh và draw sảnh. Những board Qxx, Jxx và Txx là một
trong số những board được check nhiều nhất vì chúng kết nối tốt với range của IP.

Biểu đồ 87

Một khác biệt thú vị được thấy ở những board Axx là chúng được c-bet 77% thời gian khi Hero
OOP nhưng chỉ 53% khi Hero IP. Ở cả hai trường hợp, sự phân phối equity của những người chơi
là tương tự, và khác biệt chủ yếu lúc này dường như là, chơi OOP, Hero không muốn đưa quyền
chọn cho Villain để có lá turn miễn phí khi IP. Nếu hành động là x/x ở flop, Hero là người sẽ phải
hành động đầu tiên ở turn, đưa ra nhiều thông tin về range. Nên, Hero quyết định bet hầu hết ở

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


flop Axx và buộc IP phải fold một vài những hand yếu ở flop với một tần suất cao hơn, tránh được
những rắc rối từ việc rơi vào thế bị động quá thường xuyên.

C-bet để Defense

Trong no-limit hold’em, c-bet để defense rất dễ thay đổi theo size bet. Một vài người chơi thích sử
dụng MDF như là chiến thuật GTO-giả, nhưng vì chúng ta đã chỉ ra trước đó, trong khi con số này
có thể ở một vài trường hợp đóng vai trò như một hướng dẫn sơ bộ, nhưng nó không đề cập đến
phân phối range và equity.

Đặt toàn bộ chiến thuật của bạn dựa vào MDF sẽ rất bất lợi.

Ví dụ, ở tình huống BB với UTG 40bb, nếu UTG bet ⅓-pot thì, theo như MDF, BB được cho
là defend 75% thời gian. Tuy nhiên, ở một flop như AQ3r, range của BB có 70% những hand rác
và 10% những hand yếu. Trung bình, những hand rác của BB có 16% equity chống lại UTG, nhưng
pot-odd đặt ra bởi size bet của UTG là 20%. Nên kể cả khi chống lại size bet ⅓-pot, call nhiều
những hand này sẽ bị -EV.

Raise có thể thậm chí còn tệ hơn, vì điều đó nhiều tiền hơn vào pot với một range mạnh mà sẽ
không fold đủ để khiến cho bluff có lợi nhuận. Ở tình huống này, chiến thuật phòng thủ GTO của
BB với size bet ⅓-pot là fold 58% và defend chỉ 42% thời gian, điều mà đâu đó gần với 75% MDF.
Ở flop này, UTG có thể c-bet toàn bộ range và BB không thể làm gì để ngăn chặn họ khỏi việc có
lệnh bet thu được lợi nhuận với bất kỳ hai lá bài nào.

Do đó, nếu bạn đang cầm những hand như 96s với draw thùng backdoor, K-cao yếu hoặc đôi
nhỏ và có khoảng 10-20% equity, bạn đơn giản nên fold kể cả khi Villain đang bet ATC. Lệnh call
pre-flop có lợi nhuận và sẽ có những flop khác mà range của bạn sẽ mạnh hơn rất nhiều và bạn sẽ
có thể kết nối một hand mạnh để có một cơ hội bluff tốt hơn, hoặc đối thủ của bạn đơn giản sẽ
check back thường xuyên hơn, cho phép bạn khi nhận nhiều equity hơn.

Đừng bao giờ cố ép buộc! Mục đích của bạn không phải là cố gắng để thắng tất cả mọi
hand mình chơi, mà là chơi mỗi hand theo cách thu được nhiều lợi nhuận nhất. Nếu call và

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


raise là những cách chơi -EV, thì hãy fold, điều mà luôn luôn là 0 EV, sẽ là cách chơi mang
lại EV cao nhất.

Bạn phải đủ kỉ luật để có cách chơi đúng đắn.

Khi đối mặt với một lệnh bet, điều quan trọng cần thiết là luôn luôn phải cân nhắc range của
Villain ở trường hợp cụ thể đó. Ví dụ, khi đối mặt lệnh bet tối thiểu, pot odd của bạn sẽ là tuyệt
vời, nhưng Villain sẽ sử dụng một thành phần range khác so với khi họ bet bằng size pot. Điều này
sẽ ảnh hưởng đến chiến thuật của bạn vì những hand của bạn sẽ có equity khác nhau dựa vào cách
mà Villain xây dựng những range bet khác nhau của họ. Nếu Villain là loại người chơi mà luôn
luôn c-bet những hand mạnh và check back những hand trung bình ở những vị trí cụ thể, nhiều
những phần dưới của hand range bạn nên defend chống lại người chơi GTO sẽ có equity thấp hơn
chống lại chiến thuật không cân bằng này. Bạn có thể khai thác cấu trúc range yếu này bằng cách
overfold ở flop.

Ở phần này, chúng ta sẽ xem xét chi tiết trận đấu giữa BB và IP c-bet để phòng thủ ở pot chỉ
một lần raise với độ lớn stack 40bb. Chúng ta sẽ một lần nữa tập trung vào tình huống BB với BN
và BB với UTG, nên chúng ta có thể so sánh chiến thuật của BB chống lại những range có thể cả
rộng nhất và chặt chẽ nhất. Ở trận đấu này, IP có thể c-bet 1/4-pot, 1/3-pot, 1/2-pot, 2/3-pot và BB
có quyền chọn x/r 50% pot, x/r 25% pot, call và fold. (Size raise 25% dẫn đến một size bet nhỏ
hơn gấp hai lần size bet ban đầu khi IP sử dụng lệnh bet ⅔-pot, do đó nó được làm tròn thành mức
raise tối thiểu trong những mô phỏng GTO).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Pot chỉ raise một lần giữa BB với IP 40bb

Biểu đồ 88: BB với UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 89: BB với BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 90

Range của BB khi chống lại UTG yếu hơn khi chống lại BN. Điều này dẫn đến việc BB fold ở
mức trung bình nhiều hand hơn khi đối mặt với c-bet từ UTG hơn là khi đối mặt với c-bet từ BN.

BB với IP: Tổng quan Chiến thuật


Nhìn chung, bạn sẽ muốn x/r với size lớn hơn khi Villain bet nhỏ, và x/r nhỏ hơn khi Villain sử
dụng size bet lớn hơn. BB cần phải tạo nên một vài sự không khác biệt dành cho range c-bet khi
IP. Nếu BB chỉ sử dụng size 25% x/r, điều này có thể tạo nên sự chênh lệch ở chiến thuật của IP
vì những hand yếu hơn sẽ không bao giờ kiếm được tiền từ pot, vì tổng phí của việc bet/call một
hand chống lại một flop x/r sẽ luôn luôn nhỏ hơn khi Villain quyết định bet tối thiểu ở flop.

Biểu đồ 91: BB với UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 92: BB với BN

Tăng size raise khi Villain bet nhỏ giữ cho những hand có equity thấp nhất của họ không khác
biệt với call và fold. Tương tự, khi IP sử dụng một size bet lớn, BB không phải thực hiện một lệnh
raise lớn mà có thể bị commit quá đà. Thường thì một lệnh raise tối thiểu để check là đủ. Ngoại lệ
cho nguyên tắc này là trường hợp những lệnh raise all-in, vì chúng có tỉ lệ risk/reward tốt hơn khi
size bet của IP lớn.

Size bet của IP càng nhỏ, range bet của họ sẽ càng phân cực. Điều này cho phép BB tăng tần
suất x/r tổng thể.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 93: BB với UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
Biểu đồ 94: BB với BN

Range fold của BB được tạo thành bởi hầu hết những hand rác, nên tổng số hand rác của BB là
nhân tố chính khi xác định tần suất fold tổng thể của họ.

Biểu đồ 95: BB với UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 96: BB với BN

Những hand mạnh hầu hết muốn được x/r ở flop, nhưng nhiều trong số đó cũng muốn x/c với
mục đích x/r ở vòng cược sau. Điều này giúp cho range x/c của BB được bảo vệ. Những hand tốt
hầu hết muốn được call, nhưng một vài trong số đó muốn x/r, đặc biệt những combo cần được bảo
vệ và không chặn được range c-bet của Villain, như top pair ở những board tầm trung, hai bottom
pair ở những board cao và những draw combo mà có thể hưởng lợi từ việc thắng được toàn bộ tiền
ở flop hoặc giảm đi SPR nên chúng không dễ bị đuổi khỏi pot ở vòng turn.

Những hand yếu hầu hết được x/c, nhưng hầu như ⅓ số chúng bị fold và khoảng 15% được x/r.
Những hand rác hầu hết được fold, nhưng một vài được x/c và số ít trong số đó là những combo
bluff x/r tốt.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 97: BB với UTG

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 98: BB với BN

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hướng dẫn Tổng quát C-bet để Defense ở BB

◆ Tránh việc chia nhỏ range sớm ở các hand trừ khi bạn có nhiều những hand mạnh mà bạn
có thể phân chia thành range x/r và x/c.

◆ Thường sử dụng những size bet x/r lớn chống lại những lệnh c-bet nhỏ, và những size bet
x/r nhỏ chống lại những lệnh c-bet lớn, ngoại trừ khi chống lại những lệnh bet all-in mà
có tỉ lệ risk/reward tốt hơn.

◆ Thông thường, những range x/r ở flop là phân cực, bao gồm những hand sẵn sàng đối đầu
với lệnh 3-bet và những hand sẵn sàng raise/fold. Một tình thế dẫn đến thua thua là khi x/r
những hand tốt nhưng không đủ tốt để chơi ở flop trong khi lại quá tốt để phải fold khi gặp
lệnh raise. Hãy nghĩ trước về điều đó và tránh đặt bản thân vào tình thế khó.

◆ Nếu hand của bạn có rất nhiều equity nhưng không có quá nhiều giá trị showdown, hoặc
nếu nó dễ bị mất rất nhiều value ở những vòng cược sau, hãy cân nhắc chơi hổ báo với mục
đích bỏ tiền vào khi hand của bạn vẫn đang có giá trị.

◆ Stack càng lớn, bạn càng cần những hand trung bình mạnh hơn để x/r ở flop. Những draw
tốt có thể được barreled qua nhiều vòng đặt cược tăng về mặt value.

◆ Khi x/r là một chiến thuật có thể, luôn luôn cân nhắc những hiệu ứng của lá bài chặn.
Một hand value mà không có lá bài chặn range c-bet của Villain sẽ tạo nên hand x/r tốt
hơn là một hand có. Ví dụ, 44 ở mặt 9♥8♥4♥ tạo thành hand x/r tốt hơn là 99. Điều
ngược lại đúng với những cú bluff. Một combo bluff mà chặn range c-bet của Villain thì
giá trị hơn cái mà chặn những combo bluff của Villain. Nếu hand của bạn block cả bluff
và value, thì hãy thử nghĩ về những biến số khác mà có thể thay đổi quyết định của bạn
theo cách này hoặc cách khác.

◆ Nó rất khó để x/c bottom pair qua nhiều vòng đặt cược, đặc biệt khi đôi đó nhỏ. Hãy cân
nhắc đặt một vài bottom pair vào range x/r flop của bạn.

◆ Át-cao và K-cao là những hand tốt ở nhiều vị trí. Đừng quá vội vàng bỏ chúng ở flop, đặc

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


biệt nếu đối thủ chỉ bet nhỏ.

◆ Nếu range của bạn có rất nhiều những hand rác, bạn nên fold rất nhiều chúng khi gặp c-
bet, bất kể size bet của đối thủ bạn và MDF là gì.

◆ Đừng cố gắng đại diện cho một range có value thấp và hy vọng đối thủ của bạn sẽ từ bỏ
một hand lớn. Điều đó sẽ không xảy ra đủ thường xuyên.
◆ Luôn luôn để ý size bet và pod odd của Villain đưa ra. Hãy luôn nhận thức thực tế
về out và equity của bạn.

◆ Range x/r ở flop của bạn sẽ không cần thiết phải bao gồm những hand mạnh nhất
nhưng, thay vào đó, những hand mà có thể hưởng lợi từ việc giảm SPR và có những lá
bài chặn đúng (tiến hoặc lùi).

◆ Đừng ngần ngại chơi hổ báo ở flop khi mà bạn có rất nhiều những hand mạnh ở
range của bạn.

◆ Draw thùng và draw sảnh hai đầu là những hand tốt, nhưng chúng không phải là nut.
Bạn không phải x/r ở flop tất cả những khi có draw tốt. Điều quan trọng là cũng phải có
độ bao phủ board tốt ở range x/c của bạn.

◆ Trước khi snap fold hand của mình khi bạn không hit gì ở flop, hãy nghĩ một vài giây
về cách mà equity được phân chia ở flop. Hãy cân nhắc về mức thường xuyên mà
Villain nên bet ở flop và khả năng mà họ sẽ fold khi gặp lệnh x/r ở flop.

Những ví dụ về C-bet để Defense ở BB

Ví dụ Chiến thuật ở Flop 1

BB đối mặt với lệnh c-bet 2/3-pot: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠ (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 99: BB đối mặt với lệnh c-bet 2/3-pot: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠ (40bb)

AQ3r là một flop vô cùng tệ với BB, vị trí mà chỉ có thể nắm giữ 14% pot (một nửa số equity
của họ). Ở ván đấu này, hầu hết range của BB trở thành những hand rác mà không có hy vọng sẽ
cải thiện được. Với chỉ khoảng 3% những hand mạnh, BB hầu như không thể làm gì để ngăn chặn
UTG c-bet range của họ bằng một size bet lớn, điều mà sẽ khiến phải fold 68% thời gian.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 100

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 122: Phân tích chiến thuật của BB đối mặt với lệnh c-bet 2/3-pot của UTG ở
mặt A♥Q♦3♠

◆ Bộ ba duy nhất BB có là 33 và nó được x/r 100% thời gian.

◆ Hai đôi được x/r 42%, với Q3s được x/r 100%. A3s được x/r 1/3 thời gian. AQo được x/r
40% và AQs chỉ được x/r khoảng 7%. A3 cần một vài sự bảo vệ và hưởng lợi từ việc giảm
SPR, trong khi AQs giúp bảo vệ range call và có thể được x/r ở những vòng cược sau.

◆ Top pair không bao giờ bị fold ở flop và được x/r khoảng 15% thời gian. Nếu BB có AK, nó
sẽ được x/r mọi lúc. AJ được x/r 63% thời gian và tất cả những hand Ax khác được x/r khoảng
6%.

◆ Second pair được fold 25% và không bao giờ được x/r. Hand mạnh nhất KQ được call
100%. QJ-Q9 trung bình được fold khoảng 53% thời gian khi không có draw thùng
backdoor và kicker yếu hơn Q8s-Q2s được call 100%. Ở thiết lập này, đôi trung bình với
kicker thấp có equity tốt hơn đôi trung bình kicker cao.

◆ Các đôi ở giữa Q và 3 luôn luôn được fold. Điều này bao gồm một vài đôi lớn như JJ và
TT mà có thể trở thành hand bài bắt bluff tệ, vì chúng chỉ có hai outs mà thậm chí không
phải outs tốt.

◆ Bottom pair được fold 66%. Chúng có thể được call hoặc x/r đôi lúc vì chúng có rất nhiều
equity hơn những đôi như 77. Bất kỳ hand 3x nào cũng có thể có đến 5 outs (lá 3 khác
cộng thêm kicker). Ở trường hợp này, những kicker yếu hơn dễ bị ảnh hưởng hơn những
kicker cao, và những hand như K3s được fold 100%, trong khi một hand như 53s có thể
được x/r 43%, x/c 20% và x/f 36.5%. Thông thường những bottom pair không phải những
hand tốt để call down, nhưng chúng phát huy tốt thành những cú semi-bluffs.

◆ Sảnh lọt khe lớn như KJ có thể được call hầu hết thời gian. Những hand yếu hơn KT và JT
sẽ chơi một chiến thuật hỗn hợp, đôi lúc call và đôi lúc fold. Wheel gutshots mà có thể tạo
thành sảnh A-5 có thể được x/r ,một vài lúc khi chúng có draw thùng backdoor nhưng sẽ
hầu hết được fold khi không có.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


◆ K-cao không có draw và những hand air còn lại chiếm 48% range của BB và được fold
dễ dàng mọi lúc.

OOP vs Turn C-bet

Table 133: Turn Decision Point Stats


◆ Tạo đôi với Board: Lá turn tạo thành đôi với board.

◆ Thùng: Lá turn hoàn thiện thùng that complete a flush.

◆ Sảnh: Lá turn hoàn thiện sảnh hai đầu.

◆ Át: Át là một lá bài đặc biệt và có thường có ảnh hưởng lớn đáng kể.

◆ Overcard: Lá turn cao hơn top pair.

◆ Brick/Blank: Lá turn không kết nối với board.

Overcard và undercard có thể được chia nhỏ thành các lá mang lại draw thùng backdoor và
những lá không.

Chiến thuật ở Flop 1: Chơi ở Turn sau khi Check Back ở (x/x)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Hành động đầu tiên của OOP: BB
với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bb)

Biểu đồ 115

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở mặt 9♥8♥4♦, OOP có lợi thế phân cực ở nhiều lá turn, dẫn đến tần suất bet cao (Biểu đồ
115).

Biểu đồ 116

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 117

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Thông thường, những lá bài thấp hoàn thiện sảnh, lá 9,8 hoặc 4 tạo đôi với board, và những lá
cơ là những lá turn tốt cho OOP (Biểu đồ 116). Overcard mà không tạo được nhiều sảnh, và đặc
biệt các lá Át, là rất lý tưởng cho IP. Hiệu ứng của những chất của là turn được thể hiện ở Biểu đồ
117.

Bảng 134: Dữ liệu EQ của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦


(x/x)

Bảng 135: Dữ liệu EV của IP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦


(x/x)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Bảng 136: Dữ liệu EQ của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦
(x/x)

Bảng 137: Dữ liệu EV của IP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦


(x/x)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


OOP chơi tốt với lá turn trung bình, với 48% equity, và ghi nhận quá mức để thắng 53% pot. Lá
turn tệ nhất có thể đối với OOP là những lá Át khác chất mà EV của chúng giảm xuống 25.8%.
Những lá turn tốt nhất có thể là 5x khác chất như 5♠/5♣ mà EV của chúng tăng lên 64.17% pot.
Nhận thấy cách mà có sự tương quan giữa EQ của OOP và EV, mặc dù lá có EQ cao nhất không
cần thiết lá có EV cao nhất. (Bảng 134-137).

Biểu đồ 118

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ EQB cho lá turn A♠ và 5♠ cho thấy hình thái range có thể thay đổi bao nhiêu theo lần
runout, ngay cả sau khi có cùng một tuyến hành động trên cùng một flop (Biểu đồ 118). Điều này
ảnh hưởng đáng kể đến chiến thuật cân bằng của các người chơi.

Một vài người chơi gặp khó khăn khi cân đối xử lý một hand rất mạnh ở vòng cược trước trở
nên yếu đi ở vòng cược sau. Họ bị tấn công về mặt cảm xúc vì giá trị hand lúc đầu và cảm thấy có
quyền thắng pot chỉ vì họ bắt đầu với hand mạnh nhất. Tuy nhiên, đó chỉ là một phần của trò chơi.

Poker là trò chơi về equity, về mức độ ta đang có, về cách mà chúng được phân bố và cách
mà ta ghi nhận chúng trong khi ngăn chặn đối thủ khỏi việc ghi nhận equity của họ.

Vô số lần, tôi đã nghe thấy nhiều người chơi nói những điều đại loại như, “Mỗi khi tôi có AA,
lá thùng hay sảnh xuất hiện, tôi đều không may mắn.” Bạn cho rằng hand mạnh đôi lúc bị yếu đi.
Nó có thể được dự đoán một cách toán học và nên được dự tính trước. Do đó, bạn nên chuẩn bị
trước cho những lúc nó diễn ra.

Nắm rõ range của mình, cũng như của đối thủ và hiểu rằng, kể ra ở những lần bạn có thể
đôi lúc thua một pot lớn, bạn có thể trở thành người ăn đậm nhất. Điều quan trọng là chơi
tốt và điều chỉnh hợp lý theo các mà các tình huống thay đổi. Điều đó sẽ cho phép bạn chiếm
ưu thế về lâu dài.

Chiến thuật ở Flop 2: Cách chơi ở Turn sau lệnh C-bet và


Call ở Flop (x/b/c)

Hành động đầu tiên của OOP: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bb)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 119

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 120

Sau khi OOP x/b/c ở flop, equity của cả hai người chơi sẽ rất gần nhau ở lá turn trung bình (Biểu
đồ 119). Thực tế, OOP có EQ cao hơn (51.65%), nhưng ghi nhận nó dưới mức, chỉ nắm giữ 48.6%
pot, trong khi IP, với 46.6% EQ, nắm giữ 51.4% pot. Tương tự với flop donk bet, ở vòng turn OOP
lựa chọn donk bet khi IP không có nhiều những hand mạnh chiếm ưu thế trong range của họ và,
thay vào đó, có nhiều những hand yếu hơn mà có thể hưởng lợi từ việc check back ở turn (Biểu
đồ 120).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 121

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 122

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Những lá tốt nhất để OOP donk bet ở turn là 9, 8 và 4 mà có thể tạo đôi với board, 7, 6, 5 mà
có thể tạo sảnh, và những lá không đồng chất thấp không liên kết khác. Những lá bài tệ nhất để
donk bet là những lá kết nối tốt với range của IP, như Át, lá bài cao, và lá rô mà có thể mang lại
draw thùng backdoor cho người chơi IP (Biểu đồ 121-122).

Bảng 138: Dữ liệu EQ của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)

Bảng 139: Dữ liệu EV của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)

Bảng 140: Dữ liệu EQ của IP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
Bảng 141: Dữ liệu EV của IP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)

OOP chơi khá tốt khi lá turn là chất cơ và sẽ, trung bình, có nhiều combo thùng hơn IP. Tuy
nhiên, OOP không dẫn trước quá thường xuyên vì thùng không được nut như IP, vị trí mà sẽ có
nhiều thùng nut trong range. Những lá bài tệ nhất đối với OOP là K khác chất, như K♣/K♠, và
những lá lý tưởng nhất là 5 khác chất, như 5♣/5♠ (Bảng 138-141).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 123

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Ở một flop động như 9♥8♥4♦, sự phân phối equity của cả hai người chơi sẽ thay đổi đáng kể dựa
theo runout của board (Biểu đồ 123). Điều này có tác động lớn đến chiến thuật cân bằng của các
người chơi, với việc OOP muốn chiếm lợi thế ở lá turn mà mang lại cho họ một lợi thế khổng lồ
về range bằng cách bet hổ báo. Một cách tự nhiên, IP sẽ chọn chơi bị động hơn ở những tình huống
này.

IP đối mặt với lệnh Check: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bb)
(x/b/c/x)

Biểu đồ 124

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 125

Thông thường, người chơi IP sẽ có lợi thế phân cực đáng kể sau khi OOP đã check hai lần. IP
tuân theo một xu hướng tương tự mà ta đã thấy ở flop, lựa chọn chia nhỏ range của họ. Điều này
dẫn đến việc c-bet một lần nữa với hầu hết những hand mạnh mạnh của họ và check back hầu hết
những hand tốt mà không muốn bị bet/fold và sẽ hưởng lợi từ việc xem lá river miễn phí. IP sẽ c-
bet quá 65% thời gian và sẽ hầu hết sử dụng size bet ⅔ pot (Biểu đồ 124-125).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 126

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Biểu đồ 127

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Các lá 9, 8 và 4 là những lá rất tệ đối với IP, nhưng họ vẫn sẽ muốn bet chúng ở tần suất cao khi
được check đến. Điều này xảy ra vì IP kỳ vọng OOP có tần suất donk bet cao ở những lá turn này,
nên đây là một lá bài xấu với IP, nhưng họ vẫn muốn bet với tần suất cao khi được chọn. Điều này
xảy ra bởi vì IP hy vọng OOP có tần suất donk bet vào turn, vì vậy khi họ check, range của họ sẽ
không có nhiều combo mạnh. Đồng thời, có nhiều hand trong range OOP sẽ không kết nối chút
nào với 9, 8 hoặc 4. Vì vậy, bằng cách bet nhỏ, IP vẫn có thể khiến nhiều nhà fold. Trên hầu hết
các lần chạy khác, IP sẽ bet với range phân cực hơn và chọn sử dụng size bet lớn hơn (Diagrams
126-127).

Table 142: OOP EQ Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x)

Table 143: OOP EV Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 144: IP EQ Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 145: IP EV Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x)

IP hoạt động rất tốt trên các mặt bài cao, đặc biệt là quân Át và K. Những combo bài cơ thực
sự block được nhiều tổ hợp flush IP và dẫn đến giảm EV (Tables 142-145).

OOP vs Turn 2/3-pot C-bet: BB vs UTG trên mặt bài 9♥8♥4♦


(40bb) (x/b/c/x/b)

Diagram 128

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 129

Đối mặt với lần barrel thứ hai là khá xấu cho OOP. Tại thời điểm này, cả hai người chơi đã chia
range của họ nhiều lần. IP sẽ check back rất nhiều hand có độ bền trung bình và hiện đang bet với
range phân cực rất lớn. OOP lúc này sẽ bet hoặc raise nhiều ván hand mạnh, vì vậy range của họ
yếu so với range c-bet của IP ở turn, dẫn đến tỷ lệ fold OOP trung bình hơn 40% khi đối đầu với
c-bet ở turn. Hầu hết các ván bài mạnh sẽ được x / r ở turn, nhưng một số vẫn bị chơi chậm, để
phạm vi x / c của OOP được bảo vệ (Diagrams 128-129).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 130

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Diagram 131

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Trung bình, OOP sẽ x / r ở turn 14% thời gian và chủ yếu sẽ là allin, vì size raise nhỏ sẽ commit
quá nhiều chip. Nói chung, các ván bài x / r yếu hơn của họ là semi bluff sẽ có equity để call all-
in và do đó bị commit (Diagrams 130-131).

Table 146: OOP EQ Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦


(x/b/c/x/b67)

Table 147: OOP EV Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦


(x/b/c/x/b67)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 148: IP EQ Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x/b67)

Table 149: IP EV Heatmap by turn card on 9♥8♥4♦ (x/b/c/x/b67)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


OOP có trung bình 45% EQ khi đối mặt với c-bet ở turn, nhưng sẽ chỉ có thể nhận ra 77% của
nó, với tổng EV là 21% tiền cược. IP có EQ trung bình là 55% và sẽ nhận ra điều đó bằng một
biên độ lớn với hệ số EQR là 144%, chiếm 79% tổng pot.

14

CHIẾN THUẬT GTO Ở


RIVER

Theo một nghĩa nào đó, river là vòng dễ chơi nhất, nhưng hầu hết người chơi đều phải vật lộn với
nó. Trên thực tế, river thực sự là nơi dễ mắc sai lầm nhất và phần lớn tiền thắng hoặc thua. Vào
thời điểm chúng ta đến river, cái pot sẽ lớn hơn rất nhiều so với những con vòng trước đây. Pot
lớn hơn có nghĩa là bet lớn hơn (thường là all-in) và, với cược lớn hơn, sai lầm có thể rất tốn kém.

Tính toán cân bằng ở river và chiến lược khai thác trên một lần chạy nhất định từ range của người
chơi, SPR và các lý thuyết bet trong bất kỳ điểm quyết định nào là tương đối dễ dàng, đặc biệt là
với các bộ giải GTO hiện đại. Các phép tính về river thường mất vài giây. Điều khiến con river
trở nên thử thách là đây là vòng khó nhất để ước tính range xuất phát của người chơi.

Khi bắt đầu mỗi ván bài, tất cả người chơi có cùng range chính xác: 100% hoặc 169 ván bài chiến
lược duy nhất. Khi những người chơi thực hiện các hành động khác nhau, phạm vi trước khi thất
bại của họ trở nên hẹp hơn, do đó, phạm vi bắt đầu thất bại cũng không quá khó để ước tính. Trong
quá trình hành động sau, range hand bài trước của người chơi tương tác với bàn theo nhiều cách
khác nhau như là đồng chất hoặc kết nối, buộc chúng tôi phải theo dõi các combo bài cụ thể. Post-
flop phụ thuộc vào cách bàn cờ chạy ra ngoài và range bắt nguồn từ các hành động ở các vòng
trước đó. Tất cả những điều này làm cho việc xác định range chính xác của người chơi trở nên khó
khăn hơn đáng kể khi chúng ta nắm trong tay stack deep hơn. Ngoài ra, vì hầu hết các ván bài

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


poker đã kết thúc trước khi trận đấu diễn ra, người chơi sẽ ít có kinh nghiệm hơn khi chơi các vòng
sau đó. Với tất cả run out có thể có và các cách để đến river, không có gì ngạc nhiên khi hầu hết
người chơi phải vật lộn với những lần ở river.

May mắn thay, chúng tôi không phải ghi nhớ từng dòng hành động và range đi đến river. River có
một số đặc điểm độc đáo giúp đơn giản hóa các phép tính và làm cho các mô hình trừu tượng và
trò chơi đồ chơi trở nên đặc biệt hữu ích để thể hiện chính xác các kịch bản của nó.

◆ Trên river không còn nhiều quân bài nữa nên giá trị của ván bài được cố định. Không
có draw mua bán nào nữa, dẫn đến mỗi ván bài có 100% hoặc 0% equity so với ván
bài khác.
◆ Tỷ lệ hand vs range equity chỉ đơn giản là phần nhỏ trong range của đối thủ. Ví dụ:
nếu một ván bài có 50% equity so với range của đối thủ, điều đó có nghĩa là nó đi
trước 50% range của đối thủ và thua nửa còn lại.
◆ Có một thứ tự tuyến tính của các hand về sức mạnh mà không phụ thuộc vào lịch sử.
Điều này có nghĩa là thứ hạng của tất cả các trường hợp ở river có thể có từ mạnh nhất
đến yếu nhất là như nhau cho dù họ đến đó bằng cách nào.
◆ Không có vòng cá cược nào trong tương lai phải lo lắng. Bất kỳ call hoặc check IP nào
ngay lập tức kết thúc ván bài và nhận ra equity.

Thiết lập mô hình tại River


Việc thiết lập mô hình này có thể được thực hiện như sau.

◆ Liệt kê tất cả các hand ở river trong cả hai range theo thứ tự sức mạnh giảm dần và chia
chúng theo người có chúng.
◆ Chỉ định trọng lượng.
◆ Xem xét blocker.
◆ Thiết lập sơ đồ tư duy.

Table 150 thể hiện tình huống bắt bluff so với Người chơi 1 có range phân cực (50% nut, 50%
air) và Người chơi 2 100% có những hand bắt bluff (tay 5) luôn thua những hand nut (tay 1) nhưng

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


thắng bluff (tay 10). Nếu có bất kỳ hiệu ứng block nào, chúng ta có thể biểu diễn chúng trong một
ma trận như sau (Table 151).

Table 150: Thành phần Ranges (Phân cực vs Bài bắt bluff)

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 151: Ma trận giả thuyết về blocker

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Dựa theo ma trận về blocker:

◆ Tất cả các hand đều tự block nhau

◆ Hand 1 block Hand 3

◆ Hand 3 block Hand Tay 1

◆ Hand 6 block Hand 8 và 9

◆ Hand 8 và 9 block Hand 6

◆ Tất cả các hand khác không block nhau.

Tất nhiên, một giải pháp river thực sự sẽ bao gồm nhiều hand hơn, với trọng lượng khác nhau
và mối quan hệ block phức tạp hơn, nhưng về bản chất, tất cả những gì bạn cần để xác định đầy
đủ tình huống river là bảng range, mối quan hệ block và sơ đồ trò chơi với size pot, stack size và
cấu trúc bet. Trên thực tế, đây là cách tất cả các bộ giải GTO hoạt động. Họ có một danh sách tất
cả các con river có thể xảy ra và hand nào có các block trên mỗi con river. Các ván bài được liệt
kê theo thứ tự sức mạnh và range của người chơi cho người giải biết ai có ván bài nào và tần suất
họ có nó. Làm thế nào người chơi đến được tình huống river cụ thể không quan trọng. Miễn là
chúng đi đến cùng một cấu trúc tổng thể, cặp chiến lược GTO trong tình huống đó sẽ tương đương
nhau.

Ví dụ, tình huống bắt bluff (nut/air vs bluff-catcher) có thể được mô tả theo một cách khác với
các hand khác nhau. Tuy nhiên, miễn là một người chơi có một nửa range của họ là nut, và nửa
còn lại là air so với range của đối thủ và range của người chơi kia là 100% của những người bắt
bluff vô tội vạ, thì giải pháp GTO sẽ là chính xác.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Table 152: Thành phần Ranges (Polar vs Bluff-catcher)

Table 152 cũng thể hiện được nhiều trường hợp nut/air vs bắt bluff. Range của P2 (hands 4-7)
chỉ có thể chiến thắng hand 8-9 trong range của P1 và luôn luôn thua hands 2-3. Cấu trúc range
này và cấu trúc ở bảng Table 151 đều có chung một chiến lược GTO.

Kết quả này có tầm quan trọng sống còn. Nếu chúng ta nghĩ về một sơ đồ trò chơi, có hàng
nghìn hoặc có thể hàng chục nghìn lá river có thể hình thành, vì vậy chúng ta cần có khả năng
phân loại hoặc sắp xếp chúng thành các dạng kịch bản mà chúng ta có thể xác định và giải quyết.

Ví dụ: nếu bạn có thể nhận ra tình huống river là người phân cực và người bắt bluff vô tội vạ,
bạn sẽ biết rằng chiến lược GTO dành cho người chơi phân cực là luôn dốc toàn lực với các hand
nut của họ và Alpha % trong số lần bluff của họ, và người chơi bắt bluff phải call bằng 1-Alpha
trong range của họ. Không thực sự quan trọng nếu nut là fullhouse, sảnh, thùng hoặc bất kỳ sự kết
hợp nào của những hand đó. Điều quan trọng duy nhất sẽ là thành phần range tổng thể trong đó
range của một người chơi là 50% nut và 50% air và range của người chơi khác bao gồm 100%
người bắt bluff.

Mô hình tại River

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Các đặc điểm river mà chúng tôi vừa mô tả làm cho trò chơi [0-1] mà chúng tôi đã nghiên cứu
trước đó trở nên phù hợp hoàn hảo để phân tích cơ chế chơi trên river. Trong phần này, chúng ta
sẽ xem xét một số mô hình trừu tượng về river, tính toán chúng trong trình giải GTO và tạo ra các
phỏng đoán về cách tiếp cận các tình huống river điển hình nhất mà người chơi có thể phải đối
mặt.

River [0-1] Game

Mặt bài Board: 2♠2♣2♥2♦3♣

Pot: 100 chips

Stack: Người chơi có 500 chip, nhưng chúng ta sẽ phân tích với những độ deep khác nhau của
stack để hiểu được ảnh hưởng của SPR trên các chiến thuật cân bằng. Heads-up Pot: Sẽ có 2
người đối đầu nhau ở trong hand, P1 và P2.

Cấu trúc bet: Cả 2 người chơi đều được phép bet , x/r, call, all-in và fold.
Sức mạnh hand bài: Điều này được thể hiện ở Table 153.

Table 153: Hand Strength

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


AA là hand mạnh nhất, 33 là hand yếu nhất và các hand đồng chất sẽ được thiết lập để không
có hiệu ứng block. Hiệu ứng block sẽ được nghiên cứu sau.

Cuộc thảo luận này sẽ xoay quanh hai nhóm chính của các mô hình:

◆ Phân cực không có range chồng chéo giữa các người chơi.

◆ Mô hình tuyến tính trong đó cả hai người chơi có thể có bất kỳ loại giá trị hand nào.

Phân cực hoàn hảo vs Nhà bắt bluff

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


Nhà phân cực hoàn hảo (nuts/air) vs nhà bắt bluff chính là mô hình lý thuyết đơn giản nhất ở river
để chúng ta nghiên cứu. Chúng ta đã làm quen với thiết lập river này. Nếu không, hãy quay lại
Chương 2 để xem nhanh ví dụ này, vì các tình huống river tiếp theo sẽ là một biến thể của thiết
lập này.

Table 154: Thành phần range của người chơi (Combos)

Kích thước stack không ảnh hưởng đến chiến lược chung. Trong thiết lập này, EV của người
chơi phân cực tăng lên theo kích thước bet, và do đó, chiến lược cân bằng của họ là luôn sử dụng
all-in với các hand nut (KK-QQ) và bluff các hand air (77-66) với tần số Alpha. Vị trí cũng không
quan trọng. P2 sẽ không bao giờ bet, và chiến lược của họ call 1-Alpha của tất cả các hand bài (JJ-
88) (Table 154).

Toàn bộ range của P1 khỏe hơn range của P2

Trong tình huống trong Bảng 155, P2 có 0% equity trong pot. Ở trạng thái cân bằng, P2 không bao
giờ nên đặt thêm tiền để cược và không bao call một lệnh bet ở bất kỳ size nào. P2 không bao giờ
nên bet vì P1 sẽ không bao giờ fold lại (P1 biết range của P2 được giới hạn ở 99).

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH


P1 cũng sẽ không đặt cược vì sẽ không kiếm được tiền vì P2 sẽ luôn fold. Tuy nhiên trong thực tế,
P2 có thể không nhận ra rằng họ luôn bị đánh bại, vì vậy P1 có thể bet bất kỳ kích thước nào mà
họ nghĩ có thể khiến P2 thực hiện một lệnh call tệ. Tôi đã thấy thủ thuật này nhiều lần hoạt động
trong các tình huống mà một người chơi đặt cược rất nhỏ khi họ rõ ràng là không có bluff nào và
sau đó bị người chơi yếu hơn call là người đánh bài của họ một giây sau đó và lẩm bẩm “ừ… thật
tuyệt.”

Table 155: Tất cả range của P1 thắng Range của P2

Ở trạng thái cân bằng, vị trí không quan trọng trong thiết lập này, nhưng P1 có tùy chọn để khai
thác luôn đặt cược khi IP check hoặc đặt cược khi OOP, tùy thuộc vào những gì P1 cho rằng sẽ
khiến P2 bỏ thêm tiền vào pot.

BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH

You might also like