Professional Documents
Culture Documents
Modern Poker Theory
Modern Poker Theory
Modern Poker Theory
Tác giả
BIÊN DỊCH: LÊ ĐÌNH QUANG HUY – LƯƠNG THANH THỊNH
https://www.facebook.com/thaygiao.poker
SIÊU PHẨM"MODERN POKER THEORY" - LÝ THUYẾT POKER HIỆN ĐẠI
--------
Chắc hẳn anh em trong giới Poker đều không xa lạ gì với thuật ngữ GTO, trong một vài năm
gần đây GTO nổi lên như một phong cách đánh, một cơ sở lý thuyết để xây dựng chiến thuật
chơi cực kỳ hiệu quả và được nhiều top pro trên thế giới và Việt Nam sử dụng.
Tuy nhiên, các tài liệu hoặc sách về GTO ở Việt Nam đang khá là ít, dẫn đến phần lớn cộng
đồng chưa thể tiếp cận với nó. Vì lẽ đó, Thầy giáo Poker đã thực hiện dịch cuốn Modern Poker
Theory - building an unbeatable strategy based on GTO principles (mình tạm dịch là Lý thuyết
Poker hiện đại - xây dựng chiến thuật không điểm yếu dựa trên GTO).
*Lưu ý: Đây là sản phẩm việt hóa từ team Thầy giáo Poker, kính mong độc giả không sử dụng
với những mục đích lợi nhuận để trục lợi. Nếu như các bạn phát hiện các hoạt động trục lợi,
hãy liên lạc với admin
PHỐI HỢP SẢN XUẤT: THẦY GIÁO POKER & WIKI POKER
Acknowledgments
Introduction
1 Poker Fundamentals
Counter Exploitation
Equity Calculators
EV Decision Trees
GTO Solvers
PioSOLVER
MonkerSolver
Complex Strategies
Playing First In
Limping
Open Push
Recommended Bet-sizings
Variance
Game Selection
Tournament Life
Bet-sizing
Theoretical Considerations
Defending UTG+1
Post-flop Bet-sizing
Suit Isomorphism
C-bet Defense
Turn Categories
Linear Distributions
Practical Applications
Final Word
◆ Lợi nhuận= sai lầm của đối thủ - sai lầm của chúng ta
Nếu bạn chơi trong một bàn mà hầu hết người chơi đơn giản là rất tệ và có nhiều tiền (chẳng hạn
như trong thời hoàng kim của poker online ngay sau Moneymaker Effect – sự kiện bùng nổ của
người chơi poker tại Mỹ năm 2003 và trước Black Friday), bạn có thể chơi khá kém mà vẫn kiếm
được nhiều tiền, miễn là đối thủ của bạn chơi tệ hơn bạn. Trên thực tế, điều ngược lại cũng đúng.
Bạn có thể là người chơi giỏi thứ chín trên thế giới nhưng nếu bạn quyết định chỉ đấu với tám người
chơi giỏi hơn mình, bạn sẽ bị tiêu diệt.
Trong thời điểm hiện tại, chơi theo cách hổ báo vẫn sẽ kiếm được nhiều tiền nhưng khi mặt bằng
chung về trình độ của người chơi trở nên thành thạo hơn, tỷ lệ giữa người chơi giỏi và người chơi
kém sẽ không ngừng tăng lên. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh tăng cao vì đối thủ thì sẽ cố gắng
khai thác chúng ta đồng thời với việc chúng ta đang cố gắng khai thác chúng. Nhiều người chơi nổi
tiếng thế giới, những người đã không thể thích nghi và cải thiện trong vài năm qua đã bị lỗi thời, họ
buộc phải bỏ cuộc hoặc đang gặp khó khăn rất nhiều khi không thể đánh bại trò chơi.
Trong hai thành phần của lợi nhuận (sai lầm của chúng ta và sai lầm của đối thủ), bạn gần như
không thể kiểm soát được cách đối thủ của bạn chơi, ngoài việc lựa chọn các hand tốt để chơi. Tuy
nhiên, điều bạn luôn có thể làm là việc giảm thiểu những sai lầm của chính mình.
Vậy làm thế nào để bạn tạo ra và tối đa hóa lợi nhuận?
◆ Sửa chữa những lỗi đã có trong lối chơi của bạn và tìm kiếm những sai lầm người khác đang
mắc phải.
01
Ở chương này, tôi sẽ đề cập đến một lượng lớn những kiến thức thiên về mặt toán học. Và tất nhiên,
bạn phải thực sự hiểu một vài khái niệm và công thức của nó, vì chúng sẽ giúp bạn nắm bắt được
nhiều kiến thức quan trọng nhất trong poker.
Ở bàn 9 người (như Sơ đồ 1) sẽ có 3 vị trí phải hành động sớm. Nếu như có ít người chơi hơn 9
người thì những vị trí đầu tiên sẽ bỏ đi.
◆ MP hay Lojack (LJ) – Người chơi thứ tư hành động ở vòng pre-flop.
◆ MP1 hay Hijack (HJ) – Người chơi thứ năm hành động ở vòng pre-flop.
◆ Cutoff (CO) – Người ngồi bên cạnh người hành động cuối cùng ở post-flop.
◆ Button (BN) – Người cuối cùng hành động ở các vòng post-flop.
Blinds
◆ Small Blind (SB) – Người bên cạnh người hành động cuối cùng ở pre-flop, và sẽ hành động
đầu tiên ở post-flop.
◆ Big Blind (BB) – Người hành động cuối cùng ở pre-flop, và sẽ hành động thứ hai ở post-flop.
Có rất nhiều thuật ngữ khác nhau được sử dụng trong cuốn sách này để nói về những chiến thuật
poker một cách súc tích. Mặc dù nhiều thuật ngữ trong số này có thể quen thuộc với bạn, nhưng
một số có thể mới. Nếu bạn không chắc về nghĩa của thuật ngữ nào, vui lòng xem lại phần này.
Active Players: Những người chơi đang ở trong ván bài, thông thường chúng tôi sẽ quy ước là
bạn - Hero và các đối thủ - Villain(s).
Hero: Được coi như là chúng ta.
Villains: Đối thủ của Hero, có thể có 1 hoặc nhiều đối thủ trong 1 ván.
Pre-flop: Bao gồm tất cả những hành động trước khi những lá flop được chia.
Post-flop: Tất cả những hành động sau khi những lá flop được chia.
Có Vị Trí - In Position (IP): Người chơi có lợi thế về trí (được hành động sau cùng).
Không có vị trí - Out of Position (OOP): Người chơi không có vị trí (phải hành động đầu tiên).
Vị Trí Tương Đối: Có lợi thế về vị trí so với người chơi khác khi được hành động sau anh ta trong
suốt ván bài. Ví dụ, trong tình huống thông thường của BB vs BN, BN sẽ hành động cuối cùng ở
mỗi vòng, vì vậy BN là IP và BB là OOP.
First In: Là trường hợp hành động đầu tiên tham gia ván bài khi trước đó mọi người fold hết. Ví
dụ, nếu như bạn ngồi ở vị trí BN và mọi người fold hết đến bạn, bạn sẽ có cơ hội là nhà first in nếu
như call hoặc raise.
Stack Size & Stack Depth: Đều là các khái niệm về tổng lượng chip bạn/đối thủ đang có, và thường
được quy đổi sang BB.
Stack Hiệu Dụng - Effective Stack: Ám chỉ stack size nhỏ nhất giữa những người đang trong
ván bài. Ở trong pot head-up, stack hiệu dụng chính là số tiền tốt đa mà một trong hai người
chơi có thể thua.
Bet-size: Kích thước của lệnh bet, bet size thường được đo lường theo dạng BB (ví dụ, bet
2bb, 5bb) hoặc có thế được đo lường theo dạng tỉ lệ của pot (ví dụ bet 1/3 pot, 1/2 pot).
The Nuts: Bài mạnh nhất tại thời điểm đó. Ví dụ, AA là bài nut ở pre-flop. J♣T♣ là bài nut
của flop 9♥8♥7♦ nhưng vòng turn sẽ không còn là nut nếu như có lá cơ nào được chia ra.
Effective Nuts: Không phải là hand bài mạnh nhất, nhưng cũng đủ mạnh để chơi như là
đang cầm bài mạnh nhất. Ví dụ 7♣7♥ là bài nut tương đối ở mặt 8♥7♦2♦.
Hand Đầu Cơ - Speculative Hand: Những hand không phải mạnh ở thời điểm hiện tại nhưng
lại có thể cải thiện sức mạnh ở những vòng sau.
Người Chơi Bị Động - Passive Player: Người chơi có xu hướng chơi những hand bài mạnh hoặc
bluff một cách bị động.
Người Chơi Hổ Báo - Aggressive Player: Người chơi có xu hướng luôn chủ động bet/raise khi có
cơ hội.
Pocket Pair: Hand bài khởi đầu là hai lá giống nhau. Ví dụ, A♣A♦, J♠J♦, hay 5♣5♥.
Draw – Bài Chờ: Một người chơi có cho mình một draw khi bài của anh ta đang chưa tạo thành
gì nhưng có thể cải thiện sức mạnh rất đáng kể nếu như các vòng đặt cược sau xuất hiện quân bài
anh ta muốn.
Sảnh Lọt Khe - Gutshot or Inside Straight Draw: Một draw mà chỉ có 4 out để tạo thành sảnh
– straight. Ví dụ, hand 9-7 ở flop Q-10-6.
Sảnh Hai Đầu - Open-Ended Straight Draw (OESD): Một draw mà có 8 outs để tạo thành
sảnh – straight. Ví dụ, hand J-9 ở flop Q-10-6.
Raise Đầu Tiên - Raise First In (RFI): Hành động ám chỉ người đầu tiên tham gia vào pot bằng
cách raise, còn được gọi là open.
Two-bet (2-bet or 2b): Nhà blind được coi như nhà bet đầu tien, vì thế người đầu tiên raise chính
là đang hành động 2-bet. RFI là trường hợp đặc biệt của 2-bet vì trước đó không có nhà limp.
Steal – Cướp Pot: RFI từ vị trí BN, CO hoặc SB.
Isolate – Cô Lập: Hành động raise khi đã có người tham gia vào pot với mục đích chính là đối
đầu với người chơi đó ở flop.
Minraise: Khi người chơi raise ở mức nhỏ nhất có thể, là gấp đôi lần bet trước đó.
Minbet: Thực hiện lệnh bet nhỏ nhất có thể. Ở post-flop, lệnh minbet là 1 BB.
Overbet: Thực hiện một pha bet lớn, có size to hơn cả size pot.
Three Bet (3-bet or 3b): Còn được gọi là re-raise, tức là hành động tăng tiền cược khi đã có ai
đó raise trước.
Four-bet (4-bet or 4b), 5-bet and any subsequent number of bets: Ám chỉ số lần bet hiện tại
ở vòng đặt cược đó.
Cold 4-bet: 4-bet khi người thực hiện không phải là người raise trước đó. Ví dụ: UTG open 2bb,
BN 3-bet 5bb và BB cold 4-bet 12.5bb.
Cold Call (cc): Hành động call một lệnh raise khi có lợi thế về vị trí hoặc là call 3-bet, 4-bet khi
trước đó bạn chưa bỏ tiền vào pot. Ví dụ, MP open to 2bb, CO 3-bet 6bb, BN fold and SB cold
call.
Squeeze (sqz): Hành động 3-bet sau khi đã có người raise và có người call. Ví dụ, UTG1 open
2bb, CO cold call, BN squeeze 9bb.
Continuation Bet (C-bet): Hành động bet tiếp diễn ở post-flop thực hiện bởi người cuối cùng
thực hiện lệnh pet ở preflop.
Donk Bet or Lead Out (DK): Hành động khi người chơi không có vị trí - OOP thực hiện lệnh
bet với nhà đã bet cuối cùng ở pre-flop.
Slow Play or Trap: Đánh chậm những hand bài mạnh một cách bị động để có thể dụ đối thủ.
Poker có thể trông giống như một trò chơi đơn giản đối với người mới chơi, nhưng “cần một
phút để học, nhưng cả đời để thành thạo”.
Sơ đò rang bài (Hand Range 1) là một biểu đồ minh họa range bài. Nó chứa tất cả 169 hand bài có
thể có: 13 pocket pair bài (5,88% tổng số ván bài) nằm theo đường chéo từ trên cùng bên trái đến
dưới cùng bên phải, 78 hand bài đồng chất (23,53% tổng số ván bài) nằm ở nửa trên bên phải được
biểu thị bằng một “S” và 78 hand không đồng chất (70,59% tổng số tay) nằm ở nửa dưới bên trái
được biểu thị bằng chữ “o”.
Họ đã xây dựng những range của họ theo cách mà chúng không dễ bị khai thác. Tất nhiên, chỉ
cần ghi nhớ một vài biểu đồ range sẽ không khiến bất kỳ ai trở thành người chơi đẳng cấp thế giới
nhưng hiểu được range bài trong cách chơi sẽ giúp bạn tránh được những sai lầm phổ biến và cho
phép bạn đưa ra quyết định tốt hơn.
Tổ Hợp - Combinatorics
Tổ hợp là hành động chia nhỏ range và đếm các combo riêng lẻ của các hand để đưa ra quyết định
tốt hơn. Công thức để tìm số lượng combo của k đối tượng mà bạn có thể chọn từ một tập hợp n
đối tượng như sau (lưu ý rằng trong tất cả các ví dụ này, dấu “!” đại diện cho hàm giai thừa, ví dụ
6! = 6 × 5 × 4 × 3 × 2 × 1 = 720):
Công thức tính tổng số combo như sau:
Sơ đồ hand 13 × 13 (Hand Range 1) có đường chéo đại diện cho PP. Ta có 13 cấp khác nhau của
các đôi và 6 cách khác nhau để tạo ra một PP bất kỳ, do đó có 13 × 6 = 78 số combo của các pocket
pairs.
Công thức tính số combo của những hand không phải đôi như sau:
Trong đó, X và Y là số quân bài còn lại của bộ bài. Lấy hand AK làm ví dụ. Ta có bốn quân Át
và bốn quân K trong bộ bài, vì vậy, 4 x 4 = 16, sẽ có 16 combo của AK (hoặc bất cứ hand không
phải đôi nào khác).
Những hand đồng chất được biểu thị sở trên đường chéo PP ở sơ đồ range 13x13. Có tổng tất cả 78
hand ở trên đường chéo, và mỗi hand sẽ có bốn loại đồng chất, vì vậy sẽ có tổng 78 x 4 =312 hand
bài đồng chất.
Những hand không đồng chất được biểu thị ở dưới đường chéo PP ở sơ đồ range 13x13. Có tổng 4
x3 =12 cách để tạo thành hand không đồng chất. Vì vậy, sẽ có 78 x 12 = 936 hand bài không đồng
Tổng lại, sẽ có 78 + 312 + 936 = 1,326 tổng các combo hand bài poker
Players: 9
Blinds: $5/$10 (không ante)
Pre-flop: Hero ở BB với A♦3♦.
HJ là người chơi poker khá tốt. Anh ta raise $25, mọi người fold hết đến Hero, Hero call.
Hãy bắt đầu bằng cách cho HJ range open ở vị trí HJ tiêu chuẩn là 23% hand bài. Bạn sẽ hiếm
khi biết range chính xác của đối thủ, vì vậy bạn phải ước lượng nó. Hand Range 5 là một sơ đồ cơ
bản ở vị trí HJ mà bạn có thể dùng.
Hand Đồng Chất: Villain có range bao gồm 30 hand đồng chất khác nhau, và mỗi hand có 4 cách
kết hợp:
Hand Không Đồng Chất: Villain có range bao gồm 9 hand không đồng chất khác nhau, có 12
cách kết hợp mỗi hand:
Bây giờ, chúng ta sẽ cân nhắc đến việc Villain sẽ có range như thế nào trên một mặt flop cụ thể. Ví
dụ như một mặt flop A♣J♥9♥.
Made Hands (Hand có sự kết hợp với mặt board)
Ở flop này, V có tổng 157 combo để tạo thành made hand.
Lá J♥ có ở flop, vì vậy chỉ còn 3 lá J còn lại ở trong range của V: J♠, J♥ and J♣.
Kết quả tương tự với 99, chúng ta sẽ có tổng cộng những combo tạo set:
1 combo AA, 3 combo JJ, và 3 combo 99.
A9: Villain có range không bao gồm hand A-9 không đồng chất. Lá A♣ và lá 9♥ ở mặt flop, vì
thế không có 2 combo là A♣9♣ và A♥9♥ trong range. Ta block lá A♦, vì thế Villain không
thể có A♦9♦, điều đó khiến A♠9♠ là combo duy nhất ở trong range của Villain.
J9: Villain có range không bao gồm những hand J9 không đồng chất. Lá J♥ và lá 9♥ có ở flop, vì
thế sẽ chỉ có 3 combo J9.
Draws
Villain sẽ có khoảng 72 hand draw.
KQ, KT: Sẽ có khoản 16 combo mỗi loại, nhưng chúng ta đã tính K♥Q♥ và K♥T♥, vì vậy sẽ chỉ
còn 30 combo.
Q8s, 87s: Chúng ta đã tính Q♥8♥ và 8♥7♥, vì thế sẽ chỉ còn 3 cách đồng chất mỗi hand, tổng là
6 combo.
Air (6 Combo)
Bỏ đi những quân bài đã xuất hiện trên flop và bài của chúng ta (A♦, 3♦, A♣, J♥ v à 9♥), Villain
sẽ có range giảm từ 306 combo xuống 225 combo, và 219 combo ở đó đã tạo ra made hand hoặc
draw, vì vậy sẽ chỉ còn 6 combo trong range đối thủ là air, K♣8♣, K♦8♦, K♠8♠, 7♣6♣, 7♦6♦,
7♠6♠
Set: 3.11%
Two Pair: 4.44%
Top Pair: 16.9%
Mid Pairs: 18.63%
Weak Pair: 26.7%
Bạn cần mạo hiểm $100 để thắng pot $200 (Villain bet + pot), ta có pot odds:
Pot odds cũng có thể được tính theo phần trăm dựa trên công thức sau:
Điều này có nghĩa là bạn cần phải có tỷ lệ thắng ít nhất 33.3% để có thể call lệnh all in này
(giả sử không có yếu tố tác động nào khác)
Bây giờ hãy cùng tôi tính toán về khả năng chiến thắng của bạn với khái niệm về outs.
Outs
Out được xem như là những lá bài mà nếu nó xuất hiện, sẽ cải thiện hand bài của bạn rất nhiều.
Trong trường hợp này, với Q♥J♥ bất cứ lá cơ nào xuất hiện cũng đều có thể cải thiện khả năng
chiến thắng của chúng ta, vì ta biết rằng đối thủ đang cầm AK và không có lá cơ nào trên tay (trừ
trường hợp cả A♥ và K♥ đều xuất hiện ở turn và river).
Có tổng 13 lá cơ trong bộ bài, và chúng ta đang giữ Q♥J♥ và 8♥7♥ đang ở trên mặt flop,
những lá cơ sẽ chỉ còn lại là: A♥, K♥, T♥, 9♥, 6♥, 5♥, 4♥, 3♥, 2♥ với tổng cộng là 9 outs. Bây
giờ, chúng ta có thể áp dụng công thức sau đây để có thể tính toán tỷ lệ chiến thắng của
chúng ta thông qua số outs còn lại:
Bây giờ ta sẽ phải so sánh pot odds với tỉ lệ chúng ta có đượng thùng – flush sau lá river. Nhớ
rằng, V đã all-in $100 vào pot $100 (Table 1).
Table 1
Khi chúng ta sử dụng tỉ lệ dạng x:y thì nếu như tỉ lệ của việc chiến thắng có x thấp hơn pot odds
thì lệnh call đấy sẽ có mang về lợi nhuận. Trường hợp này là 2 > 1.86.
Bảng tiếp theo (Table 2) sẽ cho chúng ta biết được odds của mỗi số out còn lại (Table 2).
Bảng tiếp theo (Table 3) sẽ xác định số outs dựa trên các tình huống có thể của Poker.
Backdoor draw là một bài chờ cần thêm hai lá bài để có thể cải thiện sức mạnh của hand. Khả
năng để có thể hoàn thiện một backdoor flush draw (BDFD) được tính theo công thức sau:
“Unseen cards” là những là chưa được thấy trong bộ bài 52 lá (thông thường sẽ là 47, do có 2
lá mình cầm và 3 lá flop)
Hãy chú ý rằng khả năng để hoàn thành một draw 1 out có thể ra ở turn và river là 4.26%.
Tỉ lệ này cũng gần như tương đương với khả năng của backdoor draw, vì vậy việc có một
BDFD hay BDSTD ở flop cũng tương đương với việc bạn chỉ có một out để cải thiện hand
bài.
Những khái niệm dưới đây rất quan trọng và bạn học thuộc lòng để phòng trong những trường hợp
mình có draw.
◆ Dead Outs: Dead outs được hiểu là những quân bài giúp cho draw của bạn được hoàn
thiện và mạnh mẽ hơn, tuy nhiên cùng lúc đó quân bài đó giúp cho đối thủ có bài mạnh
hơn chúng ta. Ví dụ, bạn có một draw sảnh hai đầu và cần 8 out để có thể cải thiện bài
của mình, tuy nhiên đối thủ của bạn đang có một flush draw, điều đó khiến cho thực sự
bạn chỉ còn 6 out.
◆ Drawing Dead: Một hand bài được gọi là drawing dead khi không còn out nào có thể
◆ Implied Odds: Implied Odds ám chỉ việc bạn mong đợi sẽ thắng bao nhiêu ở vòng đặt
cược sau đó nếu như bạn có thể hoàn thiện draw của mình.
◆ Reverse Implied Odds: Còn được gọi là Implied Odds nghịch đảo, ám chỉ việc bạn sẵn
sàng thua bao nhiêu chip ở vòng đặt cược sau khi không thể hoàn thiện draw bài của
mình.
◆ Pot Committed: Bạn được coi là pot committed khi pot odds đựa trên số chip còn lại
của bạn lớn hơn tỉ lệ để chiến thắng hand này. Vì vậy, khi bạn đã pot committed, rất
khó để có thể bạn fold đi bài của mình.
Equity (Eq)
Equity là tỉ lệ giành tiền pot của bạn được xác định bởi cơ hội thắng hoặc chia tiền ở thời điểm hiện
tại của bạn tại một điểm trong ván bài. Đó là tần suất bạn sẽ thắng trung bình nếu nhữ không có
lệnh bet nào nữa và tất cả các lá bài đã được chia hết. Có thể dễ dàng tính được equity bằng cách
sử dụng bằng phần mềm equity calculator.
Có hai cách để bạn có thể truy cập phần mềm tính toán equity miễn phí:
pokerstrategy.com/poker-software-tools/equilab- holdem hoặc propokertools.com/simulations.
Sẽ có khá nhiều cách khác nhau để có thể xác định equity.
Poker hand gần như không thể xếp hạng theo sức mạnh bởi mỗi hand sẽ phải được so sánh với
hand bài đối thủ, hoặc range bài của họ.
Hãy cùng xem xét ba hand sau bằng cách sử dụng equity và cố gắng quyết định xem hand nào
trong số chúng là mạnh nhất: AKo, JTs, hay 22 (Table 4).
Như chúng ta thấy, AKo sẽ có nhiều equity hơn JTs, và 22 sẽ có nhiều equity hơn AKo. Bạn có
nghĩ là theo tính chất bắc cầu thì 22 sẽ phải có nhiều equity hơn JTs không? Tuy nhiên, thực tế lại
không phải như vậy JTs sẽ có nhiều equity hơn 22. Vì vậy, không có bất cứ cách nào để có thể xếp
hạng được ba hand này theo một thứ tự nào cả.
Ngay cả khi phương pháp hand vs hand equity không thể được sử dụng để xếp hạng hand bài
một cách tổng thể, thì điều đó vẫn có thể giúp chúng ta phát triển kiến thức về cách thức hai hand
poker đối đầu với nhau như thế nào (Table 5).
Khi bạn chơi poker, bạn sẽ không bao giờ biết chắc chắn rằng đối thủ của bạn đang cầm hai quân
gì. Tuy nhiên, bạn có thể khoanh vùng range bài của đối thủ dựa trên những hàng động của họ, khi
đó, bạn có thể tính toán equity của mình nếu đối đầu với range bài đó.
Ví dụ
Game: $100 3-max online Sit & Go
Stacks: BN 30bb, SB 10bb, BB 20bb
Players: 3 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) BN fold. SB là người chơi tight – chắc cú, đã thực hiện lệnh all-in 10bb. Bạn
ngồi ở BB cầm Q♣T♠ và quyết định của bạn bây giờ sẽ chỉ là call hay fold mà thôi.
Sử dụng công thức tính pot odds ta có:
Lệnh call sẽ trở nên hiệu quả và đem lại lợi nhuận nếu như hand của bạn có tỉ lệ chiến thắng ít
nhất là 45% (nói cách khác là có 45% equity). Như đã biết, đối thủ là một người chơi chắc cú nên
chúng ta sẽ đánh giá range bài của anh ta một cách chặt chẽ hơn là đối với những người chơi khác
(Hand Range 6).
Như bảng 6 ở trên, hand của bạn là Q♣T♠ sẽ không có đủ equity để thực hiện lệnh call này với
range đối thủ (bạn sẽ có tỉ lệ thắng khoảng 43%, và điều này thấp hơn so với pot odds là 45%), vì
vậy fold ở trường hợp này sẽ là lựa chọn sáng suốt hơn.
Range vs range equity sẽ rất hữu dụng trong những tình huống tại post-flop, khi bạn sẽ phải lo lắng
về việc range bài của những người chơi khác sẽ có ảnh hưởng như thế nào về các lá bài chung ở
trên mặt board.
Ví dụ
Game: $109 9-max online MTT
Với nhiều mặt flop khác nhau thì equity của range bài raise ở CO 31.2% range với range bài
defend ở vị trí BB 56.8% sẽ được tính toán như sau (Table 7).
So sánh range vs range equity, chúng ta nhận thấy rằng ở pre-flop, bạn sẽ có lợi thế, nhưng
equity sẽ thay đổi rất nhiều dựa vào những mặt bài ở vòng flop. Điều quan trọng là bạn sẽ phải
hiểu rằng equity sẽ có xu hướng thay đổi như thế nào khi những mặt board khác nhau sẽ ảnh hưởng
rất nhiều đến cách mà bạn sẽ chơi. Hãy cùng phân tích vào một ví dụ cụ thể là trong trường hợp
mặt flop là 8♥7♠5♠.
Theo như bảng kết quả tính equity ở trên, đây sẽ là một flop có lợ cho nhà BB. Nó cải thiện
equity range từ 41.5% lên tới 50.33%, và làm cho họ sẽ có cửa trên một chút so với chúng ta. Còn
range equity của bài chúng ta sẽ giảm từ 58.5% xuống 49.67% điều đó có nghĩa rằng, bạn cần
phải cảnh giác hơn bởi vì nhà BB sẽ có thể có equity hand cao, ví dụ như sảnh, set, hai đôi hoặc
những draw mua bán thuận lợi. Nếu như bạn lựa chọn thực hiện c-bet trên mặt flop này với một tần
suất cao, nhà BB hoàn toàn có thể check/raise (x/r) bạn một cách rất hiệu quả. Nếu như bạn lựa
chọn là check ở mặt flop, nhà BB hoàn toàn có thể bắt đầu trở nên hổ báo hơn ở những vòng turn
và river. Kể cả nếu như tính toán về hand equity của bạn là A♦A♣ là tương đối cao (70.83%), thì
về tổng quan, bạn nên lựa chọn cách chơi một cách bị động hơn và thực hiện những lệnh check với
tần suất cao hơn để có thể xem tiếp lá turn, và điều này cũng có thể sẽ khiến ta sẽ dễ dàng call lệnh
bet của đối thủ.
Bởi vì A♦A♣ có thể thực hiện lệnh call ở hầu hết các lượt bet ở turn và thực hiện bắt bluff
tương đối hiệu quả, bạn nên thực hiện lệnh check. Hãy chơi tiếp tục như hướng dẫn dưới đây:
Việc thấu hiểu range bài của chính bạn thực sự rất quan trọng, vì mỗi hand trong range
của bạn phải được chơi theo cái cách có lợi nhất cho bạn với bối cảnh range bài đó.
Về mặt toán học, EV là tổng các khả năng của mỗi kết quả có thể xảy ra nhân với giá trị của của
nó.
Trong đó:
%W = Khả năng bạn chiến thắng, nói cách khác là equity của bạn ở trong pot
$W = Số tiền bạn có nếu giành chiến thắng
%L = Khả năng bạn thua; nói cách khác chính là 100% – equity của bạn
$R = Số tiền bạn bỏ ra để chấp nhận rủi ro
◆ Nếu như kết quả của công thức này là số âm, tức là bạn đang có những khoản đầu tư
không tốt (-EV) và bạn sẽ mất nhiều tiền về mặt đường dài.
◆ Nếu như kết quả của công thức này bằng không, tức là những khoản đầu tư của bạn
bằng không (0EV) về đường dài bạn sẽ hòa vốn.
Theo như định nghĩa, EV của việc fold bài sẽ luôb luôn bằng không. Một khi tiền đã được đưa
vào trong pot, nó đã không còn là tiền của bạn nữa. Việc tính toán EV sẽ bắt đầu lại từ thời điểm
bạn quyết định hành động tiếp theo của mình. Vì vậy, việc fold bài đồng nghĩa với việc không gây
thêm bất cứ rủi ro nào, nên EV của việc fold bằng 0 là vì vậy.
Những công cụ tính toán EV đang trở nên rất quyền lực bởi nó có thể quyết định được trò chơi
nên được chơi như thế nào. Giả sử như người chơi biết được chính xác EV của mỗi hành động tại
mỗi thời điểm thì việc với poker sẽ trở nên cực kỳ đơn giản bởi việc họ làm sẽ chỉ là chọn lựa chọn
có EV cao nhất.
Ví dụ
Game: $100 3-max online Jackpot Sit & Go
Stacks: BN 35bb, SB 15bb, BB 25bb
Players: 3 (không ante)
Hãy thử dành thời gian để phân tích từng phần từng phần một của công thức tính EV.
Villain là người biết chơi, vì thế bạn nên áp họ vào range rejam (allin) tiêu chuẩn khoảng 20%
(Hand Range 9).
%W = 43.31%
Nếu bạn giành chiến thắng ở lệnh call allin của nhà SB này, bạn chiếm được pot có giá trị là:
$W = 15+1+2 = 18bb
Tần suất bạn sẽ thua pot này với equity đã tính ở trên sẽ là:
Cuối cùng, số tiền mà bạn cần mạo hiểm để thực hiện lệnh call:
$R = 13bb
Bạn sẽ quyết định call với A♠5♠ bởi vì nó hành động đó sẽ mang về EV cao hơn. Nếu như bạn
call, EV của bạn sẽ là 0.4, còn khi fold bài, EV của bạn sẽ chỉ là 0.
Kể cả khi 0.4bb trông có vẻ chỉ là một số tiền nhỏ nếu như so với rủi ro để có thể call lệnh
all-in của đối thủ bằng một phần của stack của bạn. Đó là một tỉ lệ nhỏ, nhưng nếu được lặp
đi lặp lại cả nghìn lần, nó sẽ làm nên sự khác biệt giữa những người chơi đẳng cấp thế giới
và những kẻ gà mờ. Và tất nhiên trong suốt thời gian đó, những tỉ lệ nhỏ này có thể mang về
cho bạn hàng trăm nghìn, thậm chí hàng triệu đô la.
Vì vậy, việc thấu hiểu hand equity so với range bài đối thủ có thể giúp chúng ta dự đoán được
EV và thực hiện những hàng động tốt hơn.
EV Rescaled
EV Rescaled là định nghĩa về EV khi chúng ta coi EV là một phần của pot:
Ví dụ
EV(A) = $75
EV(B) = $100
Hành động B hơn tới 17% so với hành động A, điều đó chứng tỏ thực hiện hành động B sẽ là một
lựa chọn tốt hơn.
Ví dụ
Game: $215 Online Tournament
Effective stack: 100bb
Ở ví dụ này, nhà BB có 71% equity với đôi nhỏ trong khi bạn sẽ chỉ có 29%. Tuy nhiên, nếu như
bạn thực hiện lệnh bet ở flop, bạn có thể kỳ vọng rằng đối thủ sẽ fold với tuần suất hơn 75%. Vì
vậy, bằng cách sử dụng công thức FE chúng ta có:
Tuy nhiên, khái niệm Fold Equity thường được sử dụng ở những trường hợp mang ít yếu tố kỹ
thuật hơn, nó chỉ đơn giản là tạo áp lực để cho người chơi khác fold đi hand bài của họ.
Ví dụ
Game: $109 9-max online MTT
Stacks: BN 35bb, SB 25bb, BB 15bb
Players: 9 (12.5% ante)
Hand bài của bạn khá là tệ và bạn sẽ thường nên fold đi hand bài này nếu phải đối đầu với một
người chơi khá. Tuy nhiên, bạn biết rằng đối thủ chơi rất nhiều hand từ vị trí BN. Vì một range bài
rộng sẽ rất khó để defend với một lệnh re-raise, bạn có suy nghĩ rằng đối thủ đang bị fold quá nhiều
(over-folding) và sẽ fold bài nếu như bạn thực hiện lệnh all in ngay ở thời điểm này. Vì vậy, Sẽ
cần bao nhiêu fold equity mà bạn cần để có thể có lệnh all-in tốt với T♦5♣?
Để trả lời câu hỏi này, bạn cần sử dụng công thức tính EV và làm cho nó bằng 0 và tỉ lệ đối thủ
Bây giờ, chúng ta sẽ cùng phân tích từng phần của công thức.
Khi Villain fold, bạn sẽ chiến thắng pot:
Nếu như bạn quyết định all-in, thì Villain sẽ không thể thực hiện lệnh re-raise với bạn. Vì vậy,
Và
Nếu như bạn bị call, bạn sẽ chơi với pot tổng cộng là 31.625bb. Tức là bạn đang mạo hiểm
thêm 14bb và ước tính rằng T♦5♣ sẽ có khoảng 31% equity so với range call của Villain.
Nếu như không có bất cứ lệnh bet nào trong ván poker và những người chơi chỉ được phép all-in
hoặc fold (giống như trò chơi all-in or fold), EV của từng người chơi sẽ được tính bằng hand
equity của họ nhân với pot.
Ví dụ
Trong một ván heads-up, mỗi người đều phải đóng ante $100 và sẽ không được thực hiện bất cứ
lệnh bet nào cả. Player1 được chia 4♦4♠ và Player2 được chia 9♥8♥.
EV của từng người chơi ở đây là bao nhiêu?
Equity realization hay đánh giá equity được định nghĩa là tỉ lệ phần trăm giành được pot dựa
trên raw equity của hand bài trước nhiều tình huống postflop khác nhau.
Equity realization nói dễ hiểu hơn là định nghĩa đề cập tới phần equity mà sẽ được chuyển hóa
thành EV. Những người chơi mà hand của họ có tỉ lệ phần trăm của pot cao hơn tỉ lệ của equity tức
là học đang đánh giá cao hand của họ hơn bình thường. Những hand mà có tỉ lệ phần trăm của pot
thấp hơn tỉ lệ equity thì tức là những hand đấy đang bị đánh giá thấp hơn mức bình thường.
Ví dụ
Game: $55 9-max online MTT
Stacks: UTG 50bb, BB 40bb
Players: 9 (12.5% ante)
Pre-flop: (2.625bb) UTG là người chơi khác, raise 2bb. Fold hết đến Hero ngồi ở BB với 9♣5♦
và phải đưa ra quyết định.
Là một người chơi khá, ngồi ở vị trí UTG thì range của anh ra sẽ tương đối tiêu chuẩn, khoảng
16% range (Hand Range 12) điều này khiến cho anh ta sẽ tương đối dễ dàng thực hiện lệnh defend
nếu chúng ta 3-bet, Vì thế 3-bet với 9♣5♦ là một lựa chọn tương đối tệ. Quyết định của chúng ta
sẽ là fold hay là call.
Nếu bạn băn khoăn có nên thực hiện lệnh call hay không, giải pháp ở đây sẽ đơn giản là so sánh
với pot odds với equity của hand bạn cầm và thực hiện lệnh call nếu hand equity lớn hơn pot
odds.
9♣5♦ có hand equity so với UTG range = 29.5%
Equity realization (đánh giá equity) là một phương pháp có thể cho bạn biết được rằng trung
bình bạn cần kỳ vọng mình có bao nhiêu equity để có thể vượt qua được các tình huống có thể
xảy ra. Vì vậy, nếu bạn tính toán được hai chỉ số là hand equity (Eq) và equity realization
(EqR), bạn có thể tính được mức độ kỳ vọng của hand cho nhiều tình huống phức tạp khác
nhau, trong tình huống này là những tình huống ở post-flop.
Từ công thức trên, ta có thể suy ra được công thức cho EqR nếu như đã biết Eq và EV:
Công thức tính equity realization ở dạng đơn giản nhất sẽ là:
Việc tính toán chính xác EqR cho từng hand khác nhau là việc gần như không thể, vì về cơ bản
◆ Bạn có thể sử dụng dữ liệu thực tế từ hàng triệu hand bài chơi poker online để có thể
so sánh giữa equity của họ với tỉ lệ của mỗi pot họ giành được.
◆ Bạn có thể sử dụng những công cụ hiện đại để tính toán EqR của mỗi hand trong nhiều
trường hợp khác nhau và tính trung bình kết quả.
Sau đây là sơ đồ equity realization (heatmaps) (Heatmaps 1-4) được tạo ra bởi Pio Solver. Ở
đây, họ đã cho ta thấy kết quả của tình huống nhà BB chơi tất cả các pot đều raise pot để đối đầu
với nhà EP hoặc BN khi stack thấp và trung bình (bàn 12.5% ante).
Điều này chứng tỏ rằng việc thực hiện lệnh call với 9♣5♦ sẽ là một quyết định không tốt, và thực
tế thì chúng ta nên fold đi hand bài này (Mặc dù thực tế là lệnh call vẫn sẽ đủ raw equity để có thể
thực hiện).
Một cách khác để có thể giải quyết vấn đề này là bắt đầu bằng việc tính toán có bao nhiêu equity
của hand 9♣5♦ cần thiết để có thể thực hiện lệnh call tốt:
9♣5♦ có EqR là 58%, tức là thấp hơn 3% so mới mức ít nhất để call là 61%. Điều đó có nghĩa
rằng nếu chỉ số EqR của chúng ta cao, có thể rất cao, chúng ta vẫn sẽ khó mà nhận ra được liệu nó
có đủ để có thể chơi ở post-flop hay không với lệnh call đó.
Vị Trí - Position
Tầm quan trọng của vị trí là điều mà hầu như tất cả những người chơi poker đều có nhận thức ở
một mức độ nào đó. Kể từ khi bắt đầu chơi, mọi người đã biết được rằng nên hạn chế chơi khi
không có lợi thế về vị trí và làm thế nào để tối ưu hóa khi chơi có lợi thế về vị trí, nhưng điều mà
nhiều người không để ý đến làtại sao vị trí lại quan trọng như vậy.
Khi bạn có lợi thế về vị trí, tức là bạn là người thực hiện hành động cuối cùng ở mỗi vòng đặt
cược, nghĩa là bạn có thể quan sát đối thủ của mình làm gì và đưa ra những phân tích, hành động
phù hợp. Quan trọng nhất, nếu đối thủ của bạn check, bạn có thể check behind (check sau khi đối
thủ chec) và được xem bài vòng sau miễn phí, điều này tạo ra sự khác biệt rất lớn trong việc đánh
giá equity khi IP so với OOP. Sau khi check OOP, bạn thường phải đối diện với một lệnh bet và
thường sẽ phải fold bài và tự hủy equity của bạn ở trong pot.
Nếu một hand có nhiều raw equity, việc đánh giá equity sẽ trở nên đơn giản hơn vì những bài có
equity cao thường sẽ vẫn vui vẻ để chơi những pot lớn. Những hand đó cũng có thể cho bạn nhiều
phương án khác nhau (check, call, raise).
Những hand có equity ở mức rất thấp cũng sẽ chơi rất dễ dàng, vì đơn giản là hầu hết chúng ta
sẽ fold đi hand bài đó.
Những hand bài có sức mạnh ở mức trung bình sẽ là những hand khó nhất để có thể chơi, bởi vì
người chơi cầm những hand này thường có xu hướng showdown, hoặc xem bài vòng sau miễn phí
nhưng luôn phải đối mặt với áp lực tạo ra từ đối phương.
Tính trung bình, những hand bài đồng chất thường nhiều hơn 16% equity so với những hand đó
nhưng không đồng chất (vì hand đồng chất dễ dàng có thể tạo ra được flush, flush draw hoặc flush
backdoor). Điều này mang tới cho chúng ta sự linh hoạt hơn, có thể thực hiện semi-bluff một cách
hiệu quả hoặc call lệnh bet với một implied odds caos.
Những hand không liên tiếp và không đồng chất, ví dụ như Q2o là những hand có EqR thấp nhất.
Những hand như thế thực sự rất khó chơi vì kể cả trường hợp đẹp nhất là có được đôi cao (không
kicker) tại flop hoặc trường hợp có đôi nhỏ cũng rất khó và loại hand này có khả năng tạo draw rất
thấp.
Có lợi thế về range vs range equity có thể giúp những hand yếu hơn thực hiện được equity, nếu
range của bạn được đánh giá mạnh hơn so với range của đối thủ, họ sẽ không thực hiện những lệnh
bet quá hổ báo. Điều này cũng cho phép những hand yếu hơn ở trong range, có thể nhìn được thêm
những lá bài free hoặc giảm áp lực của những lệnh bet phải đối mặt.
SPR được tính bằng stack hiệu dụng chia có size của pot:
Việc kiểm soát được stack của mình đang có bao nhiêu so với pot hiện tại cũng là một kỹ thuật
cần thiết. Nó cho phép bạn có thể lên kế hoạch và tính toán cho size lệnh bet của mình và đưa bản
thân mình vào thế cửa trên SPR theo range bài đang chơi. Table 8 cho ta biết rằng tỉ lệ SPR thông
thường ở MTTs với 12.5% ante.
◆ SPR Thấp (0-5): Những hand mà ở flop tạo ra được top pair hay over pair sẽ phù hợp hơn
là những hand mang tính đầu cơ (mua thùng, sảnh) trong trường hợp này. Vì những hand
mua thùng/sảnh sẽ gặp khó khăn trong việc thực hiện quá equity do có quá ít fold equity
và implied odds thấp.
◆ SPR Trung Bình (6-11): Giá trị của top pair sẽ bị hạ thấp trong khi đó giá trị của các hand
đầu cơ sẽ tăng cao trong trường hợp này. EqR của hand sẽ được xoay xung quanh những
hand có khả năng mua bán mạnh như mua thùng/sảnh hơn là top pair.
◆ SPR Cao (11+): Khi mà stack của bạn càng ngày càng nhiều, sẽ rất nhiều hand có giá trị
Range của hand bài có thể được chia ra làm nhiều mẫu hình khác nhau dựa trên equity và range của
đối thủ.
Một range được gọi là tuyến tính khi mà nó gồm những hand có equity cao nhất mà không có
khoảng trống nào giữa các hand đó. Đây là một ví dụ của range tuyến tính (Hand Range 13).
Một range được gọi là phân cực khi nó bao gồm những hand có equity cao để value và những hand
có equity thấp để bluff. Một range phân cực hoàn hảo là khi ở đó chỉ còn bài nut và bluff, không
có hand gì ở giữa chúng cả. Đây là một ví dụ của range phân cực (Hand Range 14).
Khi range bài không có hand mạnh nhất, lúc đó ta gọi là range bài đã bị giới hạn (capped range).
Ngược lại, nếu range bài có bao gồm những hand mạnh nhất trong đó, ta sẽ gọi là range không bị
giới hạn (uncapped range).
Ví dụ
Game: $215 9-max online MTT
Stacks: BN 25bb, BB 15bb
Players: 9 (12.5% ante)
Ở mặt flop A♥J♦T♠, range của nhà BB (Hand Range 16) sẽ không có những hanh nut như nut
straight (KQ), set (AA, JJ, TT), và 2 pairs (AJ-AT), khi đó chúng ta sẽ nói rằng range này đã bị
giới hạn (capped). Đối lập với điều đó, range nhà BN (Hand Range 17) sẽ được gọi là không giới
hạn (uncapped) bởi sẽ có rất nhiều hand mạnh ở trong range đó.
02
Lý Thuyết Trò Chơi - Game Theory: Toàn bộ những kiến thức, nghiên cứu về toán và khoa học
để có thể đưa ra những quyết định tối ưu và hợp lý nhất. Lý thuyết này thậm chí còn có thể ứng
dụng trong kinh tế, chiến thuật quân sự, chính trị, tâm lý học, sinh học, khoa học máy tính và các
trò chơi khác như poker.
Trò Chơi - Game: Gồm bất kỳ sự tương tác nào giữa nhiều người chơi, trong đó tiền thưởng của
mỗi người sẽ bị ảnh hưởng bởi những quyết định của người chơi khác.
Tính Hữu Dụng - Utility: Thang đo tổng quan về mức độ hài lòng của một người chơi khi có
được những kết quả cụ thể. Khi hành động có tính hữu dụng càng cao, thì nó sẽ được ưu tiên hơn
◆ B vượt trội hoàn toàn so với A nếu như lựa chọn chiến thuật B sẽ luôn luôn có kết quả
tốt hơn lựa chọn chiến thuật A, không quan tâm tới những người chơi khác như thế nào.
◆ B vượt trội một phần so với A nếu như tồn tại ít nhất một chuỗi hành động của đối
thủ khiến cho B có lợi nhuận vượt trội so với A. Và những hành động còn lại của đối
thủ sẽ khiến cho kết quả của hai chiến thuật A và B như nhau.
◆ B yếu thế hoàn toàn so với A nếu như lựa chọn chiến thuật B sẽ luôn luôn có kết quả tệ hơn
so với lựa chọn chiến thuật A, bất luận đối phương hành động như thế nào.
◆ B yếu thế một phần so với A nếu như tồn tại ít nhất một chuỗi hành động của đối thủ khiến
chiến thuật B có kết quả tệ hơn chiến thuật A, trong khi những hành động còn lại của đối
thủ sẽ khiến kết quả của hai chiến thuật như nhau.
Ví dụ
Game: Heads-Up Sit N’ Go (Players can only push or fold)
BN Stack: 100 chips
BB Stack: 100 chips
Blinds: (5/10)
Pre-flop: BN sẽ chơi với chiến thuật all-in với tất cả các hand. Vậy thì để đối đầu với nhà BN,
MES của BB sẽ là gì?
Chúng ta có thể tìm được những hand nào nhà BN có +EV khi all-in bằng cách áp dụng công
thức tính EV:
Tính toán EV của tất cả các hand là một việc cực tốn thời gian, vì vật chúng ta có thể sử dụng
những ứng dụng có thể tính toán trong những game như all-in or fold như Hold’em Resources
Calculator (HRC) (holdemresources.net).
Lần khai thác thứ hai: Sau khi bị nhà BB khai thác, nhà BN có thể khai thác ngược lại bằng
cách shove 46.61% hand và fold đi 53.39% hand
(Hand Range 21).
Sau đó, nhà BB sẽ bị khai thác, và nhà BB hoàn toàn có thể điều chỉnh lại chiến thuật của
mình để khai thác ngược lại nhà BN.
Lần khai thác thứ ba: Lúc này, nhà BB sẽ call với 30.3% hand và fold đi 69.7% hand còn lại
(Hand Range 22).
Cũng có thể xảy ra trường hợp chiến thuật những người chơi luân phiên qua lại và không bao giờ
quy tụ về trạng thái cân bằng. Trong trường hợp này, điểm cân bằng vẫn có thể được tìm thấy bằng
cách thực hiện các thay đổi nhỏ trong phản ứng của người chơi. Thay vì chuyển chiến thuật ngay
khi tìm ra được chiến thuật khắc chế, mỗi người chơi có thể sẽ điều chỉnh chiến thuật dần dần tại
một thời điểm theo chiến thuật đó.
◆ Những người chơi đều rất tinh tế: mỗi người đều có thể biết rõ chiến thuật của đối phương.
◆ Tất cả người chơi đều đang khai thác đối ta lẫn nhau một cách đồng thời.
◆ Không có người chơi nào có thể tự thay đổi chiến thuật của họ để cải thiện kết quả.
Những chiến thuật cân bằng được khai thác tối đa khi đấu với một đối thủ không dễ khuất phục,
vì vậy chúng kế thừa tất cả các đặc tính của MES, đó là:
◆ Những hand bài riêng kẻ luôn được chơi theo cách có lợi nhất có thể, vì vậy, GTO
không bao giờ liên quan đến việc chơi một hand bài có ít khả năng hơn so với bình
thường chỉ vì để cân bằng.
◆ Những chiến thuật yếu thế hoàn toàn không thể là một phần của cân bằng Nash, vì bất
kỳ người chơi nào sử dụng chúng đều không hợp lý.
◆ Cách duy nhất một hand có thể chơi nhiều hơn một cách ở trạng thái cân bằng (chiến
Sau đây là những lời giải của Cân bằng Nash (nguồn HRC) cho ví dụ trước đó khi chơi heads-
up với stack 10bb ở trò chơi allin or fold (Hand Ranges 23 và 24).
Ở ví dụ này, nếu nhà BB biết rằng nhà BN đang ở vòng khắc chế đầu tiên (khi họ đang thực hiện
all-in 100% hand bài), nhà BB có thể cả thiện EV của mình lên tới 13.77 bằng cách áp dụng MES
và call với 66.21% hand bài. Nhưng nếu nhà BB phán đoán sai về cách mà BN đang chơi, EV của
nhà BB có thể giảm xuống 8.48. Nếu như nhà BB chơi theo chiến thuật GTO và call với 37.4%
hand khi đối mặt với lệnh all-in, EV của họ sẽ được đảm bảo ở mức 10.45 mà không cần quan tâm
tới nhà BN như thế nào.
Một trong những lý do chính của Cân bằng Nash hay chiến thuật GTO nằm ở sức mạnh
chúng có thể cho bạn một mức EV nhất định. Bởi cách chúng được xác định, đã bao gồm việc
đối thủ đã biết được chiến thuật của bạn và chiến thuật của họ sẽ là phản ứng tốt nhất cho
những hành động của bạn. Đây là ý do tại sao các chiến thuật GTO được coi là không thể
khai thác. Về mặt toán học, không thể có đối thủ nào giành được lợi thế trước bạn, nghĩa là
bạn sẽ hòa vốn hoặc có lãi.
Một lợi thế khác của việc chơi theo những chiến thuật cân bằng đó là bạn không cần quá cố gắng
để đánh lừa hay chọc giận đối thủ. Chiến thuật GTO không phải về việc thực hiện hand cụ thể đối
đầu với các loại đối thủ cụ thể. Chiến thuật này cho rằng đối thủ của bạn sẽ điều chỉnh chính xác
bất cứ điều gì bạn làm và do đó họ tập trung nhiều hơn vào việc chơi poker một cách vững chắc
hơn là liên tục cố gắng xâm nhập vào đầu đối thủ của bạn.
Nếu bạn chơi theo GTO với bất kỳ đối thủ nào không hoàn toàn chống lại chiến thuật của bạn
(họ có thể cũng chơi theo GTO), kỳ vọng của bạn sẽ lớn hơn mức cân bằng và sẽ tăng lên khi chiến
thuật của đối thủ trở nên tồi tệ hơn. Tuy nhiên, chiến thuật cân bằng sẽ không giúp bạn kiếm được
nhiều EV như một chiến thuật được thiết kế hoàn hảo để chống lại những sai lầm cụ thể của đối
thủ. Những người chơi hàng đầu phát triển chiến thuật GTO cơ bản và hợp lý để họ vẫn không bị
khuất phục trước những đối thủ khó hoặc chưa biết nhiều thông tin, nhưng họ cũng có khả năng tận
dụng sự rò rỉ của đối thủ bằng cách thực hiện các điều chỉnh khai thác khi họ đã có một sự tìm hiểu
“Chiến lược cân bằng là chiến lược khai thác tối đa khi đối mặt với một đối thủ đang chơi
chiến lược GTO của theo cách của họ - trong trường hợp này, mọi hand bài đều được chơi
theo hướng có lợi nhất có thể. Vì vậy, cách duy nhất một hand bài có thể được chơi theo hai
cách khác nhau tại điểm cân bằng là nếu cả hai hành động đó có cùng EV; nghĩa là, nếu
người chơi thờ ơ với lựa chọn hành động của mình. Điều này được gọi là Nguyên tắc bàng
quan: nếu một người chơi chiến thuật hỗn hợp với một hand ở điểm cân bằng, thì tất cả hành
động mà anh ta thực hiện với tần số khác không sẽ có cùng EV. Đây là một mệnh đề mạnh
mẽ, bởi vì nó cho chúng ta biết điều gì đó về chiến thuật GTO của đối thủ. Nếu một người
chơi thờ ơ giữa hai lựa chọn, thì hẳn là đối thủ của anh ta đang chơi theo cách để khiến anh
ta như vậy
Nguyên tắc này được kết nối mật thiết với ý tưởng về sự cân bằng. Hãy nhớ lại ví dụ trước khi
mà chúng ta biết rằng range của nhà BN chơi theo GTO là 58.3% hand. Lý do khiến họ không thể
all-in với range bài rộng hơn bởi vì nhà BB sẽ chỉ call khi cảm thấy BN không thể kiếm được tiền
với những hand ở cuối range (ví dụ như hand 43s). Nếu họ có thể all-in và có được lợi nhuận với
những hand ở cuối range, nhà BN sẽ tiếp tục làm thế. Còn nếu nhà BN mất tiền với những hand
kiểu như 43s, họ sẽ chọn rằng không chơi những hand kiểu như thế nữa, và khi đó sẽ có những
hand cuối ở range mới. Vì vậy, nhà BB phải thực hiện lệnh call chính xác những hand bài tệ nhất
trong range của nhà BN. Bởi 43s là một hand khá lỡ cỡ, nên nó có thể được chơi như một chiến
thuật hỗn hợp: 74% allin, 26% fold. Nếu như nhà BN all in 43s nhiều hơn 74%, nhà BB có thể khai
thác bằng cách thực hiện lệnh call nhiều hơn để khiến cho hand 43s có EV âm.
Cùng lúc đó, tại điểm cân bằng, nhà BB chỉ có thể thực hiện lệnh cal với 37.4% hand. Những
hand cuối ở range call của họ, ví dụ như Q6s, cũng có thể chơi với một chiến thuật hỗn hợp call-
61%, fold 39%. Nếu như nhà BB call với Q6s nhiều hơn 61%, nhà BN có thể tận dụng và khai thác
điều đó để có thể khiến cho hand Q6s có EV âm.
Ví dụ
Cả hai người chơi đều thấu hiểu nhau: Họ đều biết được chiến thuật của đối phương.
Giá trị của trò chơi cho mỗi người sẽ được tính như thế nào?
Ở điều kiện này, P1 có range phân cực hơn. AA đại diện cho bài nut và QQ sẽ đại diện cho bài
thua khi đối đầu với range của P2 là KK, người chuyên bắt bluff.
Range vs range equity của mỗi người sẽ là?
P 1 sẽ thắng pot trong khi cầm AA và sẽ thua pot khi cầm QQ. Vì vật equity của mỗi nhà ở pot
này sẽ là 50%.
Nếu equity của mỗi nhà là 50%, và pot có $100, EV của người chơi sẽ tính như thế nào?
Hãy nhớ rằng equity riêng lẻ sẽ không được tính khi post-flop, vì vậy kể cả cả hai người chơi
đều có equity là 50%, điều đó cũng không có nghĩa là họ có thể có được 50% của pot.
Chúng ta sẽ thấy rằng, EV của P1 sẽ là $75 và EV của P2 chỉ là $25, kể cả trong trường hợp hai
người chơi đều chơi theo hướng tối đa nhất!
AA sẽ luôn luôn chiến thắng, vì thế EV của lệnh call với bất cứ size bet nào sẽ là:
Fold đi bài nut chắc chắn là chiến thuật chúng ta không bao giờ sử dụng.
QQ không thể thắng KK. Vì thế, EV của việc call với bất cứ size bet nào với QQ sẽ là:
Call lệnh bet với một hand không thể chiến thắng là một chiến thuật tệ, vì vậy P1 nên luôn luôn
fold QQ bất kể là size bet của đối phương có là bao nhiêu.
Bởi nếu P1 không bao giờ fold AA và không bao giờ call lệnh bet với QQ, bet với KK sẽ không
có ý nghĩa gì. Thực hiện lệnh bet sẽ khiến P2 mất nhiều tiền hơn khi P1 có AA, vì thế bet với KK
Check với AA
Chúng ta biết rằng P2 sẽ không bet với KK, vì thế nếu P1 check AA, P2 sẽ check ngay sau đó và
sẽ không bao giờ có thêm tiền cược ở vòng này, vì thế P1 nên luôn luôn bet với AA.
Sau khi loại bỏ được các chiến thuật không hợp lý ở trên, trò chơi sẽ được đơn giản hóa bằng bộ
những câu hỏi dưới đây:
Bet size tối ưu của P1 sẽ là all-in. Chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao lại all-in ở phần sau, nhưng bây
giờ, hãy chỉ cần biết là bet-size tối ưu trường hợp này là all-in.
Chúng ta đều biết rằng P2 có EV ở ván này là $25, vì thế chiến thuật bắt bluff khi P1 luôn luôn
bluff với QQ là chiến thuật không tối ưu dù nó mang lại P2 phần thưởng cao hơn ($50) so với mức
$25.
Nếu như P1 không bao giờ bluff với QQ, P2 sẽ không có lý do nào để call với KK, bởi vì như
thế sẽ chắc chắn thua.
Trong trường hợp đó, P1 sẽ luôn bet với AA và gần như không bao giờ nhận được lệnh, và khi
P1 có QQ, anh ta sẽ check và sẽ thua trước KK. Với chiến thuật này, E2 của P2 sẽ là:
Và một lần nữa, chiến thuật này mang về cho P2 khoản tiền lớn hơn so với mức kỳ vọng thực sự
của anh ta.
Trong đó:
b = bet
p = pot
Bây giờ chúng ta sẽ chỉ cần tìm ra được P1 nên bet vơi QQ với tần suất nào để có được range
bet là 67% Value và 33% Bluffs.
Player1 trung bình cần 1 lần bluff cho mỗi 2 lần value ở trong range bet của anh ta, tức là anh
ta nên bet với QQ ở một tần suất là 50%.
P1 có AA trong một nửa số hand bài, và anh ta sẽ luôn bet với chúng với tuần suất 100%:
P1 có QQ trong một nửa số hand bài, và anh ta sẽ bet với chúng với tần suất 50%:
AA EV:
QQ EV:
Khi đó giá trị của trò chơi này dành cho P1 sẽ là:
Nếu P1 chơi theo chiến thuật cân bằng, điều này sẽ không ảnh hưởng tới P2 sẽ call hay fold bởi
EV của cả hai hành động của P2 đều có EV bằng 0. Điều đó thể hiện rằng, P2 cần một tần suất thực
hiện lệnh call nhất định nếu không P1 có thể sẽ tăng tuần suất bluff với QQ để kiếm nhiều tiên hơn.
Ví dụ, nếu P2 lựa chọn chiến thuật không bao giờ call với KK, P1 có thể bắt đầu luôn luôn bluff
bằng QQ và luôn giành chiến thắng. Ngược lại, nếu P2 luôn luôn call với KK, P1 có thể sẽ không
bluff bằng QQ nữa.
Chúng ta cần tìm ra tần suất tối ưu của P2 khi thực hiện lệnh call để P1 sẽ phải gặp khó trong
việc bluff bằng QQ. Nói cách khác, P2 cần phải khiến cho P1 rơi vào trạng thái bàng quan giữa
check hay bluff với QQ.
Trong đó:
b = bet
p = pot
P2 cần phải thực hiện lệnh call với tuần suất 50% với KK để có thể khiến cho P1 bàng quan giữa
việc check hay bluff với QQ. Một cách khác để có thể giải được trường hợp này chính là tần suất
mà P2 nên fold để có thể khiến P1 bàng quan với check hay bluff với QQ. Chúng ta có thể sử dụng
Tỉ lệ này còn được gọi là tỉ lệ Alpha. Nó thể hiện rằng một lệnh bluff nên được xuất hiện với
tần suất như thế nào để có thể có lãi. Trong trường hợp này nếu P1 bluff QQ trên 50 % thì lệnh
bluff đó sẽ hiệu quả.
Ở đây P1 gần như chỉ có hai hành động là call hoặc fold, nên chúng ta có thể coi như tổng tần
suất của hai hành động đấy bằng 1 (100%). Vì thế, nếu một tỉ lệ ta đã biết rồi, thì ta có thể dễ dàng
tính được tỉ lệ còn lại.
Tần suất phòng thủ tối thiểu của P1 được tính theo công thức là:
Pot: $100
Player1: EV $75
AA: Bet $100 (100%), Check (0%)
QQ: Bet $100 (50%), Check (50%)
Tổng tần suất bet của P1: 75%
Tổng tần suất check của P1: 25%
Trong trường hợp nhà có nut hoặc có air đối đầu với nhà bắt bluff thì vị trí lại không quan trọng
nữa! Nếu như P2 không có vị trí, anh ta cũng sẽ không bao giờ bet với KK bởi đó là một điều ngu
ngốc, vì thế chiến thuật cân bằng của P2 lúc nào chính là check 100% và để action đến P1.
Nếu P1 có vị trí, P1 sẽ bet với AA 100% và sẽ cố bluff với QQ với tần suất là b/(b + p).
Ở river, nếu range của P1 hoàn toàn phân cực và rang của P2 cô đặc thì bet-size tối ưu của P1 chính
là all-in! Như chúng ta thấy ở bảng 10 Table 10, EV của P1 tăng theo bet-size bởi vì nếu như bet-
size càng lớn, thì P1 trông càng giống như đang bluff. Ở trường hợp này, P2 chỉ có thể kiếm tiền
nhờ việc P1 sẽ check với QQ, điều đấy càng ít hơn thì số tiền P2 kiếm được sẽ càng ít. Vì thế, EV
tối đa mà P1 có được khi size bet là lớn nhất có thể. Nếu P1 có thể bet một số tiền vô hạn, kết quả
sẽ là 100% pot.
Chỉ số Alpha rất quan trọng khi thực hiện bluff bới nó sẽ cho chúng ta biết rằng tần suất nên
bluff với 0% equity như thế nào thì sẽ mang lại lợi nhuận.
Ví dụ
Game: Live Multi-table Tournament
Stacks: SB=50bb, BB=20bb
Players: 9 (12.5% ante)
Pre-flop: (2.625bb) Hero ở SB với 72o và action fold đến Hero, BB là một người chơi rất chắc
cú và thường sẽ không chơi quá hung hăng với những pot nhỏ.
72o là một hand mà thông thường chúng ta sẽ fold ở vị trí SB khi đối đầu với đối thủ, nhưng ở
đây Hero nghĩ rằng BB chỉ có thể defend khoảng ~50.8% hands khi đối đầu với lệnh cướp từ SB
(Hand Range 25). Bạn phải quyết tâm để cướp blind dù cho hand bạn đang cầm tương đối yếu.
Chúng ta có thể sử dụng công thức Alpha để tìm ra tần suất mà lệnh bet sẽ mang về lợi nhuận
Nếu lệnh bet có tác dụng nhiều hơn 43% thời gian nó sẽ ngay lập thức có lợi nhuận, và trường
hợp này là BB sẽ fold đi 49.17% hand bài.
Bạn sẽ luôn luôn fold 72o khi gặp 3-bet, hãy giả định rằng bạn sẽ luôn thua pot nếu như BB call,
mặc dù điều này không đúng vì nếu BB call, bạn vẫn còn một chút equity so với range call của BB
(nhưng chúng ta ở đây là đang nhìn vào tình huống xấu nhất bởi nếu bạn có thể kiếm tiền, bạn sẽ
luôn luôn kiếm được tiền).
Nhà BB có MDF là 57% hands, nhưng theo giải pháp GTO cho BB ở trường hợp này là defend
với 82.1% hands (Hand Range 26) điều mà với một số người chơi nó sẽ bị coi là điêun rồ. Phần
sau của cuốn sách chúng ta sẽ nghiên cứu về chiến thuật defend ở BB sâu hơn để hiểu rằng nó
không hề vô lý chút nào.
Ví dụ
Game: Online Cash Game
Stacks: BB=99bb, SB=220bb, BN=114bb
Blinds: $1/$2
Players: 6 (không ante)
Pre-flop: (1.5bb) Mọi người fold hết đến Hero ở BN. Tần suất mà 2 nhà blind còn lại fold trước
lệnh raise 2.5bb của Hero để Hero có lệnh open lợi nhuận với 2 lá bất kỳ là bao nhiêu?
Vì vậy, nếu như đối thủ fold nhiều hơn 79% thời gian khi đối mặt với lệnh cướp từ BN, Hero
sẽ có lợi nhuận từ việc raise với 2 lá bất kỳ.
Chỉ số Alpha khi đối mặt với một người chơi chính là
Vân vân...
Khi đó, mỗi người chơi sẽ có tần suất defend tối thiểu được tính bằng:
Ở ví dụ này, mỗi người chơi nên defend ít nhất (1 – 0.79) = 21% thời gian để có thể dừng việc
Hero liên tục kiếm tiền bằng việc raise với 2 lá bất kỳ.
Hãy cùng xem xét một điều chỉnh nhỏ đối với ví dụ này. Giả sử Hero nhìn vào HUD và số liệu
thống kê về đối thủ là:
Liệu Hero có thể có lợi nhuận trước 2 đối thủ bằng lệnh raise?
Làm thế nào để bạn biết rằng khi nào bạn có thể thực hiện lệnh raise với hai hand bất kỳ ở
vị trí BN với 2 đối thủ còn lại? Bạn có thể giải quyết bằng cách tìm tần suất fold kết hợp
của 2 đối thủ trên:
Kết hợp lại, hai người chơi này đang fold đi 60% thời gian và Alpha là 62,5%, vì vậy mặc dù
cả hai người chơi fold khi nhà BN cướp blind là rất cao, nhưng Hero không có lợi nhuận BN khi
cướp blind với 2 lá bất kỳ (giả sử Hero có 0% equity khi bị call).
Nếu bạn biết tần suất fold cá nhân của từng người chơi, bạn có thể tính toán tần suất fold kết
hợp của họ bằng cách nhân chúng với nhau.
Giả sử việc bluff của bạn không có equity, công thức này vẫn phù hợp với bất kỳ số lượng đối
thủ nào và ngay cả đối với các tình huống post-flop có thể xảy ra khi chúng ta có thể c-bet.
Điều này được thể hiện rõ ràng nhất trong một tình huống đối đầu, nếu một người chơi đang chơi
tối ưu vs đối thủ chơi kém tối ưu thì bất kỳ sự thay đổi nào mà người chơi yếu hơn thực hiện từ
GTO sang một chiến lược tồi tệ hơn không bao giờ có thể làm tăng giá trị của họ, nhưng nó có thể
khiến họ phải trả giá trị, người chơi GTO sẽ được lợi từ đó. Hiện tượng này được gọi là khai thác
bị động bởi vì người chơi tối ưu không phải làm bất cứ điều gì ngoài việc chơi một chiến lược cân
bằng để đạt được EV từ người chơi dưới mức tối ưu. Nói cách khác, người chơi yếu hơn đang tự
khiến mình bị khai thác bằng cách chơi kém.
Khai thác chủ động xảy ra bất cứ khi nào người chơi đi chệch khỏi chiến lược cốt lõi của họ để
tận dụng thêm sơ hở của đối thủ.
◆ Người chơi luôn chơi Chiến lược cân bằng được gọi là người chơi GTO.
◆ Người chơi sử dụng Chiến lược khai thác tối đa được gọi là Người chơi khai thác tối đa.
◆ Người chơi sử dụng Chiến lược khai thác tối thiểu được gọi là Người chơi khai thác tối thiểu.
Thông thường, khi người chơi nói về một người chơi khai thác, họ đang đề cập đến một người
chơi khai thác tối đa.
Ví dụ
Game: Heads-Up Sit N’ Go (Người chơi chỉ có thể all-in hoặc fold)
Hãy tưởng tượng tám loại đối thủ khác nhau mà Hero có thể gặp phải trong một trận đấu đối đầu:
◆ GTO Player: Người chơi này sẽ tối ưu all-in 15bb SB với range 28,5% .
◆ 10% Loose Player: Loại đối thủ này chơi khá lỏng lẻo và sẽ all-in 15bb SB với range
31,4%.
◆ 25% Loose Player: Loại đối thủ này chơi lỏng lẻo hơn nữa và sẽ all-in 15bb SB với range
35,6%.
◆ 100% Loose Player: Loại đối thủ này thực sự ghét phải fold bài và sẽ all-in 15bb SB với
range 57%.
◆ 10% Tight Player: Loại đối thủ này chặt chẽ hơn và gọi là sẽ all-in 15bb SB với range
25,7%.
◆ 25% Tight Player: Loại đối thủ này chặt chẽ hơn rất nhiều và sẽ all-in 15bb SB với range
21,4%.
◆ 50% Tight Player: Loại đối thủ này cực kỳ chặt chẽ và sẽ all-in 15bb SB với range 14,3%
Trong Bảng 11, chúng tôi tóm tắt khả năng đạt được EV tại SB khi áp dụng GTO và MES so
với các đối thủ khác nhau, cũng như khả năng mất EV của Hero nếu đối thủ chơi GTO, thay vì
chiến lược kém tối ưu hơn hoặc khai thác ngược lại Hero.
Như đã thấy trong Bảng 11, áp dụng chơi GTO không thể thua hoặc thắng EV đối với một người
chơi GTO, nhưng nó sẽ giành được EV từ những người chơi kém tối ưu tùy thuộc vào mức độ
nghiêm trọng từ những lần sai lầm của họ. MES trung bình kiếm được nhiều hơn 6,4bb/100 so với
GTO khi gặp những người chơi kém tối ưu nhưng đồng thời cũng sẽ tạo ra một lỗ hổng có thể bị
khai thác trung bình -15,62bb/100.
Ngay cả khi đối đầu với một đối thủ cực kỳ tệ đang call 2x nhiều hơn so với mức họ cần, MES
chỉ thu được nhiều hơn 6,3bb/100 so với GTO và có thể bị khai thác ngược lại -2,5bb/100. Nếu
đối thủ call chặt chẽ hơn 50% so với mức họ cần, MES sẽ rất hiệu quả, mang lại 24,6bb/100 nhiều
hơn GTO, nhưng ngược lại nó có thể bị khai thác mất -62,4bb/100. Thêm vào đó, sự thay đổi chiến
lược là cực kỳ nguy hiểm vì Hero hiện đang all-in 100% hands thay vì 28%, vì vậy việc điều chỉnh
chiến lược khai thác này có thể dễ dàng bị phát hiện bởi một đối thủ tinh ý.
MES tồn tại một mức độ rủi ro, bởi vì bạn đang đặt mình vào tình huống mà đối thủ của bạn có
thể phản công khai thác chiến lược mới của bạn với lợi nhuận thậm chí còn lớn hơn mức bạn đang
cố gắng khai thác họ ngay từ đầu, nếu họ phát hiện ra điều bạn đang làm. Đồng thời, nếu bạn đánh
giá sai về lối chơi của đối thủ (điều này là không thể tránh khỏi tuỳ từng thời điểm) và điều chỉnh
Pot: $100
Stacks: $100
Board: 3♠3♥3♣2♦2♠
Player1: EV $75
AA: Bet $100 (100%), Check (0%)
QQ: Bet $100 (50%), Check (50%)
Player2: EV $25
Vs Check: Check KK (100%)
Vs $100 Bet: Call KK (50%), Fold KK (50%)
Hãy tưởng tượng một biến thể của trò chơi này khi Hero là Người chơi 1 và Người chơi 2 là đối
thủ có xu hướng chơi khá lỏng lẻo. Thay vì call 50% bằng KK, họ call 55%.
Nếu Hero tiếp tục chơi chiến lược GTO, anh ta sẽ không kiếm được thêm EV với sự sơ hở này.
QQ EV:
Nếu đối thủ khai thác ngược lại Hero bằng cách chuyển sang chiến lược luôn fold khi
Hero all-in, thì EV của anh ta sẽ là:
Con số này nhiều hơn gấp 2 lần trung bình mỗi hand và gấp 10 lần số tiền mà Hero đã khai
thác từ đối thủ! Vì vậy, Hero phải có thể khai thác được đối thủ ít nhất 10 lần liên tiếp trước
khi anh ta nhận ra chiến lược của Hero và điều chỉnh, nếu không Hero sẽ mất tiền. Nếu đối
thủ thác Hero thậm chí chỉ 2 trong số 10 lần, Hero vẫn sẽ mất $30, hoặc -$3/hand, so với
GTO. Nếu đối thủ đặc biệt bắt bài chậm và cho phép Hero tiếp tục khai thác anh ta trong 45
hands liên tiếp và chỉ điều chỉnh cho 5 hands cuối cùng, thì EV của Hero trên 50 hands sẽ
là -$12,5 so với chỉ chơi GTO.
P1 EV:
P2 EV:
Trong đó:
AA% = xác suất P1 cầm AA
Tại điểm cân bằng, P1 bàng quan với việc bet hoặc check với QQ
AA% = 1
Do đó:
Để đặt sơ hở của đối thủ vào trò chơi, chúng ta phải nhìn nhận nó từ góc độ của đối thủ.
Theo suy nghĩ của đối thủ, fold KK khi Hero bluff là một trò chơi -EV với biên độ X và
Hero nhận được thêm X khi anh ta bluff thành công:
P2 EV:
Nếu chúng ta áp dụng lý thuyết bàng quan một lần nữa, chúng ta có:
Chúng ta biết rằng tần suất call của đối thủ là 55%, nên:
Do đó:
Do đó:
Tất nhiên, mức tăng EV khi dùng MinES gần như không tốt bằng mức tăng EV khi dùng MES
(Bảng 12) nhưng việc thêm $0,25 mỗi hand, hoặc $25/100 lợi nhuận mà MinES thu được, là không
thể khai thác và không có gì đối thủ có thể làm để ngăn bạn nhận được khoản đó trừ khi anh ta sửa
chữa sai lầm của mình bằng cách giảm giá trị X của anh ta.
MinES có thể được tính bằng cách sử dụng GTO solvers hiện đại, và không giống như MES,
bạn không cần biết toàn bộ chiến lược của đối thủ. Tất cả những gì bạn cần là giả định một sơ hở
cụ thể, nhập sơ hở đó trong chiến lược của đối thủ vào solver (cho phép đối thủ chơi tối ưu ở mọi
nơi) và cố gắng bù lại cho những sơ hở quan sát được sau đó. Bằng cách này, solver sẽ đưa ra một
giải pháp khai thác giải quyết sơ hở nhưng cũng để đưa ra các biện pháp chống lại tốt nhất có thể
mà đối thủ có thể thực hiện. Làm như vậy, bạn kiếm được EV thấp hơn MES trong khi bảo vệ bản
thân khỏi bị khai thác ngược lại. Đồng thời, các điều chỉnh MinES nhỏ và khó phát hiện hơn bởi
đối thủ, vì vậy bạn có thể tiếp tục khai thác chúng lâu hơn trước khi họ nhận ra bạn đang làm gì
thậm chí nếu họ có khả năng làm như vậy. Cuối cùng, trong trường hợp đối thủ trở lại trạng thái
cân bằng thực sự, bạn cũng phải làm như vậy, nếu không bạn sẽ bắt đầu mất EV.
◆ MinES phản ứng: Cách khai thác này là chỉ thay đổi chiến thuật của bạn sau khi đã
quan sát được sơ hở của đối thủ xảy ra trong thực tế. Ví dụ, nếu bạn biết được đối thủ
fold quá đà để c-bet, bạn sẽ c-bet với chiến lược cân bằng và sau đó điều chỉnh cách
chơi ở turn và river để nắm bắt được range rộng hơn của đối thủ trong những lượt sau.
◆ MinES chủ động phản ứng: Cách khai thác này là bạn sẽ thay đổi trước thuật ngay cả
trước khi đối thủ phạm sai lầm vì bạn cho rằng họ sẽ phạm sai lầm trước đó. Ví dụ, nếu
bạn biết đối thủ fold quá đà để c-bet ở flop, bạn có thể tăng tần suất c-bet của mình lên
để khai thác sơ hở của họ.
Tôi khuyên bạn nên sử dụng cả MinES phản ứng và chủ động phản ứng. Ví dụ, với một người
chơi fold quá đà ở flop thay vì c-bet, bạn nên tăng tần suất c-bet của mình và sau đó, nếu được
call, hãy điều chỉnh ở turn và river để range của bạn trở nên rộng hơn bình thường và range của
đối thủ hẹp hơn hơn bình thường.
Chúng ta sẽ thấy những ví dụ thực tế hơn khi nghiên cứu cách chơi sau flop.
“Không người chơi nào có thể đơn phương thay đổi chiến thuật để tăng mức kỳ vọng của
mình”
Ở bất kì tình huống đối đầu nào, Nash Equilibrium rất hiệu quả vì nó có nghĩa là một người chơi
GTO không thể bị đánh bại. Nó là không thể về mặt toán học ngay cả khi đối thủ của bạn biết
chính xác chiến lược của bạn. Bạn được đảm bảo một mức EV nhất định dù đối thủ của bạn có
làm gì. Nếu bạn đang chơi GTO và đối thủ của bạn chuyển sang một chiến lược yếu hơn, EV của
họ chỉ có thể giảm xuống và vì poker là một trò chơi có tổng bằng không, bạn sẽ giành được lượng
EV đó.
May mắn rằng, lý thuyết Nash Equilibrium không chỉ áp dụng cho những tình huống đầu trong
poker. Nó cũng có thể được áp dụng trong bất cứ tình huống poker nào khi chỉ còn lại hai người
đang chơi.
Hãy xem một số ví dụ về các tình huống poker phổ biến có thể được coi là tình huống đối đầu
phụ:
◆ 6-max cash game: CO raises, BN 3-bets, hai nhà blinds fold và quay lại lượt hành động
của CO. Những người chơi còn lại là BN và CO.
◆ MTT 9-max: UTG raises và các nhà khác folds cho đến lượt của BB. Những người
chơi còn lại là UTG và BB.
◆ MTT 6-max: HJ raises, BN calls, SB 3-bets, HJ Folds và quay lại lượt hành động của BN.
Những người chơi còn lại là SB và BN.
Trong các tình huống nhiều người hơn, việc mất EV do sai lầm của một người chơi không được
chia đều cho những người chơi khác trong ván bài. Trong hầu hết các tình huống, một số người
chơi sẽ có thể tận dụng sai lầm đó nhiều hơn những người khác, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như
độ deep của stack và vị trí hành động. Hơn nữa, một số người chơi có thể bị mất EV ngay cả khi
họ chơi chiến lược cân bằng của mình. Hãy xem xét những điều sau:
Ví dụ
Game: $100 3-max online Jackpot Sit & Go
Chiến thuật Nash Equilibrium của BN là all-in 32.1% hands. Nếu chúng ta giới thiệu một người
chơi chặt chẽ chỉ all-in 16% tham gia vào game này, chúng ta có thể sử dụng cách tính push-fold
để tính mức thay đổi EV của anh ta nếu nhà blinds tiếp tục chơi theo Nash Equilibrium và nếu họ
thay đổi sang MES (Bảng 13).
Anh ta đang chuyển hướng sang một chiến lược yếu hơn và tất nhiên, điều đó khiến họ mất EV,
nhưng sai lầm của họ cũng khiến Hero mất EV (-4,5bb/100) nếu Hero tiếp tục chơi GTO. Ngay cả
BB là người chiến thắng lớn nhất trong tình huống này vì anh ta đang kiếm được tất cả các
khoản EV phát sinh. Tuy nhiên, nếu chúng ta xem xét các trò chơi trong tương lai thì trung bình,
Hero sẽ ở vị trí BB thường xuyên SB. Do đó, Hero cũng sẽ có thể kiếm được lợi nhuận từ sự sơ
hở của người chơi chặt chẽ này.
Kết luận
Có một chiến lược GTO cốt lõi đúng đắn và hiểu biết chuyên sâu về lý thuyết GTO là chìa khóa
để đánh bại poker hiện đại và cực kỳ cần thiết trong các trò chơi khó nhằn.
Tuy nhiên, GTO không nhằm thay thế tư duy phản biện. Bất kể chiến lược GTO có tốt đến
đâu, người chơi phải luôn nhận thức được sự chống đối và chủ động tích cực suy nghĩ về mọi
hành động trong suốt ván bài.
Ngay cả trong các ván đối đầu khi mà chơi GTO đảm bảo khả năng bất bại, người chơi vẫn có
thể thực hiện các điều chỉnh mang tính khai thác để tận dụng thêm sai lầm của đối thủ. Đối với các
tình huống nhiều người tham gia, GTO đưa ra các chiến lược gần như không thể khai thác được
có thể được sử dụng làm điểm khởi đầu nhưng hoàn toàn không phải là câu trả lời cuối cùng và
không nên tuân theo một cách mù quáng. Việc hiểu và kết hợp các khái niệm GTO sẽ cải thiện
chiến lược của bạn và khiến bạn khó bị đánh bại hơn rất nhiều, cũng như giúp bạn khai thác tốt
hơn điểm yếu của đối thủ. GTO là một công cụ mạnh mẽ trong kho vũ khí của người chơi poker
nhưng không phải là công cụ duy nhất.
Coi size pot là 1 và đặt tất cả các khoản bet dưới dạng một phân số so với pot giúp tính toán dễ
dàng hơn. Ví dụ: nếu pot là $60 và một người chơi bet $20, thì size bet của anh ta dưới dạng phân
số so với pot là 1/3-pot hoặc 0,33 pot.
Ví dụ
Nếu bạn bet nửa pot với range phân cực ở river, bạn đang đưa cho đối thủ 25% odds để call (3 trên
1). Range của bạn nên có 75% bet value và 25% bluffs (3 trên 1). Lệnh bet của bạn cần phải hiệu
quả 33% (Alpha) thời gian để có được lợi nhuận tức thì. Đối thủ của bạn phải bảo vệ được 67%
(1-Alpha) range của mình để có thể bàng quan với những cú bluffs không equity của bạn.
PHẦN MỀM
POKER HIỆN
ĐẠI
Các chương trình máy tính và ứng dụng đã chiếm lĩnh xã hội hiện đại. Giờ đây, bạn có thể tìm
thấy các ứng dụng làm được nhiều thứ, bao gồm chơi game, mạng xã hội, giao tiếp, fitness, sức
khỏe, yoga, thiền, nấu ăn, học ngôn ngữ mới, chơi nhạc và video và thậm chí cả hẹn hò! Bất kể
nhu cầu của bạn là gì, vẫn có cơ hội tốt để bạn có thể tìm thấy một ứng dụng có thể đáp ứng được
điều đó và nếu không thể, bạn có thể chắc chắn rằng có ai đó ở đâu đó trên thế giới đang phát triển
nó ngay bây giờ.
Thế giới chúng ta đang sống đã thay đổi, và cùng với đó là poker như chúng ta đã biết. Khi công
nghệ ngày càng phát triển, các công cụ được người chơi poker sử dụng để phân tích và nghiên cứu
trò chơi ngày càng trở nên tinh vi hơn. Trong chương này, chúng tôi sẽ phân tích một số chương
trình và ứng dụng quan trọng nhất được người chơi poker sử dụng để cải thiện chiến lược của họ,
theo kịp sự phát triển hiện đại và đánh bại đối thủ của họ.
Công cụ tính equity đã có chặng đường phát triển dài kể từ năm 2008 khi lần đầu tiên PokerStove
được phát hành. Hồi đó, máy tính chưa được đánh bóng và cung cấp chức năng cực kỳ hạn chế.
Giờ đây, các công cụ tính toán equity như Power Equilab (power-equilab.com) cung cấp nhiều
tính năng vượt xa các phép equity đơn giản, bao gồm đồ thị equity, heatmaps, phân tích range và
hơn thế nữa.
◆ Quá trình nhập các range và tính toán equity thì trực quan và dễ sử dụng
Nhược điểm
◆ Các phép tính hạn chế cho equity và những tính toán đơn giản
Ưu điểm
◆ Lọc các hand bài ở sau flop theo các mục turns và rivers
◆ Dễ sử dụng
Nhược điểm
◆ Hầu như chỉ hiệu quả khi phân tích các trận đối đầu
Sơ đồ quyết định EV
Với một công cụ sơ đồ quyết định EV như Card Runners EV (cardrunnersev.com) bạn có thể tạo
ra sơ đồ quyết định cho thấy những hành động của người chơi và tính EV tại mỗi thời điểm quyết
định.
Ưu điểm
◆ Khả năng tạo ra sơ đồ quyết định (sử dụng ngôn ngữ lập trình để tự động hóa
các tác vụ)
Nhược điểm
◆ Yêu cầu mức độ nhập thông tin đầu vào của người dùng lớn, bao gồm range của
người chơi ở mọi điểm quyết định, pot size, bet-sizes, raise sizes, và stack depths
◆ Tạo sơ đồ và phân tích chiến thuật có thể rất tốn thời gian
◆ Yêu cầu hiểu biết về toàn bộ chiến thuật của đối thủ hoặc cách sử dụng một vài
giả định để tính EV
◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức liên tục
Tuy nhiên, nó không hỗ trợ chơi ở post-flop, vì vậy nếu bạn cố gắng tính toán range cho các
stacks đủ lớn để có những size bet không phải all-in, bạn sẽ buộc phải áp dụng các hành động tuỳ
ý. Bạn có thể loại bỏ hoàn toàn các tùy chọn của người chơi để call những cú raise không phải all-
in hoặc cho phép call, nhưng giả sử sẽ không có khoản bet nào sau khi flop được chia, khi cả hai
người chơi đều check hand của họ. Cả hai cách tuỳ ý đều tạo ra các chiến lược pre-flop không
chính xác. Việc loại bỏ tùy chọn call sẽ gây tổn hại cho những người chơi phòng thủ bằng cách
buộc họ chơi các ranges chặt chẽ hơn, vì vậy máy tính đề xuất các ranges để open rộng hơn thay
vì tối ưu và thiên về việc có những lá bài chặn tốt, trong khi bỏ qua khả năng chơi ở post-flop.
Việc check ở post-flop có lợi cho người chơi call vì tất cả các ván bài biên của họ sẽ ghi nhận
100% equity của họ, điều này dẫn đến ranges để call rộng hơn thay vì tối ưu. Cả hai tùy chọn đều
hạn chế các ứng dụng của máy tính Nash đối với những stack lớn trong poker và làm cho chúng
chỉ phù hợp với các tình huống all-in/fold.
Ưu điểm
◆ Rất hiệu quả khi tính toán những cú shoves không thể khai thác được
◆ Mô hình Chip (ICM) độc lập và Mô phỏng Trò chơi Tương lai (FGS) cho SNGs
và MTTs
Nhược điểm
Kể từ chiến thắng của Deep Blue, AI đã có những bước tiến lớn để hướng tới thất bại cuối cùng
của nhân loại. Vào năm 2015, AlphaGo, một AI được phát triển bởi Deep Mind, công ty hàng đầu
thế giới về nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, đã trở thành chương trình cờ vây máy tính đầu tiên đánh
bại một kỳ thủ cờ vây chuyên nghiệp của con người trên bàn cờ kích thước đầy đủ 19X19. Vào
tháng 5 năm 2017, AlphaGo đánh bại Ke Jie, kỳ thủ xếp hạng số 1 thế giới vào thời điểm đó. Trò
chơi cờ vây có thứ tự cường độ là 10170. Cùng năm đó, Deep Mind cũng phát hành AlphaZero,
một trò chơi cờ vua và shogi AI đã làm điên đảo thế giới, đạt được trình độ chơi siêu phàm trong
vòng 24 giờ sau khi phát hành và đánh bại các chương trình vô địch thế giới Stockfish và Elmo.
Trò chơi cờ vua có thứ tự cường độ là 1047 và shogi có thứ tự cường độ là 1071. Tuy nhiên, đánh
bại những kỳ thủ giỏi nhất của con người không giống như giải quyết trò chơi. Một AI có thể đủ
tốt để đánh bại những con người giỏi nhất, nhưng sau đó một AI khác có thể phát triển một chiến
lược thậm chí còn tốt hơn và đánh bại AI trước đó. Chu kỳ này có thể tiếp tục mãi mãi. Giải một
trò chơi bao gồm việc tính toán một giải pháp tối ưu về lý thuyết trò chơi (GTO) không thể thua
bất kỳ đối thủ nào trong một trò chơi công bằng.
Cho đến nay, mọi trò chơi được chơi cạnh tranh bởi con người đã được giải là một trò chơi có
thông tin đầy đủ. Trong các trò chơi thông tin đầy đủ như cờ vua hoặc cờ caro, mỗi người chơi có
thể nhìn thấy tất cả các quân cờ của bàn cờ mọi lúc. Trong các trò chơi thông tin không đầy đủ
như poker, lá bài của người chơi bị ẩn khỏi những người chơi khác. Giải các trò chơi này yêu cầu
mức độ khó cao hơn.
Trò chơi cờ caro có 5 X 1020 nước đi và được giải hoàn toàn vào năm 2007 bởi Giáo sư Jonathan
Schaeffer. Heads-Up Limit Hold’em (HULHE) là biến thể nhỏ nhất của poker được chơi cạnh
tranh bởi con người. HULHE có 3.19 X 1014 điểm quyết định. Mặc dù ít hơn cờ caro, nhưng bản
chất thông tin không đầy đủ của HULHE khiến nó trở thành một trò chơi khó hơn rất nhiều đối
với máy tính để chơi và giải.
Vào ngày 30 tháng 1 năm 2017, AI Libratus do Carnegie Mellon phát triển đã đánh bại các
chuyên gia Head-Up No-Limit Hold’em (HUNLHE) hàng đầu của con người trong một thử thách
120.000 ván bài.
HUNLHE bao gồm 10160 tình huống, nhiều hơn số nguyên tử trong vũ trụ (1082). AI yêu cầu
một cụm siêu máy tính bao gồm 600 nút, mỗi nút có 28 lõi sức mạnh xử lý và tổng cộng 2,7
petabyte dữ liệu, để hoàn thành nhiệm vụ và đánh bại người chơi là con người.
cmu.edu/news/stories/archives/2017/january/AI-beats-poker-pros.html
Các bots poker ngày càng thông minh hơn mỗi ngày, nhưng với sức mạnh tính toán hiện tại vẫn
còn một số hạn chế đối với những gì chúng có thể làm, đặc biệt là trong các tình huống nhiều
người chơi với size bet vô hạn và nhiều stack lớn trong các trò chơi bet lớn như NLH và PLO.
Trong khi HULHE đã được giải hoàn toàn và Libratus đã đủ tốt để đánh bại những người chơi
hàng đầu của con người trong HUNLHE, các biến thể poker khác bao gồm các giải đấu, cash game
bàn 6 người và 9 người vẫn chưa được giải quyết hoàn toàn.
Mặc dù vẫn chưa tìm ra giải pháp đầy đủ cho các trò chơi hold’em với nhiều hơn hai người
chơi, nhưng các trò chơi phức tạp có thể được chia thành các phần nhỏ hơn, dễ giải quyết hơn. Với
việc sử dụng các bộ giải hiện đại, siêu máy tính, size bet giới hạn và áp dụng chính xác các chiến
lược tuỳ ý, có thể tính toán các giá trị gần đúng cho cách chơi No-Limit hold’em GTO.
Ưu điểm
◆ Nhanh và dễ sử dụng
◆ Cung cấp khả năng nhập lịch sử ván bài từ các trò chơi trực tuyến và đánh giá chúng
dựa trên các chiến lược AI
◆ Người dùng có thể chơi các thử thách, nhận số liệu thống kê và đánh giá lỗi
Nhược điểm
◆ AI không thể lý giải tại sao nó làm, cái gì nó làm và kết quả không thể kiểm chứng
◆ Các chiến thuật thay đổi theo thời gian, khiến cho việc học từ đó trở nên khó khăn
Bộ giải GTO
Bộ giải là máy tính Nash Equilibrium cho cách chơi ở pre-flop và post-flop. Có một số loại có
sẵn trên thị trường và chúng cung cấp các đặc điểm khác nhau. Tại thời điểm được tạo ra, hầu hết
những bộ giải thương mại có thể tính toán các chiến lược Nash Equilibrium cho các tình huống
post-flop của Limit và No- Limit Hold’em với range và size bet tùy ý trong bất kỳ thời điểm đối
đầu nào với mức độ chính xác rất cao (khả năng khai thác thấp).
Một số bộ giải có thể tính toán Nash Equilibrium ở pre-flop và post-flop cho các tình huống
nhiều người chơi, và một bộ giải thậm chí có thể giải cho các trò chơi lớn hơn như Omaha có pot
hạn chế.
Nhận định rằng một chiến lược là GTO hoặc rất gần giống với nó phải được sao lưu bằng cách
nào đó. Như đã nói trước đây, giải pháp hoàn chỉnh cho một trò chơi như NLH chưa được tìm
thấy, vì vậy nếu một người tuyên bố có giải pháp GTO cho điểm poker nhất định, thì phải có một
cách khoa học và toán học để xác minh khẳng định này, nếu không thì bất kỳ ai cũng có thể tuyên
bố đã giải được và chơi GTO.
Nash Distance
Ɛ-Nash hoặc Cân bằng Epsilon là một công cụ gần với chiến thuật Nash Equilibrium giúp thoả
mãn một cách tương đối những điều kiện của cân bằng Nash. Chiến lược cân bằng Nash tối đa hóa
tiện ích Ɛ đôi khi còn được gọi là khoảng cách Nash, vì nó có thể được sử dụng để xác minh mức
độ giống của bất kỳ chiến lược nào so với Cân bằng Nash ngay cả khi không biết trạng thái cân
bằng thực sự trông như thế nào.
Khi bạn đã có một đôi chiến lược mà bạn nghĩ là GTO, quá trình tính toán khoảng cách Nash
khá đơn giản. Đầu tiên, bạn tính EV của cả hai người chơi, sau đó bạn tính MES của Người chơi 1
so với Người chơi 2, xem EV này tăng lên bao nhiêu và gọi độ tăng EV của P1 là Ɛ1, sau đó bạn
làm tương tự cho Người chơi 2. Tính MES của họ so với Người chơi 1, xem EV này tăng lên bao
nhiêu và gọi nó là Ɛ2.
Số lớn nhất giữa Ɛ1 và Ɛ2 là Khoảng cách Nash. Nếu con số này là 0, thì bạn đang ở trạng thái
Cân bằng Nash chính xác và cặp chiến lược là GTO đúng. Nếu con số này lớn, nghĩa là bạn đang
ở rất xa GTO và nếu bạn ở gần GTO thì nó sẽ nhỏ.
Hầu hết các bộ giải GTO hiện đại đưa ra khoảng cách Nash cho lời giải của nó. Ví dụ:
PioSOLVER đưa ra Khoảng cách Nash dưới dạng % đối với pot và nó có thể được sử dụng để
thiết lập độ chính xác mong muốn để người giải hoàn thành việc thực hiện các phép tính. Thông
thường, thời gian chạy bất kỳ giải pháp GTO nào càng nhiều, thì Ɛ nhận được càng thấp. Thật
không may, hầu hết các bộ giải GTO sẽ bị trả lại sau khi Ɛ rất nhỏ vì chúng không thể đạt được
cách chơi GTO hoàn hảo. Một khi Ɛ là rất nhỏ, sẽ không thực tế nếu mong đợi bất kỳ đối thủ nào
có thể khai thác bạn với số tiền đó, vì trước tiên nó sẽ yêu cầu bạn chơi từng combo trên mỗi nút
chính xác như bộ giải thực hiện, sau đó cho phép đối thủ biết chính xác chiến lược của bạn tại mọi
thời điểm quyết định và tính toán MES so với chiến lược Ɛ-GTO của bạn. Trên hết, đối thủ sẽ cần
thực hiện MES của họ một cách hoàn hảo để có thể khai thác tất cả EV có thể từ bạn. Vì vậy, khá
an toàn khi cho rằng không ai có thể khai thác bạn vì Ɛ, và bạn không nên lo lắng về điều đó.
Trong thực tế, khi Ɛ còn nhỏ, Ɛ-GTO không khác gì để giúp hoàn thiện GTO cho người chơi.
Cá nhân tôi thích thực hiện các cách giải GTO ở flop của mình với độ chính xác là 0,35% pot.
Khi range ngày càng rộng, SPR tăng và độ phức tạp của sơ đồ quyết định tăng lên, càng khó đạt
được khoảng cách Nash thấp và mất nhiều thời gian hơn để thực hiện tính toán. Đối với mô phỏng
PioSOLVER ở pre-flop, các range ở pre-flop sẽ được đưa ra nhanh hơn rất nhiều so với post-flop.
Hầu hết khả năng khai thác của bản mô phỏng sẽ đến từ cách chơi lá river, do đó, ngưỡng có thể
được hạ xuống và khả năng khai thác có thể được đo bằng bb/100. Ngưỡng mà tôi thích cho mô
phỏng PioSOLVER ở pre-flop là 3,5bb/100.
Ở các bộ giải khác như MonkerSolver, hầu hết khả năng khai thác đến từ việc chơi post-flop
dưới mức tối ưu do sự tuỳ ý ở post-flop. Không rõ bao nhiêu trong số này ảnh hưởng đến các range
ở pre-flop, vì vậy câu hỏi về mức độ khai thác của các range ở pre-flop như thế nào, khi mà cách
chơi ở post-flop đã tối ưu, là không thể trả lời. Tôi đã xem xét một số tiêu chuẩn và so sánh cả mô
phỏng ở pre và post-flop của Monker, Pio và một bộ giải GTO riêng mà nhóm của tôi đang làm
việc và nhận thấy các chiến lược gần giống nhau khi sử dụng các bộ giải có độ đặt tuỳ ý cao. Trước
khi PioSOLVER trở thành chủ đạo, tôi cũng đã xem xét rất nhiều tiêu chuẩn và kiểm tra kết quả
của nó với các công cụ khác, chẳng hạn như CardRunners EV và Máy tính all-in/fold Nash như
HRC, và nhận thấy rằng kết quả phù hợp với kiến thức và lý thuyết trước đó.
Nói chung, ngay cả khi trò chơi poker chưa được giải quyết hoàn toàn, tôi tin tưởng rằng các
chiến lược rút ra từ quá trình làm việc với bộ giải GTO là rất chính xác và có thể được sử dụng để
nâng cao hiểu biết của chúng tôi về trò chơi poker, giúp chúng tôi đưa ra quyết định tốt hơn tại các
bàn chơi mà cuối cùng được chuyển thành EV.
PioSOLVER
PioSOLVER (piosolver.com) là bộ giải phổ biến nhất trên thị trường. Nó giải được các chiến lược
cân bằng HUNLHE với range bắt đầu, size stack và size bet tuỳ ý với độ chính xác mong muốn
(khả năng khai thác).
Ưu điểm
◆ Tổng hợp các tính năng báo cáo và phân tích tần suất
◆ Khả năng tương thích cao với các công cụ poker khác
Nhược điểm
◆ Lúc đầu, giao diện người dùng có thể gây choáng ngợp nhưng sau khi hiểu rõ, việc điều
hướng trở nên đơn giản
◆ Các phép tính GTO có thể mất nhiều thời gian để hoàn thành, tùy thuộc vào kích thước
của sơ đồ quyết định, độ lớn của stack và range đang chơi
◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức liên tục. Sử dụng nó một cách hiệu quả đòi
hỏi một số kiến thức về poker.
◆ Yêu cầu phần cứng cao. Độ phức tạp của các giải pháp bị giới hạn bởi khả năng của máy
tính, vì vậy nó có thể yêu cầu nâng cấp hệ thống để chạy mô phỏng những stack lớn với
nhiều size bet, đặc biệt nếu sử dụng bộ giải pre-flop.
◆ Chỉ thực hiện giải phù hợp cho các tình huống đối đầu
◆ Lưu mô phỏng đầy đủ yêu cầu nhiều dung lượng lưu trữ dữ liệu, vì vậy để tiết kiệm
dung lượng đĩa, các tệp Pio có thể được lưu mà không có chiến lược ở river, sau đó sẽ
◆ Việc thiết lập mô phỏng một cách chính xác có thể khó khăn, đặc biệt là đối với người
dùng mới. Tuy nhiên, khi mô phỏng đã bắt đầu, việc duyệt các giải pháp khá dễ dàng
và trực quan.
MonkerSolver
MonkerSolver (monkerware.com) là một trong những bộ giải linh hoạt nhất trên thị trường. Nó có
thể giải Hold’em và Omaha từ mỗi vòng chơi, với bất kỳ số lượng người chơi nào sử dụng các kỹ
thuật tuỳ ý để giảm kích thước trò chơi.
Ưu điểm
◆ Giải quyết các tình huống NLH và PLO đa chiều phức tạp. Tuy nhiên, khả năng giải
quyết các trò chơi lớn hơn và phức tạp hơn đi kèm với một cái giá phải trả. Việc sử dụng
các yếu tố tuỳ ý để giảm kích thước trò chơi tạo ra các giải pháp kém chính xác hơn.
◆ Khả năng xuất thủ công các range sang các công cụ khác ở các định dạng khác nhau
Nhược điểm
◆ Yêu cầu người sử dụng phải trau dồi kiến thức rất thường xuyên
◆ Yêu cầu phần cứng dung lượng cao. Máy tính được sử dụng để chạy mô phỏng Monker
càng mạnh thì các cài đặt tuỳ ý có thể được sử dụng càng tốt và do đó các giải pháp
chính xác hơn. Điều này buộc người dùng phải xây dựng các siêu máy tính hoặc thuê
các máy chủ lớn để chạy các giải pháp có độ chính xác cao.
◆ Qúa trình xây dựng sơ đồ chiến lược có thể tẻ nhạt và tốn thời gian
◆ Xây dựng chiến lược ở pre-flop có thể mất hàng tuần để hoàn thành, phụ thuộc vào kích
thước của sơ đồ
◆ Thiếu khả năng chạy các báo cáo tổng hợp (tổng hợp dữ liệu qua nhiều lần lặp lại)
Ưu điểm
◆ Cung cấp các chiến lược GTO có độ chính xác cao được xây dựng cẩn thận do các
chuyên gia phát triển bằng cách sử dụng các bộ giải GTO tư nhân và thương mại
tiên tiến nhất
◆ Đưa ra giải pháp theo thời gian thực, vì vậy không cần đợi tính toán hoàn thành
◆ Kho tàng giải pháp lớn phát triển theo thời gian
◆ Các giải pháp cho những cash game có rake tuỳ chỉnh
Nhược điểm
◆ Không thể tính toán các chiến lược khai thác chống lại những người chơi yếu kém
(chương trình chỉ cung cấp chiến lược cốt lõi của GTO)
◆ Giới hạn đối với các giải pháp GTO được tính toán trước, vì vậy người dùng không thể
thực hiện các phép tính tùy chỉnh
Tôi đưa ra tất cả các công cụ này và hướng dẫn bạn cách sử dụng chúng trong loạt video đào
tạo của tôi có trên D&B Poker tại dandbpoker.com/book/modern-poker-theory.
LÝ THUYẾT VỀ
CÁCH CHƠI TẠI
PRE-FLOP
Range pre-flop chính là xương sống của poker. Bất cứ khi nào bạn mắc lỗi trong một ván bài, tức
là cách chơi của bạn đang mắc lỗi, nghĩa là lỗi sẽ được tiếp tục và sẽ ảnh hưởng đến quyết định
trong tương lai. Một sai lầm ở pre-flop có thể chuyển thành một sai lầm flop, một sai lầm turn và
cuối cùng là một sai lầm river. Ngay cả khi bạn nhận ra mình đã mắc sai lầm trên một vòng đặt
cược sớm hơn, bạn có thể khó bù đắp cho nó sau này.
Blinds và Antes
Nếu không có blind và antes, người chơi sẽ vui vẻ chờ đợi để được chia AA, hoặc stack đủ nhiều,
những ván bài có pot odd/implied odd để đánh bại AA. Blind khuyến khích người chơi tranh giành
số tiền trong pot, và do đó, chơi nhiều ván bài hơn. Lý do người chơi chơi các ván bài khác với
AA là vì có tiền trong pot để thắng.
Tỉ lệ thắng
Lợi thế về kỹ năng hoặc mức độ thiếu hụt kỹ năng của một người chơi trong một nhóm có thể được
đo bằng số lượng người chơi thắng hoặc thua lớn trên 100 ván bài. Người chơi có lợi thế nhiều
hơn đối thủ, tỷ lệ thắng của họ càng cao. Nếu tất cả những người chơi trong bàn đều có kỹ năng
như nhau, tỷ lệ thắng của họ sẽ bằng 0 và trong các trò chơi có rake, tất cả họ sẽ thua dù nhà cái
đặt rake là bao nhiêu.
Tại bàn cash 6 người (không có ante), có 1,5 big blind trong pot mỗi ván bài, hoặc 150BB mỗi
100 ván bài (150bb/100). Hãy tưởng tượng một tình huống mà tất cả mọi người đều sợ khi chơi
với bạn và bất cứ khi nào bạn raise lên, đối thủ của bạn sẽ fold bài mỗi lần, kể cả AA. Trong trường
hợp đó, không có lý do gì để bạn không raise tất cả các ván bài với hai lá bài bất kỳ, đạt được tỷ lệ
thắng của toàn bộ tiền cược là 150bb/100. Chúng tôi biết rằng một tình huống như vậy là không
thể xảy ra và, bất kể bạn là ai, có một số ván bài sẽ không có người chơi nào chịu fold. Quan trọng
hơn, có những ván bài, họ có khả năng sẽ raise lại (điều này sẽ buộc bạn phải fold một số ván bài
và mất equity của họ trong pot) và vì vậy chúng tôi có thể kết luận rằng không người chơi nào có
thể đạt được tỷ lệ thắng của toàn bộ tiền cược (150bb / 100 ).
Nếu không người chơi nào có thể đạt được tỷ lệ thắng của toàn bộ tiền, làm thế nào bạn có thể
tìm ra phần tiền mà bạn có thể có được? Hay nói cách khác, làm thế nào để bạn xác định được tỷ
lệ thắng của mình?
Tỷ lệ thắng của người chơi online khá dễ tính bằng cách sử dụng phần mềm theo dõi. Sau khi
chơi 100.000 ván bài, người chơi bắt đầu biết tỷ lệ thắng thực tế của họ trông như thế nào, nhưng
cần có ít nhất 1.000.000 ván bài mẫu mới có ý nghĩa thống kê. Người chơi cash offline có thể ước
tính về tỷ lệ thắng tổng thể của họ trong một khoảng thời gian bằng cách sử dụng công thức sau:
Ví dụ, nếu một người chơi khoảng 300 ván bài trong một phiên poker kéo dài 10 giờ và chơi
năm ngày mỗi tuần, bốn tuần mỗi tháng, họ sẽ được chia khoảng 6.000 ván bài mỗi tháng hoặc
Tỷ lệ thắng có xu hướng cao hơn rất nhiều trong trò chơi trực tiếp so với trò chơi trực tuyến vì
trò chơi trực tiếp hầu như luôn nhẹ nhàng hơn so với trò chơi trực tuyến. Sòng bạc thu hút tất cả
các loại người chơi giải trí muốn đánh bạc, giao lưu và vui chơi. Những người chơi này không có
nhiều nền tảng về poker, dẫn đến những người chơi tốt sẽ có tỷ lệ thắng cao hơn.
Người chơi trực tiếp cũng thiếu kinh nghiệm hơn so với người chơi trực tuyến. Nếu một người
chơi trực tiếp chơi trung bình 300 ván bài mỗi ngày thì sau một năm, họ sẽ chơi được 72.000 ván
bài. Còn các phòng poker trực tuyến cung cấp khả năng chơi nhiều lần, cho phép người chơi chơi
hai, bốn, sáu, 10 hoặc thậm chí 20 bàn cùng một lúc. Điều này, kết hợp với tốc độ nhanh hơn của
phần mềm chia bài so với tốc độ của người chia bài và quỹ thời gian hạn chế để đưa ra quyết định,
dẫn đến số lượng ván bài trực tuyến tăng theo cấp số nhân. Một người chơi trực tuyến thông thường
có thể dễ dàng chơi 3.000 ván bài trong một ngày hoặc 720.000 ván bài trong một năm. Trong một
năm, một người chơi trực tuyến sẽ chơi nhiều ván bài poker như một người chơi trực tiếp sẽ chơi
trong 10 năm! Tất nhiên, có những yếu tố khác xuất hiện và không nhất thiết tất cả người chơi trực
tuyến đều tốt hơn người chơi trực tiếp, nhưng chỉ sự khác biệt này là quá đủ để khiến người chơi
trực tuyến trung bình trở nên khó khăn hơn nhiều so với người chơi trực tiếp trung bình.
Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn là trung bình của tỷ lệ thắng bạn có ở mỗi vị trí của bàn. Ở bàn chơi
6 người, nếu pot được chia đều cho cả sáu vị trí, tỷ lệ thắng ở mỗi vị trí sẽ là 25b / 100, nhưng, như
Tỷ lệ thắng ở blind luôn luôn âm. BB bắt đầu bài bằng 1bb và SB là 0,5bb, vì vậy tỷ lệ thắng
của họ bắt đầu lần lượt là -100bb / 100 và -50bb / 100. Khởi đầu với một bất lợi như vậy, cho dù
một người chơi có giỏi đến đâu thì tỷ lệ thắng của họ ở các vị trí đặt cược cũng không bao giờ có
thể tốt bằng các vị trí khác. BN có tỷ lệ thắng cao nhất vì vị trí đó được chơi các ván bài có lợi
nhất. Tỷ lệ thắng giảm khi vị trí di chuyển khỏi BN.
Hầu hết người chơi đều mất tiền khi chơi poker. Đó là một sự thật. Bạn phải thực sự giỏi mới
có thể hòa vốn bởi vì bạn phải phục hồi -150bb / 100 mà bạn thua người mù mỗi vòng, cũng như
tiền rake của nhà cái.
Tùy thuộc vào stake mà bạn chơi và trang web chơi, rake thường sẽ là từ 5 đến 10bb mỗi 100
ván bài. Phần mềm theo dõi poker có thể được sử dụng để tìm ra số tiền rake chính xác, cũng như
ảnh hưởng của nó đối với tỷ lệ thắng. Thông thường, đặc biệt là trong các micro stake, mức rake
cao đến mức ngay cả những người chơi mạnh cũng không thể giành chiến thắng, vì vậy lời khuyên
của tôi cho tất cả người chơi là hãy xem xét kỹ cấu trúc rake của từng trang web (cũng như các
giao dịch và chương trình VIP) trước khi quyết định chơi ở đâu. Rake cao hơn không bao giờ có
lợi cho người chơi bởi vì nó chỉ có nghĩa là nhiều tiền hơn được lấy đi từ các bàn và vào túi của
Vì vậy, người chơi có thể làm gì để tối đa hóa tỷ lệ thắng của họ và có thể đánh bại người chơi
và rake?
Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn là tổng số EV của tất cả các ván bài mà bạn đã được chia ở tất cả
các vị trí và các hành động bạn đã thực hiện với chúng. Vì vậy, cách để tối đa hóa tỷ lệ thắng tổng
thể của bạn đơn giản là luôn thực hiện hành động EV cao nhất với mỗi ván bài mà bạn được chia
ở mọi thời điểm quyết định.
EV có thể được biểu thị giống tỷ lệ thắng ở bb / 100 và chúng ta biết rằng EV của fold là 0, vì
vậy người chơi chỉ nên chơi ván bài khi các hành động mà họ có thể thực hiện có tỷ lệ thắng không
âm.
Ví dụ
9-max MTT (12.5% ante), stack hiệu dụng 20bb. Fold đến SB, người có 4 lựa chọn. All-in với
20bb, raise 2.5bb, limp hay fold. Chúng ta biết rằng EV của việc fold là 0. Hãy cùng xem xem tỉ
lệ thắng của cả 4 hành động đó như thế nào (Table 16).
Theo bảng, hành động tốt nhất để thực hiện với AA là nâng lên 2.5bb, AJo nên đẩy 20bb, Q7
nên limp và cho ất cả hành động khi cầm 72o có tỷ lệ thắng âm, nó nên được fold.
Tỷ lệ thắng tổng thể của bạn trong SB khi hành động fold lại cho bạn là 88bb / 100 (Table 17).
Đó chỉ đơn giản là EV tổng hợp của từng hand trong số 1.326 hand có thể có. Các hand có EV
âm sẽ được fold và có 0 EV, và tất cả các hand khác sẽ có EV bằng hành động EV cao nhất. Nếu
bạn chọn bất kỳ hành động nào khác ngoài EV cao nhất cho mỗi ván bài so với đối thủ GTO, tỷ
lệ thắng của bạn tại chỗ chỉ có thể giảm xuống.
Ví dụ, nếu bạn chọn all-in với 72o, trung bình bạn sẽ mất -63bb / 100. Tất cả với AA là + EV,
nhưng không phải là cách chơi EV cao nhất. Trên thực tế, all-in với AA là -136bb / 100 tệ hơn
raise 2.5bb, vì vậy sai lầm này thậm chí còn tồi tệ hơn so với push 72o. Điều rất quan trọng là bạn
không mắc phải sai lầm phổ biến khi nghĩ rằng chỉ vì một lượt chơi + EV thì đó là lượt chơi chính
xác.
Mọi hành động luôn phải được so sánh với tất cả các khả năng khác trước khi quyết định
chơi.
Bạn càng chơi có lợi nhuận nhiều ván bài và lợi nhuận trung bình của mỗi ván bài càng cao thì
tỷ lệ thắng của bạn càng cao. Mỗi quyết định bạn đưa ra trên mỗi ván bài sẽ làm tăng hoặc giảm
tỷ lệ thắng chung của bạn. Trong các cash game, tỷ lệ thắng tỷ lệ thuận với lợi nhuận của người
chơi trong các trò chơi (như trong Table 18), nhưng trong các giải đấu không phải lúc nào cũng
vậy vì giá trị của chip không tỷ lệ thuận với giá trị đô la của chúng. Chúng ta sẽ thảo luận về các
giải đấu sau trong chương Lý thuyết Giải đấu. Điều đó nói rằng, tỷ lệ thắng vẫn có thể khá hữu
ích cho những người chơi tham gia giải đấu vì chúng nói lên rất nhiều về kỹ năng của người chơi
và có thể được sử dụng để tìm ra các lỗ hổng khi tỷ lệ thắng thấp hơn mong đợi.
Table 18: Ví dụ về các trường hợp Cash Games sau 1,000,000 Hand chơi ở các Stakes kháu
nhau
Mặc dù sự khác biệt về tỷ lệ thắng có vẻ nhỏ, nhưng chúng nhanh chóng lớn hơn khi stake tăng
lên. Nếu tỷ lệ thắng cao hơn dẫn đến tiền thắng cao hơn, mục tiêu của bạn, với tư cách là một
người chơi poker, phải tăng tỷ lệ thắng của mình nhiều nhất có thể bằng cách liên tục lấy điểm +
EV và tránh điểm -EV. Về lâu dài, những người chơi đưa ra quyết định tốt nhất trung bình sẽ nhận
toàn bộ số tiền và những người chơi mắc lỗi nhiều nhất chắc chắn sẽ thua cuộc.
Phần này sẽ so sánh hai trong số các tình huống pre-flop đơn giản nhất để hiểu giá trị của việc
có các lựa chọn chiến lược khác nhau và chơi các chiến lược phức tạp.
Hai tình huống được mô tả rất giống nhau. Hero ở SB trong cả hai, nhưng Tình huống 1 là trò
chơi 3 người nên Hero là OOP so với BB trong khi Tình huống 2 là đối đầu với BB, nghĩa là Hero
ở BN và sẽ có IP. Nếu cả hai người chơi đều chơi chiến thuật chỉ allin/fold mà không chơi post
flop, thì các tình huống sẽ tương đương nhau. Tuy nhiên, nếu chúng tôi giải quyết vấn đề bằng
cách sử dụng các bộ giải pre-flop hiện đại và cung cấp cho người chơi các tùy chọn chiến lược bổ
sung như limp và khả năng sử dụng các cách raise khác nhau ngoài all-in, chúng ta có thể so sánh
các tình huống khác nhau và cố gắng có được một số thông tin chi tiết về giá trị của các lựa chọn
chiến lược khác nhau và cách chúng bị ảnh hưởng bởi vị trí.
Chúng tôi thấy rằng bằng cách chơi một chiến lược phức tạp hơn so với allin/fold, Hero chiếm
được một phần tiền pot lớn hơn, thêm 4,62% pot (7b / 100) khi ở ngoài vị trí và 14,6% tiền (22b /
100) khi có vị trí. Với các stack ít, tổn thất EV khi áp dụng chiến lược chỉ allin/fold là rất nhỏ,
nhưng khi stack lớn hơn và đặc biệt là khi có vị trí, giá trị của các tùy chọn chiến lược khác sẽ tăng
lên. Chơi một chiến lược phức tạp hơn so với allin/fold sẽ mang lại cho Hero phần thưởng cao hơn
Tần suất fold của Hero là cao nhất khi chơi allin/fold (Table 20), có nghĩa là chiến lược này giới
hạn số lượng ván bài mà Hero có thể chơi có lãi, đặc biệt khi stack lớn hơn. Ngược lại, tần suất
fold sẽ thấp hơn khi chơi một chiến lược phức tạp hơn, đặc biệt là khi có vị trí.
Table 21
Table 22
Limp được sử dụng thường xuyên hơn 42,51% khi Hero IP so với OOP, trở thành chiến lược
thống trị (Table 23). Lưu ý rằng cách limp trở nên quan trọng hơn đối với SB khi stack lớn hơn
nhưng vẫn tương đối không đổi đối với BN. Điều này có nghĩa là khi Hero IP, việc limp gần như
quan trọng ở tất cả các độ lớn stack, và khi Hero OOP, việc limp trở nên có giá trị hơn khi stack
lớn khi Hero mất khả năng đẩy all-in range bài rộng.
Size raise duy nhất mà BN sử dụng là 2bb (tối thiểu). Các size bet khác chỉ được sử dụng khi
Hero ở trong SB, vì vậy chúng ta có thể kết luận rằng size lớn hơn có lợi cho Hero khi OOP, nhưng
không thêm nhiều giá trị khi chơi với có vị trí
Minraising là chiến lược chiếm ưu thế ở stack ít hơn (khi OOP), nhưng bắt đầu với ngăn xếp
15bb, 2,5x trở nên thống trị. 3x bắt đầu được sử dụng ở 20bb và trở nên thống trị ở 25bb (Diagram
Kết luận
Việc có quyền sử dụng nhiều chiến lược hơn làm tăng kỳ vọng của người chơi. Tuy nhiên, một số
chiến lược rất hiếm khi được sử dụng và nó tác động đến EV tổng thể rất nhỏ nên chi phí thực
hiện có thể vượt qua giá trị mà chúng thêm vào. Trên thực tế, việc thêm quá nhiều tùy chọn chiến
lược EV thấp/tần suất thấp vào chiến lược tổng thể của bạn có thể làm tổn hại đến kỳ vọng của
bạn. Chiến lược càng phức tạp thì càng khó thực hiện, vì vậy, trên thực tế, bạn nên cố gắng đơn
giản hóa các chiến lược của mình càng nhiều càng tốt để giảm thiểu sai lầm mà không làm ảnh
hưởng đến kỳ vọng chung của bạn.
Trong ví dụ đầu tiên của chúng tôi, chiến lược đơn giản nhất có thể là allin/fold và nó có thể
được áp dụng cho hầu hết các vị trí có stack 10bb và ít hơn. Khi ở không có vị trí, việc allin vẫn
quan trọng lên đến 17bb, nhưng BN chỉ all-in 3,88% với 15bb, 1,70% với 17bb, 0,69% với 20bb
và 0,06% với 25bb. Vì vậy, chiến lược ở BN có thể được đơn giản hóa để không bao giờ allin với
15bb trở lên và EV tổng thể của BN sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể. Tuy nhiên, chiến lược limp
đang chiếm ưu thế đối với BN, vì vậy bất kỳ chiến lược nào loại bỏ BN limp trong heads-up (đối
đầu) sẽ làm tổn hại đáng kể đến EV tổng thể của nó.
Hệ quả: Nếu chơi với một đối thủ mà chúng ta nghĩ rằng họ có kỹ năng vượt trội, thì việc chơi
một chiến thuật phức tạp chỉ có lợi cho người chơi mạnh hơn vì họ sẽ có khả năng tận dụng tất cả
các lựa chọn tốt hơn bạn. Do đó, chơi một cách chơi đơn giản hơn sẽ giúp giảm bớt lợi thế của đối
thủ này bằng cách giảm thiểu những sai lầm của bạn. Ví dụ: nếu chơi heads-up trong MTT, sẽ
không thành vấn đề nếu bạn đấu với người chơi giỏi nhất thế giới nếu bạn allin pre-flop với AJs vs
TT. Bạn sẽ thắng ~ 50% thời gian, đó là một kết quả tuyệt vời khi đối mặt với một người chơi có
lợi thế hơn hẳn bạn.
Bắt đầu với range pre-flop sẽ giúp cải thiện việc ra quyết định pre-flop. Bằng cách phân tích trò
chơi một cách có hệ thống, những người chơi mạnh sẽ đến các bàn được chuẩn bị với các chiến
lược được tính trước cho các tình huống phổ biến nhất lặp đi lặp lại theo thời gian.
Một range RFI (raise first in – người đầu tiên tham gia ván bài bằng cách raise đầu tiên) ở vị
trí EP bàn 6 người cash game online được miêu tả trong Hand Range 27.
Các range pre-flop được xây dựng bài bản cũng sẽ giúp chơi post-flop dễ dàng hơn, bởi vì chúng
sẽ có độ bao phủ nhất định và khả năng chơi tốt hơn so với các chiến lược ngẫu hứng. Có rất nhiều
thứ để đạt được bằng cách phát triển một chiến lược GTO ở pre-flop. Điều đó nói lên rằng, một
chiến lược pre-flop GTO chỉ nên là điểm khởi đầu. Những người chơi mạnh nhất là những người
có thể thích nghi mọi hoàn cảnh yêu cầu. Một khi bạn đã phát triển các chiến lược cân bằng và
hợp lý cho mình, việc phát hiện ra đối thủ của bạn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều khi không, cho phép
bạn dễ dàng nhận ra khi nào họ không cân bằng và có thể khai thác được.
Cũng giống như trong cờ vua, các quy tắc của poker khá dễ học, nhưng có rất nhiều nguyên tắc
cơ bản chi phối trò chơi. Hiểu được những nguyên tắc đó là chìa khóa thành công. Trong phần tiếp
theo, chúng ta sẽ nghiên cứu các nguyên tắc đó và phát triển chúng để chơi các chiến lược pre-
flop vững chắc nhất.
Mặc dù sức mạnh hand có liên quan đến các thành phần của range khi chơi, nhưng đôi khi nó có
thể hữu ích khi nghĩ về sức mạnh của hand một cách riêng biệt. Đây được gọi là sức mạnh hand
Bài Cao: Các quân bài trên tay của bạn càng cao thì bài đó có xu hướng mạnh hơn. Một hand
có quân Át sẽ mạnh hơn một hand có K còn K sẽ mạnh hơn một hand có Q, v.v.
Đôi: Áp dụng nguyên tắc bài cao cho đôi, theo đó thứ hạng của đôi càng cao thì quân bài càng
mạnh và có giá trị (KK> 55).
Đồng Chất: Nếu tất cả mọi thứ đều bình đẳng, một hand đồng chất sẽ khỏe hơn một hand cọc
cạch. Trước hết, chúng có nhiều equity hơn so với các hand offsuit của chúng và khả năng chơi
của các hand đồng chất tốt hơn nhiều. Ví dụ: A ♥ 5 ♥ được ưu tiên hơn A ♥ 5 ♦ vì A ♥ 5 ♥ có khả
năng tạo thùng một cách dễ dàng hơn những hand không đồng chất.
Liên tiếp: Hand có những lá xếp hạng gần nhau hơn được ưu tiên hơn các hand có khoảng trống
ở giữa. Ví dụ, T9 tốt hơn T8 và T7 vì T9 có nhiều cách tạo đường sảnh hơn các hand khác: T9 có
thể tạo sảnh trên KQJ, QJ8, J87 và 876, và ba trong số đó là sảnh nut. T8 có thể tạo sảnh trên QJ9,
J97 và 976, và chỉ có hai trong số đó là sảnh nut. T7 có thể tạo sảnh trên J98 và 986 chỉ với một
sảnh nut.
Nói chung, những tay poker giỏi nhất đều có ít nhất hai thành phần này. Những hand không có
giá trị bài cao có thể bù đắp bằng cách có sự kết nối và đồng chất, chẳng hạn như 87s, và những
hand không đồng chất có thể có giá trị bài cao như AKo.
Theo nguyên tắc chung, vị trí của bạn trên bàn càng sớm, thì hand của bạn phải có sức mạnh
bài cao tuyệt đối càng cao để có thể chơi được. Khi bạn vào các vị trí sau, các hand có sức mạnh
hand tuyệt đối yếu hơn có thể được chơi. Ví dụ: cash game 6 người không có ante, BN có thể chơi
các ván bài yếu, không liên tiếp nhưng đồng chất như Q2s, nhưng ngồi ở LJ, Qx yếu nhất có thể
chơi là Q9s.
Bet-size
Nói chung, top dưới cùng của range sẽ chứa các ván bài có khả năng sinh lời thấp, do đó, size bet
của bạn so với pot càng lớn, thì bạn càng có thể chơi ít ván bài hơn. Khi bet lớn hơn, bạn sẽ gặp
nhiều rủi ro hơn, nghĩa là trung bình bạn sẽ thua nhiều hơn với những hand bài yếu khi đối mặt
với re-raise và phải fold bài. Lý tưởng nhất là bạn muốn mất càng ít càng tốt khi hành vi cướp
blind của bạn không thành công.
Như đã thấy khi chúng ta nói về MDF, nếu đối thủ không phòng thủ đủ thường xuyên, bạn có thể
khai thác chúng bằng cách open nhiều hand hơn bình thường. Bạn thậm chí có thể bet với bất kỳ
lá nào ở một số thời gian. Ngược lại, với những đối thủ tốt/tối ưu, sẽ có một giới hạn đối với số
hand bài mà bạn có thể chơi có lãi tại bất kỳ thời điểm nào vì họ sẽ chơi lại bạn và buộc bạn phải
fold bài trước.
Ví dụ:
Game: Live Cash Game
Pre-flop: (1.5bb) Hero ngồi ở SB với Q7s và raises 3bb. Đối thủ ngồi ở BB sẽ làm gì để lệnh
raise này có tỉ lệ thắng âm?
Để đơn giản, chúng ta cho rằng đối thủ sẽ chỉ 3-bet hoặc fold, và Hero đó luôn luôn fold Q7 khi
bị 3-bet, vì vậy
Để tìm được giá trị mà có thể khiến EV của lệnh raise Q7s bị âm chúng ta làm như sau:
Điều đáng chú ý là khả năng đối mặt với 3-bet tăng lên khi có nhiều đối thủ chưa hành động. Hãy
tưởng tượng rằng thay vì SB, vị trí của Hero là UTG. Hero có thể ước tính tần suất 3-bet là bao
nhiêu ở bàn 9 người?
Trung bình, chúng ta có thể ước tính Hero sẽ đối mặt 3-bet khoảng 7% thời gian mà mỗi người
chơi chưa hành động.
Bỏ qua các hiệu ứng blocker, tổng tần suất mà Hero có thể đối măt 3-bet là:
Bỏ qua lệnh call của đối thủ, tỷ lệ thắng của open 2,5bb UTG với Q7s ở bàn 9 người là -26bb /
100.
Số hand bài mà một người chơi có thể sinh lợi RFI phụ thuộc vào khả năng 3-bet. Vì khả năng
3-bet tăng lên khi có nhiều người chơi chưa tham gia, khi lợi thế vị trí của bạn tăng lên, bạn có thể
Khi rake được lấy từ pot, nó có ảnh hưởng đến chiến lược của người chơi vì nó làm giảm lợi nhuận
của tất cả các hand bài được chơi. Nhiều hand bài raise hoặc call + EV trở thành -EV và mất tiền
trong thời gian dài. Một trong những lý do chính khiến cash game có xu hướng có size bet lớn hơn
tour game là bởi chúng không khuyến khích các lệnh call. Vì tiền rake được thanh toán trong các
giải đấu cùng với việc buy-in, nó không ảnh hưởng đến lợi nhuận của các hand bài được chơi, cho
phép chơi thụ động hơn trong các giải đấu so với cash game với số tiền rake cao. Nói chung, rake
càng cao thì range pre-flop càng chặt chẽ. Các hành động tích cực có thể hạ pot trước khi flop sẽ
được ưu tiên hơn các hành động bị động.
Ví dụ
Game: Online heads-up Cash Game
Stack Hiệu Dụng: $1,000
Players: 2
Blinds: $5/$10 (không ante)
Như chúng ta có thể thấy, khi có rake, tần suất raise sẽ tăng lên, tần suất limp sẽ giảm và nhiều
hand sẽ bị fold đi (Hand Ranges 28 và 29).
Tiếp theo, hãy cùng tạo ra những sự so sánh tương tự khi ngồi ở BB đối mặt với lệnh open
2.5bb từ SB (Hand Ranges 30 and 31).
Một lần nữa, đối với giải pháp điều chỉnh BB rake, chúng tôi thấy sự gia tăng tần suất raise,
giảm tần suất call và nhiều lần fold hơn so với giải pháp không có rake.
Các range fold tác động đến việc phân phối hand của những người chơi còn lại để thực hiện. Ví
dụ: ở bàn tối đa 9, sau sáu lần gập, mức nâng đầu tiên của BN trong phạm vi phải chặt hơn ở bàn
3 tối đa bởi vì những người chơi khác đã xếp các tay “yếu”, có nghĩa là khả năng người bị che sẽ
mạnh. tăng tay.
In Table 24 we can see how pushing ranges generated with MonkerSolver change due to the
bunching effect for different stack depths at different table sizes (12.5% ante). These results are
compared to those of the traditional push/fold calculator HRC (which ignores the bunching effect).
Accounting for the bunching effect, the SB has to push on average 4.9% tighter than traditional
push/fold calculators suggest, BN has to be 2.2% tighter, CO 1.7%, HJ 0.9%, and LJ
Limping
Điều quan trọng là đánh giá được khả năng để thực hiện limp và đồng thời áp dụng chiến thuật
nào khi đối mặt với nhà limp.
Open Limp
Limp cho phép bạn chơi nhiều hand hơn bằng việc đầu tư số tiền tối thiểu có thể, nhưng việc cân
bằng là phải chơi post-flop hầu hết thời gian khiến cho đối thủ nhận được equity mà đáng ra họ đã
fold. Thêm vào đó, phát triển chiến thuật limp bao gồm việc chia nhỏ range của bạn sớm, điều này
cung cấp cho đối thủ rất nhiều thông tin về độ mạnh hand của bạn.
Ví dụ, nếu bạn chỉ limp những hand như đôi nhỏ, Ax đồng chất yếu và đồng chất liên tiếp, đối thủ
có thể chơi lại bạn rất dễ dàng vì một số flop sẽ gây khó khăn cho bạn trong khi một số khác khiến
bạn bị miss hoàn toàn. Nếu bạn chỉ limp những hand mạnh trung bình, đối thủ sẽ raise một cách
hổ báo vì bạn sẽ không bao giờ có hand đủ mạnh để re-raise. Điều này sẽ buộc bạn phải bắt đầu
limp một vài hand mạnh để cân bằng range limp của bạn, nhưng sẽ khiến range để raise của bạn
trở nên yếu hơn. Do đó bạn vẫn sẽ gặp phải vấn đề có range capped ở rất nhiều flop sau khi bạn
limp/call vì lúc này bạn không còn có những hand mạnh nhất của range (bởi vì bạn sẽ phải limp/re-
raise những hand mạnh nhất của mình).
Mặc dù phân tích này nghe có vẻ nghiệt ngã, những chiến thuật limp vẫn có vai trò nhất định
trong cách chơi GTO. Các bộ giải thích áp dụng chúng trước tiên trong trận đối đầu giữa hai nhà
blind ở cuộc chơi rake-free như tournaments. Tuy nhiên, với bản chất của những trò chơi hiện đại
nơi mà hầu hết người chơi phòng thủ ít hơn đối với những nhà blind, fold quá đà cho đến c-bet,
không 3-bet đủ thường xuyên, mà không mở bài thường xuyên (ngay cả trong những trò chơi khó
nhằn), raise sẽ có thêm rất nhiều value và sẽ duy trì là chiến thuật chủ đạo trong thời gian tới. Mặc
dù những lợi ích rõ ràng của việc raise trong những trò chơi ngày nay, do sự gia tăng của các bộ
giải và chiến lược GTO, tôi hy vọng sẽ được thấy sự gia tăng trong việc áp dụng chiến thuật limp
trong tương lai, đặc biệt ở tournaments.
Rất hiếm khi bạn thấy người limp trong poker online hiện đại, trừ khi bạn đang chơi ở micro. Tuy
nhiên, trong các trò chơi trực tiếp, limp xảy ra thường xuyên hơn và lý do cho điều này cũng chính
xác là lý do nó xảy ra trong các trò chơi micro online: sự hiện diện của những người chơi rất yếu.
Vì những lý do đã nêu trước đó, hầu hết những người chơi mạnh sẽ không thực hiện chiến lược
limp, vì vậy nói chung nếu bạn thấy một người chơi limp từ bất kỳ vị trí nào khác ngoài SB, bạn
có thể khá chắc chắn rằng họ không phải là một người chơi thực sự mạnh. Nếu đúng như vậy, có
một số cách khác nhau để bạn có thể tấn công họ tùy thuộc vào loại người chơi họ thuộc về.
Nếu người limp là loại người chơi hiếm khi raise và có xu hướng check-fold khi họ không hit gì,
bạn có thể cô lập họ với range rất rộng và kỳ vọng sẽ lấy được pot ở post-flop với tần suất rất cao.
Mức độ bạn có thể cô lập người chơi này phụ thuộc vào những người chơi khác trên bàn. Nếu họ
sẵn sàng tấn công bạn với 3-bet bạn nên cẩn thận và raise một range tương tự mức bạn sẽ open
nếu ở vị trí đó nếu các nhà hành động trước đó fold đến bạn. Nếu họ call rất nhiều cú raise dẫn đến
pot nhiều nhà, bạn cần có hand có thể chơi tốt ở những pot nhiều nhà như đồng chất liên tiếp, hand
đôi và Axs. Nếu những người chơi phía sau bạn không quan tâm hoặc chơi hổ báo, bạn có thể
tránh việc raise hầu hết những ván bài có vài khả năng chơi được.
Nếu người limp là loại người chơi không thích fold, bạn nên chơi những hand có thể tạo ra top
pair tốt ở flop rồi kiếm value từ đó. Đối đầu với loại người chơi này, bất kỳ top pair nào và hầu
hết các second pair là đủ tốt để bet value cho ba vòng đặt cược.
Nếu người limp là loại người rất hổ báo và sẽ check-raise và dẫn trước bạn, hãy tự giúp bản thân
mình và đừng cô lập người chơi này với phạm vi quá rộng. Range của bạn nên được tạo bởi những
hand rất mạnh và có thể chịu được nhiệt. Hãy cẩn thận với những hand có độ mạnh trung bình của
bạn bằng cách check chúng và kiểm soát được size của pot để bạn có thể bắt bluff hiệu quả hơn,
và nếu bạn có hand tốt nhưng không phải quá tốt, đừng ngại chơi nó.
Nếu người limp thuộc loại người chơi trap và limp với những hand mạnh như AK và AA với ý
định limp-raise, hãy thoải mái limp với tất các hand đồng chất và liên tiếp và các hand đôi nhỏ.
Những người chơi khác trên bàn sẽ ngần ngại việc raise sau đó vì có nguy cơ sẽ bị limp-raise và
bạn sẽ có thể chơi rất tốt ở post-flop đối đầu với range này.
Đối đầu với loại người chơi này, bạn nên raise một range phân cực được tạo bởi những hand có
thể chống chịu 3-bet và những hand có lá bài chặn tốt mà bạn sẵn sàng raise-fold.
Open Push
All-in, hay còn được gọi là open push, là cú bet mạnh nhất bạn có thể làm. Nó cho phép bạn nhận
lại 100% equity với tất cả các hand trong range của bạn, nhưng cũng chứa đựng rủi ro lớn hơn bạn
sẽ phải đặt toàn bộ stack vào vòng cược. Bạn không còn có thể fold những hand yếu hơn ở range
của mình khi đối thủ 3-bet bạn nếu bạn đã raise mức nhỏ hơn. Nhìn chung, chip bạn có càng nhiều
và những người chơi còn hành động còn lại càng nhiều, xu hướng bạn nên all-in càng giảm đi.
Ví dụ 1
Ví dụ 2
Bàn 9 người với 12.5% antes và stack 12bb, BN có thể all-in 41.5% số hand nhưng với 15bb chỉ
có thể all-in 37.2% số hand. Vì bạn đang mạo hiểm với nhiều chip hơn, bạn phải raise chặt chẽ
hơn.
Nhìn chung, với ít hơn 10bb, người chơi có thể all-in từ bất kì vị trí nào. Vị trí càng sớm và
stack bạn càng lớn, bạn càng phải chơi all-in chặt chẽ hơn. (Table 25).
Bảng 25: Độ lớn tối đa của Stack (bb) để all-in theo vị trí (MTTs 12.5% ante)
Nhìn chung, khi all-in ở pre-flop, nếu bạn đang all-in toàn bộ range của mình, bạn sẽ muốn
range của mình là tuyến tính, bao gồm những hand mạnh nhất để mang lại equity tốt nhất khi
được call.
Nếu bạn đang chia nhỏ range của mình bằng cách sử dụng chiến thuật all-in/raise/fold, bạn muốn
range để all-in của mình phải cô đặc, bao gồm những hand đủ tốt để raise/fold, trong khi không đủ
tốt để raise/call, và sẽ nhận được equity tốt khi được call, như Axs, Q9s và 87s.
Bạn muốn range để raise không all-in là phân cực, bao gồm những hand với lá bài chặn tốt có
value như Axo mà bạn dự định sẽ fold nếu đối thủ all-in, và những hand cao cấp bạn sẵn sàng
raise/call, như là KK.
Khi những đối thủ còn lại có độ lớn stack tốt để all-in (dưới 25bb) size bet tối ưu luôn là mức
raise tối thiểu vì nó cái giá tệ nhất có thể cho cú re-raise all-in của họ. Với stack càng lớn, size bet
càng lớn càng tốt vì đối thủ đang có implied odds tốt hơn với hand của họ, nên bạn muốn họ từ bọ
việc call, đặc biệt khi họ có vị trí.
Nếu bạn đang re-raise ở pre-flop với range phân cực, và phản ứng chủ yếu của đối thủ là re-
raise hoặc fold, bạn nên sử dụng size bet tối thiểu có thể để giảm thiểu rủi ro với những hand
raise/fold hands trong range của mình.
Việc ngoài vị trí cần một size bet lớn hơn vì bạn muốn giảm thiểu lợi thế vị trí của người chơi
IP bằng cách giảm SPR. Ngược lại, việc có vị trí cần sử dụng size bet nhỏ hơn vì, ngay cả khi bị
call, bạn vẫn có lợi thế vị trí trong những vòng đặt cược sau đó. Tuy nhiên, bet nhỏ cũng có một
vài bất lợi, ví dụ như việc đưa ra cái giá tốt hơn cho cú call của đối thủ, cho phép họ phòng thủ với
lợi nhuận tốt hơn cho nhiều hand bài hơn.
Sử dụng bộ giải để kiểm tra size bet ở pre-flop, tôi nhận thấy rằng với những size bet giống
nhau, sự khác biệt về EV là khá nhỏ và thậm chí là không khác biệt trong rất nhiều tình huống. Ví
dụ, tăng size open từ 2.25bb lên 2.3bb sẽ không có ảnh hưởng EV đáng kể nào ở bottom line của
bạn.
Các bộ giải không quan tâm đến việc sử dụng những size bet giống nhau miễn là người chơi
hiểu được cách tốt nhất để phản ứng lại mỗi size bet cụ thể. Vì những size bet khác nhau sẽ có
những cách phản ứng tối ưu khác nhau, và không phải tất cả đối thủ đều có khả năng phản ứng
hiệu quả với tất cả các size bet, và size bet tốt nhất là mức khiến đối thủ của bạn rơi vào sơ đồ
quyết định mà họ không quen thuộc, khiến họ tạo ra nhiều sai lầm.
Luôn có một thời điểm tốt cho size bet ở pre-flop giúp giảm thiểu rủi ro của bạn trong khi tối
đa hoá được equity fold. Tuy nhiên, vì poker là một trò chơi chưa được giải hoàn toàn, nên vẫn
chưa có một câu trả lời chắc chắn nào cho size bet chính xác ở pre-flop. Hơn nữa, luôn có size bet
Từ mỗi vị trí, bạn sẽ chơi phân phối các hand mạnh so với những hand ngẫu nhiên
chưa hành động.
Nếu một người chơi khác tự nguyện tham gia vào pot, khoảng phân phối hand của bạn phải mạnh
so với những hand ngẫu nhiên còn lại và khoảng phân phối hand của người chơi tham gia vào pot.
Ví dụ, range raise của CO khi đối đầu với limp của UTG phải chặt chẽ hơn range raise nếu các
hành động được fold đến CO vì CO phải cân nhắc về nhà limp ở UTG.
Từ mỗi vị trí, bạn sẽ chơi một vài loại hand khác nhau mang lại kỳ vọng tích cực khi đối đầu
với nhữg người chơi còn lại (bao gồm hiệu ứng rake trong các trò chơi có rake).
Nhìn chung, những hand sử dụng các chiến thuật hỗn hợp (đôi khi raise và đôi
khi fold) là những hand threshold.
Với hiệu ứng loại bỏ lá bài ở Hold’em bạn có thể kì vọng thấy được nhiều hand sử dụng chiến
thuật hỗn hợp hơn. Những hand tệ nhất trong range của bạn sẽ không có EV và sẽ không có sự
khác biệt gì giữa raise và fold khi chơi với những đối thủ tốt/tối ưu. Tuy nhiên, bạn có thể tăng tần
suất raise bằng việc thêm nhiều hand yếu vào range của mình khi đối đầu với những đối thủ yếu
hơn vì họ sẽ không thể chơi lại bạn đủ hổ báo để tạo nên khác biệt với khoảng dưới của range raise
thông thường của bạn.
Những người chơi quan trọng phải cân nhắc kĩ lưỡng để quyết định open những hand biên hay
không là BN, SB và BB vì những vị trí này có nhiều khả năng đưa ra hành động cho bạn nhất.
Nếu những người chơi ở các vị trí này chơi chặt chẽ, bạn có thể bị mất rất nhiều pha cướp blind.
Trong poker, ngẫu nhiên hoá đề cập đến việc áp dụng lựa chọn may rủi giữa
những hành động có EV tương đương để đảm bảo việc không bị đoán trước được.
Ví dụ, nếu một hand không có sự khác biệt gì giữa call và fold (EV của hai hành động này là giống
nhau) và gỉai pháp GTO là call 50% và fold 50%, người chơi có thể ngẫu nhiên lựa chọn một trong
hai bằng cách tung đồng xu. Những người chơi online có thể sử dụng phần mềm nhảy số ngẫu
nhiên (vd: random.org) để giúp họ không thể bị đoán trước với những hand sử dụng chiến thuật
hỗn hợp.
Những người chơi trực tiếp có thể sử dụng một số cách ngẫu nhiên như kim giây trên đồng hồ
hoặc chất những lá bài của họ. Ví dụ, xác suất lá bài cao hơn trong số hai lá là lá bài đỏ là 50%,
vậy người chơi có thể ngẫu nhiên lựa chọn màu của lá bài cao hơn trong hand poker của họ. Người
chơi cũng có thể chọn một chất như cơ, và nếu lá đầu tiên của họ là cơ, chọn chơi 25% ván bàn.
Họ cũng có thể nhìn vào phần mềm nhảy số tự động trước khi bắt đầu chơi mỗi hand. Có nhiều
thủ thuật người chơi có thể sử dụng để ngẫu nhiên hoá các hành động của họ trong những trò chơi
trực tiếp. Tuy nhiên, những trò chơi trực tiếp thường khá nhẹ nhàng, nên những quyết định khôn
ngoan có xu hướng nhị phân hơn, và thường có nhiều đoạn thông tin bổ sung người chơi có thể sử
dụng để đưa ra quyết định chính xác hơn, như ngôn ngữ cơ thể, lịch sử đấu, xu hướng phổ biến,
etc. Tất cả điều này, cùng với thực tế là đối thủ của bạn sẽ khó có được mẫu đủ lớn về bạn để nắm
bắt được chính xác tần suất bạn khiến việc ngẫu nhiên hoá ở poker trực tiếp ít cần thiết hơn ở
poker online.
Cách tiếp cận tốt nhất khi mở rộng khai thác range của bạn là bắt đầu tăng tần
suất của những hand chơi bằng chiến thuật hỗn hợp.
Điều này là vì những hand threshold là những hand đầu tiên để kiếm được lợi nhuận
trước sơ hở của đối thủ. Ví dụ, nếu một hand như A9o được bet 25% thời gian ở một
Tránh việc đưa bản thân vào vị thế khó vì luôn nghĩ về một vài bước tiếp theo
Ví dụ, nếu bạn đang nghĩ về việc 3-bet với một hand mạnh trung bình nhưng không biết sẽ phải
làm gì nếu đối thủ re-raise, thì thay vào đó bạn chỉ nên call. Điều này cũng áp dụng ở post-flop.
Nếu bạn không biết phải làm gì với hand của mình nếu đối thủ re-raise, vậy hãy chỉ check. Trước
khi open raise, hãy luôn cân nhắc về những người chơi còn chưa hành động. Liệu họ có re-raise
không? Nếu có, bạn sẽ phản ứng thế nào? Và nếu họ 5-bet sau khi bạn 4-bet? Bạn có sẵn sàng all-
in hand đó ở pre-flop? Hand của bạn có đủ tốt để 4-bet/fold? Nếu vậy, hãy chỉ call nếu bạn bị 3-
bet. Suy nghĩ trước sẽ cho phép bạn vượt qua rất nhiều những thời điểm khó khăn mà những người
chơi giải trí hay gặp.
Những người chơi poker có xu hướng mắc hai lỗi sơ hở căn bản. Tần suất hành động của họ
sai, hoặc họ đưa sai loại hand vào những range của mình.
Thông thường, sơ hở đầu tiên và dễ sửa nhất là khi tần suất của bạn sai, điều mà hay diễn ra khi
chơi poker online. Đa số những trò chơi online sẽ có HUD (Trình diện đối đầu) đưa ra tần suất mà
mỗi người chơi thực hiện những hành động khác nhau. Trong trường hợp này, nó sẽ trở nên rất rõ
ràng khi xu hướng của họ đi lệch khỏi hướng tối ưu.
Ví dụ, nếu bạn biết tần suất RFI tối ưu từ vị trí LJ trong cash game là ~17% và bạn nhận thấy
mình đang open 22%, lúc này bạn nên giảm bớt thêm 5% số hand từ range của mình nếu bạn nghĩ
mình đang bị đối thủ khai thác.
Một loại sơ hở khác khó nhận ra hơn rất nhiều, là khi một người chơi đã có thể hành động rất
tốt với tần suất đúng, nhưng đưa những hand sai vào range của họ. Đây là nguyên nhân chính mà
nhiều người chơi đang vật lộn để tăng stack của mình. Thông thường, họ thậm chí không biết bắt
Ở chương tiếp theo tôi sẽ cho bạn thấy không chỉ tần suất đúng mà còn cần thành phần trong
range phù hợp, vậy bạn có thể tự mình cân đối làm thế nào để thích ứng với những tình huống
khác nhau trên bàn poker, tự mình suy nghĩ, tấn công sơ hở của đối thủ và tự sửa lỗi của mình.
Chương này đưa ra những chiến thuật ở bàn 6 người mà GTO đề xuất được đưa ra bởi những bộ
giải hiện đại và siêu máy tính cho cash game online thông thường $2/$5, 5% rake, capped ở mức
$3. Những chiến thuật này được thiết kế để trở thành một kim chỉ nam vững chắc nhưng chúng
phải được điều chỉnh theo tuỳ từng loại trò chơi cụ thể mà bạn tham gia vào.
Cách sử dụng bộ giải GTO tốt nhất là phân tích những chiến thuật được đề xuất và thử tìm hiểu
tại sao bộ giải chọn chơi hand theo cách đó, kết hợp với những nguyên tắc cơ bản của GTO như
pot odds, equity, equity fold, EV, equity ghi nhận, SPR, độ phân cực của range, độ bao phủ mặt
board, MDF, cách khai thác và cân bằng quy trình đưa ra quyết định thay vì cố gắng ghi nhớ những
chiến thuật cố định.
Ở một vài trường hợp, bạn nên thử “trở thành” bộ giải để bạn có thể đưa ra những quyết
định chính xác cho bản thân. Mỗi hand là một câu đố, và giải câu đố đó một cách tốt nhất
theo khả năng bản thân là công việc của một người chơi poker.
Những biểu đồ là một điểm khởi đầu tốt. Chúng có thể đươc sử dụng để giúp bạn có hướng đi đúng
nhưng đừng bao giờ làm theo một cách mù quáng.
Bàn 6 người
RFI: LJ, HJ, CO, BN: 2.5bb, SB: 3bb.
3-bet: IP: 8.5bb, OOP: 10bb (khi squeezing bạn có thể thêm vào 2-3bb)
4-bet: 23bb
5-bet: All-in (100bb)
BvB
SB Limp:
BB Raise và SB Limp: 3.5bb
SB 3-bet: 13bb
BB 4-bet: 28bb
SB 5-bet: All-in (100bb)
SB Raise:
SB: 3bb
BB 3-bet: 9bb
SB 4-bet: 24bb
Small Blind
Small blind là một trong những vị trí thú vị mà cũng là khó để chơi nhất. Bạn sẽ không có vị thế
trong toàn bộ ván bài, điều này làm giảm khả năng ghi nhận equity của bạn và khiến việc chơi trở
nên kém hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, bạn cũng mất ít hơn khi vào pot, điều này khuyến khích bạn chơi
nhiều ván bài hơn.
Cách tiếp cận tốt nhất để chơi SB là chia nhỏ range của bạn, phát triển chiến lược limp và chiến
lược raise (Hand Range 32). Bằng cách kết hợp chiến lược limp, bạn có thể chơi nhiều ván bài hơn,
tận dụng chiết khấu để vào pot trong khi giữ tần suất raise tổng thể của bạn ở mức thấp, làm cho 3-
bet của BB trở nên kém hiệu quả hơn. Ngoài ra, SB là vị trí mà bạn muốn có size raise để open lớn
hơn vì bạn đã ở ngoài vị trí và muốn ngăn cản các cú call.
Sau khi SB limp và BB raise lên 3,5x, SB muốn re-raise một range tuyến tính được tạo bởi các
hand có equity cao, vì vậy nếu bạn 4-bet, bạn có thể call và các ván bài sẽ có khả năng ghi nhận
equity tốt hơn trong SPR thấp. Đối phó với 4-bet, bạn slowplay AA bằng cách call (98%) và 5-bet
Sau khi bạn raise lên 3x từ SB và đối mặt với 3-bet của BB, hầu hết các middle hand của bạn
thực sự ghét bị 4-bet/fold so với all-in và chỉ muốn vào flop. Do đó, range 4-bet của bạn là phân
cực, bao gồm các hand có lá bài chặn tốt để có thể dễ dàng call hoặc fold khi đôi mặt với cú 5-bet
all-in trong khi có phạm vi bảo hiểm tốt trong trường hợp đối thủ quyết định 4-bet (Hand Range
34). Range tốt của bạn để đối đầu với cú 5-bet all-in là 66+, AKo, AQs +.
Button
Khi các hành động trước là fold đến bạn tại vị trí BN, bạn sẽ chơi 62,21% hand. Tuy nhiên,
không giống như SB, bạn không được chiết khấu khi chơi hand của mình và bây giờ bạn phải lo
lắng về hai người chơi có thể có hand để re-raise. Ngay cả với lợi thế vị trí của bạn so với nhà
blind, chiến lược cân bằng BN là open tối đa 43,4% hand bao gồm tất cả các cặp, A2s +, A4o +,
K2s +, Q2s +, J4s +, K8o +, Q9o +, J8o +, T8o +, 98o +, các hand đồng chất liên tiếp và không
liên tiếp. Trong các game đấu nhẹ nhàng, nếu các nhà blind đang fold quá đà so với việc open,
range để raise có thể dễ dàng mở rộng đến 55-60% hand, hoặc thậm chí nhiều hơn, tùy thuộc vào
mức độ chơi tệ và bị động của các nhà blind.
Chiến lược phòng thủ của BN đối với cả hai nhà blind là rất giống nhau (see Diagram 7 and
Hand Ranges 36 and 37). Bạn fold ít hơn khi bị SB 3-bet vì pot lớn hơn khi SB 3-bet (27bb) so
với khi BB 3-bet (26bb). Vì bạn đã có vị trí và các nhà blind có thể bet cuối cùng nếu bạn 4-bet
vào họ (buộc bạn phải fold equity của mình), bạn nên có một range 4-bet phân cực bao gồm các
hand có blocker tốt và độ bao phủ mặt board hợp lý. Nếu bạn bị 5-bet, range phải đối mặt của bạn
là 66+, AK + (điều quan trọng là phải chú ý cách các hand như 66 hiện diện trong range 4-bet của
bạn với tần suất rất nhỏ tại thời điểm này, nhưng vẫn là có thể xảy ra).
Cutoff
Hijack
Trung bình, bạn fold ít hơn rất nhiều khi đối mặt với 3-bet khi bạn có vị trí, phòng thủ chủ
yếu bằng cách call với các nhà blind và 4-bet thường xuyên hơn khi ở ngoài vị trí. Ngoài ra,
bạn có thể call với range rộng hơn khi đối mặt với 3-bet của BN so với của CO vì BN có một
range flat call, do đó range 3-bet của họ phân cực hơn rất nhiều so với CO (Table 26 và
Diagram 9). Nhìn chung, các range để open có equity và khả năng chơi tốt hơn so với các
range phân cực, tạo ra nhiều lệnh call có lợi hơn.
Nhà HJ phản ứng 3-bets được thể hiện ở Hand Ranges 43-46.
Lojack
Nhà LJ phản ứng với 3-bets được thể hiện ở Biểu đồ 10 và Hand Ranges 48-52.
Điều duy nhất ngăn đối thủ 3-bet bạn 1 cách không do dự là bởi vì khả năng 4-bet của bạn, cũng
giống như việc những người chơi khác raise lên trước mặt bạn. Bạn phải phòng thủ đủ trong range
của mình đối với cú 3-bet để đối thủ sẽ không hứng thú 3-bet bạn với những hand tệ nhất trong
range của họ (Diagrams 11 and 12).
Bạn sẽ nhận các cú 3-bet nhiều hơn bình thường khi ngồi ở vị trí UTG hơn là open từ vị trí BN
(mặc dù range của bạn rất khỏe) vì số lượng người chơi chưa hành động, và các đối thủ của bạn
cũng sẽ có range khỏe. Phòng thủ với 1 range rộng hơn sẽ khó khăn hơn nhiều khi phòng thủ với 1
range hẹp, vì vậy bạn không thể open 1 cách có lợi nhuận với nhiều hand từ UTG so với việc bạn
dùng chúng ở vị trí BN. Nếu range 3-bet của đối thủ phân cực, bạn sẽ có nhiều hand hơn trong
range có đủ equity để call vì sẽ ít thường xuyên bị dẫn trước, dẫn tới việc chơi post-flop sẽ dễ dàng
hơn. Vì vậy, bạn nên call nhiều hơn trong range của mình đối với những range phân cực so với
range tuyến tính.
Broadways đồng chất, đồng chất liên tiếp và đôi luôn là những hand có thể call tốt. Broadways
không đồng chất và Ax yếu không phải lựa chọn quá tốt trong những ván có 3-bet, vì chúng có
lượng thực hiện hóa equity khá tệ và làm đảo lộn implied odds, do đó chúng sẽ bị fold hết.
Nếu bạn nghĩ ai đó đang không 3-bet quá thường xuyên, thì để bắt bài họ, đầu tiên bạn cần phải
biết họ sẽ phản ứng như nào khi bị 4-bet. Nếu hầu hết họ sẽ fold, bạn có thể 4-bet phân cực, lựa
chọn bluff với những hand có blocker tốt, ví dụ như A5s. Nếu đối thủ sẵn sàng call cú 4-bet của
bạn với range rộng và chỉ 5-bet lại với bài siêu khỏe, cách tiếp cận tốt nhất là 4-bet tuyến tính để
bạn có thể ngay lập tức ăn được pot và có 1 range post-flop khỏe. Nếu đối thủ sẵn sàng 5-bet all in
với range rộng, bạn đừng sợ 4-bet/call với những hand kiểu như AQ. Đôi khi đối thủ sẽ ăn được
bạn, nhưng thường xuyên hơn thì bạn sẽ ăn được họ.
Đối thủ càng 3-bet bé, bạn càng có thể chơi được nhiều hand trong range hơn để phòng thủ mà
không bị phát hiện. Đấu với bet-size bé hơn, bạn nên call nhiều hand hơn, và khi bet-size lớn hơn
thì số hand bạn dùng để phòng thủ nên ít lại.
Ảnh hưởng của rake bị giảm ở trong pot, và sẽ được thổi phồng lên bởi những hành động trước
flop. Vì thế, khi quyết định tham gia pot bởi 1 cú 3-bet hay 4-bet, điều quan tâm chính sẽ là range
và equity bạn đang chơi.
Khi đối diện với 1 cú 5-bet, range thông thường của bạn sẽ là TT+ và AK.
Một khi đến lượt bạn hành động sau khi bị open hay 3-bet, thường bạn sẽ 4-bet hoặc fold. Chia
range của bạn thành 1 phần chỉ call và 1 phần chỉ 4-bet sẽ đưa ra nhiều thông tin hơn cho đối thủ.
Chỉ call cũng sẽ cho phép những đối thủ chưa hành động dễ dàng realize equity của họ hơn chỉ với
việc call nhiều hand hơn những hand đáng lẽ sẽ bị fold khi bị 4-bet, vì thế cách tiếp cận tốt nhất
đơn giản là 4-bet trong range 4-bet của bạn hoặc ~ 3% lượng hand đối với range hẹp và ~ 6% đối
với range rộng (Hand Range 53).
Phản ứng của bạn khi bị 3-bet nên phụ thuộc vào cú 3-bet đó đến từ vị trí nào (Diagram 13).
Khi nhà HJ chơi chiến thuật 3-bet hoặc fold đấu với nhà LJ, range của họ sẽ tuyến tính và có thể bị
trùng với range của nhà LJ. Cách phản hồi tốt nhất cho nhà LJ đó là nên phòng thủ hầu hết bởi 1
cú 4-bet để giảm thiểu lợi thế có vị trí bằng cách giảm SPR và khiến nhà HJ fold đi 1 số bài của họ.
Khi đấu với nhà CO, bạn có thể 4-bet rộng hơn 1 chút so với nhà HJ vì range 3-bet nhà CO sẽ rộng
hơn so với range 3-bet nhà HJ. Vì thế, bạn cũng sẽ sẵn sàng all in với JJ và TT pre-flop.
Bạn có lợi thế vị trí khi đấu với nhà SB nên vì thế bạn không cần 4-bet quá thường xuyên giống
như khi đấu với các vị trí khác. Bây giờ hand duy nhất bạn muốn all in pre-flop chính là AA, KK
và Aks. Những hand có nhiều equity như suited broadways gần như sẽ call hết. Vì thế, chọn suited
broadways và những hand suited tốt nhất để làm 4-bet bluff. Những hand khỏe như QQ và JJ thích
xem flop nhiều hơn, vì thế hãy 4-bet ít lại khi cầm chúng.
Range 3-bet nhà BB sẽ phân cực và bạn có vị trí, vì thế bạn sẽ phòng thủ chính bằng việc call và
chơi post-flop khi có vị trí với range bài chắc chắn. Bạn có thể bắt đầu chơi chậm với AÂ 1 số ít
lần khi bạn ngồi ở HJ. Range 4-bet của bạn khi đấu với nhà BB sẽ phân cực và 1 vài bluff thường
xuyên sẽ là A5s-A3s, AQo-ATo, 1 vài Kx suited. Suited broadways, suited connectors và đôi lớn
sẽ call tốt hơn vì chúng có thể chơi tốt ở những ván 3-bet và sẽ realize equity dễ dàng hơn.
GTO 3-bet
Khi đấu lại 1 đối thủ rắn (tức đối thủ có chiến thuật open và phòng thủ khi bị 3-bet khá chuẩn), bạn
nên thử bám sát vào chiến thuật 3-bet 1 cách cân bằng, và nếu như có thể, sử dụng 1 vài loại bài
ngẫu nhiên để giúp cân bằng lại. Hơn nữa, bạn phải cẩn thận đeẻ không bị phát hiện, nghĩa là bạn
Khi bạn nghi ngờ đối thủ là 1 người chơi yếu và thường sẽ open với nhiều hand hơn những hand
họ nên chơi, bạn sẽ muốn thử bắt bài họ bằng việc 3-bet thường xuyên hơn. Tuy nhiên, bạn phải
thật cẩn thận vì sẽ còn có những người chơi chưa hành động khác, vì nếu họ biết được bạn đang
làm gì, họ có thể bắt đầu 4-bet với range rộng hơn và bắt bài bạn, kể cả nếu như người chơi yếu
không bao giờ nhận ra bạn đang bắt bài họ.
Cách tốt nhất để biết đối thủ có fold quá nhiều trước những cú 3-bet không đó là sử dụng MDF và
chỉ số Alpha.
Ví dụ
Game: Live Cash Game
Stack hiệu dụng: $500
Players: 8
Range của đối thủ (76.47% hand) sẽ bao gồm 1,014 combo.
Bạn có thể thấy trong Hand Range 55 range phòng thủ của SB có 350 combos, vậy bạn sẽ không
có lợi nhuận khi bluff với ATC, nhưng với hand của bạn là K♦2♠, chúng có những blocker có giá
trị đối với range tiếp tục của đối thủ. K♦ block những hand như AK, KK, K6s+, KT0+. Khi có K♦
trong tay, range phòng thủ của đối phương sẽ giảm từ 350 xuống 324 combos, làm cho cú 3-bet
◆ 3-bet phân cực: nếu đối thủ thích 4-bet hoặc fold hơn là việc call, bạn có thể tăng
range 3-bet của mình thêm 1 số hand có blocker tốt. Ví dụ, Ajo, A5s và KJs có thể
call ngang vì chúng có equity cao mà bạn không muốn bị 3-bet/fold.
◆ 3-bet tuyến tính: nếu đối thủ thích call 3-bet hơn 4-bet, bạn sẽ muốn 3-bet với range
tuyến tính có nhiều hand có equity cao, có thể chơi được post-flop tốt và sẽ áp đảo range
call ngang của đối thủ.
Hijack
Người chơi ở HJ chọn chiến thuật 3-bet/fold, không có range call khi đối mặt với cú tố của nhà LJ
(Hand Range 56). Từ vị trí này, số lượng hand tối đa bạn có thể 3-bet và không để bị bắt bài là
~8% hands. Người đọc có thể sẽ ngạc nhiên rằng là chiến thuật này sẽ chỉ có 1 ít những đôi nhỏ
như 88 đến 22, bởi vì nếu 88 tốt hơn 22 raát nhiều thì tại sao không 3-bet 88 thường xuyên hơn so
với 22? Lý do chính là bởi vì bạn muốn độ bao phủ mặt bàn tại post-flop tốt và có thể hit set và
những hand mạnh khác cho nhiều loại flop khác nhau. 1 lý do nữa là bởi vì nếu bạn chỉ 3 -bet 1 số
hand nhất định, đối thủ sẽ dùng những quân blocker của họ hiệu quả hơn khi đấu với bạn.
Khi đấu với cú 4-bet từ nhà LJ, bạn sẽ muốn 5-bet ~18.4% số lần bị 4-bet, nhưng vì bạn đang có vị
trí, bạn sẽ nên call hầu hết những hand có trong range có thể tiếp tục, chơi chậm AA 52% số lần
cầm và chỉ call các đôi yếu hơn KK. Những hand khác thích xem flop là small suited connectors,
AKo (46%), AQs, AJs, KQs và 1 số A5s-A4s(Hand Range 57).
Cutoff
Hand Range 58: CO đấu với LJ Open • 3-bet 8.6% / • Fold 91.4%
Đấu với nhà HJ, nhà CO có thể 3-bet rộng hơn so với khi đấu với nhà LJ vì nhà HJ open với
~21% hands, trong khi đó nhà LJ chỉ open với 17% hands. Bạn sẽ mở rộng range 3-bet của mình
bằng những hand như A9s (61%), QTs (30%), and JTs (16%) và thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi. (Hand Range 60).
Button
Vị trí BN là vị trí duy nhất không cần lo về yếu tố vị trí post-flop nếu như ai đó quyết định tham
Range call ngang của bạn sẽ được tạo ra bởi những hand có thể chơi post-flop tốt và có độ bao phủ
mặt bàn tốt. Bạn sẽ bảo vệ range call của mình bằng cách chơi chậm lại những hand như QQ
(22%), JJ (52%), TT (59%), 99 (72%), và AKo (23%), và những hand có thể call những cú
squeezes và chơi post-flop như AQs (30%), AJs (37%), ATs (71%), KQs (65%), KJs (67%), KTs
(30%) và QJs (41%) (Hand Range 62).
Khi bạn thấy 1 vài điểm kì lạ như K6s-K5s and 53s ở trong Hand Range 62 , hãy ghi nhớ rằng
những hand này được đúc kết từ giải pháp GTO chứ không phải là tự khám phá ra “1 đột phá”, vì
thế bạn cũng sẽ ổn thôi khi bỏ qua những hand này trong lúc luyện tập.
Nhớ rằng biểu đồ này chỉ thể hiện tần suất chơi chứ không chỉ chính xác độ thường xuyên
bạn chơi những hand có trong range. Ví dụ, 54s được hiểu là sẽ call 100% số lần bạn sở hữu
Khi đấu với CO open, range call của BN tiếp tục thu hẹp lại do SB và BB có thể squeezes thường
xuyên hơn so với khi HJ và LJ open. Range 3-bet của nhà BN khi đấu với CO sẽ tăng lên 11.7%
và tần suất fold sẽ giảm tới 82.3%. Range 3-bet nhà BN bây giờ sẽ có nhiều suited Ax và offsuit
broadways, tập trung vào những lá bài cao hơn (Hand Range 66).
Range 4-bet nhà CO sẽ rộng hơn và phân cực hơn 1 chút so với nhà HJ, vì thế bạn có thể phòng thủ
bởi việc call với hầu hết range của mình. Khi cầm AA sẽ chơi chậm lại 100% số lần cầm. Bạn cũng
có thể tăng tần suất call những hand như AQo, QJs, JTs, and K9s (68%). Bạn bắt đầu muốn 4-bet
với JJ (40%) và tăng tần suất 4-bet với những hand như AKo (96%), và QQ (66%) (Hand Range
67).
Small Blind
SB có thể 3-bet với range rộng hơn khi đấu với HJ so với LJ, những hand như A9s (23%), KQo
(9%), K9s (10%), J9s (9%) và thêm trọng lượng vào số lượng bài bạn chơi. (Hand Range 70).
Khi mà bạn đã 3-bet rộng hơn đối với HJ so với LJ, bạn sẽ phải call ít đi khi bị 4-bet để không
SB có thể 3-bet nhiều hơn 2.2% số hand khi đấu với nhà CO so với khi đấu với nhà HJ, khi mà có
thể 3-bet với những hand như AJo (47%), A8s (15%), T9s (45%) và thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi (Hand Range 72).
Đấu với nhà BN, SB có thể 3-bet 15% lượng hand, thêm những hand như ATo (43%), KTo (6%),
QJo (3%), A7s, Q9s, T8s (71%), 98s (21%), 87s (9%), 76s (86%) để thêm trọng lượng vào số lượng
bài bạn chơi (Hand Range 74).
Range 4-bet của BN rất phân cực, vì thế nhà SB sẽ ít muốn 5-bet và sẽ muốn call, luôn luôn chơi
chậm khi cầm AA. Range 5-bet của SB là KK, QQ, AK, JJ (29%), TT (27%), và A5s (74%), trong
khi đó thì range call là 55+, 76s+ AQo, ATs+, KTs+, A4s, A3s, AJo (37%), A9s (67%), A5s (74%),
Big Blind
Chiến thuật phòng thủ BB gần như là chiến thuật quan trọng nhất cần phải nắm chắc, khi mà phần
lớn các ván bài sẽ là ai đó tố lên và BB phòng thủ. Nếu bạn fold hết tất cả bài khi ngồi ở BB, Win
rate ở vị trí này sẽ là -100bb/100. Vì vậy, phòng thủ nhiều hand nhất có thể sẽ giúp bạn giảm thiểu
số tiền bị mất khi ngồi BB, tăng chiến thắng trong dài hạn. Hơn nữa, nếu bạn fold quá nhiều bài khi
ở BB, bạn sẽ trở thành mục tiêu cho những người chơi hổ báo muốn cướp tiền chết, còn nếu bạn
phòng thủ chủ động và chơi post-flop tốt, đối thủ sẽ do dự khi muốn chiến với bạn. Diagram 15 cho
thấy mức độ thường xuyên BB nên phòng thủ.
Khi đấu với nhà LJ open, bạn cần phòng thủ chắc chắn vì range open của LJ khá khỏe. Sẽ không có
Có thể bạn sẽ bất ngờ khi biết những hand mạnh như A9o luôn bị fold khi mà những hand như K2s
được call. Lý do chính của việc này là do những hand offsuit disconnected sẽ khó có thể realize
equity, đặc biệt khi đấu với những range chặt.
Khi đối mặt với cú 4-bet của LJ, BB sẽ 5-bet với AA (61%), KK (57%), AKs, AKo (54%), QQ
(16%) và A5s (38%) và có thể call với tất cả những đôi khác, ATs+, JTs (75%), T9s-65s, và 54s
(64%) (Hand Range 77).
Khi đấu với nhà HJ open, BB có thể phòng thủ rộng hơn nhà CO 1 chút và tăng chỉ số 3-bet lên
thường xuyên hơn để thêm trọng lượng vào số lượng bài bạn chơi (Hand Range 78).
BB sẽ phản ứng lại cú 4-bet của HJ giống với của LJ. Điểm khác biệt chính nằm ở việc để duy trì
Khi đấu với nhà CO, BB có thể phòng thủ thêm 3.9% lượng hand. Cả range 3-bet lẫn call sẽ rộng
hơn để thêm trọng lượng vào lượng bài bạn chơi. Bạn nên ghi lại có bao nhiêu hand offsuit như
K8o, Q9o bị fold khi đấu với CO. Như đã đề cập ở trước, offsuit hands với 2 lá không gần nhau rất
Đấu với nhà BN, nhà BB sẽ 3-bet với range rất tuyến tính và sẽ chơi hổ báo hơn nhiều khi so
với chiến thuật khi đấu với những nhà ở những vị trí đầu. Nhà BB sẽ 3-bet 13.4% lượng hand
và sẽ call với hầu hết suited hands, offsuit Ax, connectors và broadways. Range nhà BN đủ rộng
để nhà BB có thể call với nhiều hand hơn khi so sánh với những vị trí khác, vì nhà BN sẽ không
Khi nhà BN 4-bet, nhà BB sẽ phòng thủ hầu hết bằng việc call vì nhà BN đang khá phân cực.
Chiến thuật 5-bet của nhà BB bao gồm all in jamming AA (32%), AK, KK, QQ (55%), JJ (32%),
TT (31%), 99 (7%), A5s (45%), and A4s (43%). Range call sẽ được mở rộng ra để thêm những
Range 4-bet của nhà SB rất phân cực. Vì nhà BB có vị trí, nhà SB sẽ muốn call nhiều hand
hơn khi không 5-bet thường xuyên. Họ sẽ thường chơi chậm với AA (100%), KK (65%), QQ
(34%), AKs (87%) and JJ (28%) và call tất cả các hand có thể chơi được. Đối thủ sẽ fold những
Trong khi cash game và tournaments có thể khá tương tự nhau, nhưng thực chất chúng rất khác
nhau. Cash games thường chơi bàn 6 người không có antes và 100bb stacks, trong khi đó các bàn
tournaments thường chơi bàn 9 người có antes với đa dạng stack sizes xuyên suốt giải đấu. Những
yếu tố này, cộng thêm cấu trúc giải thưởng, khiến cho poker tournaments trở thành 1 thứ khác hoàn
toàn so với cash game.
Phương sai thấp thì kết quả sẽ gần với mức trung bình, còn phương sai cao thì kết quả sẽ nằm xa
hơn mức trung bình.
Nếu bạn sử dụng phần mềm theo dõi poker, nó có thể thông báo độ lệch chuẩn kết quả của riêng
bạn. Phương sai đơn giản tính bằng bình phương của độ lệch chuẩn. Nếu bạn biết độ lệch chuẩn là
S, bạn có thể tính phương sai như sau:
Trong đó:
Ví dụ, trong 1 tệp mẫu nhỏ với chỉ 3 điểm dữ liệu như (1, 6, 11):
Khi đó:
Ví dụ bạn có lưu trữ 100,000 hand poker đã chơi tại sàn online cash games. Nếu bạn chia chúng
thành từng 100 hand nhỏ, bạn có thể tính được win rates với mỗi 100 hand này chỉ với việc cộng
thêm lượng big blind thắng và trừ đi lượng big blind thua mỗi 100 hands. Quá trình này sẽ tạo ra
1000 kết quả win rates khác nhau mà bạn đã trải qua trong suốt 100,000 hand mẫu. Phương sai win
rates của bạn với mỗi 100 hands càng nhiều, độ lệch chuẩn sẽ càng lớn.
Quay trở lại với phương trình phương sai:
◆ Số lượng hand đã chơi. Khi mà số lượng hand được xác định là mẫu số, kết quả sẽ là số
lượng hand chơi càng lớn, tổng phương sai sẽ càng nhỏ hơn, và các tệp mẫu càng nhỏ
hơn, thì phương sai sẽ càng lớn hơn. Vì thế, người chơi thường xuyên sẽ có phương sai
thấp hơn so với người chơi ít.
◆ Sự chênh lệch của đường win rates giữa mỗi 100 hand mẫu và chỉ số thắng trung bình
của bạn. Khi mà chỉ số này được xác định là tử số, kết quả sẽ là chênh lệch càng lớn,
phương sai càng cao.
Những trò và sàn khác nhau sẽ có sự chênh lệch khác nhau giữa tỷ lệ thắng thực tế và tỷ lệ thắng
trung bình, và kéo theo là phương sai khác nhau và độ lệch chuẩn khác nhau.
Table 27: Độ lệch chuẩn của những trò chơi khác nhau
Tại sao hiểu được phương sai lại quan trọng đến?
Hiểu được phương sai giúp bạn có cái nhìn tốt hơn về kết quả poker của bạn, ước tính được chuỗi
thua hợp lý, chọn game để luyện tập và xác định quản lý bankroll khôn quan hơn
Như trong Chương 4, tỷ lệ thắng của người chơi có thể sử dụng để ước tính khoản thu nhập trong
1 khoảng thời gian, nhưng 1 mình nó không thể cho bạn 1 bức tranh toàn cảnh. Bởi vì phương sai,
kết quả thực tế thường chênh lệch so với dự tính, vì thế chúng ta cần có máy tính phương sai như
ở trang pokerdope.com/poker-variance-calculator để có thể lên kế hoạch cho trò chơi và chuẩn bị
bankroll trong trường hợp gặp phải chuỗi thua (downswing).
Sử dụng máy tính phương sai PokerDope, chúng ta có thể ước tính được kết quả có thể chênh
lệch so với dự tính, mô phỏng 2 người chơi cash NLH dựa trên các mẫu hand khác nhau (Tables
28 and 29).
So sánh kết quả 2 người chơi này chúng ta có thể kết luận được rằng, như dự kiến, độ chênh lệch
chuẩn giảm khi chúng ta tăng số lượng mẫu thử. Trong khi đó với tỷ lệ thắng cao không gây ảnh
hưởng tới độ lệch chuẩn, nó cũng làm giảm xác suất thua cuộc 1 cách đáng kể.
Một vài người đọc có thể đã nghe qua về poker tournaments có nhiều phương sai hơn cash
games, nhưng lý do tại sao lại như vậy?
Người chơi tournament thi đấu để giành lấy tiền thưởng phụ thuộc vào vị trí họ kết thúc trong
tournament và vì thế chip trong tournament không có bất kì giá trị nào và không thể đổi thành tiền
mặt. Vì vậy nếu 1 người chơi quản lý rất nhiều chip trong tournament, họ vẫn sẽ chẳng có gì nếu
họ không đưa bản thân nằm trong những vị trí có giải thưởng, thường sẽ là top 15-18%. Vì thế,
nếu như 1 người chơi tournament có tỷ lệ chiến thắng cao tầm 10bb/100, trái ngược hoàn toàn với
cash game, bạn sẽ không bao giờ biết được họ đã kiếm được bao nhiêu tiền sau khi chơi 1 vài
hand, hay họ đã kiếm được đồng nào hay chưa.
Để hiểu rõ hơn vì sao có nhiều phương sai trong tournament hơn là trong cash game, chúng ta có
thể nhắc đến 1 ví dụ đơn giản. Giả sử bạn vừa thua 1 hand mất 50bb trong 1 ván cash game. Nó
sẽ không quan trọng nếu bạn mất nó ở đầu buổi chơi hoặc sau 10 tiếng chơi. Bạn vẫn sẽ mất đúng
lượng tiền như thế. Hơn nữa, trong cash game, bạn luôn có thể nạp thêm tiền và quay lại mức
Vì vậy, để đánh giá kỹ năng của 1 người chơi tournament, chúng ta cần phải có nhiều số liệu khác
nhau. Đối với người chơi online, rất dễ để theo dõi kết quả ví dụ như websites
www.sharkscope.com luôn theo dõi tất cả tournament được chơi ở tất cả các sàn thông dụng và
cung cấp nhiều số liệu hữu ích. Đối với người chơi live, sẽ khó hơn để nhận biết được kỹ năng
thực sự, vì số lượng game đã chơi để làm mẫu sẽ nhỏ hơn, và số liệu duy nhất được ghi lại là tổng
thu nhập.
Lợi Nhuận
Lợi nhuận liên quan tới tất cả số tiền 1 người chơi kiếm được sau khi trừ đi số họ đã thua. Con số
này có giá trị hơn so với tổng thu nhập. Ví dụ, nếu 1 người chơi có tổng thu nhập là 2 triệu $, nhưng
đã chi 3 triệu $ để buy-ins vào giải, họ thực chất đã lỗ 1 triệu $. Tuy nhiên, chỉ với chỉ số này không
thể kết luận tới trình độ chơi của họ được. Ví dụ, 1 người chơi thua có thể mất rất nhiều tiền trong
1 khoảng thời gian dài nhưng sau đó họ may mắn trong 1 giải siêu to khổng lồ, dẫn tới kết quả lợi
nhuận tổng rất lớn.
ITM là tần suất 1 người chơi được trả tiền và có tiền giải. Đối với người chơi tour online, con số
này (bao gồm cả tour bounty) thường sẽ tầm 15-18% đối với những người chơi chiến thắng. Thấp
hơn con số này nghĩa là người chơi còn quá chủ động trong quá trình sắp vào tiền hoặc đánh quá
hổ báo trong giai đoạn đầu của giải đấu. Mặt khác, ITM cao hơn thường chỉ những người chơi quá
bị động trong giai đoạn sắp vào tiền và bỏ bài qua quá nhiều vị trí. Ép phải vào ITM đánh đổi bằng
việc mất đi cơ hội xây dựng stack lớn thường sẽ là bất lợi. Trong tour live, ITM% sẽ cao hơn nhiều
so với online, bởi vì như giải thích từ trước, trò chơi đang có xu hướng trở nên mềm hơn, và vì vậy
1 vài người chơi có thể đạt được mức ITM% tầm 30-50%.
ROI trung bình được tính độc lập cho từng tournament đã chơi và sau đó các kết quả được tính
trung bình. Chỉ số này nói lên rất nhiều điều hơn các chỉ số khác về kỹ năng của người chơi liên
quan tới sàn họ đang chơi.
Ví dụ, có 1 người chơi tệ đã chơi tổng cộng 1999 tour online $109 trong 1 năm và anh ta thua sạch
tất cả tour đó. Vì vậy, anh ta quyết định thử 1 lần tại sàn lớn hơn $1050 và giành được giải nhất với
giải thưởng $300k.
Bây giờ hãy nghĩ về những kiểu người chơi khác nhau vẫm đang thắng trong các tour $109 với vài
lần tiến sâu vào chung kết và bàn final. Sau khi chơi 1999 games, họ thắng được $301,050 và quyết
định chơi sàn lớn $1050. Tuy nhiên, họ gặp bad beat và không giành được giải thưởng nào. Vì thế,
tổng tiền thắng sau 2000 games của họ là $300k.
Nếu chúng ta tính tổng ROI của cả 2 người chơi, kết quả sẽ hoàn toàn giống nhau giữa người chơi
tốt và người chơi kém gặp hên:
Bằng cách phân tích ROI trung bình của 1 người chơi, chúng ta có thể có cái nhìn sâu hơn về
cách họ chơi poker trong dài hạn. Đương nhiên với ví dụ ở trên, ngay cả với những người chơi tệ
vẫn có thể ăn được tiền trong 1 vài tournament, vào sâu hơn và có suất trong bàn final với tần suất
nhất định, nhưng nó đã minh họa được quan điểm này.
Tuy nhiên, có 1 chỉ số ROI trung bình cao không đảm bảo người chơi này sẽ kiếm được tiền sau
khi chơi 1 vài game khác, và cũng như ta đã thấy, có 1 chỉ số ROI tệ cũng không chắc chắn được
người chơi này sẽ mất tiền nếu chơi tiếp thêm 1 vài game. Đây chính là do phương sai vốn có tại
MTTs.
Một cách khác để tăng khả năng sinh lời đó là chơi bàn mức lớn, mặc dù điều này cũng sẽ làm tăng
phương sai của bạn, và nhìn chung, bàn càng lớn, độ khó càng cao. Vì thế, bạn có thể đã dự đoán
ROI của mình sẽ bị giảm khi bạn chuyển lên những bàn lớn hơn. Đồng thời, cũng không có nhiều
bàn chơi tournament lớn như là những bàn tournament bé – trung bình, vì thế số lượng bàn chơi ở
mức cao trong 1 năm của 1 người chơi sẽ bị hạn chế và làm tăng phương sai. Chơi chế độ fast/turbo
tournament có thể giúp làm tăng số lượng bàn chơi, nhưng có thể chỉ số ROI ở đây cũng thấp hơn
so với các bàn chơi tốc độ bình thường do có ít thời gian hơn để lấy tiền từ những người chơi yếu
hơn, với hầu hết lối chơi sẽ ở pre-flop với mức stack thấp. Bounty tournament cũng tốt để làm giảm
phương sai, nhưng lợi nhuận kì vọng của bạn ở những tournament này sẽ thấp hơn bình thường vì
mức giải thưởng sẽ bị chia ra để làm tiền thưởng khi bạn thành công loại một người chơi khác, và
đối với người chơi yếu, những người ít có khả năng thắng giải đấu nhất, rất sẵn sàng chiếm lấy 1 ít
tiền thưởng bounty này bằng cách loại 1 vài người chơi trước khi bị loại. Mặt khác, vì 1 vài lý do
khác, bounty tournament phù hợp cho những người chơi yếu hơn.
Live MTTs sẽ đặc biệt thu hút hơn khi chúng cho bạn ROIs cao hơn so với khi chơi online với cùng
mức buy-in do sàn mềm hơn. Tuy nhiên, cùng lúc đó thì phương sai sẽ cao hơn nhiều khi chơi live
MTTs khi so sánh với online vì số lượng bàn chơi thấp. Vì thế, cách tốt nhất để tăng số lượng bàn
chơi đó là chơi online ( người chơi có thể chơi nhiều bàn cùng 1 lúc, nhiều hơn người chơi trực
tiếp)
Đối với người chơi mới, tôi để xuất nên chia ra 50% thời gian để chơi và 50% thời gian để học.
Cách dễ nhất để tăng ROI cho bạn là chơi ở mức bàn thấp để được chơi với những người chơi tệ.
Cách khó nhất đó là trở nên tốt hơn đối thủ của bạn. Và phần khó nhằn là bạn phải tự nghĩ ra cách
làm sao để thực hiện nó
Điều đầu tiên cần làm đó là đảm bảo bạn có thể thắng chip từ đối thủ của bạn. Sẽ rất khó để vào
sâu trong tournament nếu bạn không thể gom được nhiều chip bởi đưa ra những quyết định +EV,
vì thế bạn cần phải biết chơi game như thế nào cho tốt, dẫn tới việc phải học về chiến thuật pre-flop
và post-flop khi ở nhiều mức stack khác nhau, tỷ lệ pot, equity và tất cả những thứ được đề cập đến
trong sách. Tuy nhiên, như đã đề cập từ trước, chiến thắng trong tournament không phải chỉ đơn
giản đến từ việc tích trữ được chip.
Tournament giống như bộ môn nghệ thuật hơn là khoa học. Tôi thường thấy những người chơi cash
game nói về những người chơi hàng đầu MTT và thậm chí còn gọi họ với cái tên “người chơi
donkament” và những người chơi cash game này cũng không thể tự phát triển trong MTTs được.
Thậm chí tôi đã từng làm vậy trong quá khứ, nghĩ về tất cả mọi thứ cần có để có thể chiến thắng
trò chơi này đó là học GTO và đó chính là lý do chính tôi đã tìm hiểu về lý thuyết trò chơi ngay từ
khi mới bắt đầu. Đương nhiên, trở thành 1 phù thủy GTO giúp bạn chơi tốt hơn, nhưng có 1 vài kỹ
năng mềm những người chơi hàng đầu MTT cần phải phát triển để có thể thành công. Bao gồm
việc phải thấu hiểu cuộc sống của 1 người chơi tournament, vòng money bubbles, cách thay đổi
chiến thuật sau mỗi giai đoạn của tournament, hiểu sâu rõ về phân tích thông tin đối thủ, chưa kể
GTO poker không phải là về cân bằng, nó là về việc bắt bài đối phương. Chiến thuật cân
bằng nổi lên khi 2 người chơi đã biết rất rõ hết tất cả của đối phương, vì thế sẽ không cần
phải chơi cân bằng khi đối thủ của bạn không nhận thức được việc bạn đang làm gì hoặc
không biết làm gì tiếp theo khi đã bắt bài được bạn thậm chí ngay cả khi họ đã biết chính xác
bạn sẽ định làm gì tiếp theo.
Mặc dù suy nghĩ này có vẻ là thừa, nhưng hiểu thấu đáo điều này đã giúp tôi thanh đổi được tư duy
cốt lõi. Tôi đã từng cố gắng chơi tốt poker, để chơi giỏi. Giờ tôi chỉ muốn vượt qua được đối thủ
của mình. Tournament poker là trò chơi bắt bài đối thủ, và đây là lý do mà mấy gã như Daniel
Negreanu hay Phil Hellmuth là 1 trong những người chơi tournament thành công nhất trong lịch sử
poker, mặc dù họ vẫn chưa cần thiết phải thành thạo học thuyết poker. Daniel có thể đọc đối thủ
đang cầm AA check trên mặt Qxx khi anh fold top pair và Hellmuth có thể fold AK pre-flop khi
đấu với AA trong khi đang stack còn ít, và rồi sau đó 1 chút lại bluff điên cuồng trước Jungleman,
khiến anh ta phải fold trips và tặng cho anh ta danh hiệu “King of the Hill”.
Đây cũng chính là lý do vì sao Fedor Holz đã từng càn quét cả thế giới, thắng tất cả các giải đấu
với mức tiền lớn trước khi từ giã sự nghiệp để theo đuổi các dự án khác. Anh ấy đã nói trong buổi
phỏng vấn rằng anh ấy không nghĩ mình không có tài năng gì đặc biệt trong poker nhưng xung
quanh anh toàn những con người giỏi và anh đã trở thành 1 phần của cộng đồng tuyệt vời này, điều
đó đã giúp anh cải thiện kỹ năng cá nhân của mình. Điều khiến anh khác biệt so với những người
chơi khác trong đội tuyển Đức đó là khả năng đưa các học thuyết vào trong thực hành, thích ứng
tối ưu hơn đối thủ và tìm ra được điểm yếu đối phương.
Nguyên tắc và chiến thuật GTO được đề cập trong cuốn sách này có thể giúp người chơi cải thiện
trò chơi của họ, tránh những lỗi cơ bản và đưa ra những quyết định chính xác. Tuy nhiên, có nhiều
thứ cần phải có nữa để chiến thắng poker thay vì chỉ đang chơi tốt. Vì thế, lời khuyên của tôi để
tăng chỉ số ROI của bạn đó là học các học thuyết poker và tập trung làm sao đưa nó vào trong luyện
tập được. Nghiên cứu đối thủ và không bao giờ sợ đưa ra quyết định sai lầm hoặc trông ngu ngốc,
giống như Daniel, Phil hay Fedor đã không sợ, thậm chí khi chơi những ván đấu siêu lớn được cả
thế giới theo dõi.
Table 30: Mô phỏng các kết quả của 2,000 giải đấu buy in $109 Online MTTs
Thậm chí sau khi qua 2000 trận mẫu tournament với mức ROI trung bình là -25%, người chơi A
vẫn có thể tạo ra được lợi nhuận. Người chơi B, với ROI -10%, có thể chiến thắng được $36,865,
nhiều hơn cả kì vọng của người chơi D là $21,800, người có mức ROI là 10%. Người chơi C là 1
người chơi hòa vốn với khoảng 50% sẽ bị mất tiền, tuy nhiên kết quả có thể đâu đó trong khoảng -
$56,300 tới $88,690. Nếu người chơi B, với -10% ROI, có 1 buổi chơi may mắn, và người chơi F
với 50% ROI, có 1 buổi chơi tệ nhất, họ sẽ cùng có chung 1 kết quả là thắng ~$36k.
Nếu chúng ta đánh giá kỹ năng 1 người chơi thông qua việc đánh giá số tiền họ thắng, chúng ta có
thể nhầm lẫn cho rằng người chơi B và F có cùng kỹ năng như nhau hay người chơi C là người
thắng rất nhiều, trong khi thực tế họ là những người chơi hòa vốn có được 1 buổi chơi may mắn
(đây là hiện thực của khá nhiều người chơi đã trải qua 1 vài lần thành công). Sự thật là 1 vài người
chơi thắng được rất nhiều tiền thực tế là những người chơi thua cuộc đang gặp may mắn. Điều này
khi nói ngược lại vẫn đúng. Có những người chơi tốt đã từng trải qua những hôm đen đủi nhất dựa
trên tệp mẫu và đã có ý định từ bỏ trò chơi trước khi có thể thay đổi mọi thứ trở lại. Nếu chúng ta
sử dụng mẫu ít hơn là 200 games thay vì 2000 games, bài toán sẽ rất khó kiểm soát, như đã shown
ra trong Table 31.
Trong 200 mẫu tournament, ngay cả 1 người chơi chắc chắn thắng như E, người đang có ROI 25%,
sẽ thua tiền 28% số lần chơi, và người chơi A với ROI -25% sẽ đôi khi ăn được $20,000 sau khi
chơi 200 tournament.
Rất dễ để đánh mất chính kiến và ảo tưởng sức mạnh về bản thân sau khi có 1 vài chiến thắng. Hy
vọng rằng điều đó chưa xảy ra với bạn, vì tôi sẽ chia sẻ 1 câu chuyện nhỏ sau cho bạn nghe.
Tôi đã học chơi poker từ năm 2009 và bắt đầu có những chiến thắng nhỏ tại các sòng casino địa
phương. Năm 2010, tôi tiến vào bàn final của 1 giải đấu và đã thắng được $2000, vì thế tôi đã
quyết định từ bỏ công việc ở Trung tâm cuộc gọi và sử dụng $2000 cùng 1 vài thẻ tín dụng để làm
bankroll (khá chắc nhiều người các bạn sẽ tự che mặt mình lại ngay bây giờ). Tới hết năm 2010,
tôi đã chơi được 1 và chỉ 1 MTT $300 và chiến thắng tổng $17,000 để tới 2011 PokerStars
Caribbean Adventure diễn ra tại Bahamas, lúc đó tôi cảm giác như đang ở đỉnh thế giới. Sau 1 năm
chơi poker, 1 vài chiến thắng cùng với việc đọc 1 vài cuốn sách, tôi đã sẵn sàng nghênh chiến cả
thế giới và đè bẹp Ivey, Durrr và tất cả những người chơi giỏi nhất còn lại trên thế giới! Đúng
không nhỉ?
Tôi đã kết thúc PCA Main Event và tiêu hết toàn bộ bankroll trong thời gian diễn ra chuỗi giải
đấu, bao gồm cả thẻ tín dụng, nhưng ít nhất tôi đã có vài tấm ảnh đẹp khi đang bơi cùng cá heo
cùng với bức ảnh cùng với thần tượng mọi thời đại của tôi – Daniel Negreanu.
Và thế là, tôi đã phá sản, và tệ hơn là giờ tôi còn bị nợ nần. Bằng cách nào đó, tôi lại có thêm $1000
có thể sử dụng trong thẻ tín dụng, thế là tôi bắt đầu cày lại bankroll bằng việc chơi live cash game
với tiền mang mệnh giá ở nước tôi. Tôi không thể cố gắng chơi được những bàn $1/$2 USD thêm
nữa. Tôi phải quay lại chơi với mức ₡500/₡500, tương đương với mức $1/$1. Và vì thế, bankroll
Một khi bạn đã biết được độ lớn của bankroll của mình, bạn cần quyết định nên chơi loại trò chơi
nào. Tôi khuyên các bạn nên giữ bankroll ở mức 200 buy-ins. Đương nhiên, bạn càng có nhiều buy-
ins, khả năng bạn phá sản càng thấp. Nếu bạn muốn giảm khả năng phá sản xuống thấp nhất có thể
thì khuyến nghị của tôi là 1000 buy-ins.
Nếu bạn đã lên kế hoạch để trở thành dân chuyên, tôi khuyên bạn nên có 1 nguồn tiền tách riêng ra
khỏi bankroll để bạn có thể trang trải cho cuộc sống trong vòng ít nhất 6 tháng. Nếu bạn muốn tránh
vấn đề tài chính đau đầu, bạn nên để dành ra hẳn 1 năm hoặc hơn nữa.
Như bạn đã thấy, bankroll yêu cầu khá lớn so với những gì nhiều người chơi poker đang thực sự
có, trừ phi họ may mắn ăn được 1 tour siêu to từ rất sớm trong sự nghiệp. Vì lí do đó, tìm kiếm
người đầu tư cho mình đánh là 1 cơ hội tốt để chơi mức bàn cao hơn so với việc tự mình xoay sở.
Rất nhiều người hỗ trợ đưa ra đề nghị để cho người chơi giữ 1 nửa giải thưởng cùng danh hiệu,
nghĩa là cộng hết tiền thua và phải trả hết trước khi lợi nhuận được chia đôi. Ví dụ, nếu bạn tụt
xuống còn $5000 nhưng sau đó lại ăn được 1 tour $10,000. $5,000 sẽ bù lại vào phần lỗ, và $5,000
Tùy thuộc vào kỹ năng của bạn, bạn có thể đàm phán để có có giao dịch tốt hơn, ví dụ như 55/45
hoặc thâm chí 60/40 nếu bạn muốn. 1 vài người hỗ trợ đưa ra yêu cầu cho live tournament là 40/60,
nhưng họ sẽ bao trọn gói chi phí đi lại cho bạn.
Cuối cùng, nếu bạn chơi live tournament, bạn có thể giữ bankroll nhỏ hơn vì bạn sẽ có ROI cao
hơn và cũng ít người chơi live hơn so với chơi online. Điều này sẽ giúp bạn ít bị thay đổi thất
thường. Chỉ cần đảm bảo tài khoản cho chi phí đi lại. Nếu bạn không siêng năng cho lắm, chúng
có thể cộng dồn lại, khiến cho cả những người chơi thắng lớn thành ngươì thua cuộc.
Trong cả 2 trường hợp, người chơi đầu tư số tiền xấp xỉ bằng nhau và có EV giống nhau, nhưng
khả năng thua của trường hợp #1 cao hơn gấp 10 lần, khi họ định chơi 1 khoảng buy-ins rất rộng
và có thể bị giao động từ -$262,000 tới $1.4 triệu, trong khi đó viễn cảnh tồi tệ nhất trong trường
hợp #2 chỉ là -$36,000. Tôi đã học được bài học này vào năm 2016 khi tôi đã có chuỗi thua tồi tệ
nhất tôi từng trải qua. Tôi thắng gần $60,000 với trên 2,000 games midstakes online MTTs, nhưng
đã thua lại $120,000 khi chỉ chơi dưới 200 games high stakes MTTs, bao gồm cả $10,000 SCOOP
High ME và $5,000 WCOOP ME trong khi chỉ số ABI của tôi đang là $103. Chỉ thua 2 tour kia
thôi đã làm tôi bay mất 150 buy-ins! (Đau!)
Table 33 thể hiện kết quả thực sự 1 người chơi online thực tế và chỉ số của họ để bạn có cái nhìn
tương quan hơn giữa các kết quả và các thông số khác nhau. Số liệu được lấy từ trang
sharkscope.com.
Table 33: Kết quả MTT của những người chơi top thế giới
Table 34: Kết quả của những người chơi MTT tốt tại Mid-high
Stakes
Players 6-10 là những người chơi tốt khi chơi ở mức stakes trung bình cao (Table 34). Kiểu người
chơi này có cơ hội trở thành 1 trong những người chơi tốt nhất thế giới. 1 trong số họ vẫn đang cố
gắng phát triển hơn nữa trong khi số còn lại bằng lòng với việc in tiền ở mức mid-stakes.
Players 11-15 thuộc stakes thấp và trung bình (Table 35). Trong nhóm này chúng ta bắt đầu thấy
ROIs trung bình thấp hơn và kết quả của họ cũng có độ chênh lệch lớn hơn, trong khi 1 số ít chỉ
thắng được ít tiền hay thậm chí còn thua tiền. Kiểu người chơi này sẽ dành nhiêù thời gian để vận
hành trò chơi của họ, đảm bảo rằng họ chơi đầy đủ các nguyên tắc cơ bản tốt. Họ nên tìm kiếm cho
mình 1 người hướng dẫn/hlv, hoặc tham gia vào hội nhóm những người học cùng nhau và hỗ trợ
lẫn nhau.
Players 11 and 14 rõ ràng đang chơi ở mức cao hơn so với trình độ hiện tại của họ.
Players 16-20 là những người chơi thua cuộc (Table 36). Tất cả họ đang chơi ở mức stakes quá
cao so với kĩ năng của họ. Họ nên dừng chơi ở những mức buy-in cao hơn, luyện tập nhiều hơn về
các kỹ năng, kỹ thuật, đọc sách lý thuyết, xem nhiều video hướng dẫn nhất có thể và chắc chắn nên
tìm 1 người hướng dẫn giúp họ sửa được những lỗi lớn nhất đang bị hổng. Chung quy lại, họ có vẻ
bị thua ra khỏi tournament khi đang trong giai đoạn đầu khá thường xuyên và không thể tiến sâu
vào giai đoạn cuối với tần suất phù hợp.
Tuy nhiên, vẫn phải nhấn mạnh rằng trò chơi tinh thần là chìa khóa chính để thành công
trong poker và đặc biệt trong MTTs.
Trò chơi tinh thần là lỗ hổng lớn nhất của tôi trong suốt quá trình sự nghiệp poker và có vài khía
cạnh mà tôi đôi khi vẫn phải chật vật vượt qua. Cảm ơn huấn luyện viên tinh thần của tôi Elliot Roe
và Dr. Tricia Cardner, tôi đã có thể vượt qua hầu hết các giới hạn về tinh thần trong game, vì thế
tôi cũng rất khuyến nghị bạn đọc những cuốn sách về tinh thần trong trò chơi, nghe podcast, xem
video và, nếu có thể, hãy tìm cho mình 1 người huấn luyện viên nếu bạn thực sự muốn thành công
trong poker.
Với kinh nghiệm của tôi, sẽ có 1 vài điểm tư duy mà những người thành công thường có, trong khi
những người thua cuộc thường có xu hướng ngược lại hoàn toàn. Chúng có thể được tóm tắt lại
như sau:
Người thắng
◆ Đạo đức làm việc tốt, làm việc nghiêm túc để cải thiện kĩ năng trò chơi và áp
dụng nó vào các bàn chơi
◆ Kiểm soát được cảm xúc
◆ Luôn tìm kiếm ý kiến phản hồi và sẵn sàng nhận chỉ trích
◆ Tăng EV bằng cách chơi với những người chơi yếu hơn hầu hết thời gian
◆ Chỉ chơi nhiều bàn nhất có thể khi đã duy trì được tinh thần và chơi trò chơi 1
cách tốt nhất
◆ Quan tâm tới sức khỏe bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục, thiền và uống
nhiều nước
◆ Ngủ kĩ, đặc biệt là những tối trước sự kiện lớn
◆ Tham gia mạng lưới những người chơi thành công poker và liên tục trao đổi các
ván bài và chiến thuật poker với họ
Người thua
◆ Thường có thái độ tệ
◆ Đổ lỗi cho phương sai, đen đủi, phòng poker hay thậm chí là do người chia vài
dẫn tới kết quả tồi tệ cho họ
◆ Lười, không bao giờ chịu tìm hiểu về trò chơi và cố gắng cày nhiều giờ trên các
bàn.
◆ Thường xuyên bị xuống tinh thần
◆ Không quan tâm tới sức khỏe, ăn thức ăn không tốt và không bao giờ tập thể
dục
◆ Sử dụng đồ uống có cồn, chất kích thích
◆ Không có thói quen ngủ tốt, sẵn sàn đi chơi và quẩy đêm trước ngay trước ngày
sự kiện lớn
◆ Nhảy thẳng từ giường ra các bàn poker
◆ Kể những câu chuyện bị bad beat và phàn nàn tại sao họ lại đen như thế cho
bạn bè của họ
Thắng 1 giải đấu có thể được nhìn nhận theo 2 cách. Chúng ta đều biết rắng người chiến thắng là
người đã thắng tất cả số chip, mặt khác chúng ta có thể nói người chiến thắng là người chơi còn trụ
lại cuối cùng.
Tournament là về sự sinh tồn, tồn tại lâu hơn so với đối thủ hơn là việc cố gắng tự mình loại bỏ họ.
Vì thế, cuộc sống trong Tournament liên quan tới giá trị khi vẫn còn chip trong 1 giải đấu Poker
Tournament
Nếu Tournament không được tính bằng Chip EV (cEV), thì còn yếu tố nào khác ảnh hưởng tới
quyết định trên bàn chơi không?
Ví dụ
Bạn đang chơi WSOP ME và đang chơi ván đầu tiên ở mức đầu tiên với 50,000 chips với mức
blind là 75/150 (hiện có 333bb). Tất cả đã fold đến vị trí SB, 1 gã điên, người sẽ luôn all-in mà
không cần nhìn bài. Bạn đang ở vị trí BB và caàm J8o. Liệu bạn sẽ call cú all-in kia không?
J8o sẽ dẫn trước 1 hand bài ngẫu nhiên, có 51,48% equity. Call với J8o sẽ tạo ra 10.9bb mỗi lần, vì
thế nó sẽ đáng giá 1,090bb/100. Phân tích theo góc nhìn từ cEV, đó sẽ là 1 cú call dễ dàng vì khi
fold sẽ là 0bb EV. Tuy nhiên, liệu có quá rõ ràng khi hầu hết mọi người đều sẽ không call với J8o
ở vị trí này mặc dù nó +cEV, tại sao lại như vậy?
Nếu bạn đợi 1 hand khỏe như AA vào lần kế tiếp để chơi tới bến với gã điên kia, bạn sẽ tạo ra được
+235bb mỗi hand hoặc 23,500bb/100. VÌ thế, sẽ đáng giá hơn rất nhiều để ngồi đợi cho vị trí tốt
hơn. Trong khi đây chỉ là 1 ví dụ và bạn phải tự hiểu ra rằng khi nào thì bạn mới có được vị trí tốt
hơn, nó củng cố cho việc ảo tưởng về giá trị dự kiến của những hand bài trong tương lai.
Trong cash game, nếu bạn vừa gấp đôi lượng stack cuả mình, bạn đã gấp đôi số tiền của mình,
nhưng trong tournament, số lượng chip và giá trị thực tế của chúng không có gì liên quan tới nhau.
Hãy cùng nhau xem qua ví dụ này.
Ví dụ
Bạn đang chơi giải có 10 người $10 buy-in SNG với tổng giải tưởng là $100. Chỉ có những người
lọt top 3 sẽ được trao giải, với giải nhất $50, giải nhỉ $30, giải ba $20. Để đơn giản hơn, sẽ không
Đây được biết đến như Nguyên tắc Thu nhỏ Giá trị Chip: Trong giải đấu Tournament,
những đồng chip mạo hiểm sẽ đáng giá hơn nhiều so với lượng chip dành chiến thắng, và bạn
càng có nhiều chip, giá trị của từng đồng chip sẽ càng ít đi
ICM là mô hình toán học được thiết kế để ấn định giá trị tiền tệ vào lượng chip stack và được thể
hiện dưới dạng số phần equity trong tổng giải thưởng còn lại.
Dựa vào kích thước stack, ICM sẽ tính xác suất mỗi người chơi kết thúc ở từng vị trí và nhân xác
suất này với tiền thưởng ở từng vị trí. Việc tính toán này thường quá phức tạp để làm bằng tay,
nhưng may mắn là đã có những máy tính ICM online, ví dụ như bạn có thể dùng miễn phí ở trang
holdemresources.net/icmcalculator.
Quay lại với ví dụ 10 người chơi SNG, tưởng tượng có 4 người chơi còn lại với lượng chip được
phân bổ như sau (Table 37).
◆ Chip Expected Value (cEV): số chip trung bình bạn mong đợi khi bạn thực hiện 1 hành
động
◆ Monetary Expected Value ($EV): lượng tiền trung bình bạn mong đợi khi bạn thực
hiện 1 hành động, dựa theo equity của bạn trong tổng giải thưởng.
Trong cash game, cEV và $EV là giống nhau (nếu bỏ qua lãi sàn), tuy nhiên, trong MTTs,
các quyết định của người chơi sẽ luôn thay đổi dựa trên $EV.
Hãy cùng xem 1 ví dụ sử dụng Holdem Resources Calculator (HRC) để tính cEV và chiến thuật
cân bằng push/fold ICM với mức blind 50/100.
Ở Table 38 bạn có thể thấy CO, BN và SB muốn chơi chắc chắn như thế nào vì đang trong vòng
sắp vaò tiền. Rất nhiều hand là những hand có cEV có lợi nhuận khi all in thì lại là -$EV, vì thế
Ở Table 39 stack của BB và BN đã bị đổi cho nhau và bây giowfBN đang có lợi thể về lượng stack
lớn của mình và sẽ all in 2 lá bất kỳ dẫn tới những nhà BB và SB khó call hơn rất nhiều vì ICM.
Hiệu ứng ICM trong chiến thuật cân bằng phụ thuộc vào độ lớn của stack và cấu trúc tiền thưởng
của giải đấu. Giải đấu có giải thưởng tập trung ở top đầu sẽ chơi hổ báo hơn và giải đấu có cấu trúc
giải thưởng chia đều cho mọi người thì sẽ chơi chắc lại.
Nó cũng rất quan trọng khi bạn chú ý tới chiến thuật của đối phương, vì bạn không thể áp dụng sức
ép ICM đến những người chơi không có biết về ICM hay những người không chọn theo ICM. Việc
tính toán all-in/fold giả định tất cả người chơi đều theo chiến thuật cân bằng ICM. Nếu có 1 người
chơi không theo ICM và bạn đang chơi 1 hand đấu với họ, bạn có thể trả giá bằng EV của mình, và
EV đó sẽ được chuyển qua cho các người chơi khác trên bàn.
Ví dụ, ở Table 38, nhà SB thực hiện chiến thuật ICM khi all-in 14.9% lượng hand, nhưng giả sử
BB biết về ICM và vì thế call với chỉ 6.7% lượng bài. Nếu BB call với lượng cEV trong range bài
23.8%, cả 2 người chơi sẽ bị mất EV mặc dù họ đã chơi “đúng”
Trước khi học thuyết Phần mềm solvers hiện tại ra đời, việc tính toán ICM là cách duy nhất để chọn
trong tình huống push/fold, nhưng đã số solver bây giờ đều kết hợp với cách tính của ICM, mở ra
1 thế giới mới để phát triển chiến thuật ở bàn final. Với nhiều loại cấu trúc giải thưởng và sự phân
chia stack khác nhau ở bàn final, gần như không thể để phát triển 1 chiến thuật bao gồm đầy đủ tất
cả các trường hợp, là điều vượt quá xa so với cuốn sách này. Thay vào đó, chúng ta nên tập trung
ICM được dựa theo 1 vài giả định nhất định để có thể tính toán được:
◆ Tính toán dựa trên số lượng hand đã thu thập, và bỏ qua những ván chơi trong tương lai, ví dụ
như mức blind tăng lên khi chơi tiếp, hoặc giá trị tương lai khi xây stack lớn và cho bạn khả
năng ép all-in đối với những nhà stack thấp.
◆ ICM giả định tất cả người chơi có kỹ năng như nhau
◆ Không có hình ảnh về những người chơi trong bàn
◆ Tính toán bị hạn chế tới 1 số lượng người chơi nhất định, thường chỉ dừng ở bàn final, hoặc 2
bàn final, vì thế mà ICM không thể áp dụng ở giai đoạn đầu khi mà người chơi còn cách quá
xa để tới được vị trí có tiền.
◆ ICM không quan tâm tới vị trí của người chơi. Ví dụ, stack 4bb ở BN có giá trị hơn so với vị
trí đầu tiên
Bởi những lý do ở trên, ICM không phải là hoàn hảo. Tuy nhiên, nó vẫn cung cấp $EV xấp xỉ chính
xác, giup người chơi đưa ra quyết định tốt hơn trong bàn final, giai đoạn sắp vào tiền và SNGs.
Rõ ràng, sẽ không thể cho chạy tính toán ICM trong khi đang chơi, nhưng phân tích các cách thiết
lập ICM khác nhau trong lúc nghiên cứu có thể giúp bạn phát triển được bản năng phán đoán đúng.
Tiếp theo, tôi tổng hợp 1 vài hướng dẫn hữu ích nhất:
◆Nên chơi chắc hơn trong tournament hơn so với cash game
◆Stack trung bình nên chơi chắc chắn lại nếu còn những nhà stack thấp, đặc biệt đang trong
giai đoạn sắp vào tiền
◆Stack lớn có thể đe dọa những nhà stack trung bình, đặc biệt trong giai đoạn sắp vào tiền khi
Trong tournament, bởi vì quy luật giá trị chip giảm dần, chúng ta biết được số lượng chip bạn thắng
sẽ có thể không đáng giá bằng số lượng chip bạn đang có. Bạn có thể nghĩ về nó như đang mạo
hiểm thêm vì 1 pot có cEV đánh giá thấp. Vì vậy, trong giải đấu, bạn cần nhiều equity hơn so với
cash game để tạo ra lối chơi +$EV. Lượng euiqty thêm vào này được gọi là phần thưởng rủi ro
(Diagram 17).
Quay lại với ví dụ 10 người ở SNG, chúng ta có thể thấy trong Table 39, BN đang là người có nhiều
chip nhất với 6,000 chip có thể all-in với bất kì 2 lá bài nào. Tôi đã đề cập rằng dựa vào ICM, các
nhà BB và SB đang bị ép phải chơi range rất hẹp bởi vì đang trong giai đoạn sắp vào tiền. Thực tế,
sau khi BN all-in thì trong 100% hand của SB, người có lượng stack thứ 2 với 1800 chip, sẽ chỉ call
với range gồm AA-TT. Nếu SB fold, thì range call của BB cũng chỉ từ AA-88, AKs và AQs.
Hãy thử tính cEV của BB khi call bằng AKo khi đấu với cú all-in từ BN, giả sử SB đã fold, dựa
Call với AKo rõ ràng sẽ tạo ra lợi nhuận về chip, vì thế bây giờ hãy tính $EV của nhà BB khi call
với AK ở cùng vị trí đó:
Sử dụng máy tính ICM HRC, giá trị stack của BB trước khi fold là $18.02. Thay vào đó, sau khi
call và dành chiến thắng, giá trị stack đã lên $27.12, vì thế $W được thêm vào stack nhà BB là:
Vậy là việc call AKo sẽ không mang lại lợi nhuận theo giá trị tiền tệ.
Sử dụng phương trình EV, chúng ta có thể tính toán equity cần có nhỏ nhất để thực hiện cú call có
lợi nhuận:
Ma trận tương quan của phần thưởng rủi ro - Risk Premium Correlation Matrix
Phần thưởng rủi ro thay đổi phụ thuộc vào kích thước stack của người chơi đang trong ván bài và
cao hơn khi call 1 cú bet lớn, đặc biệt nếu call tất cả số chip và đặt mạng sống trong giải đấu của
Table 41: Trung bình giá trị của phần thưởng rủi ro MTT
Phụ thuộc vào cấu trúc giải thưởng của giải đấu và sự phân chia stack chính xác, phần thưởng rủi
ro có thể thay đổi. Nếu cấu trúc giải thưởng phân bổ rộng thì phần thưởng rủi ro sẽ cao hơn và nếu
cấu trúc giải thưởng tập trung hết vào các vị trí đầu tiền, phần thưởng rủi ro sẽ thấp đi. Nếu trong
giải đấu mà người nhất ăn hết, phần thưởng rủi ro sẽ bằng 0 vì sẽ chẳng có ích lợi gì khi được leo
lên trong bảng xếp hạng. Sự có mặt của những stack thấp sẽ tăng phần thưởng rủi ro của những
người chơi khác (đặc biệt giữa 2 nhà stack thấp với nhau)
Để call 1 cú bet nhỏ như min-raises, phần thưởng rủi ro có thể bé hơn 2% nhưng nó vẫn tạo ra điểm
khác biệt trong range phòng thủ của BB, đặc biệt với những hand tệ nhất trong range, sẽ làm giới
hạn cú call +cEV. 1 lý do khác nữa để phòng thủ chặt hơn khi đang ở BB khi bạn có phần thưởng
rủi ro cao đối với nhà open, là khi họ tiếp tục bet ở post-flop. Sẽ khá khó khăn cho nhà BB để call
nhiều pha bet và vì thế EQR sẽ trở nên thấp hơn so với cEV thông thường. Nên nhớ rằng phần
thưởng rủi ro là phần euiqty thêm cần có để có thể chơi có lợi nhuận. Nó có nghia là nó không chỉ
áp dụng trong việc call những cú bet, mà thậm chí là lúc nghĩ về việc bet. Vì lí do này, BB nên
phòng thủ rộng hơn đối với những nhà có phần thưởng rủi ro cao, khi mà đối thủ đang không biết
có nên bet nhiều vòng hay không và BB có thể realize equity dễ dàng hơn.
Giả lập trò chơi tương lai - Future Game Simulation (FGS)
Như đã đề cập ở trước, ICM không phải hoàn hảo và những mô hình mới hơn như FGS được phát
triển để đánh vào đúng những điểm hạn chế của ICM như:
FGS chạy giả lập ICM bao gồm 1 số hand tiếp theo cho tới hand hiện tại, tính toán mỗi khả năng
có thể xảy ra và ICM EV của từng stack mỗi người chơi.
1 vài tính huống khi người chơi có thể dùng FGS tốt hơn ICM là khi:
◆ Mức blind chuẩn bị tăng lên
◆ Stack người chơi còn rất ít và sợ phải chơi và fold equity
◆ Có cơ hội cao nhà stack thấp sẽ bị loại sớm hoặc đóng blind tới chết (điều này thường hữu
dụng trong giai đoạn sắp vào tiền hoặc chơi giải đấu theo chuỗi)
Trong khi FGS là bản cải tiến của ICM và tạo ra những kết quả xấp xỉ gần nhất về $EV thực tế
trong tương lai, mô hình này vẫn có những điểm hạn chế riêng:
◆ FGS tính toán chuyên sâu hơn nhiều so với ICM, vì thế nó phải dành nhiều thời gian
hơn để tính
◆ FGS không quan tâm về post-flop và chỉ sử dụng công cụ tính toán push/fold cho 1 số
lượng người nhất định, vì thế không sử dụng được trong giai đoạn đầu của giải đấu
◆ Các kết quả đưa ra dựa vào FGS khác hoàn toàn so với ICM chỉ trong trường hợp bàn
còn quá ít người (6 người trở xuống), và stack còn ít hơn 10bb, với 1 số ít còn cực ít
(dưới 5bb)
Ý tưởng quan trọng nhất có thể rút ra từ những mô hình này đó là quy luật giảm dần giá trị
chip: Trong giải đấu poker, số chip mang ra để mạo hiểm đáng giá hơn rất nhiều so với số
chip ăn được, và càng nhiều chip thì giá trị của từng đồng chip càng giảm đi.
Cho tới bây giờ, các mô hình toán học chúng ta vẫn đang sử dụng để tính toán giá trị tiền mặt của
1 lượng chip, thông qua ICM và FGS, đều bị hạn chế trong tình huống tất cả người chơi đều đã vào
vòng có tiền, hoặc rất rất gần với nó, vậy điều gì sẽ xảy ra trong giai đoạn đầu của giải đấu? Liệu
quy luật giảm dần giá trị chip có còn đúng không? Những người chơi nên thận trọng hay tận dụng
rủi ro này? Còn yếu tố nào khác mà mô hình không thế tính toán tới, ví dụ như ngưỡng trình độ?
Giả sử trong 1 tình huống 2 người chơi bắt đầu với 1 lượng chip nhất định, đánh với nhau cho đến
khi 1 người bị “hết chip” khi chạm tới 0.
Những người chơi cờ bạc là những người chơi 1 trò chơi có 50% tỷ lệ chiến thắng sẽ cuối cùng bị
phá sản hoặc gấp đôi lượng tài sản.
Giả sử có 1 trò chơi tung đồng xu với 2 người chơi có cơ thắng là 50% cho mỗi người. Sau mỗi lần
tung đồng xu, người thua phải chuyển 1 chip cho người thắng. Trò chơi kết thúc khi 1 người nắm
giữ toàn bộ số chip
Nếu người chơi 1 có n1 chip và người chơi 2 có n2 chip, khả năng người chơi 1 và người chơi 2 sẽ
mất hết sạch chip là:
Giả sử khi cả 2 người chơi có lượng chip bằng nhau. Cứ cho rằng mỗi người có 6 chip đi. Thì xác
suất mỗi người sẽ thua là:
Chúng ta có thể kết luận rằng kể cả với tỉ lệ thắng bằng nhau, người chơi bắt đầu với ít chip hơn
vẫn dễ thua hơn.
◆ Bạn có kĩ năng cao hơn ( 52% khả năng chiến thắng cho mỗi lần cá cược)
◆ Bạn có kĩ năng thấp hơn (48% khả năng chiến thắng cho mỗi lần cá cược)
Với mức kĩ năng nhất định, xác suất chiến thắng của bạn sẽ tăng lên tuyến tính với kích thước stack
của bạn. Nếu bạn có 2 chip, tỷ lệ thắng chỉ là 10%, nếu bạn gấp đôi nó lên 4 chip, xác suất bạn
thắng cũng gấp đôi lên thành 20%. Nếu bạn có 10 chip (1 nửa số chip đang chơi) thì bạn sẽ có 50%
xác suất chiến thắng.
Nếu bạn có kĩ năng cao, xác suất thắng của bạn sẽ không tăng lên tuyến tính theo kích thước stack.
Nếu kích thước stack của bạn được tăng lên, độ dốc của đường cong sẽ giảm đi. Ví dụ, nếu đường
cong dốc hơn ở điểm 2 hơn là điểm 18. Độ dốc là giá trị thêm vào của từng chip bạn thêm vào stack
của họ. Với kỹ năng giống hệt nhau, giá trị thêm vào của mỗi chip được thêm là 0.05, nhưng trong
trường hợp kỹ năng cao hoặc kỹ năng kém, giá trị hàm số không phải là 1 đường thẳng và vì thế
giá trị thêm vào của lượng chip được thêm vào sẽ phụ thuộc nhiều vào tổng số chip bạn đang có.
Chip cuối cùng thêm vào stack của bạn nếu họ có kỹ năng chơi tốt sẽ có giá trị thấp nhất (0.021).
Chip cuối cùng thêm vào stack của bạn nếu họ có kỹ năng chơi kém sẽ có giá trị cao nhất (0.096).
Khi bạn có kỹ năng kém (Diagram 20), xác suất thắng của bạn cũng không tăng theo hình dáng
tuyến tính với lượng stack. Nêsu bạn có 2 chip thì xác suất bạn thắng là 4%, nếu gấp đôi số chip
lên 4 thì xác suất là 10% (nhiều hơn gấp đôi). Nếu bạn có 10 chip (1 nửa lượng chip đang được
choi) thì xác suất bạn thắng chỉ là 31%.
Ví dụ, tưởng tượng bạn yêu cầu chơi tung đồng xu 1 lần 5 chip với mức stack là 10 chip. EV đối
thủ nhận được từ trò chơi này được tính bằng cách vẽ 1 đường thẳng từ điểm số 5 tới 15 và đường
giá trị bằng 1 nửa chỗ đó. Nếu kỹ năng bạn tốt, đường giá trị sẽ luôn dưới đường cong, nghĩa là bất
kì lần cá cược nào trong cEV sẽ có xác suất chiến thắng là -EV. Nếu kỹ năng bạn kém, đường giá
trị sẽ luôn ở trên đường cong, nghĩa là bất kì lần cá cược nào trong cEV sẽ có xác suất chiến thắng
là +EV.
Từ vấn đề về sự hủy hoại trong cờ bạc, chúng ta có thể kết luận rằng nếu bạn có kỹ năng
chơi tốt, bạn nên nâng cao cảnh giác và tránh cờ bạc nhiều hơn. Ngược lại, nếu bạn có kỹ
năng kém, bạn nên sẵn sàng cờ bạc hơn để kiếm 1 khoản lớn cho stack của bạn
Tất cả điều này đều cảm giác hợp lý. Nếu bạn có 1 kỹ năng vượt trội hơn hẳn khi đấu với người
chơi kém, bạn không nên quá vội vàng all-in pre-flop ngửa bài để ăn trọn đống big blind trong khi
bạn có thể từ từ nghiền nát chúng khi chơi post-flop và tận dụng những lỗi lầm đối thủ tạo ra. Cá
cược nhiều chip ở nhiều vị trí và làm tăng phương sai sẽ chỉ mang lại lợi ích cho những người chơi
yếu và sẽ cho họ những cơ hội tốt nhất để dành chiến thắng.
1 ví dụ khác có thể lấy từ trò chơi casino khi nhà cái sẽ giữ quyền kiểm soát cho chơi. Casino sẵn
sàng cho bạn chơi 100 ván $20 blackjack hơn là 1 ván $2000 blackjack. Khi giảm phương sai
Kết luận
Trong giải đấu sẽ có rất nhiều phần linh động, bao gồm nhưng không giới hạn, kích thước các bàn
chơi khác nhau, kích thước sòng, kích thước stack, cấu trúc blind, cấu trúc tiền thường, kỹ năng
người chơi, tiền thưởng và số lần re-buys. Sự xuất hiện của 1 vài phương sai khiến cho việc phân
tích mọi thứ chính xác trở nên không thể. Tuy nhiên, không có 1 mô hình nào có thể có tất cả các
yếu tố trên, và tạo ra 1 mô hinhf có thể xem từng phương sai một cũng gần như là không thể. Hơn
nữa, nếu như thuật toán có tồn tại, không kể đến những cỗ máy tối tân mạnh mẽ nhất có thể tính
toán ra kết quả và cung cấp chiến thuật hoàn hảo.
Đây là lý do tại sao có nhiều cách tiếp cận tới giải đấu poker. Không ai có câu trả lời chính xác để
nói “tối ưu” là gì, đặc biệt với phương sai cao là điều luôn hiện hữu ở MTTs. Đơn giản sao chép lại
“công thức chiến thắng” từ những người chơi đã chiến thắng những sự kiện MTT lớn nhất cũng
không đủ để trở thành 1 người chơi thắng cuộc trong dài hạn. Thường những người chơi giỏi nhất
thế giới sẽ dùng chiến thuật đặc biệt cho họ và mọi người sẽ mù quáng bắt chước theo sẽ rất có hại
và tạo ra nhiều kết quả tệ.
Trong giải đấu poker, giá trị tiền tệ cho lượng chip là không thể thay đổi, vì thế trạng thái cân bằng
cũng sẽ không đứng im. Thực chất nó rất biến động. Trạng thái cân bằng thay đổi liên tục và những
người chơi MTT hay nhất thế giới là những người thực sự hiểu được điều này và đang cố gắng
ghép những mảnh ghép lại, cố gắng hiểu khi nào nên dừng lại và khi nào nên vượt qua nó. Kỹ năng
này rất khó để làm chủ, và khi chỉ có 1 vài người có thiên bẩm trời phú, hầu hết chúng ta cần phải
mài giũa kỹ năng này sau 1 vài năm chơi và luyện tập, thử và mắc lỗi, chiến thắng và thua cuộc.
Tôi dám chắc rằng đây có thể là 1 kỹ năng quan trọng nhất cho bất kỳ người chơi MTT nào cần
phải sở hữu. Tất cả mô hình đã được nói trong chương này đều để muốn giúp cho bạn hiểu thêm
về sự khác biệt giữa tournament và cash game, về sự khác biệt giữa cEV và $EV, và độ quan trọng
khi bạn vẫn đang còn sống sót trong tournament. Mục tiêu là để sử dụng chiến thuật cân bằng làm
điểm bắt đầu và có thể phát triển đánh giá của bạn để xác định khi nào bạn nên theo và khi nào
cần làm khác đi để tối ưu hóa lợi nhuận.
07
Chiến thuật cân bằng được trình bày trong chương này được sinh ra nhờ phần mềm solver hiện đại
và máy tính, dựa vào cEV trên bàn chơi 9 người với ante 12.5%. Đây là môi trường giải đấu phổ
biến, nhưng nó cũng tùy thuộc vào bạn để thích ứng với những trò chơi bạn đang chơi.
Trong các giải đấu, người chơi cần phải chơi nhiêù lại kích thước stack khác nhau, nhưng tuy nhiên,
có 1 hạn chế khi nói tất cả trong 1 cuốn sách, vì thế chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu vào 1 vài kích
thước stack quan trọng nhất khi giải đấu diễn ra (bao gồm 15bb, 25bb, 40bb và 60bb)
Trong tình huống không có ante và stack còn nhiều (thường là khi ở giai đoạn đầu tiên của giải
đấu), sẽ có rất ít tiền chết ở trong pot, vì thế range của mọi người thường là hẹp và chiến thuật cân
bằng ở đây khá giống với ở cash game ngoại trừ là không có lãi sàn. Kết quả là giá trị ở mỗi hand
được chơi sẽ tăng lên. Call cú bet và chơi post-flop sẽ trở nên đáng hơn.
Cách Open
Như đã đề cập ở trước, với stack chỉ còn khoảng 10bb, bạn nên chơi chiến thuật allin/fold vì EV
khi thua đối với stack thấp là không đáng kể khi so với những chiến thuật phức tạp hơn.
Sẽ rất quan trọng nếu bạn nghĩ trước các bước trước khi đưa ra quyết định pre-flop. Ghi chú lại
mức stack của bạn cũng như của những người chơi khác chưa hành động. Đánh giá xem họ thích
re-raising hay call không.
Bạn nên biết trước khi bạn raise là bạn muốn raise-fold hay raise-call. Có thể hand bạn chơi có thể
call all-in với range của 1 vị trí còn những vị trí khác thì không, hoặc bạn có thể call cú all-in 15bb
chứ không phải 20bb. Bạn cũng cần phải biết nếu hand của bạn sẽ chơi tốt hơn nếu all-in luôn hay
chỉ nên min-raise để không tự đưa bản thân vào vị trí khó trong trường hợp bạn min-raise, đối thủ
nhảy ra all-in và bạn không biết phải làm gì.
Có những người chơi online sẽ chơi poker tốt khi họ chỉ chơi đúng 1 bàn nhưng sẽ tạo ra nhiều sai
lầm thường xuyên khi chơi nhiều bàn cùng lúc vì những lỗi ngớ ngẫn, có thể dễ dàng tránh được
bằng việc tập trung hơn.
Size bet
Sau khi kiểm tra nhiều trường hợp với solvers, đánh giá chung của tôi là bet-size khi open không
ảnh hưởng quá nhiều tới những hand tệ nhất trong range của bạn miễn là bạn đang dùng những size
bet hợp lý và chơi trong range phù hợp với cú bet đó. Lượng bet càng lớn, càng ít hand bạn có thể
chơi có lợn nhuận. Nếu bạn quyết định open với 3bb, bạn đang tự đẩy mình chơi range hẹp đi thay
vì bạn quyết định là sẽ min-raise, bằng không bạn sẽ mất tiền ở những hand yếu nhất trong range
của mình.
Lượng bet-size đẹp nhất khi open sẽ đâu đó khoảng 2bb tới 2.5bb từ BN tới UTG, và từ 2.5 đến 3.5
khi ở blind và khi các blind đấu nhau.
Tôi khuyên nên min-raise khi stack còn nhiều để tránh bị đẩy all-in ( đối thủ ít hơn 25bb) vì 2 lý
do chính:
◆ Raise-fold từ nhà có stack thấp khá là tốn kém và bạn không muốn bản thân bắt buộc
phải all-in. Ví dụ, bạn tố lên 3x từ UTG với 10bb và BB all-in, bạn cần phải call thêm
7bb nữa để chơi lấy pot 14.6bb. Tỷ lệ đang là 2 ăn 1, bạn sẽ bắt buộc phải call với bất
kì 2 làs bài nào trong range bạn đang chơi. Nếu thay vào đó bạn min-raise, bạn sẽ phải
call 8bb để chơi pot 13.6bb, tỷ lệ là 1.7 ăn 1, sẽ khiến bạn phải fold những hand tệ
nhất trong range của mình
◆ Một vũ khí chính người chơi có khi bị đối đầu với nhà open với stack thấp là có thể all-
in ngược lại, với lượng tố to hơn rất nhiều, đối thủ sẽ phải có 1 giá tốt hơn để all-in lại.
Ví dụ, bạn đang ở CO và open 2.5x với stack đang có 20bb, nhà BB sẽ phải mạo hiểm
19bb để thắng 5.125bb. Vậy cú bet này cần thành công khoảng:
Cú 3-bet của bạn và lượng sizing lớn sẽ thay đổi dựa vào vị trí người chơi và lượng stack được thể
hiện ở Tables 43 và 44.
Ở mức stack 30-35bb hoặc nhiều hơn, nguy cơ bị đẩy all-in thấp hơn vì rủi ro hơn phần thưởng
nhận được. Điều đó có nghĩa là bạn có thể tăng lượng raise size lên 2.3x và không phải lo lắng qúa
về việc cho đối thủ 1 cái giá tốt để đẩy all-in. Khi tăng lượng raise size, bạn đã giảm đi tỷ lệ tiền
đối thủ có trong pot, khiến họ khó khăn trong việc chơi những hand yếu trong range của họ. Với
100bb+, size open có thể từ 2.3 – 2.5x. Tôi đã từng thấy dân chuyên bet lớn hơn, nhưng tôi không
tìm thấy bằng chứng nào cho thấy bet lớn hơn sẽ có EV lớn hơn.
Nói chung, bạn sẽ muốn có bet-size lớn hơn khi stack vẫn còn nhiều và không có vị trí. Tôi thích
sử dụng cú 3-bet với size nhỏ hơn từ SB hơn là ở BB, vì nhà SB sẽ phải lo lắng việc BB đã có 1
hand bài tốt, vì thế việc bet nhỏ có thể tiết kiệm được 1 ít chip nếu điều đó xảy ra. Hơn nữa, range
3-bet của nhà SB thường ít phân cực hơn nhà BB, nên sẽ không lo lắng nhiều lắm nếu bị call khi ở
SB hơn là ở BB.
Nếu cú 3-bet của bạn chiếm 1/3 lượng stack, bạn đã rơi vào trạng thái “chắc chắn all-in” trừ phi
hand của bạn là siêu rác, vì thế tôi không khuyên các bạn đầu tư hơn 1/3 lượng stack với 1 hand tệ.
Trong trường hợp đó, bạn nên all-in luôn, giảm thiểu lựa chọn của đối phương thành việc chỉ call
hoặc fold..
Với mức stack ít hơn 40bb, tất cả cú 4-bet đều là all-in hết vì nếu bạn chọn 1 cú 4-bet không phải
all-in thì bạn cũng bị vào trạng thái “chắc chắn all-in” hoặc phải dùng size rất bé, điều đó sẽ cho
đối thủ 1 cái giá quá tốt để xem flop và realize equity. Với 50bb tới 100bb, bạn bắt đầu thấy những
cú 4-bet không phải all-in khoảng 2.25-2.5x khi có vị trí và 2.5-3x khi không có vị trí. Tất cả cú 5-
Giờ chúng ta sẽ tiếp tục thử xem cách phản ứng tốt nhất khi tất cả đã fold đến bạn. Chúng ta sẽ
quan tâm tới tất cả vị trí từ SB đi đúng 1 vòng tới UTB và tất cả mức stack khác nhau từ 10bb tới
Với 10-15bb, nên chơi chiến thuật push/limp/fold và khi stack đã nhiều hơn, bạn nên chơi ít hand
lại, dẫn tới việc limp trở thành chiến thuật có ưu thế.
Xu hướng thường thấy khi có stack nhiều đó là sẽ tăng tần suất limp hơn và giảm tần suất raise.
Không có bất kì hand nào chỉ chơi đúng 1 chiến thuật raise, nhưng có rất nhiều hand lại chơi được
chiến thuật limp.
Ở mức 60bb, sau khi limp và bị raise, stack còn quá nhiều để thực hiện limp/all-in, và vì thế chỉ
nên re-raise lên tầm 3.4x. Range limp/raise sẽ bao gồm những hand tốt nhất mà bạn sẵn sàng all-in
pre-flop và những hand có blocker tốt và 1 vài hand có độ bao phủ mặt board (Hand Ranges 106-
107).
Nếu bạn raise và bị 3-bet vào mặt, bạn vẫn còn quá nhiều chip để có thể đơn giản là all-in 60bb.Hand
duy nhất bạn muốn all-in là AKo và A5s với tần suất thấp, và bạn vẫn sẽ an toàn nếu chỉ đơn giản
bỏ qua cách này và 4-bet lại với size bet 2.6x. Những hand nên 4-bet bao gồm KK, QQ, AK, và
Aqo, thêm 1 số bluff có blocker. Nhớ rằng solver luôn khuyến khích chơi chậm AA, call với nhiều
Table 46: Tần suất hành động GTO của BN theo Stack (limp vẫn tính)
Với stack tầm 15-30bb, min-raise trở thành 1 phần quan trọng trong chiến thuật của BN bởi vì nó
cho phép chơi post-flop có vị trí.
Với stack tầm 30bb, BN không cần phải open all-in nữa, khi stack đã quá nhiều. Bắt đầu với
stack tầm 40bb, solver sẽ dừng hoàn toàn việc limp và sẽ chơi chiến thuật đơn giản hơn là
◆ Limp làm chiến thuật ở BN thêm phần phức tạp khi phải tạo ra range limp một
cách cân bằng
◆ Phương sai tăng lên khi người chơi sẵn sàng chơi post-flop thường xuyên hơn và vì
thế sẽ có nhiều pot có nhiều người chơi hơn, vì khi bạn limp thì SB cũng có 1 cái
giá tốt để theo cùng
◆ EV tổng tăng lên bởi việc limp ở BN sẽ không đáng kể bằng ở SB vì BN không có
giá rẻ hơn khi call và không chắc chắn sẽ chơi post-flop với chỉ 1 nhà.
◆ Người chơi vẫn fold quá nhiều ở BB để BN cướp, làm cho việc BN min-raise có
ích hơn nhiều so với việc đi limp
Ở Table 47 chúng ta có thể thấy stack càng lớn, BN càng có thể chơi nhiều hand hơn, bắt đầu
từ VPIP 38.9% với 10bb lên 55.5% với 80bb, với tổng tần suất raise tăng lên 16.6%. Một trong
những lý do chính cho việc tăng nhiều như thế là bởi vì lợi thế vị trí của BN khi có stack lớn.
Cách tốt nhất cho các vị trí blind có thể giảm thiểu bất lợi về vị trí đó làm all-in ngược lại, điều
mà rủi ro lớn rất nhiều so với lợi ích nhận được khi mức stack nhiều hơn 40bb, vì thế mà sẽ rất
khó cho các nhà blind muốn giảm equity của BN.
Do đã chắc chắn có vị trí, việc realize equity ở post-flop của BN là cao nhất và nó chỉ có thể
tăng lên khi stack lớn hơn nữa. Bằng việc all-in, BN từ bỏ lợi thế có vị trí, do đó tần suất open
all-in của nhà BN sẽ giảm đi rất nhiều khi stack càng ngày càng trở nên lớn, tụt xuống 3.5% khi
có 20bb và 0% khi có 25bb.
Khi có 15bb, BN sẽ chia range ra thành 50% all-in và 50% min-raise (Hand Range 112). Vẫn
có những điểm tương đồng giống như cũ như những hand có equity tốt khi đối đầu với range
Khi có 25bb, sẽ không còn range all-in ở BN (Hand Range 113). Với mức stack này, việc có những
Với 40bb, BN sẽ chơi với range rộng hơn so với lúc có 25bb, và những hand có thể chơi tốt post-
flop, ví dụ như suited gappers, và những hands có implied odds cao như đôi bé, sẽ được tăng giá
trị. Tần suất 4-bet sẽ thấp hơn so với khi có 25bb vì SPR giờ sẽ có hơn và bạn có thể chơi post-flop
nhiều hơn, rất có ích cho việc realize equity post-flop của BN (Hand Range 114).
Với 60bb, BN sẽ mở rộng thêm range open của mình thêm nữa (Hand Range 115). Tần suất nhà
Hơn nữa, sẽ có những hạn chế khi máy tính hiện đại có thể làm và thêm hành động limp cho tất cả
người chơi trong giả lập bàn 9 người sẽ làm tăng thêm rất nhiều trường hợp khác nhau, cần phải
suy nghĩ rất nhiều và sẽ tạo ra những kết quả không nhất quán
Vì tất cả những lí do trên, tôi quyết định từ giờ sẽ không thực hiện chiến thuật limp ở vị trí CO và
bắt đầu tập trung phân tích chiến thuật raise/fold ( chiến thuật cũng phù hợp với cách chơi của trò
chơi hiện đại)
Như chúng ta thấy ở Table 48, tổng VPIP ở CO tăng lên khi stack tăng lên (giống với khi ở BN) từ
31.4% khi có 10bb lên 37.5 khi có 80bb với trung bình 33.69% ở tất cả các vị trí. Khi còn 10bb
hoặc ít hơn, CO nên chơi chiến thuật push/fold và bắt đầu kết hợp với việc min-raise khi đã lên
12bb. Tần suất all-in sẽ giảm đi khi stack lớn hơn, và sẽ tụt xuống 0% khi đã có 20bb.
Khi có 15bb, range all-in của CO bao gồm những hand có equity lớn, quá tốt để raise-fold nhưng
không đủ tốt để raise-call, ví dụ như KTo, QJo và T9s, đôi nhỏ và trung bình, Axs nhỏ và Axo trung
bình cao. Range min-raise bao gồm những hand còn lại mà bạn sẵn sàng raise-call, ví dụ như Ax,
đôi trung bình cao, broadways đồng chất và những hand có blocker dễ tạo top pair và có thể dễ
dàng raise-fold nếu bị đẩy all-in lại (Hand Range 116).
Khi có 25bb, sẽ không còn range all-in (Hand Range 117). Và lại 1 lần nữa, với lượng stack này
thì khá là khó để chơi 33 và 22 bởi vì chúng ta có quá nhiều chip để open all-in và quá ít để có
implied odds tốt. Vì thế fold những hand này là cách chơi tốt nhất nếu bạn là người đầu tiên open
trong tất cả vị trí (ngoại trừ vị trí SB).
Table 49: Tần suất hành động GTO của nhà Hijack theo Stack
Khi có 40bb, 1 vài hand sẽ được thêm vào khi chúng sẽ chơi tốt hơn với mức stack này như 33,
96s và 54s, nhưng range HJ nói chung vẫn không thay đổi quá nhiều từ 25bb tới 40bb (Hand
Range 122).
Khi có 60bb, tần suất HJ open vẫn giống như khi có 40bb, nhưng sẽ có 1 thay đổi nhỏ trong
Table 50: Tần suất hành động GTO của nhà Lojack theo Stack
Ở Table 50 chúng ta có thể thấy, với 15bb, LJ thích có 1 range open all-in nhỏ khi chúng có thể
all-in pre-flop và hiện thực equity được 100%, ví dụ như 77-55, AQo, AJo, A9s, A8s và JTs+
(Hand Range 124).
Khi có 25bb, VPIP sẽ tăng đáng kể so với khi có 15bb. Với mức stack này, những hand dễ tạo
thành top pair, straight draws và flush draws, như J8s, T8s và 98s sẽ bắt đầu open, nhưng 44 va 33
vẫn phải fold vì chúng ta vẫn còn quá nhiều chip để có thể open all-in chúng (Hand Range 125).
Khi có 60bb, LJ sẽ open chặt hơn so với khi có 40bb, giảm tần suất chơi những hand như broadways
đồng chất, đôi nhỏ và đồng chất liên tiếp nhỏ (Hand Range 127).
Khi có 40bb, range vẫn không thay đổi quá nhiều mặc dù có 1 sự thay đổi giữa những lá bài cao tới
Table 51: Tần suất hành động GTO của nhà UTG+2 theo Stack
Table 51 thể hiện VPIP UTG +2 thường sẽ khoảng 21% khi có 25-30bb nhưng trung bình sẽ
khoảng 19.63%. Với việc có quá nhiều người còn lại vẫn chưa hành động sẽ khiến bạn ngần ngại
trong việc open all-in với quá nhiều chip vì xác suất 1 người nào đó đứng ra với 1 hand khỏe sẽ
tăng lên. Vì lí do này, tần suất open all-in sẽ bị giảm xuống, và điều này sẽ vẫn tiếp tục nếu vị trí
của bạn tệ hơn nữa.
Khi có 15bb, sẽ có 2.2% range là có thể all-in, nhưng khi thực hành, bạn nên chơi chiến thuật
Khi có 60bb, suited connectors nhỏ như 87s-65s và suited high-low yếu như K7s, K6s, Q8s và J8s
sẽ bắt đầu cảm thấy khó để chơi. Range sẽ thay đổi tập trung vào những hand mạnh mà ít khi bị dẫn
trước, thêm 1 số đôi nhỏ như 44 và 33 khi chúng có thể biến thành hand khỏe khi xem flop và khá
dễ khi chơi post-flop (Hand Range 131).
Table 53 cho ta thấy chỉ số VPIP trung bình của UTG là 15.22%. Khi có 10-14bb UTG chơi chiến
thuật hỗn hợp giữa min-raise và open all-in. Khi có hơn 15bb, range all-in biến mất và chiến thuật
trở thành raise/fold. VPIP sẽ cao nhất khi có 20-30bb và giảm dần khi stack bắt đầu lớn hơn. Khi
stack lớn hơn, tần suất open cũng sẽ giảm đi ở những bài offsuit broadways và tăng lên với những
bài suited connectors và đôi nhỏ, mặc dù tần suất khá nhỏ vì mục đích chính của nó là để cung cấp
thêm độ phủ cho mặt bàn (Hand Ranges 136-139).
Phòng thủ chuẩn xác khi đối đầu với nhà open raise là điều thiết yếu trong mọi ván poker và càng
phải đúng trong giải đấu poker với tất cả mức stack và vị trí có thể xảy ra.
Phần này sẽ trình bày 1 hướng dẫn hoàn thiện về cách chơi từ hầu hết mọi vị trí quan trọng
(BB, SB, BN, MP và EP) sau khi ai đó đa tham gia pot bằng 1 cú raise. Đầu tiên chúng ta sẽ cùng
thảo luận vài vấn đề chung và sau đó nghiên cứu chiến thuật riêng được khuyến nghị bởi solvers
cho tất cả các vị trí với mức stack lần lượt là 15bb, 25bb, 40bb và 60bb.
Cơ sở lý thuyết
Dưới đây là những chủ đề quan trọng cần lưu ý mỗi khi quyết định phải làm như thế nào khi gặp
open raise.
Hai bảng dưới đây sẽ cho bạn ý tưởng về tần suất bạn nên phản hồi với việc open raise dựa theo vị
trí của bạn (Table 54) và theo của đối thủ (Table 55). Lưu ý rằng chỉ số giữa các nhà blind bị bỏ
qua vì chúng sẽ được thể hienj ở phần blind đấu blind.
Table 55: Phản ứng trung bình với nhà Open dựa trên ví trí đối thủ
Khi đối mặt với 1 cú open all-in, sẽ có 2 khả năng xảy ra: hoặc là người chơi all-in sẽ có stack gấp
đôi hoặc là không. Nếu tổng số lượng bạn call nhiều hơn 1/3 số stack, bạn nên all-in ngược lại,
Range bài bạn call phụ thuộc vào pot odds bạn đang nhận được, vị trí, và vị trí của người
đẩy all-in. Vị trí càng ở đầu và stack càng lớn, range bạn call lại càng hẹp đi
Cách tốt nhất để thành thạo khi chơi stack ít đó là luyện tập với nhiều mức stack khác nhau trong
phần mềm push/fold. Ghi chú với những người chơi có ý định all-in với những hand gì, so sánh với
việc bạn thấy họ đã đánh như thế nào, và thử nghiệm bộ range định call của mình ở nhiều vị trí
khác nhau. Bạn có thể tìm thấy 1 vài người chơi all-in khá chắc và 1 vài thì khá thoải mái, dẫn tới
việc bạn phải điều chỉnh range call của mình.
Khi đang băn khoăn có nên tham gia vào pot sau khi 1 người raise hay 1 người call, chơi range hẹp
so với khi chỉ có 1 người raise và chưa có ai call. Nó có vẻ phản trực quan khi bây giờ sẽ có nhiều
tiền chết hơn ở trong pot và người call sẽ thông báo rằng họ có thể đang không có 1 hand khỏe (vì
nếu có thì họ đã 3-bet rồi). Tuy nhiên, nếu sau khi loại bỏ phần mạnh nhất trong range của những
người call, range của họ vẫn khá khỏe và có thể có nhiều hand có thể call được cú 3-bet. Vì lí do
đó, 3-bet quá nhiều hand sẽ trở nên bất lợi vì bạn sẽ phải chơi post-flop với 1 range khỏe và cân
bằng.
Khi mà bạn đã ép phải chơi chặt hơn bình thường, range của bạn sẽ thường sẽ tốt hơn khi đi 3-bet
lại thay vì chỉ call. Tuy nhiên, vẫn có 1 vài hand giữ equity khá tốt ngay kể cả khi đang chơi pot
nhiều người và cũng có khả năng dẫn trước 1 ít range đối thủ, do đó việc call nhiều hơn vẫn có thể
là 1 lựa chọn.
Khi mà BB có thể dễ dàng phòng thủ trước cú raise, SB sẽ thường limp hơn, kết quả là BB sẽ có
cơ hội được check lại và xem flop có vị trí hoặc raise và re-open lên.
Phần này sẽ phân tích chi tiết chiến thuật cân bằng của BB cho tất cả các tình huống.
Tình huống đơn giản nhất BB có thể gặp đó là khi SB all-in. Trong trường hợp đó, range call của
nhà BB phụ thuộc vào tỉ lệ pot odds được tạo ra bởi stack của SB. Nhà SB càng có ít chip đẩy all-
in, range nhà BB sẽ càng có nhiều hand mà có đúng lượng equity để call, và càng nhiều chip SB
đẩy all-in, range nhà BB sẽ càng có ít hand để phòng thủ mà không để bị đối thủ bắt bài cách chơi.
Đối với vài người đã có kinh nghiệm qua những phần mềm push/fold, range call mà không bị đối
thủ bắt bài thường có vẻ hẹp hơn bình thường. Đó là bởi vì sự kết hợp giữa các yếu tố như hiệu ứng
tổ hợp và sự thật là SB có những lựa chọn khác (limp hoặc raise mà không cần phải all-in) đã làm
ảnh hưởng rất nhiều tới cả range call và all-in.
Khi có 12bb và gặp phải tình huống all-in, BB sẽ call tất cả đôi, Ax, broadways, Kxs, K5o+,
Q7s+, J8s+ and T8s+. Range sẽ thu hẹp lại 1 chút khi có 15bb (Hand Range 140). Khi có 25bb, BB
không thể call có lợi nhuận với nhiều hand, vì thế range call lại thu hẹp còn lại các đôi 33+, A7o+,
A6s+, suited broadways, KQo và QJo (QJo có nhiều equity đối với range cân bằng all-in của nhà
SB hơn KJo)
Khi còn ít hơn 30bb, lựa chọn duy nhất khi 3-bet của nhà BB là all-in. Solver khuyến khichsneen
bẫy với các đôilớn 88+ và range all-in lại là những hand có equity cao mà không chơi post-flop tốt,
ví dụ như đôi nhỏ 77-22 và Axo (Hand Range 142)
Khi có 40bb, solver sẽ không còn 3-bet all-in nữa và chiến thuật 3-bet trở nên phân cực hơn, bao
gồm những hand mạnh nhất trong range, TT+ và AJ+, cùng với 1 vài bluff được tạo bởi những hand
offsuit có blocker tốt như Axo và Kxo, hoặc có độ bao phủ mặt bàn tốt như J7o, T4s và 98o (Hand
Range 143). Đối với cú 4-bet all-in, BB sẽ call với 66+, AJs+ và ATo+ (Hand Range 144)
Khi có 60bb, BB sẽ 3-bet với tần suất giống như khi có 40bb, nhưng phần bluff trong range sẽ thay
đổi. Nó có nghĩa tần suất 3-bet sẽ giảm bớt đi của 1 số hand riêng biệt để bao gồm nhiều loại kết
hợp hơn nữa, cung cấp độ phủ mặt bàn tốt hơn. (Hand Range 145). Khi bị 4-bet 2.6x, BB sẽ 5-bet
27.4%, gồm có JJ+ và AQ+, nhưng sẽ chơi châm AA 68% số lần chơi, call với những hand suited
connectors khỏe nhất, AJ và các đôi nhỏ (Hand Range 146)
Nhà BB sẽ check lại trung bình 56% tổng số lần khi nhà SB limp và raise 44%. Size raise sẽ tăng
dần lên khi stack tăng dần lên, từ 2x khi có 10bb lên tới 3.5x khi có 30bb. Khi có stack lớn, solver
khuyên nên raise lớn hơn, nhưng EV sẽ không tụt đáng kể khi dùng size 3.5x khi stack đã lớn hơn
30bb. Tôi tin rằng việc sử dụng size bet lớn hơn là không cần thiết, đặc biệt trong môi trường là
chiến thuật limp đang không cân bằng và việc fold quá nhiều khi BB raise. Thực tế, kể cả khi dùng
bet size nhỏ cũng có thể và nên dùng để bắt bài những người chơi yếu.
Khi có 12bb, BB sẽ all-in 20.3% tổng số lần, raise 2.5x 25.2% và check 54.5%. Range all-in bao
gồm những hand có blocker tốt và equity cao nhưng khó realize equity ở post-flop như những đôi
nhỏ, Axo và Kxo. Range raise sẽ phân cực, có những hand sẵn sàng raise/call và 1 số hand có độ
bao phủ mặt bàn tốt và sẵn sàng raise/fold mà không cần phải đắn đo. Khi ở mức stack này, solver
check tất cả hand suited mà không sẵn sàng raise/call vì BB không có đủ equity denied khi all-in.
Range khi có 15bb sẽ hẹp hơn nhưng gần như tương tự (Hand Ranges 147-148)
Khi có 25bb, BB all in với tần suất thấp hơn khi có 12bb, nhưng những hand solver chọn để all-in
theo nguyên tắc có blocker nhưng realize equity ở post-flop khá tệ như các đôi nhỏ. Range raise đôi
khi sẽ có những hand suited tệ nhất như J4s, 96s và 62s khi mà chúng có thể cho BB chơi post-flop
tốt hơn (Hand Ranges 149-150)
Hand Range 147: BB đối đầu với SB Limp (15bb) • All-in 8.2% / • Raise 3x 33.7% / • Check
58.1%
Với 60bb, tần suất phòng thủ của BB tăng nhẹ (65,63%) so với 40bb (62,91%). Điều này có thể
là do một số hand yếu hơn bây giờ có implied odds tốt hơn, cho phép BB phòng thủ rộng hơn,
hoặc nó có thể là một chức năng của cách mô phỏng được thiết kế.
Vũ khí chính IP phải giảm OPP EQR khi stack đang lớn là overbet pot.
Vì vậy, tôi hy vọng sẽ thấy tần suất phòng thủ của BB thấp hơn một chút trong các mô phỏng
mà overbet được cho phép. Trong trò chơi hiện tại, người chơi vẫn không sử dụng overbets thường
xuyên như họ nên về lý thuyết, vì vậy những tần suất phòng thủ của BB này sẽ hoạt động tốt trong
các trò chơi hiện đại. Tôi khuyên bạn nên giảm bớt những hand yếu hơn trước những đối thủ thực
sự khó chơi, những người có khả năng overbet và gây nhiều áp lực ở post-flop.
Với 60bb, range 3-bet của BB ít phân cực hơn so với 40bb, bao gồm nhiều hand đồng chất hơn
với khả năng chơi post-flop tốt. Như đã chứng minh cho đến nay, range thay đổi khi range của đối
thủ thay đổi, từ 3-bet 16,80% so với BN xuống chỉ 5,3% so với UTG và đồng thời fold với những
cú open của BN là 18,10% thời gian và 44,10% so với UTG .
Khi đối mặt với 4-bet, BB có range flat tốt so với LP, nhưng có thể dễ dàng chỉ 5-bet hoặc fold
với EP(Hand Ranges 175-182).
Vì BB thường sẽ call khi SB call, những hand như đồng chất liên tiếp, Ax bé đồng chất,
broadway có thể tạo nên những cú call tốt với vị trí hành động sớm bởi chúng giúp giữ lại equity
trong những pot nhiều nhà. Sẽ rất thú vị khi chứng kiến cách AA được chơi slowplay bởi SB 25-
33% thời gian (Hand Ranges 183-186).
Với 25bb, các xu hướng tương tự đã thấy trước đây xảy ra rằng SB đến VPIP ít thường xuyên
hơn khi range của nhà open ngày càng mạnh.
Những hand không đồng chất sẽ hầu hết bị fold trừ khi cầm Ax để all-in tiếp với LP. Những
hand broadway không đồng chất có thể call với LP, nhưng phải bị fold khi đối mặt với EP. Các
pocket pair bé sẽ là những hand tuyệt vời để all-in tiếp với LP nhưng chơi tốt hơn khi call với EP
do thiếu equity fold. Hãy nhớ lưu ý cách SB chọn các hand mạnh như A5s-A2, AJo và ATo để 3-
bet/fold với EP, trong khi range để 3-bet với BN là A8o-A3o, KJo và KTo (Hand Ranges 187-
194).
Với mức độ stack lớn này, range để call của SB là đồng đều với mọi vị trí, trong khoảng trung bình là
12.21%. Khác biệt lớn nhất là hand Axo trung bình và broadways không đồng chất bị fold với EP
trong khi chúng có thể thi thoảng call với LP.
Range để không all-in 3-bet tăng mạnh từ 6.6% với UTG lên 14.1% với BN, với vị trí SB mở
rộng range value khi gặp BN bao gồm những hand như AQs-ATs, AJo và 55+ và range để 3-
bet/fold bao gồm những hand như A9o-A7o, K7s-K5s và broadway không đồng chất (Hand
Ranges 195-202).
VPIP trung bình của SB là 24%, từ 33.4% VPIP với BN đến 19.4% với UTG. Vì stack trở nên lớn
hơn, có xu hướng ưu tiên các hand để 3-bet với khả năng chơi post-flop tốt hơn, do khả năng cao
ván chơi sẽ đến với flop, buộc Sb phải chơi OOP ở post-flop. Đồng thời, vì nhà IP quá deep để all-
in 4-bet, SB sẽ có thể call nhiều hand khi đối mặt với 4-bet và chơi post-flop với những hand có
equity cao chơi tốt ở những pot 4-bet (Hand Ranges 203-210).
Với 15bb, VPIP của BN là, trung bình, 15% số hand. Range để call là đồng đều ở mức 5% với
những hand bao gồm chủ yếu là những hand đôi từ trung bình đến bé, broadway đồng chất, Ax
đồng chất và AA chơi slowplay (Hand Ranges 211-213).
Với 25bb, VPIP của BN trở thành 21% số hands, all-in tiếp một cách hổ báo với CO ở mức
5.9%, nhưng hầu như là không bao giờ với UTG ở mức 1.2%. Thực tế, những range để all-in tiếp
là rất nhỏ khi đối đầu với EP nên tôi muốn loại bỏ nó và chơi một chiến thuật đơn giản, dễ áp dụng
hơn.
Range để không 3-bet all-in giữ mức đồng đều ở khoảng 3.32%, cũng như range để call ở khoảng
14.22%. Những hand có equity tốt và sẽ được lợi từ việc có vị trí ở post-flop, bao gồm những hand
đôi nhỏ và trung bình, Ax đồng chất, đồng chất liên tiếp và broadway cộng thêm một vài hand bẫy
với AA và KK (Hand Ranges 214-219).
Với 40bb, BN không có range để 3-bet all-in. Tần suất VPIP tăng phụ thuộc vào độ mạnh từ
range của nhà open, từ 21.1% với UTG đến 27.1% với CO. Ở trường hợp này, cả range để 3-bet
và call tăng theo kiểu tuyến tính.
Range để 3-bet là phân cực, tập trung vào những hand Ax không đồng chất với kicker trung
bình và broadway không đồng chất với LP và thay thế chúng bằng Ax đồng chất khi đối đầu với
EP, với Kxs trung bình đến bé sẽ thường xuyên trở thành những hand để bluff tuyệt vời. Range để
call bao gồm những hand đôi từ trung bình đến nhỏ, đồng chất liên tiếp, broadway đồng chất và
broadway không đồng chất kết hợp khi đối đầu với LP (Hand Ranges 220- 225).
Với 60bb, tần suất VPIP của BN giữ ở cùng mức như đã thấy trước đó, tăng lên khi range của
người open yếu đi. Tần suất call giữ ở mức đồng đều không chênh lệch nhiều, nhưng tần suất 3-
bet giảm đi vì range của người open trở nên mạnh hơn.
Range để 3-bet của BN rất phân cực, nhưng với stack cho phép chơi ở post-flop bạn vẫn sẽ
không muốn 3-bet những hand rác và phải chơi stack lớn ở post-flop với những hand có equity
thấp đối đầu với một range mạnh.
Range để call với 60bb của BN sẽ duy trì ở mức tương đồng với range 40bb, với nhiều những
hand đôi, đồng chất liên tiếp và broadway đồng chất (Hand Ranges 226-231).
Với 15bb, CO không có range để call vì, khác với BN, CO phải lo lắng về việc BN sẽ call hoặc
squeeze sau đó. Việc chia nhỏ range của CO tồn tại rủi ro lớn nên, với 15bb, cách tốt nhất để xử
lý tình huống này đơn giản là all-in tiếp toàn bộ những range có thể chơi, tăng từ 8.3% khi đối đầu
với UTG (all-in 66+, AJo+, ATs+, KTs+, QJs) đến 13.3% với HJ (thêm các hand A9s, A5s, ATo
và KQo) (Hand Ranges 232-233).
Với 25bb, CO all-in tiếp một range khá nông nên, trong thực tế, tôi muốn bỏ qua nó và chơi
chiến thuật 3-bet/call/fold thay thế.
CO 3-bet không all-in trung bình 3.78% số hand. Range này cũng khá nông và phân cực. CO
call trung bình 10.08% với capped range bao gồm những hand đôi trung bình đến bé, broadway
đồng chất, ATo+ và KJo+
Call một capped range không phải vấn đề lớn vì CO được bảo vệ khỏi độ mạnh range của người
open. Điều quan trọng cần lưu ý là cách mà range để call của CO duy trì ở mức khá đồng đều.
Khác với BN, CO phải lo lắng về việc phải chơi OOP ở post-flop, và điều này hạn chế số hand có
thể được mở kể cả khi đối đầu với những range rộng (Hand Ranges 234-237).
Với 40bb, CO chơi chiến thuật 3-bet/call/fold. Range để 3-bet là phân cực, 3-bet 4.9% khi đối
đầu với UTG và tăng tần suất lên 6.7% với HJ. Những hand để bluff tuyệt vời nhất là Ax và Kx
đồng chất với x trung bình đến bé, AJo, ATo, và KQo, KJo và K9s-J9s kết hợp cũng như là mở
rộng range để value với 88+ và AQo+ khi đối mặt với những range rộng hơn.
Range để call chủ yếu bao gồm những hand đôi trung bình đến bé, Ax đồng chất, broadway
đồng chất và đồng chất liên tiếp cao, AA và AKs chơi slowplay theo thời gian (Hand Ranges 238-
241).
Range để 3-bet của CO tập trung vào những hand blocker, với tần suất thấp các hand Ax và Kx
đồng chất và không đồng chất, chọn call với những hand broadway đồng chất, đồng chất liên tiếp,
đôi và AKo-AJo.
Khi đối mặt với 4-bet của UTG, CO có xu hướng all-in hầu hết range đang tiếp diễn ở pre-flop
(39%), với range để call thấp ở mức 7.7%. Khi đối mặt với 4-bet của HJ, range để call của CO
tăng lên đến 22% và range để all-in giảm xuống 29%, chọn chơi slowplay AA. Một trong những
lý do chính là vì range để 3-bet của CO đối đầu với UTG phân cực hơn với LJ, và hầu hết các hand
chơi 5-bet sẽ tốt hơn một cú call (Hand Ranges 242-245).
Với 25bb, chiến thuật GTO là all-in trung bình 1.45%. Một lần nữa, tần suất này là quá thấp đến
mức, trong thực tế, nó nên bị loại bỏ range để all-in mà thay vào đó chơi chiến thuật 3-bet/call/fold.
Nếu một hand được chơi với một chiến thuật kết hợp giữa call/all-in, chơi nó như một cú call đơn
thuần, và nếu chiến thuật kết hợp bao gồm 3-bet không all-in/all-in, chơi nó như một cú 3-bet
không all-in đơn thuần.
Range để 3-bet trung bình 4.43% là phân cực, bao gồm những hand mạnh nhất của range và
những hand để bluff đa dạng như ATs-A7s, AJo, ATo, KTs, K9s, và KQo. Lưu ý rằng range này
khá mạnh so với nó ở vị trí LP, CO và BN.
Range để call trung bình là 7.25% và bao gồm những hand như đôi trung bình 99-55, AQo, AJo,
KQo, broadways đồng chất và một vài hand Ax đồng chất bao gồm AQs-A8s, A7s, A5s và A4s
(Hand Ranges 248-251).
Với 40bb, HJ 3-bets trung bình 5.48% với range phân cực. Những hand để 3-bet/folds là Ax
đồng chất với x trung bình đến bé, AJo, ATo, KQo, và một vài Kxs.
Range để call bao gồm những hand đôi, AQo, AJo, KQo, broadways đồng chất và đồng chất
liên tiếp. Tần suất để những hand đồng chất liên tiếp được call tăng khi range của người raise đầu
tiên trở nên rộng hơn (Hand Ranges 252-255).
Với 60bb, HJ 3-bet trung bình 6.13%, 3-betting với tần suất cao nhất khi đối đầu với LJ (7.4%)
và tần suất thấp nhất khi đối đầu với UTG (5.20%). Range để 3-bet là phân cực nhưng range để 3-
bet/fold bao gồm những hand có equity cao với những lá bài chặn tốt và khả năng chơi post-flop
tốt như AQo- ATo, A9s- A5s, KQo, KJs-K8s.
Range call bao gồm những hand đôi, AQo-AJo, KQo, broadways đồng chất, Ax đồng chất và
tần suất thấp những hand đồng chất liên tiếp cao.
Khi đối mặt với 4-bet của UTG, HJ chủ yếu phòng thủ bằng 5-bet all-in (39.2%), call với tần
suất thấp (6.9%) và fold 53.9%. Khi đối mặt với 4-bet của LJ, chiến thuật của HJ bao gồm 4-bet
ít hơn (28.2%) và call nhiều hơn (24.5%) so với chiến thuật khi chơi với 4-bet của UTG (Hand
Ranges 256-259).
Với 15bb, UTG+1 đối đầu với all-in từ UTG một range tuyến tính ở mức 7.1%. Với 25bb, không
có range để all-in, và UTG+1 kết hợp một range call 3.6% bao gồm JJ-66, AQo+, và broadways
đồng chất. Range 3-bet ở mức 5.1% ít phân cực hơn bình thường với 25bb từ vị trí LP hoặc MP vì
nó sử dụng những hand mạnh hơn một chút như 3-bet/folds. Với 40bb, range 3-bet tăng nhẹ lên
4.80% và hình thái của range thay đổi để bao gồm thêm Ax đồng chất (A9s-A5s) và ít đi broadways
đồng chất. Ngược lại, range call tăng lên 4% và kết hợp thêm nhiều broadways đồng chất hơn là
3-bet với 25bb.
Với 60bb, UTG 3-bets thường xuyên hơn và call ít hơn so với mức 40bb. Lý do chính là vì, ở
mức 40bb, phản ứng chính của UTG là 4-bet all-in, điều này khiến cho UTG+1 phải fold rất nhiều
hands, bỏ lỡ equity. Tuy nhiên, với 60bb, UTG sẽ chủ yếu phòng thủ lại 3-bet bằng cách call hoặc
chơi OOP. Vì lý do này, UTG+1 nhận được nhiều equity ở post-flop và thu lợi nhuận bằng cách
3-bet một range rộng hơn (Hand Ranges 260-266).
09
◆ Vị trí của bạn: Range open của bạn mạnh đến mức nào ở vị trí này?
◆ Vị trí của đối thủ: Range 3-bet của họ mạnh đến mức nào?
◆ Những người chơi còn hành động: Còn bao nhiêu người chơi còn hành động sau cú 3-
bet của đối thủ? Càng nhiều người chơi còn lại, khả năng đối thủ đang bluff là càng thấp
và càng ít hand bạn cần phòng thủ để duy trì không bị khai thác.
◆ Size bet: 3-bet có phải là cú bet all-in? Bạn có lựa chọn để 4-bet với fold equity không?
Bạn có odd hợp lý để call hand của bạn với size 3-bet và range đang chơi?
◆ Vị trí liên quan: Nếu bạn call 3-bet, bạn có vị trí ở post-flop không? Mức độ để nhận
được equity của bạn ở post-flop như thế nào?
◆ Hình thái range: Range 3-bet là phân cực hay tuyến tính? Hand của bạn chơi ở post-
flop khi đối đầu với range của đối thủ tốt đến mức nào ?
◆ Phần bù rủi ro: Stack của bạn đang lớn đến mức nào trong tour? Bạn có mức phần
bù rủi ro cao hay thấp so với đối thủ? Đối thủ có mức phần bù rủi ro cao hay thấp khi
đối đầu với bạn?
◆ Bluffing: Đối thủ có khả năng bluff quá đà hoặc bluff quá ít tại một vị trí cụ thể nào
không?
◆ Lợi nhuận của lệnh call: Nếu lệnh call gần với 0 cEV, khả năng là $EV sẽ bị mất đi
một chút.
Chương này nghiên cứu cách để phòng thủ khi đối đầu với 3-bet ở trạng thái cân bằng nhưng,
như đã nêu ra xuyên suốt quyển sách này, các range cơ bản chỉ nhằm mục đích hướng dẫn. Bạn
nên luôn luôn chủ động suy nghĩ về tất cả những yếu tố đề cập trên khi đối mặt với 3-bet trong trò
chơi, và có thể điều chỉnh theo đó.
Vì không thể bao gồm các range cho tất cả các vị trí có thể và độ lớn của stack chỉ trong một
quyển sách, tôi sẽ đưa ra một vài những tình huống quan trọng và thông dụng nhất. Vì các range
thay đổi theo kiểu tuyến tính, hãy chú ý nghiên cứu các xu hướng và bù đắp những sơ hở cho bất
kỳ chiến lược nào còn thiếu bằng cách ngoại suy từ những chiến lược đề cập tại đây. Một lần nữa,
thay vì cố gắng ghi nhớ những chiến lược cố định, điều quan trọng là phải nắm được những khái
niệm sau: range được tạo nên như thế nào, loại hand nào tốt nhất để raise, call hoặc fold và lí do
tại sao bộ giải chọn mỗi loại hand để thực hiện những hành động nhất định.
Bằng cách cố gắng nắm bắt được tại sao bộ giải chọn đưa ra quyết định của nó, bạn sẽ
có thể đưa ra những quyết định tốt hơn trong trò chơi, sử dụng lý thuyết làm lợi thế của
bạn để tối đa hoá EV.
Thêm vào đó, bạn không bao giờ nên lo lắng về việc phải cố gắng áp dụng những chiến thuật
một cách hoàn hảo nhất. Không ai có thể khai thác bạn nếu bạn linh hoạt hoặc đơn giản hoá đôi
lúc miễn là những ý chính của các chiến lược được áp dụng chính xác.
Tỉ lệ fold trung bình sau khi bạn thực hiện lệnh raise tối thiểu đối đầu với lệnh all-in với stack
bé (10-25bb) là 55.04% và tỉ lệ call trung bình là 44.96%.
Stack hiệu dụng càng lớn mà bị all-in, nhà open càng ít khi phải phòng thủ. Vị trí mà người chơi
thực hiện all-in càng sớm, nhà open càng phải phòng thủ chặt chẽ hơn, ngoại trừ SB, vì bị call nhẹ
hơn BB (điều này là vì BB có quyền call, kết thúc hành động, nên range all-in mạnh hơn SB). Khi
đối mặt với lệnh all-in, range call nên bao gồm x% cao nhất của số hand mang lại equity cao nhất
so với range all-in theo như stack hiệu dụng. (Hand Ranges 267-294).
Bảng 83: Tần suất Hành động đối đầu với nhà Blind
(IP)
Bảng 84: Tần suất Hành động đối đầu với những
nhà khác (OOP)
Khi đối mặt lệnh 3-bet không all-in với stack 25-40bb, size 4-bet duy nhất của bộ giải là all-
in. Ở tình huống này, có sự khác biệt về mặt chiến thuật khi so sánh giữa có vị trí và ngoài vị
trí để đối đầu với nhà 3-bet.
Khi là IP, tỉ lệ fold trung bình với 3-bet thấp hơn khi nhà open là OOP. Đồng thời, nhà open
nên có khả năng sẽ 4-bet khi OOP và sẽ call 3-bet và chơi post-flop khi có vị trí để 3-bet.
Đồng thời cũng tồn tại mối tương quan giữa độ lớn của stack và tần suất 4-bet khi nhà open
là IP. Trong trường hợp này, stack càng lớn, tần suất 4-bet càng giảm và nhà open càng nên
giảm bớt lệnh call và chơi flop. Ngược lại, khi nhà open là OOP, tần suất 4-bet giữ đồng đều ở
mức ~22.84% và tần suất call thật sự giảm đi khi stack trở nên lớn hơn, từ tần suất call trung
bình 44.19% với 25bb xuống 23.03% với 40bb. Điều này là vì stack lớn hơn sẽ khó khăn hơn
cho người chơi OOP nhận được equity ở post-flop.
Nói ngắn gọn, khi đối mặt với lệnh 3-bet và có vị trí, nhà open nên 4-bet nhiều hơn với stack
bé và call nhiều hơn với stack lớn, và khi nhà open là OOP, họ nên fold nhiều hơn với 3-bet
khi có stack lớn và call nhiều hơn khi có stack bé.
Những loại hand chơi 4-bet tốt hơn thì thay đổi dựa theo vị trí. Nhìn chung, bộ giải thích 4-
bet all-in với những hand có equity và range call tốt nhưng khả năng chơi không tốt lắm, như
những hand đôi trung bình, Ax khác chất to và Ax đồng chất nhỏ. Những hand có xu hướng
call tốt là AA, KK, đồng chất liên tiếp, broadways đồng chất, và Ax đồng chất to. Tần suất mà
Hand Range 295: BN 25bb (2x vs BB 3-bet) • All-in 12.4% / • Call 45.4% / • Fold 42.2%
Bảng 86: Tần suất hành động đối đầu với lệnh 3-bet không all-in của nhà blind (IP)
Bảng 87: Tần suất hành động đối đầu với lệnh 3-bet không all-in từ những vị trí khác
(OOP)
Với stack lớn hơn ở mức 60-80bb lệnh 4-bet all-in bắt đầu biến mất và bị thay thế bằng lệnh 4-
bet không all-in. Với độ lớn của stack, tần suất tổng thực hiện lệnh 4-bet khi có vị trí bằng gần nửa
so với 25-40bb, và tần suất 4-bet của OOP giảm từ 22.84% xuống 18.23%. Mặt khác, tần suất call
Đối đầu với 5-bet sau 4-bet trở nên khá đơn giản. Nói chung, hãy call bất kỳ hand cao nào và
fold những cú bluff với loại lá bài chặn của bạn. EP có thể chơi rất tốt chiến thuật không 4-bet
với các nhà blind vì không có nhiều hand thực sự muốn 4-bet ở vị trí mà biết được độ phân cực
range 3-bet của các nhà blind.
Các chiến lược và nguyên tắc chơi post-flop được trình bày trong chương này dựa trên dữ liệu tổng
hợp từ hàng nghìn mô phỏng GTO, được phân tích bằng phần mềm tùy chỉnh. Các range và cấu
trúc bet là đại diện cho các trò chơi ante không rake phản ánh một giải đấu nhiều bàn với độ lớn
của stack từ 20bb đến 40bb nhưng kết quả và phương pháp tổng thể có thể áp dụng cho hầu hết
các tình huống post-flop của NLH và có thể được mở rộng sang các độ lớn khác nhau của stack và
các biến thể trò chơi khác.
Tất cả các biểu đồ và số liệu được sử dụng trong chương này đều được tạo ra từ các giải pháp GTO
đại diện cho một số tình huống post-flop quan trọng nhất, cung cấp các giá trị gần đúng có thể giúp
chúng ta hiểu rõ hơn về cách chơi post-flop. Tuy nhiên, chúng không phải là một câu trả lời chắc
chắn khi nói đến chơi poker nói chung. Nếu bạn muốn biết thêm về điều này, vui lòng truy cập
www.gtopoker.io.
Post-flop có thể được chia thành ba vòng; flop, turn và river. Mặc dù cả quyển sách có thể viết
về mỗi vòng, chúng tôi không thể đề cập hết tất cả mọi thứ về cách chơi post-flop.
Tôi đã cố gắng hết sức để sắp xếp dữ liệu theo cách hợp lý đối với tôi. Trọng tâm sẽ là tìm kiếm
các mẫu, xu hướng vị trí và phát triển các phương pháp có thể dễ dàng nhận ra và áp dụng trong
các trò chơi trên cả ba vòng đặt cược.
Lý thuyết về Bet
Tại sao chúng ta bet trong poker? Nếu bạn hỏi xung quanh, hầu hết người chơi không thực sự
biết làm thế nào để trả lời câu hỏi này. Một số người bet vì họ cảm thấy thích nó. Những người
khác có thể bet vì họ thực sự thích hand của mình hoặc vì họ nhận thấy điểm yếu của đối thủ và
nghĩ rằng họ có thể kiếm lợi từ đó. Có thể là có nhiều khả năng chia tiền ở flop và vì vậy họ muốn
Một số chuyên gia và những người xem các video đào tạo có trình độ cao hơn một chút sẽ cho
bạn biết điều gì đó như “một lệnh bet phải để lấy value (để được call bởi một hand tệ hơn) hoặc
để bluff (để tạo ra hand tốt hơn là fold) . ”
Định nghĩa này chắc chắn nghe có vẻ chính xác hơn rất nhiều so với những định nghĩa trước,
nhưng vẫn chưa đầy đủ vì có nhiều trường hợp bet là cách chơi chính xác ngay cả khi bạn chỉ được
call bởi những hand tốt hơn và sẽ không bao giờ tạo được hand tốt hơn thay vì fold.
Điều quan trọng là cố gắng ngừng suy nghĩ về poker bằng cách phân loại bet chỉ là bluff hoặc
bet value bởi vì điều đó chỉ có ý nghĩa ở river nếu bạn có một range phân cực hoàn hảo và đang
bet để chống lại những kẻ bắt bluff. Trong tất cả các tình huống khác, bet phức tạp hơn thế.
Bet để “bluff”, để “value”, vv là kết quả của bet, không phải lý do để bet. Nếu bạn bet và
đối thủ của bạn call với hand tệ hơn, bạn đã thực hiện được lệnh bet value. Nếu họ fold hand
tệ hơn so với bạn, bạn đã bluff thành công.
Đó chỉ là những kết quả có thể xảy ra khi bạn bet hand của mình đối đầu với range phân phối,
và chúng phụ thuộc vào hand thực tế của đối thủ tại thời điểm bạn bet, đây là điều bạn không kiểm
soát được. Vì vậy, rất nhiều lần bạn bet nhưng bạn không biết chính xác mình đang bet value hay
bluff.
Nếu bạn nghĩ về bet một cách khoa học và bài bản hơn bằng cách áp dụng các khái niệm lý
thuyết trò chơi, bạn có thể đưa những lý do cá cược thành hai khái niệm chính:
◆ Tận dụng lợi thế việc biết các lá bài của mình
◆ Thu được equity hoặc ngăn cản đối thủ nhận equity
Trong mô hình poker GTO, người ta cho rằng đối thủ của bạn biết toàn bộ chiến lược của bạn. Vì
vậy, bạn sẽ không bao giờ gây bất ngờ cho đối thủ GTO bằng cách giữ một thứ gì đó như 72o trên
flop sau khi bạn open từ UTG bởi vì nếu bạn open với 72o, nó sẽ là một phần của range RFI ở
UTG của bạn và đối thủ GTO của bạn sẽ có đầy đủ kiến thức về range đó. Trong trường hợp đó,
bạn chỉ nên chơi những range chắc chắn sẽ không dễ khai thác ngay cả khi đối thủ có đầy đủ kiến
thức về chúng.
Tuy nhiên, kể cả ở mô hình GTO này, bạn vẫn có một lợi thế về mặt thông tin so với đối
thủ. Bạn biết chính xác những lá bài của mình trong khi họ chỉ biết về range của bạn. Lợi thế
thông tin bạn có là sự khác biệt giữa những lá bài bạn thực sự nắm giữ và range của bạn, và
lợi thế thông tin này có giá trị khi những quyết định đối thủ đưa ra chênh lệch rất nhiều so
với những gì bạn đang thực sự nắm giữ
Ví dụ, hãy tưởng tượng về những loại hand khác nhau bạn có thể có ở một tình huống poker:
Bây giờ tưởng tượng cách chơi chính xác của đối thủ là:
Bằng cách kết hợp nhiều loại hand khác nhau trong range của mình, bạn khiến đối thủ khó khăn
hơn trong việc liên tục đưa ra cách chơi chính xác đánh bại bạn. Do đó, sự đa dạng range tăng lợi
thế về thông tin của bạn và hãy tận dụng nó để bạn có thể ép đối thủ phải mắc sai lầm.
Sai lầm được định nghĩa là một quyết định mà họ đáng ra đã không thực hiện nếu họ có thể
biết được những lá bài của bạn, không phải một quyết định tệ khi đối đầu với range của bạn.
Đây là loại sai lầm sẽ không diễn ra nếu bạn đang chơi với một đối thủ GTO hiểu rất rõ về chiến
thuật của bạn.
Ví dụ về sai lầm mà một người không chơi GTO có thể mắc phải đối với range của bạn là khi
bạn có một range phân cực hoàn hảo (bao gồm những hand có 100% hoặc 0% equity) và đối thủ
của bạn đẩy all-in để bắt bluff, khiến cho lối chơi của bạn tầm thường. Bạn call khi có hand thắng
và fold khi cầm hand thua mọi lúc. Với thành phần trong range của bạn, lối chơi đúng của đối thủ
để chống lại bạn là luôn luôn check, sau đó khi bạn bet, anh ta sẽ phải call với tần suất dựa trên
size bet của bạn. Đôi lúc đối thủ sẽ call và thua khi bạn bet value và đôi lúc, đối thủ sẽ fold khi bạn
bluff. Đây là loại sai lầm bạn có thể ép một người chơi GTO phạm phải kể cả khi họ có thông tin
hoàn hảo về thành phần range của bạn.
Những range mạnh là những range mà lợi thế về thông tin rất có giá trị và khi lối chơi chính xác
của đối thủ thay đổi linh hoạt dựa trên những phần trong range bạn nắm giữ ở mỗi thời điểm cụ
thể.
Hãy nhắc lại về giải pháp cho trò chơi clairvoyance toy với stack $100 pot $100. EV trò chơi
của P1 là $75. Bây giờ hãy nghĩ về trò chơi này với góc nhìn về thông tin, P1 có thông tin hoàn
hảo, vì range của đối thủ chính xác là một hand, KK, và P2 có lượng thông tin tệ nhất có thể. Họ
biết đối thủ có xác suất nắm giữ hai hand bằng nhau và hành động chính xác khi đối mặt với lệnh
bet là hoàn toàn trái ngược dựa trên việc đối thủ nắm giữ hand nào.
Ở trò chơi này, quyền chọn bet chiến thuật của P1 có value là $25 và lý do P1 có thể kiếm được
value bằng cách bet là vì thành phần range. Hơn nữa, nếu các lá bài được tiết lộ, P2 sẽ chỉ call khi
thấy được P1 có QQ và sẽ không bao giờ call khi P2 cầm AA. Nếu những lá bài được tiết lộ, bet
sẽ không còn ý nghĩa gì nữa và họ sẽ check 100% và nhận được 100% equity, kết quả mang lại
cho mỗi người $50 EV.
Với việc hand bị tiết lộ, lợi thế của P1 không còn. Giải pháp gốc của trò chơi này cho P1 là bet
100% số thời gian với AA và 50% số thời gian với QQ, nhưng P1 không thể thực hiện chiến thuật
này nếu chơi mở bài. Tất cả EV P1 có được từ việc bet đến từ việc thông tin bất đối xứng này.
Không có lý do gì để P1 bet nếu không có lợi thế về việc biết được các lá bài của mình trong khi
đối thủ thì không.
Toàn bộ những lý do để bet và raise trong poker xoay quanh khái niệm tận dụng lợi thế thông
tin về việc biết những lá bài của mình trong khi đối thủ chỉ biết về range của bạn. Điều này là lý
do đầu tiên để bet.
Mỗi lần bạn bet, bạn ép đối thủ phải đưa ra quyết định và vì vậy bạn phải xác định range
bet của mình là gì, nếu bạn xây dựng nó theo cách mà những quyết định chính xác để đánh
bại bạn là rất khác nhau dựa vào việc bạn đang nắm giữ phần nào của range, đối thủ của
bạn sẽ không thể liên tục đưa ra những quyết định tốt, và kết quả là họ sẽ mất EV.
Nói chung, bạn sẽ muốn xây dựng range bet của mình theo cách mà đối thủ không thể liên tục
đưa ra quyết định đúng chống lại những lần nắm giữ khác nhau trong range của bạn. Bạn muốn
tạo ra khác biệt lớn giữa EV của đối thủ khi họ call và bạn cầm hand loại A trong range của mình
so với khi họ call và bạn cầm hand loại B hoặc C trong range của mình. Điều tương tự cũng được
áp dụng với raise. Bạn muốn có một sự khác biệt đáng kể về EV khi họ raise mà bạn cầm hand A
và khi họ raise mà bạn cầm hand B hoặc C trong range của mình. Điều này tạo nên một range bet
thật sự mạnh. EV fold luôn bằng 0, nên trường hợp này không ảnh hưởng gì.
Một lần nữa nhắc lại về trò chơi clairvoyance toy khi mà P1 có một range phân cực và P2 có một
range cô đặc. Như đã đề cập trước đó, trong ví dụ này mỗi người chơi có 50% equity, nhưng EV
của P1 sẽ được xác định bởi độ lớn lệnh bet của họ, và vì size bet của họ sẽ luôn là all-in, EV của
họ sẽ trực tiếp tỉ lệ với độ lớn của stack.
Nếu stack của P1 chiếm 10% pot, EV của họ sẽ là $54.6. Nếu độ lớn stack của họ chiếm 50%
pot, EV của họ tăng lên $66.7. Với lệnh bet bằng size pot, EV của họ tăng lên $75. Với 2x pot, EV
là $83.5. Với 10x pot, EV là $95.4. Stack càng lớn, P1 càng có thể sử dụng cấu trúc range để nhận
được nhiều hơn equity và ngăn cản P2 nhận equity một cách hiệu quả. Nên, trong trò chơi này,
việc P2 có 50% equity không quan trọng. Nếu stack đủ lớn, P1 có thể lấy được nhiều hơn cả phần
“đóng góp ngang bằng” vào pot. Ngược lại, vì stack bé hơn, P1 trở nên kém hiệu quả hơn trong
việc ngăn cản equity của P2, dẫn đến việc cả 2 người chơi lấy được nhiều hơn mức đóng góp vào
pot.
Thành phần range là một nhân tố quan trọng để xác định mức equity các người chơi nhận được
nhiều hơn mức equity thuần.
Khi stack lớn, các vòng đặt cược càng còn lại nhiều và đối thủ của bạn chơi càng tốt, việc
cân bằng range càng quan trọng và equity thuần càng trở nên không đáng kể. Khi stack bé,
tất cả tiền sẽ thường xuyên đẩy vào pre-flop hoặc trong flop khiến cho equity thuần trở thành
nhân tố chi phối.
Khi stack càng lớn, cuộc chơi sẽ diễn ra trên nhiều vòng đặt cược hơn, điều này làm tăng nhu
cầu xây dựng nên các range cân bằng tốt.
Xây dựng chiến lược bet ở post-flop hợp lý không phải một việc dễ dàng. Bạn không chỉ cần
phải duy trì lợi thế thông tin của mình ở flop, mà còn cần ở tất cả các vòng đặt cược sau. Độ bao
phủ bài chia là cần thiết cho cả range bet và check. Nếu bạn không có độ bao phủ bài chia đúng,
kể cả range ở flop của bạn được xây dựng tốt để khiến đối thủ khó ra quyết định ở flop, họ vẫn có
thể khai thác bạn ở những vòng đặt cược sau.
Poker là trò chơi về equity, bạn có bao nhiêu và bạn có thể nhận nó hiệu quả đến mức nào. Bet
giúp ghi nhận equity vì nó loại bỏ equity của đối thủ và nó cũng giúp xây dựng SPR theo cách có
Giờ chúng ra đã nắm được khái niệm hành động bet, chúng ra có thể đi sâu hơn về những hành
động chiến thuật khác như:
◆ Fold
◆ Check
◆ Call
◆ Raise
Fold
Ở lý thuyết trò chơi, fold hand trong khi được check free là một chiến thuật bị chi phối nghiêm
ngặt và không bao giờ nên sử dụng. Ngay cả khi bạn nghĩ rằng hand của mình thực sự tệ và bạn
biết rằng bạn sẽ fold với bất kỳ lệnh bet nào sau đó, bạn cũng không bao giờ nên chủ động fold
trước. Hãy đợi để đối thủ của bạn thực hiện lệnh bet trước khi bỏ bài của bạn vì bất kể hand của
bạn có thể tệ đến thế nào, nó sẽ luôn có một vài equity hoặc equity backdoor đối với hầu hết những
phân phối range thông thường. Equity này có thể nhận được nếu đối thủ cũng check mà cho phép
lá bài free được chia. Trong một vài trường hợp, bạn có thể tìm được thời điểm thích hợp biến
hand của mình thành một cú bluff và ăn được pot sau đó.
Quan trọng hơn cả, duy trì lợi thế thông tin của bạn trước đối thủ là chìa khoá. Nếu mỗi lần bạn
có hand tệ đều bỏ thay vì check, vậy khi bạn không chủ động fold trước, đối thủ sẽ biết bạn có một
hand tốt và sẽ có thể điều chỉnh theo hợp lý, chỉ cho phép bạn hành động khi họ có một hand mạnh.
Check
Check khi có vị trí khác biệt rất cần thiết so với check khi không có vị trí. Check flop khi có vị
trí loại bỏ một cách hiệu quả một vòng bet, hữu ích cho những phần yếu hơn của range IP. Khi bạn
IP, check ngay lập tức nhận lại equity, bằng cách xem lá tiếp theo hoặc bằng cách showdown.
Ngược lại, check khi OOP không đảm bảo nhận lại được equity vì rất nhiều lần người chơi OOP
sẽ đối mặt với lệnh bet sau khi check và sẽ bị ép phải fold một vài hand và từ bỏ equity trong pot,
khiến việc cần thiết phải cân bằng range thậm chí lớn hơn khi check OOP so với IP. Range check
của IP chỉ cần phải cân bằng trung bình ở lá turn, trong khi range check của OOP cần phải được
cân bằng ở flop để có thể đối phó với những cú bet có thể của IP sau đó.
Call
Call một lệnh bet ở một pot đối đầu ghi nhận equity, bằng cách đến vòng showdown hoặc xem
thêm một lá.
Raise
Raise một lệnh bet là đặt một lệnh bet hiệu quả lớn hơn lệnh bet trước đó, vì vậy các nguyên tắc
tương tự áp dụng cho bet cũng áp dụng cho raise. Bạn sẽ chỉ muốn raise để tận dụng lợi thế biết
chính xác lá bài của mình hoặc nếu raise có thể giúp bạn ghi nhận equity hiệu quả hoặc ngăn cản
đối thủ nhận equity.
Tất cả các hành động khác nhau bạn thực hiện đều truyền tải thông tin. Một khi bạn thực hiện
hành động, bạn chỉ có thể cầm hand hiện hữu trong range thực hiện hành động đó. Một trong những
sai lầm lớn nhất tôi nhất những tân binh mắc phải là cố gắng đưa ra một hand mà họ chắc chắn
không bao giờ có thể có theo như cách hành động được đưa ra. Đó là lý do điều quan trọng không
Nếu những gì đối thủ đang cố diễn cho bạn xem không hợp lý, khả năng là họ không có bài.
◆ Range cô đặc
Chúng ta cũng đã thiết lập rằng một range có thể capped hoặc uncapped và hầu hết các range sẽ
thuộc một hoặc nhiều loại cùng lúc. Mặc dù cách phân loại range này phù hợp với hầu hết tình
huống ở pre-flop và có thể được sử dụng để có được ý tưởng chung chung về phân phối equity của
range, nó thiếu mức độ chi tiết.
Như đã thấy ở phần lý thuyết trò chơi, thành phần range là một trong những nhân tố quan trọng
nhất ảnh hưởng đến hành động. Vì lý do này, tôi giới thiệu một khái niệm mới gọi là Equity Buckets
(Rổ Equity), chuyển trọng tâm từ cách các range được phân loại theo phân phối equity chung của
chúng sang cách các hand trong một range cho trước có thể được phân loại dựa trên một hand so
với equity range. Điều này cung cấp cho chúng ta mức độ chi tiết cần thiết để giúp chúng ta nắm
được cách chơi post-flop tốt hơn:
◆ Những Hand mạnh: Những hand có một hand so với range equity lớn hơn hoặc bằng 75%
◆ Những Hand tốt: Những hand có một hand so với range equity lớn hơn hoặc bằng 50%
nhưng nhỏ hơn 75%
◆ Những Hand rác: Những hand có một hand so với range equity nhỏ hơn 33%
Bằng cách đặt mỗi hand ở range của người chơi vào rổ equity, chúng ta có một ý tưởng rõ ràng
hơn về việc phân bổ equity ở post-flop của range và có thể chính xác hơn về mức độ một range
phù hợp với các hình thái khác nhau. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là cách mà value của một
hand không phải là tĩnh mà thay vào đó là động, liên quan đến những range đang chơi và loại
board (Table 88).
Bảng 88: EQ Values của các loại hand ở những loại mặt Board khác nhau
Chúng ta có thể thấy cách mà một hand như top pair có thể mạnh với 82% EQ ở mặt flop AQT
nhưng chỉ có 60% EQ ở mặt flop T98 hai lá đồng chất. Một hand như two pair ở AQT có nhiều
equity hơn một set ở T98.
Diagram 23
Theo như biểu đồ EQB xuyên suốt 1,755 flop, gần nửa range của BB tạo bởi những hand rác có
ít hơn 33% equity, trong khi người chơi IP (BN-UTG) chỉ có trung bình 6% hand rác trong range
của họ. Mặt khác, người chơi IP có 22% những hand mạnh có ít nhất 75% equity, trong khi chỉ 7%
trong range của BB là những hand mạnh. Cả hai người chơi có số lượng hand yếu ngang nhau,
23% cho BB và 29% cho IP. Cuối cùng, range của người chơi IP có 43% những hand tốt trong khi
BB chỉ có 25%.
◆ Khả năng có thể sử dụng một vài size bet ở post-flop quan trọng như thế nào?
◆ Lối chơi GTO thực thụ có yêu cầu sử dụng số lượng size bet vô tận không, hay có giới
hạn cho EV đạt được bằng cách thêm vào nhiều size bet và tăng mức độ phức tạp cho chiến
thuật của chúng ta?
◆ Có thể có trường hợp tồn tại size bet GTO tối ưu luôn luôn tối đa hoá EV của chúng ra
không?
NLH là một trò chơi tiếp diễn mà sơ đồ trò chơi đầy đủ với những size bet vô hạn không thể rút
ra. Vì vậy, để có thể giải quyết một cách toán học bất kỳ trường hợp NLH nào với bộ giải GTO
hiện đại, chúng ta phải sử dụng lệnh bet trừu tượng với lượng size bet vô tận. Nếu cách chơi tối ưu
thực thụ yêu cầu sử dụng số lượng size bet vô cực hoặc rất lớn, những ứng dụng bộ giải tính toán
sẽ bị hạn chế, thậm chí là vô dụng. Hơn nữa, như đã đề cập trước đây, cái giá của việc áp dụng
những chiến thuật cực kỳ phức tạp có thể vượt quá giá trị nó mang lại và có thể, ở thực tế, ảnh
hưởng đến kỳ vọng của bạn vì những chiến thuật càng phức tạp thì càng khó để thực hiện. Không
giống như máy tính, đối với con người, thậm chí nhiều hơn một vài size bet qua các vòng cược
khác nhau có thể nhanh chóng vượt ngoài tầm kiểm soát.
Ở phần này chúng ta sẽ sử dụng kết quả từ trò chơi toy đã biết và bộ giải hiện đại để trả lời
những câu hỏi trên, để hiểu hơn về size bet GTO và sử dụng kết quả đó để xây dựng những chiến
lược vừa mạnh vừa đủ đơn giản để áp dụng hiệu quả.
Cách để tính một lệnh bet bằng pot rất đơn giản. Giả sử pot là $100, và bạn muốn bet 1/2-pot.
Những gì bạn cần làm là nhân $100 × 1/2 = $50. Nhưng nó sẽ trở hơn khó hơn nếu bạn muốn thực
hiện một lệnh raise bằng pot sau khi đã có người bet.
Để tính một lệnh raise bằng pot, sử dụng công thức sau:
Ví dụ
Pot là $100 và đối thủ bet $50, bạn nên raise bao nhiêu nếu bạn muốn raise bằng pot?
Nếu bạn muốn raise một tỉ lệ so với pot, công thức sẽ như sau:
Nếu bạn muốn raise một mức khác như 50% pot, phép tính sẽ là:
Mặc dù tuyên bố đó có thể đúng, chúng ta không thể quên rằng số liệu Alpha và MDF đến từ
đâu. Chúng được suy ra từ phương trình EV. Họ cho rằng EV khi check hand của bạn là 0 và mỗi
khi bạn bị call và đang bluff bạn sẽ thua pot và khoản bet của bạn. Tuy nhiên, ở flop hầu hết các
hand poker sẽ luôn luôn có một vài equity, thậm chí những hand tệ nhất cũng có thể cải thiện ở
những vòng cược sau. Vì lý do này, số liệu Alpha và MDF bị sai lệch. Thực tế, BB không phải
phòng thủ nhiều hand như là MDF đưa ra, vì họ không phải khiến cho hand tệ nhất của IP bàn
quan với 0. IP phải khiến họ trở nên bàn quan với EV của việc check lại. Đồng thời, IP sẽ không
luôn luôn thua toàn bộ pot khi họ bị call và đang bluff vì đôi lúc hand bluff này sẽ giúp lấy được
equity khiến cho việc bet liên tục mang lại lợi nhuận nhiều hơn kỳ vọng.
Những số liệu này trở nên phù hợp hơn ở river khi không còn lá bài nào được chia thêm và bạn
biết nếu hand của mình có equity ở pot hay không. Khi quyết định bet hay check một hand, bạn
cần so sánh EV của cả hai hành động và chọn hành động bạn nghĩ sẽ đem lại lợi nhuận nhiều hơn
kỳ vọng.
Alpha và MDF có thể được sử dụng như một hướng dẫn tương đối, nhưng bạn không thể xây
dựng chiến lược cốt lõi của mình chỉ dựa trên chúng và nghĩ rằng đó là GTO.
Trò chơi Toy [0-1] có thể được sử dụng để phân tích những tình huống đối đầu khi cả hai người
chơi có những range đối xứng. Ở trò chơi này, cả hai người chơi được chia một số ngẫu nhiên nằm
trong khoảng từ 0 đến 1 (bao gồm cả số thập phân như .04563) đại diện cho hand của họ. Những
số lớn hơn sẽ đánh bại số bé hơn. Trò chơi này được chơi trên một vòng cược. Nếu IP bet, OOP
chỉ có thể call hoặc fold, và không thể x/r.
Ở lập trình này, cả hai người chơi có thể có số lượng hand vô tận vì tồn tại vô hạn số nằm giữa
0 và 1. Kết quả chung là chiến lược tối ưu cho IP là sử dụng số size bet vô hạn dựa trên độ mạnh
hand của họ. Vì vậy IP nên lựa chọn một hand có giá trị, ví dụ 0.99, và đi đôi với nó là một hand
bluff được chọn từ một trong những hand yếu nhất ở range, ví dụ 0.01. Sau đó IP bet một mức cụ
thể thay đổi theo độ mạnh value của hand, sử dụng size bet lớn nhất với hand có value mạnh nhất,
size bet lớn thứ hai với hand có value mạnh thứ hai, size bet lớn thứ ba với hand có value mạnh
thứ ba và tương tự vậy.
Chúng ta có thể tái hiện trò chơi Toy [0-1] vào bộ giải GTO hiện đại bằng việc đưa cho cả hai
người chơi một range cố định gồm 10 hand được lựa chọn kĩ càng để không có hiệu ứng lá bài
chặn:
Hero: IP với range bao gồm A♣A♦, K♣K♦, Q♣Q♦, J♣J♦, T♣T♦, 9♣9♦, 8♣8♦, 7♣7♦, 6♣6♦,
5♣5♦
Villain: OOP với range bao gồm A♠A♥, K♠K♥, Q♠Q♥, J♠J♥, T♠T♥, 9♠9♥, 8♠8♥, 7♠7♥, 6♠6♥,
5♠5♥
Mặt board: 2♥2♠2♦3♠3♥ vậy không có liên quan gì với những range trên.
Ở ví dụ này chúng ta có kết quả tương tự dự đoán ở trò chơi Toy [0-1] với hand mạnh nhất của
Hero là AA sử dụng size bet lớn nhất, KK sử dụng size bet mạnh thứ hai và cuối cùng QQ sử dụng
size bet bé nhất và cân bằng chúng với 55, và 66 sử dụng cả ba loại size bet (tỉ lệ của 55 trong
range không đủ để tạo nên tất cả tần suất bluff nên một phần nhỏ tỉ lệ của 66 được sử dụng để tạo
nên sự khác biệt). JJ-77 luôn luôn được check.
Phản ứng của Villain ở trò chơi Toy này là luôn luôn call AA với mọi size bet, sau đó thêm vào
đủ số hand khác để khiến những cú bluff của IP trở nên bàn quan với lệnh bet hoặc check.
Tuy nhiên, trò chơi toy này có một vài hạn chế mà poker không có. Ví dụ, ở poker, đối thủ có thể
raise lệnh bet của bạn nên, nếu bạn sử dụng size bet ⅓ pot, họ sẽ biết bạn chỉ có thể cầm QQ hoặc
55 và sử dụng thông tin đó để tấn công range capped của bạn bằng cách raise với một range phân
cực chống lại sự phân phối đó, ví dụ AA, KK hoặc một bài cú bluff. Điều này sẽ cho phép đối thủ
kiếm được thêm EV (Hand Range 337).
Hand Range 338: OOP x/r vs the 1/3 Bet-size • Bet Full Pot 15% / • Bet 2/3 Pot 28% / • Bet 1/3
Pot 0%/ • Check 57%
Nếu chúng ta được cho phép x/r với cả ba loại size bet khác nhau, Hero không còn có thể chia nhỏ
range thành nhiều size bet và sẽ điều chỉnh để chỉ sử dụng lệnh bet bằng pot, thu hẹp range value
thành KK+ và check lại với QQ-66 (Hand Range 339).
Nếu chúng ra đưa cho Hero lựa chọn all-in và bet pot thêm vào trong khi Villain được cho phép
x/r, Hero sẽ chia nhỏ range của họ thành hai size bet:
◆ Size bet all-in được sử dụng với AA 42% số thời gian và cân bằng bởi bluff với 55 26% số
thời gian.
◆ Size bet bằng pot được sử dụng với KK 100% số thời gian và được cân bằng với AA
58% số thời gian, điều này giúp IP được bảo vệ khỏi OOP x/r và với 55 74% số thời gian là
bluff.
All-in là một size bet đặc biệt bởi nó giới hạn quyền chọn của Villain thành chỉ call và fold. Ở
độ lớn stack 2x pot này, OOP không thể sử dụng một cách hiệu quả thông tin đưa ra bởi Hero cho
mục đích khai thác.
Tóm tắt
Ở trò chơi Toy A, khi Villain không được cho phép x/r, Hero có thể chia nhỏ range bet thành
ba size bet khác nhau cho phép nắm bắt được 56.11% pot.
Ở trò chơi Toy B nếu chúng ta cho phép Villain chỉ được x/r đối với size bet 1/3-pot, phản ứng
của Hero là dừng sử dụng size bet đó và EV của họ sẽ giảm xuống 54.98%. Nếu chúng ta cố định
chiến thuật của Hero ở trò chơi Toy B để ép sử dụng size bet ⅓ pot, mặc dù nó có thể bị khai thác
bởi Villain’s x/r, EV của Hero giảm xuống 54%.
Ở trò chơi Toy C, Hero quay lại một size bet duy nhất do sự khai thác bởi OOP x/r.
Ở trò chơi Toy D, độ lớn stack của Hero cho phép họ chia nhỏ range của mình thành all-in hoặc
bằng pot khi SPR bằng 2, điều này đảm bảo kiếm được lượng EV nhỏ trong tổng số 55.06% EV.
Tuy nhiên, Hero hầu như vẫn giống như trò chơi Toy C chỉ sử dụng lệnh bet bằng pot. Nếu ta tăng
SPR lên 4 ở trò chơi Toy D, Hero sẽ không sử dụng size bet all-in nữa mà chọn chỉ sử dụng size
bet bằng pot và không bị mất EV vì đã giới hạn Hero chỉ ở mức bet bằng pot.
Bảng 90: Những size bet tối ưu trong một vòng cược của trò chơi Toy [0-1] (Những ô
được tô màu là lệnh bet all-in)
◆ Nếu SPR bằng 1 hoặc nhỏ hơn, size bet tối ưu thực tế là all-in.
◆ Đối với SPR 1-2, range được chia nhỏ thành pot và all-in.
◆ Đối với SPR 3, bet all-in bị dừng sử dụng và range bet chia nhỏ thành 75% pot và 125%
pot
◆ Đối với SPR 5 đến 10, range bet chia nhỏ thành 75% pot và 150% pot.
Kết luận
Sử dụng những size bet khác nhau khá nguy hiểm và còn nguy hơn ở những vòng bet sớm. Chia
nhỏ range thành những size bet khác nhau sẽ cung cấp thông tin đối thủ có thể tận dụng để chống
lại bạn khi họ có quyền chọn raise hoặc bet. Hiệu ứng này được phóng đại khi bet diễn ra ở nhiều
vòng cược. Cách mà range tương tác với mặt board và các lá bài được mở ra thay đổi mức equity
là trường hợp của poker thực tế. Khi mặt board chia ra có thể thay đổi value của hand và có những
hiệu ứng lá bài chặn có thể bởi mặt board hoặc hand của Villain chặn những hand value hoặc bluff,
nên sử dụng ít size bet hơn.
Vì lý do này, chúng ta không phải lo lắng việc lối chơi tối ưu bao gồm những size bet vô hạn vì
luôn luôn có sự cân bằng giữa mức EV có thể đạt được bằng cách sử dụng size bet hoàn hảo với
tỉ lệ cụ thể trong range và mức độ bạn thua bởi việc đưa cho đối thủ thêm thông tin về hand bạn
nắm giữ.
Mặc dù bộ giải GTO có thể chia nhỏ và cân bằng nhiều size bet thì EV đạt được, trong hầu hết
các trường hợp, không đủ đáng kể để đảm bảo độ khó gia tăng cho người chơi có thể áp dụng
chúng.
Đơn giản hoá chiến thuật bằng cách loại bỏ size bet bé nhất và chỉ để lại size bet lớn thường
làm giảm tần suất bet vì nhiều hand có lợi nhuận với size bet nhỏ hơn không còn là một lệnh bet
mang lại lợi nhuận với size bet lớn hơn. Ngược lại, loại bỏ size bet lớn khỏi mô phỏng mà chỉ để
lại size bet nhỏ sẽ thường tăng tần suất bet của người chơi.
Cả lý thuyết và thực tế đều đồng tình với tiền đề rằng việc chia nhỏ range thành nhiều size
bet không thêm lượng EV đáng kể vào chiến thuật của bạn chống lại đối thủ GTO có thể phản
ứng đúng cách. Tuy nhiên, thay đổi size bet khai thác của bạn với những phần khác nhau của
range chống lại một người chơi bạn nghĩ là sẽ mắc sai lầm có thể cực kỳ lợi nhuận.
Size bet tối ưu giúp tối đa hoá EV cho người chơi với range phân cực ở bản nhiều vòng cược của
trò chơi Clairvoyance Toy được đưa ra bởi sự tăng trưởng theo cấp số nhân của pot. Điều này đặt
ra một cấu trúc bet mà tỉ lệ với pot giống nhau được bet ở mỗi vòng để lệnh bet ở river luôn luôn
là all-in.
Công thức chung để tính ra size pot cuối cùng sau một số vòng đặt cược là:
Trong đó:
FP = Size Pot cuối cùng
Có thể sắp xếp lại để tính ra tỉ lệ tăng trưởng của Pot (R) sau đó sử dụng để tính Size bet theo
cấp số nhân. (Chứng minh cho khái niệm này vượt ngoài phạm vi của văn bản này. Nếu bạn muốn
mở rộng về nó bạn có thể tìm thấy thông tin chi tiết ở cuốn The Mathematics of Poker bởi Bill
Chen và Jerrod Ankenman.)
Players: 9
Blinds: $5/$10 (không ante)
Pre-flop: Hành động fold đến Hero ở vị trí SB raise $35, Villain ở vị trí BB call, và chúng ta đến
với flop. Hero nên bet bao nhiêu ở mỗi vòng cược nếu muốn sử dụng size bet theo cấp số nhân?
Chúng ta cần phải tìm ra tỉ lệ tăng trưởng của pot (R). Ở ví dụ này, bet được tính qua ba vòng
đặt cược bắt đầu từ flop, do đó pot khởi điểm là $70, size pot cuối cùng khi cả hai người chơi all-
in sẽ là $2,000 và số vòng đặt cược là 3.
Điều quan trọng phải nhận ra rằng áp dụng size bet theo cấp số nhân khi stack quá lớn dẫn đến
lệnh bet vô cùng lớn (thường sẽ là những lệnh bet quá đà). Ở poker thực tế, các range sẽ không
bao giờ là phân cực hoàn hảo và bet quá lớn ép buộc Villain phải fold phần yếu hơn ở range của
họ và họ sẽ chỉ theo tiếp với những hand mạnh nhất. Nếu bạn bet đủ lớn để khiến Villain chỉ call
Size bet theo cấp số nhân chỉ áp dụng cho những tình huống khi range của một người chơi là phân
cực hoàn hảo (bao gồm những hand với 100% equity và những hand với 0% equity) và range của
người chơi khác là 100% bắt bluff, điều mà sẽ không bao giờ xảy ra ở poker thực tế. Vậy, không
có khả năng size bet theo cấp số nhân trở nên tối ưu đối với Hero, nhưng ít nhất nó cho chúng ta
ý tưởng tốt về chiến thuật của Hero khi range của họ là phân cực: đặt những lệnh bet lớn qua nhiều
vòng cược!
Chúng ta quay lại với trò chơi Toy [0-1] một vòng cược với giả lập sau:
The SPR: 4
Bet-sizes: 30% Pot, 60% Pot, 90% Pot, 120% Pot, All-in
Hero: IP
Villain: OOP
Ở trò chơi toy này Villain luôn luôn check với Hero, nhưng được phép raise nếu Hero bet. Ở
giả lập này cả hai người chơi luôn có 50% equity.
[0-1] Trò chơi Toy A: Hero có bất lợi lớn về độ phân cực
Range của Hero là QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66
Range của Villain là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44
[0-1] Trò chơi Toy E: Villain có bất lợi lớn về độ phân cực
Range của Hero là AA, KK, QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66, 55, 44
Range của Villain là QQ, JJ, TT, 99, 88, 77, 66
Bảng 92: Thống kê của Hero theo độ phân cực của range
◆ Trò chơi Toy A (Range của Hero phân cực lớn): Chiến thuật là luôn luôn check và
chia nhỏ pot 50% số thời gian.
◆ Trò chơi Toy B (Range của Hero phân cực ít): Hero có thể bắt đầu bet ~15% số thời
gian sử dụng size bet 60% và không sử dụng những size bet lớn hơn.
◆ Trò chơi Toy C (các range đối xứng): Range của Hero chia nhỏ giữa những size bet
lớn hơn ở mức 90% và 120% nhưng all-in vẫn chưa được sử dụng.
◆ Trò chơi Toy D (Hero bắt đầu có một chút lợi thế về độ phân cực): size bet all-in
bắt đầu được sử dụng, nhưng size bet ưu tiên là bet quá 120%.
◆ Trò chơi Toy E (Hero có lợi thế lớn về độ phân cực): all-in trở thành size bet tối
ưu, những size bet nhỏ và vừa không bao giờ được sử dụng.
Nếu range của Hero trở nên phân cực hoàn hảo và range của Villain trở thành chỉ bắt bluff,
chiến thuật sẽ là Hero chỉ sử dụng size bet all-in.
Ở trò chơi toy này Villain check với Hero ở turn nhưng được phép raise nếu Hero bet. Cả hai
người chơi có thể bet, raise, call hoặc fold ở river.
Sử dụng những ví dụ về sự phân phối range tương tự như phần Hiệu ứng Độ phân cực của
Range, chúng ta có thống kê về độ phân cực của range sau đây (Table 93).
Bảng 93: Số liệu thống kê của Hero dựa theo độ phân cực của range
Ở lập trình này, Hero không chỉ có lợi thế về độ phân cực, mà còn có lợi thế equity, do dó kỳ
vọng thậm chí còn lớn hơn nhiều so với trò chơi toy một vòng đặt cược. Đồng thời, bet qua nhiều
vòng đặt cược luôn luôn có lợi cho người chơi có range phân cực.
Ở trò chơi Toy A và B, Hero có range không phân cực. Ở trò chơi toy một vòng cược, Hero vẫn
có thể bet với tần suất thấp khi ta loại bỏ KK và 44 khỏi range của anh ta. Tuy nhiên, ở bản trò
chơi nhiều vòng cược, thậm chí chỉ một chút bất lợi về độ phân cực cũng khiến cho Hero phải
dừng việc thực hiện bất kỳ một lệnh bet nào. Mặc dù có vị trí, Hero chọn sẽ không bao giờ bet, vì
check lại giúp loại bỏ hiệu quả một vòng cược khỏi sơ đồ trò chơi, cho phép Hero đến với lá river
với toàn bộ range của mình. Trong khi đó bet có thể khiến Hero phải fold một vài hand vì x/r. All-
Ở trò chơi Toy C, các range đối xứng và Hero bắt đầu sử dụng size bet nhỏ hơn vào mức 30%
Pot lần đầu tiên. Vì Hero có lợi thế về độ phân cực, tần suất bet tổng thể tăng lên, và những size
bet lớn hơn được áp dụng. Với SPR 4, size bet theo cấp số nhân với hai vòng cược là 100% pot,
nhưng size bet được chọn lựa bởi bộ giải nhỏ hơn thế rất nhiều, nên range của Hero phải phân cực
hơn rất nhiều so với Villain để size bet lớn hơn trở nên chiếm ưu thế. Ở trò chơi Toy E, chiến thuật
của Hero là bet nhỏ ở turn với tần suất cao, kết hợp tỉ lệ phân cực và không phân cực của range.
Hành động này thường được biết đến là range merging (hợp nhất range) . Lý do Hero chọn bet
một range hợp nhất thay vì một range phân cực là vì khả năng Villain sẽ bet ở river. Nếu Hero quá
phân cực range bet ở turn, chọn size bet lớn với phần trên và giữa của range, check lại những hand
trung bình như TT-88, thì Villain có khả năng bet ở river và tất công capped range của Hero và do
đó tăng kỳ vọng. Bằng cách bet một range hợp nhất với size bet nhỏ hơn ở turn, Hero phải tăng
tần suất bet, giảm thiểu ảnh hưởng việc check lại một capped range yếu hơn. Hơn nữa, sau khi
Villain đã call lệnh bet ở turn, Villain sẽ hầu hết check với Hero, sau đó Hero sẽ có thể check
những hand có độ mạnh trung bình, và nhận được equity.
Nếu chúng ta tăng lợi thế độ phân cực của Hero bằng cách giảm range của Villain xuống JJ-77
(Trò chơi Toy F), Hero sẽ có thể bet 100% range ở lá turn. Size bet 30% vẫn duy trì với tần suất
lớn nhất, nhưng size bet 60% bắt đầu biến mất, trong khi tần suất size bet 90% tăng lên và Hero
bắt đầu tiến đến bet quá 120% (Table 94).
Kết luận
Range của Hero càng phân cực so với range của Villain, Hero càng nên sử dụng size bet lớn hơn.
Nếu bet diễn ra ở nhiều vòng cược, Hero nên chọn những size bet nhỏ hơn ở những vòng cược
Để kiểm tra giả thuyết này tôi đã cho chạy tất cả 1,755 flop ở Single Raised Pot (SRP) giữa BB
và BN với stack hiệu dụng 40bb. Ở một mô phỏng tôi đã sử dụng bốn size bet khác nhau: bet tối
thiểu, 1/3-pot, 1/2-pot và 2/3-pot, và có được EV trung bình của IP qua tất cả các flop tính theo tỉ
lệ riêng của mỗi pot, theo thứ tự để đại diện cho tất cả 22,100 flop cụ thể. Sau đó tôi chạy lại một
kịch bản tương tự chỉ sử dụng size bet 1/3-pot. Kết quả được tóm tắt ở Bảng 95.
Bảng 95: Tóm tắt các mô phỏng với những size bet khác nhau
Mức chênh lệch EV trung bình qua tất cả các flop là -0.14% pot, hoặc 0.9bb/100, khi sử dụng
một size bet so với bốn size bet. Tuy nhiên, phép thử này so sánh mô phỏng một size bet so với
mô phỏng có bốn size bet và có thể tối đa hoá EV của mỗi combo bằng cách chọn bất kỳ một trong
Giả định lối chơi hoàn hảo từ mỗi người chơi, EV mất đi trung bình khi chỉ sử dụng size bet
1/3-pot ở giả định không quá 0.9bb/100. Con số này có thể thay đổi với những độ lớn stack khác
nhau và những range khác nhau, nhưng đưa ra cho chúng ta khởi điểm hợp lý, vì đây là mức trung
bình qua tất cả 1,755 flop. Nó không giống như khi thua -0.9bb/100 ở một flop, nên con số này rất
đáng kể. Tuy nhiên, nó giả định lối chơi hoàn hảo từ cả hai người chơi và ta biết rằng điều này
khác xa so với poker thực tế, rằng cả Hero và Villain đều sẽ mắc sai lầm.
Một số người ủng hộ việc đơn giản hoá những chiến lược của họ bằng cách “một size bet cho tất
cả” dựa trên tiền đề rằng việc điều chỉnh size bet theo flop là không đáng, với EV nhỏ, nếu có, đạt
được khi so sánh với việc sử dụng size bet hợp lý xuyên suốt 1,755 flop. Mặc dù tôi biết điều này
có lý, tôi không đồng tình với cách “một size bet cho tất cả” này. Đúng vậy, sẽ không có quá nhiều
EV thắng được khi đối đầu với một người chơi GTO khi thay đổi size bet của bạn ở những flop
khác nhau. Tuy nhiên, bạn sẽ không đấu với một người chơi GTO. Cố gắng nỗ lực hơn nữa để
hiểu được cách mà một vài flop khác với những cái còn lại và sử dụng size bet nào thì hợp lý hơn.
Với cách mà range tương tác với mặt board sẽ không chỉ giúp hand của bạn dễ chơi hơn, mà còn
gây ra nhiều khó khăn hơn cho đối thủ khiến họ không quen khi đối mặt với nhiều size bet khác
nhau. Kể cả khi người chơi GTO có thể phòng thủ với tần suất call, fold và raise chính xác khiến
cho những size bet của bạn trở nên vô nghĩa hay chỉ tốt hơn một chút so với size bet “thông
thường”, điều đó có thể không xảy ra với đối thủ con người phải chật vật để phòng thủ lại những
điều không thông thường. Bạn sẽ không gặp phải vấn đề đó. Nếu đối thủ của bạn sử dụng size bet
GTO hoặc gần giống thế để đấu với bạn, bạn nên biết cách phòng thủ. Nếu đối thủ sử dụng một
size bet không phải GTO, vậy bạn có thể thử khai thác lựa chọn size bet kém tối ưu này.
Ví dụ
Bạn ở vị trí BB với stack hiệu dụng 30bb, UTG raise mức tối thiểu, các hành động fold đến bạn
và bạn call. Flop chia ra J♠2♥2♦ và bạn check.
Để kiếm tiền từ chơi poker, bạn không cần phải chơi GTO hoàn hảo ở mỗi vòng và không
cần phải biết size bet tối ưu chính xác nhất cho mỗi flop bất kỳ vì đối thủ của bạn cũng không
thể tự chơi GTO hoàn hảo. Tất cả những gì bạn phải làm là đưa ra, trung bình, nhiều quyết
định tốt hơn họ, đủ để tạo nên một tỉ lệ thắng vững chắc, và liên tục cải thiện để họ không thể
bắt kịp bạn.
Hầu hết thời gian bộ giải không có sự khác biệt với những size bet giống nhau. Ví dụ, không có
quá nhiều khác biệt giữa bet 25% hoặc 33% Pot, hay 60% hoặc 67% Pot. Hầu hết thời gian nó đủ
tốt để biết rằng flop là flop “size bet lớn” hay flop “size bet nhỏ”. Đối với MTTs, tôi khuyên dùng
hai size c-bet: bet tối thiểu và bet quá 120% kết hợp. Nếu bạn muốn đơn giản hoá chiến thuật của
mình thành chỉ một size bet, bạn có thể lựa chọn ⅓-pot xuyên suốt board, điều mà thực tế hầu hết
những người chơi MTT trực tuyến đang sử dụng trong những trò chơi hiện đại. Chiến thuật này
hoạt động hiệu quả đối với đa số vì nó đơn giản hoá sơ đồ trò chơi, nó rất dễ áp dụng, và nó cho
phép bạn c-bet với tần suất cao ở hầu hết các mặt board. Điều này ép Villain phải đưa ra quyết
định, để lộ thông tin về range của họ với mức phí thấp. Nó cũng khai thác xu hướng đa số, vì hầu
hết người chơi vẫn fold quá đà khi gặp những lệnh bet nhỏ.
Lời khuyên của tôi là hãy trở nên thuần thục với ít nhất một vài size bet (một cái lớn và một cái
nhỏ), và biết cách áp dụng chúng chính xác. Lúc này bạn có một chiến thuật vững chắc bạn có thể
đấu lại những đối thủ khó nhằn khiến họ phải liên tục đoán bài bạn trong khi bạn vẫn có thể phòng
thủ hiệu quả khi họ là những người chơi không sử dụng chiến thuật thông thường. Đối với những
người chơi yếu hơn, bạn có thể kết hợp chúng và chơi một chiến thuật khai thác. Đừng sợ bị khai
thác ngược lại khi chơi với đối thủ bạn không hiểu vì kể cả khi họ biết bạn đang làm gì, cơ hội là
họ sẽ không biết được cách điều chỉnh chính xác chống lại bạn. Cứ tiếp tục tấn công họ cho đến
khi họ bắt đầu chống trả. Nếu bạn nghĩ có thể thoát khỏi việc c-bet ở tần suất cao hơn là tối ưu
Khi bạn chọn những size bet mà người chơi có thể sử dụng ở bất kỳ vị trí nào, bạn đang giới
hạn hành động của họ với chỉ những lựa chọn đó. Ví dụ, nếu bạn nhập size bet ở flop là 1/2-pot và
2/3-pot, chúng chỉ là những size bet người chơi có thể sử dụng ở flop. Một ví dụ khác, nếu bạn
không đưa cho người chơi OOP quyền chọn x/r ở flop, nếu họ chỉ có thể call hoặc fold, điều này
sẽ ảnh hưởng đến chiến thuật bet của IP vì IP bây giờ biết rằng có 0% khả năng OOP sẽ x/r ở flop.
IP lúc này sẽ bet ở tần suất cao hơn để không mất đi equity đã đóng vào pot. Vì lý do này, điều
quan trọng là phải đảm bảo được tất cả những người chơi ở mô phỏng GTO có size bet phù hợp
và có thể phản ứng lại hiệu quả ở hầu hết các trường hợp để giải pháp của bộ giải không bị lệch
do cấu trúc bet tệ ảnh hưởng đến một trong những người chơi ở vòng cụ thể - trừ khi bạn đang tích
cực cố gắng khai thác một sơ hở đã biết của đối thủ.
Việc sử dụng nhiều size bet nhất có thể khá hấp dẫn trong GTO, tuy nhiên, sử dụng quá nhiều
size bet là không thực tế vì mỗi size bet được thêm vào sẽ làm tăng kích thước sơ đồ trò chơi theo
cấp số nhân. Điều này gần như là không thể đối với con người để áp dụng chính xác tất cả chúng
vào trò chơi. Hơn nữa, sơ đồ trò chơi càng lớn yêu cầu khả năng tính toán cao hơn và mất nhiều
thời gian hơn để bộ giải có thể hoàn thành mô phỏng, đồng thời khiến việc sử dụng quá nhiều size
bet trở nên không thực tế.
Chúng ta đang phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan của việc xây dựng sơ đồ trò chơi
chính xác nhất có thể đại diện cho nhiều tình huống đồng thời cố gắng làm cho kích thước của
những mô phỏng GTO có thể quản lý được và các chiến thuật đủ đơn giản để áp dụng vào trò chơi.
May mắn rằng, chúng ta không thật sự cần phải thử tất cả các size bet có thể, vì thử một cái gì đó
như căn bậc hai của Pi là vô nghĩa. Hầu hết những người chơi poker bet một tỉ lệ đối với pot, nên
Đôi khi bộ giải sẽ đưa ra một xu hướng ưa thích rõ ràng cho việc hành động với một hand vì
EV cho hành động đó cao hơn nhiều so với EV thực hiện hành động khác. Rất nhiều lần EV ghi
nhận bởi bộ giải cho một combo riêng lẻ sẽ hầu như giống hệt nhau với những hành động khác
nhau, như bet hoặc check và điều này có thể khiến người chơi nghĩ rằng cách chơi post-flop không
quan trọng vì mọi thứ không có khác biệt gì. Đây là một sai lầm rất lớn. Những EV ghi nhận bởi
bộ giải giả định rằng cả hai người chơi đều chơi ở mức cân bằng. Nếu chúng ta bắt đầu thay đổi
tần suất của các hand đến mức mà toàn bộ chiến thuật và thành phần range không còn giống nhau,
các range sẽ trở nên có thể khai thác và EV không còn được đảm bảo, vì Villain có khả năng điều
chỉnh chiến thuật của họ.
Tưởng tượng một tình huống giả định mà chiến thuật GTO là bet tất cả các hand trong range
với tần suất 50%. Ở tình huống này, bạn sẽ không có sự khác biệt giữa bet hoặc check mỗi combo.
Nếu bạn chọn nửa trên những hand mạnh nhất của range và bet chúng với tần suất 100% và check
một nửa yếu hơn 100%, tần suất bet/check tổng thể của bạn có thể giống nhau nhưng hiển nhiên
chiến thuật mới sẽ dễ bị khai thác hơn rất nhiều so với GTO. Một đối thủ nhận ra điều này có thể
bắt đầu fold nhiều hơn khi bạn bet và tất công những lệnh check của bạn bằng cách chơi rất hổ
báo. Đương nhiên, nó là không thể để chơi tất cả combo với những tần suất GTO chính xác, nhưng
quan trọng là phải cố gắng giữ các range cân bằng một cách hợp lý và duy trì độ bao phủ mặt
board. Nếu những thay đổi qúa lớn, chúng sẽ không được chú ý, nên trước khi thực hiện bất kỳ
thay đổi lớn nào đến chiến thuật GTO, hãy nghĩ rằng nó không ảnh hưởng, đầu tiên hãy cố định
chiến thuật mới vào bộ giải và chạy lại nó. Xem rằng có bất kỳ khoản EV mất đi nào được thêm
khi đối đầu một đối thủ khai thác tối thiểu không trước khi áp dụng chúng vào trò chơi của bạn.
Điều tối quan trọng cần nhớ là sự không khác biệt giữa hai hoặc nhiều hành động được tạo nên
bởi cách chơi của đối thủ. Nếu họ không nhận ra rằng chiến thuật của họ về cơ bản là thiếu sót và
không cân bằng, thì một vị trí có vẻ gần trở nên nhị phân hơn và đối với Villain cụ thể đó, một
hành động nhất định sẽ luôn mang lại kỳ vọng cao hơn bất kỳ cái nào khác.
LÝ THUYẾT VỀ
CÁCH CHƠI Ở
FLOP
Vậy, bạn đã nỗ lực để tìm hiểu cách chơi ở pre-flop và biết được những range của người chơi là gì
một cách tổng quát. Ba lá bài đầu tiên ở mặt board được chia và bạn tự hỏi, phải làm gì bây giờ?
Chà, ở phần này chúng ta sẽ học những loại flop khác nhau, cách mà những flop khác nhau tương
tác với range của người chơi, và ảnh hưởng của sự tương tác này ở những chiến thuật bet post-
flop.
Như ta đã thấy ở Chương 1, bằng cách đại diện cho những hand như A♠K♠, A♥K♥, A♣K♣,
A♦K♦ trong cùng một hình vuông chia ô 13×13 như AKs, và lặp lại quá trình tương tự với tất cả
những hand đồng chất, đôi và không đồng chất khác, chúng ta có thể giảm đi một cách hiệu quả
1,326 combo xuống thành 169 hand poker. Điều này có thể xảy ra vì những hand đồng chất chỉ trở
nên liên quan đến post-flop khi chúng tương tác với các lá bài chung, và ở pre-flop không có bộ
đồng chất nào tốt hơn hoặc tệ hơn bộ nào khác (chúng tương đương về mặt chiến thuật - nói cách
khác, đẳng cấu).
Bốn flop A♠K♠Q♠, A♥K♥Q♥, A♣K♣Q♣, và A♦K♦Q♦ có thể lấy để nghiên cứu như thể chúng
là cùng một flop vì ở mỗi flop, bất kỳ range cho trước nào cũng sẽ luôn luôn có chính xác cùng
một số lượng flop thùng, draw thùng, set, top pair, vv, và một hand như thùng sẽ luôn được chơi
giống nhau dù là bất kỳ chất nào. Ví dụ J♠T♠ ở mặt A♠K♠Q♠ sẽ được chơi giống như J♥T♥ ở mặt
A♥K♥Q♥.
Có hai lý do chính chúng ta muốn giảm kích thước trò chơi. Điều đầu tiên là, vì là con người,
nó dễ dàng để “học” chiến thuật cho chỉ 1,755 flop hơn là 22,100. Điều thứ hai là để tiết kiệm thời
gian tính toán của bộ giải. Thay vì phải tính toán lặp đi lặp lại những flop dư thừa, chúng ta có thể
chỉ chạy một trong những flop đẳng cấu và ngoại suy từ các kết quả đó.
“Vậy, thuộc tính quan trọng thứ hai liên quan đến kết cấu của flop là khả năng các quân
bài tương lai sẽ thay đổi giá trị liên quan hand của những người chơi. Khả năng này là một
tính chất của flop kết hợp với range của người chơi. Chúng ta sẽ gọi những board có khả
năng thay đổi giá trị bởi lá river là “động”. Những board mà những hand tốt có khả năng
duy trì độ mạnh và những hand yếu vẫn duy trì yếu là “tĩnh’’”.
Về bản chất những board biến động (hay động) là những cái mà equity hand của người chơi có
thể thay đổi đáng kể về giá trị ở những vòng cược sau, và board tĩnh là những cái mà equity hand
có xu hướng tương đối không đổi ở hầu hết các lần chia bài. Các board thấp và liên tiếp với những
khả năng tạo nên draw thùng và sảnh là rất động, và những flop không đồng chất không liên tiếp
với lá bài cao có xu hướng tĩnh.
Ở poker hiện đại chúng ta có quyền truy cập vào các bộ giải GTO và, giống như trong cờ vua,
nay chúng ra có thể nhận được câu trả lời ngay lập tức về cách chơi ở bất kỳ vị trí nào với bất kỳ
thời điểm nào. Tuy nhiên, một lần nữa chúng ta đối mặt với vấn đề của việc có quá nhiều vị trí để
có thể nghiên cứu sâu từng cái một. Có tới 1,755 flop đặc trưng cho bất kỳ vị trí nào, nên phương
pháp này rất không hiệu quả và vô cùng tốn thời gian. Do đó, chúng ta cần một hệ thống tốt hơn.
Việc phân chia là một quá trình thực hiện nhóm các thứ dựa trên điểm tương đồng của chúng
để khiến chúng dễ nhận dạng và nghiên cứu hơn. Những flop có điểm tương đồng có xu hướng
được chơi theo cách giống nhau. Ở phần này, tôi mô tả một sơ đồ phân loại flop đầy đủ toàn diện,
hiệu quả chia nhỏ vấn đề, dễ dàng giải quyết hơn trong khi vẫn theo dõi được toàn diện trò chơi.
◆ Flop Trip: Một flop trip một flop bao gồm tất cả các lá bài bằng nhau. Ví dụ:
A♥A♣A♠, 7♥7♠7♦ or 3♣3♠ 3♦.
◆ Flop có đôi: Một flop có đôi khi nó bao gồm hai lá bằng nhau. Một flop có đôi có
thể là ba chất, ví dụ K♥K♣5♠ hoặc hai chất, ví dụ Q♦8♦8♣.
◆ Flop không có đôi: Một flop là không có đôi khi tất cả các lá bài không bằng nhau, ví
dụ: Q♥7♦4♣ hoặc A♥K♥Q♠.
◆ Đồng chất: Một flop đồng chất là flop bao gồm tất cả các lá cùng một chất, ví dụ
A♥K♥T♥ hoặc J♠6♠5♠.
◆ Hai chất: Một flop hai chất là flop bao gồm hai lá cùng chất và một lá thuộc chất khác.
Có ba loại flop hai chất. Nếu lá bài cao nhất và ở giữa đồng chất, flop được gọi là hai
chất cao-giữa, ví dụ A♥K♥Q♠. Nếu lá bài giữa và thấp nhất đồng nhất, flop được gọi là
hai chất giữa-thấp, ví dụ J♥6♠5♠. Nếu lá bài cao nhất và thấp nhất đồng chất, flop được
gọi là hai chất cao-thấp, ví dụ A♥9♠2♥.
◆ Ba chất: Một flop ba chất là một flop bao gồm tất cả các lá khác chất nhau, ví dụ
Q♥9♠7♦, 6♦4♣2♠ hoặc K♣J♦7♥.
Thứ hạng flop dựa trên lá bài cao nhất của nó. Ví dụ, Kxx đại diện cho tất cả flop bao gồm một
lá king và hai lá khác là king hoặc thấp hơn (Bảng 97).
Như chúng ta có thể thấy, thứ hạng của flop càng cao, càng nhiều flop thuộc thứ hạng đó tồn
tại. Những board A-cao là phổ biến nhất, với 21.74% tổng số flop là Axx. Nhận thấy 85% tổng số
flop là thứ hạng 9 hoặc cao hơn trong khi 15% còn lại là 8 hoặc thấp hơn.
Flop sảnh
Các flop có thể được phân dựa trên số sảnh có thể tạo được (Bảng 98). Ví dụ, ở mặt flop AQ7
không có khả năng tạo được sảnh nào. Ở mặt KT9 có một khả năng tạo sảnh (với QJ). Ở mặt 875
có hai khả năng tạo sảnh (96 và 64). Cuối cùng, ở mặt JT9 có ba khả năng tạo sảnh (KQ, Q8 và
87).
Những flop không tạo được sảnh cũng có thể được phân loại tiếp dựa theo số lượng OESDs có
thể, nhưng ở phạm vi quyển sách này chúng ta sẽ chỉ tập trung vào số lượng tạo được sảnh.
Một vài flop có thể được ghép với nhau thành một nhóm và những nhóm phụ dựa theo thứ hạng.
Ví dụ, những flop A54, A53, A52, A43, A42 và A32 khá giống nhau ở nhiều tình huống, chúng
có thể được xử lý nhưng những flop hoàn toàn giống nhau: Ace với hai lá bài thấp.
Đầu tiên hãy ghép tất cả các lá bài theo thứ hạng:
Giờ các flop có thể được phân loại sử dụng các thứ hạng của lá bài như sau (Bảng 99).
Như đã thường xuyên đề cập trước đó, có 22,100 flop có thể ở hold’em và, sử dụng phép đẳng cấu
đồng chất, chúng ta có thể giảm con số đó xuống 1,755 khác nhau về mặt chiến thuật. Đối với
những mục đích thực tế, con số này vẫn là quá lớn. Vì lý do này, những người chơi poker, cũng
Nỗ lực đầu tiên được đưa ra để phát triển một tập hợp con của các flop được thực hiện bởi nhà lý
thuyết poker Will Tipton. Phương pháp của ông ấy bao gồm việc đầu tiên tạo ra những điều kiện
mà một tập hợp con tốt phải thoả mãn sau đó tìm ra tập hợp con tối thiểu của các flop thoả mãn tất
cả.
Những điều kiện cho tập hợp con đề xuất của Tipton:
◆ Một flop một chất của một chất cụ thể xuất hiện
◆ Một board có pair với pair đó thuộc một thứ hạng cụ thể xuất hiện
◆ Một flop tạo được ba sảnh thuộc bất kỳ rank nào xuất hiện
◆ Một board với bất kỳ hai lá trong một thứ hạng cách nhau một đơn vị xuất hiện
◆ Một board với bất kỳ hai lá trong một thứ hạng cách nhau hai đơn vị xuất hiện
Tập hợp con flop của Tipton bao gồm 103 flop nhưng, không may, nó có một vài vấn đề và
không thể sử dụng để đại diện cho toàn bộ trò chơi. Phương pháp của ông ấy khá hợp lý và được
phát triển bởi những người khác, nhưng tôi thấy rằng nó quá khó để giảm đáng kể kích cỡ trò chơi
trong khi vẫn giữ được tất cả các tính chất đặc trưng của nó. Tôi cũng đã thử những cách tiếp cận
khác nhau, bằng cách lựa chọn một flop đại diện của cấu trúc, kết cấu, thứ hạng, nhóm và số sảnh
có thể tạo được khác nhau, và số lượng tập hợp con flop ít nhất tôi có thể tạo là 356 flop.
PioSOLVER bởi Kuba và Piotr đã tạo ra một phương pháp khác, bao gồm việc xác định một số
chỉ số mà một tập hợp con tốt phải thoả mãn, sau đó chạy phần mềm tuỳ chỉnh để tìm ra tập hợp
Kuba và Piotr đã thử một vài chỉ số và nhận định rằng việc kết hợp EV và EQ hoạt động tốt hơn
bất kỳ cách nào khác chỉ bao gồm EV. Họ phát triển những tập hợp con có các kích cỡ khác nhau,
bao gồm 25, 49, 74, 95 và 184 flop. Càng nhiều flop trong tập hợp con, kết quả bạn nhận được
càng chính xác. Điều này đặc biệt đúng với trường hợp SPR ca, vì bằng các cách khác nhau, các
thành phần của range có thể hit một vài mặt board trở nên rất mạnh và tạo nên những tình huống
thú vị hơn dẫn đến việc người chơi phải chơi những pot rất lớn. Để đại diện chính xác những tình
huống đó, bạn cần phải có nhiều flop nhất có thể. Bạn có thể tìm những tập hợp con và thông tin
chi tiết ở blog của họ www.piosolver.com. Những tập hợp con pre-flop của họ được tối ưu hoá để
ước lượng chính xác equity và EV cho bộ giải pre-flop, không phải những chiến thuật post-flop.
Vì lý do này, những tập hợp con không được đảm bảo sẽ tạo nên một khoảng ước lượng tốt cho
lối chơi post-flop. Đó là lý do tại sao tôi quyết định thử một cách tiếp cận khác và chỉ sử dụng siêu
máy tính để giải toàn bộ trò chơi, tất cả 1,755 flop ở nhiều vị trí khác nhau, và tạo nên phần mềm
tuỳ chỉnh để phân tích dữ liệu. Chương này được viết sử dụng kết quả của nghiên cứu đó. Bạn có
thể tìm thêm thông tin chi tiết của nghiên cứu này trên www.gtopoker.io.
Đây là tình huống phổ biến nhất trong poker. Hầu hết những hand poker sẽ được chơi
heads-up ở pot chỉ một người raise giữa BB và IP. Do đó chơi post-flop tốt sau khi phòng thủ
ở blind là điều quan trọng nhất đối với bất kỳ người chơi poker nào để thành công.
Vậy, đây sẽ là tình huống post-flop đầu tiên chúng ta nghiên cứu.
Ở tình huống giữa BB và IP này, người chơi IP thường được cho là có “lợi thế bet” vì họ đã
chơi hổ báo ở pre-flop. Vì lý do này, IP được kỳ vọng sẽ tiếp tục hổ báo ở flop bằng tần suất bet
Đầu tiên, ở lý thuyết trò chơi không có gì gọi là “lợi thế bet”, nên việc giành lấy lợi thế bet từ
người chơi khác không có nghĩa lý gì trong GTO. Như chúng ta đã thấy ở lý thuyết bet, đặt lệnh
bet là một chức năng của việc tận dụng lợi thế thông tin, thành phần range và SPR với mục đích
ghi nhận equity hoặc ngăn cản đối thủ ghi nhận equity. Nếu chúng ta muốn xác nhận hoặc phản
bác ý kiến chung về donk bet, chúng ta phải nhìn nó thông qua các nguyên tắc GTO.
Tôi đã tổng hợp dữ liệu về các giải pháp GTO qua tất cả các flop có thể ở các tình huống BB với
BN và BB với UTG ở pot chỉ một người raise với các độ lớn stack 20bb, 30bb và 40bb. BN và
UTG được sử dụng vì chúng đại diện cho những range rộng và chặt chẽ nhất, trong khi chiến thuật
của các vị trí khác sẽ nằm đâu đó ở giữa. Kết quả cho thấy tần suất donk bet tổng thể của BB là
chỉ 2% (với size bet 1/4 và 2/3) và tần suất c-bet trung bình của IP là 84%. Mô phỏng GTO đồng
tình với quan niệm chung về việc donk bet không được sử dụng rộng rãi và c-bet thì rất phổ biến.
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn kĩ hơn vào các số liệu, có một vài vị trí mà bộ giải thực sự ưa chuộng
donk bet với tần suất cao (Bảng 100).
Nếu bet rõ ràng là lựa chọn mang lại EV cao nhất cho bất kỳ hand nào ở range của BB, bộ giải
sẽ luôn làm thế. Nếu bet không có khác biệt gì với check, thì hand sẽ được chơi với một chiến
thuật kết hợp. Nếu một hand không bao giờ được bet, nó là vì bet sẽ làm giảm EV so với check.
EV của việc bet một hand phụ thuộc vào tần suất Villain fold, tần suất họ raise, tần suất họ call
và mức equity Hero có khi bị call. Range của Villain càng mạnh, họ sẽ càng ít fold, họ sẽ càng
raise thường xuyên hơn và Hero sẽ càng có ít equity hơn khi bị call.
Bộ giải GTO giả định chơi với một đối thủ GTO biết về chiến thuật của bạn và sẽ call, raise và
fold một cách tối ưu chống lại bạn. Nếu range của IP mạnh đến mức họ sẽ không fold quá nhiều
khi gặp lệnh bet và, ngược lại, có thể raise rất nhiều và call hiệu quả, thì bet trở nên ít hấp dẫn hơn
rất nhiều so với sự phân phối range yếu hơn.
Rõ ràng IP có lợi thế equity với 62% equity so với BB là 38% ở mặt A76r, điều này tất nhiên sẽ
làm giảm lợi nhuận của lệnh bet của BB, trong khi ở mặt 654r, BB có lợi thế equity với 51% equity
so với 49% của IP, khiến lệnh bet của BB có lợi nhuận hơn ở kết cấu flop này.
Range so với equity của range là nhân tố quan trọng để phát triển chiến thuật bet khi có bất lợi
đáng kể về equity. Tuy nhiên, như đã bàn luận ở phần lý thuyết bet, thành phần range thậm chí
quan trọng hơn equity thuần.
Áp dụng khái niệm của rổ equity đã được giới thiệu trước đó, chúng ta có thể vượt ra ngoài
equity thuần và có ý tưởng tốt hơn về thành phần range cho cả hai người chơi ở những flop khác
nhau (Diagram 25).
Về định nghĩa của những hand mạnh, tốt, yếu và hand rác, xem phần Rổ Equity của
Chương 10.
Bởi vì sự phân phối này, người chơi IP sẽ được khuyến khích giảm tần suất c-bet ở mặt 654r,
do phần lớn range của họ là những hand yếu và không chơi tốt với một flop check/raise. Do đó,
bằng cách check lại thường xuyên hơn, IP có thể xem lá turn miễn phí và nhận lại equity. BB phản
ứng lại bằng cách donk bet nhiều hand, ép IP phải fold hoặc bỏ nhiều tiền hơn vào pot với những
hand mà họ chỉ muốn check sau đó và xem lá turn miễn phí.
Donk bet có lý ở mặt 654r vì nó ngăn cản EQR của IP, và đồng thời giúp BB ghi nhận equity
bằng cách tận dụng lợi thế thông tin của việc dẫn đầu với một range cân bằng tốt mà không dễ bị
tấn công bởi IP. Điều này tận dụng được lợi thế của việc IP thiếu những hand mạnh mà có thể raise
để lấy value. Điều này cũng hạn chế số lượng hand có thể raise để bluff, dẫn đến việc IP có tần
suất raise tổng thể thấp vào mức 20% ở 654r, trong khi đó IP có tần suất raise ở A76r vào mức
53% (Tần suất GTO so với size donk bet ở mức 1/4-pot).
Donk bet ở mặt A76r không hợp lý vì nó không giúp BB ngăn cản EQR của IP. Trong trường
hợp này, điều ngược lại thực sự xảy ra, bởi vì range của IP rất mạnh ở mặt board này khiến cho
donk bet có thể bị raise với tần suất cao đến mức ảnh hưởng bị đảo ngược. BB sẽ trở thành người
bị ép phải tiếp tục bỏ thêm nhiều tiền vào pot với những hand muốn xem lá turn với giá rẻ hoặc
fold, giảm equity của họ và dẫn đến mức EQR thấp và mất EV đối với OOP (Bảng 101).
Nếu chúng ta ép BB donk bet mỗi khi họ có top pair hoặc hơn (10%), EV tổng của họ giảm từ
25 xuống 13, vì chiến thuật này bị khai thác rất lớn. Ở giải pháp GTO, range check được bảo vệ
rất tốt vì BB không bao giờ dẫn đầu nhưng, ở chiến thuật cố định, BB donk bet những hand mạnh
nhất của họ, khiến range check bị ảnh hưởng. Điều này khiến cho EV của họ sau khi check giảm
xuống 5.6. Trong trường hợp này, EV của BB khi bet là đặc biệt cao vì range bet mạnh nhưng bet
chỉ xảy ra 10% số thời gian, trong khi check xảy ra 90%.
Nếu BB bắt đầu bao gồm nhiều hand bluff vào range dẫn đầu của họ, IP sẽ bắt đầu call rộng
hơn và thường xuyên raise khi gặp donk bet. Nếu BB thử một chiến thuật chỉ dẫn trước với những
hand yếu, kết quả sẽ còn tệ hơn vì bây giờ IP sẽ có thể raise 100% thời gian, khiến cho BB không
chỉ thua toàn bộ pot khi bet, mà còn mất size bet 1/4-pot. Vì lý do này, nó tốt hơn là OOP không
chia nhỏ range của họ và check 100% ở mặt A76r.
Nếu chúng ta chia nhỏ tất cả các flop dựa trên tần suất bet, chúng ta có thể có ý tưởng tốt hơn
về cách mà các range tương tác với các flop (Bảng 102).
Không có gì đáng ngạc nhiên, equity và EV flop cao nhất dành cho BB cũng là những board có
tần suất donk bet cao nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng cần biết là tần suất donk bet cao là một ảnh
Có khoảng 34 flop riêng biệt dẫn đến donk bet trung bình quá 50% số thời gian chống lại cả BN
và UTG. Chúng là thứ hạng 7-x-x và 6-x-x với flop tạo nên được một đến ba sảnh. Số lượng sảnh
flop càng cao, size donk bet càng nhỏ và tần suất donk bet được sử dụng càng lớn. Những flop ba
chất được donk bet với tần suất cao hơn flop hai chất và, nhìn chung, flop một chất bị donk bet ít
hơn rất nhiều.
•• •• •• r• I I•
rim fm
ffij
(§)
lBl
mJ
mil
rm
Rainbow 10% 60% 29% 50% 53% 106%
Ở đây, range của BB phân cực hơn là IP. BB có lợi thế về cả những hand mạnh và tốt, trong khi
50% range của IP là những hand yếu khó khăn hơn để nhận equity và do đó chỉ thu được lợi nhuận
nhờ việc chơi một cách bị động. Cách xây dựng range này gợi nhớ về trò chơi Clairvoyance Toy,
với IP có range phân cực hơn, khiến cho BB muốn được bet dẫn.
Với độ lớn của stack mức giữa 30-40bb, BB sẽ muốn bet những hand mạnh 73% số thời gian,
hand tốt 64%, hand yếu 59%, và những hand rác được bet 49%. Size donk bet được sử dụng nhiều
nhất là 1/4- pot, với size bet 2/3-pot được sử dụng trung bình 5% (Biểu đồ 27). Nếu chúng ta cho
phép size bet lớn hơn ở mô phỏng, BB thậm chí sẽ chọn bet quá pot với tần suất thấp, nhưng thành
phần range tổng thể ở loại board bonk bet này có vẻ ưa chuộng donk bet nhỏ (Biểu đồ 28).
Với stack hiệu dụng 20bb, size donk bet 2/3-pot được ưa chuộng. Dường như ở mức 20bb, SPR
của BB đủ nhỏ để BB hài lòng với rất nhiều hand có equity tốt ở flop, nên size bet lớn hơn bảo vệ
equity của BB bằng cách khiến đối thủ fold nhiều hơn và giúp BB ghi nhận equity bằng cách lấy
được hết tiền ở flop khi equity của họ cao. Những hand mạnh nhất của BB có vẻ ưa chuộng size
bet nhỏ hơn vì chúng không dễ bị tổn hại, nên họ không ngại việc bị call thường xuyên hơn.
Khi stack lớn hơn, không có nhiều hand sẵn sàng bị all-in ở flop nên, thay vào đó, size donk bet
nhỏ hơn cho phép BB call một lệnh re-raise và xem lá turn mà không phải bỏ vào toàn bộ tiền từ
flop.
Những hand mạnh và tốt cũng là một phần quan trọng của range check. Càng nhiều lệnh check,
càng cần những hand mạnh và tốt ở range check để range duy trì cân bằng và được bảo vệ.
Donk bet cũng trung bình xảy ra thường xuyên hơn với UTG (67% số thời gian) hơn là với BN
(53% số thời gian). Điều này là vì những board donk bet cao thường bị bỏ qua thường xuyên hơn
bởi range của UTG.
◆ Sảnh là những hand mạnh nhất BB có thể có ở flop này. Sảnh nhỏ nhất 32 dễ bị tấn công
nhất và nó không ngăn chặn được range tiếp tục của IP, nên nó sẽ được bet 91%, trong khi
sảnh khác 87 được bet 80% và 73 chỉ được bet 50%.
◆ Bộ ba. Bộ ba mạnh nhất được bet ở tần suất rất cao (94%). Bộ ba nhỏ hơn được bet
không quá thường xuyên (16-31%), bởi vì chúng không block được top pair.
◆ Hai đôi được bet ở tần suất rất cao. 54 được bet với tần suất cao nhất (96%), kế tiếp là 64
(94%) và 65 được bet tần suất thấp nhất (73%) vì nó chặn range tiếp tục của IP nhiều hơn
và cũng ít bị tấn công nhất.
◆ Overpairs. Overpairs mạnh nhất TT và 99 được bet 100% thời gian, đôi trung bình 88 và
77 được bet 38% thời gian.
◆ Top Pairs được bet 78% thời gian. Những top pair với kicker cao nhất và có OESD
được bet với tần suất cao nhất. Với kicker trung bình thì đươc check thường xuyên hơn.
◆ Second Pairs được bet 71% thời gian. Những second pair với kicker cao nhất và có OESD
được bet với tần suất cao nhất. Với kicker trung bình thì đươc check thường xuyên hơn.
◆ Under Pairs 22-33 được bet 78%. 22 được bet thường xuyên hơn 33.
◆ OESD được bet 67% thời gian. Hand 7x được bet thường xuyên hơn 3x.
◆ Ace cao được bet 67% thời gian theo kiểu tuyến tính ngược. Hand A cao yếu nhất được
bet thường xuyên hơn là A cao mạnh nhất. Ví dụ, A9s được bet 99%thời gian và AQs chỉ
được bet 40%.
◆ King cao được bet 54% thời gian theo kiểu tuyến tính ngược.
◆ Gutshots được bet 70% thời gian. Những hand có 2 lá cao hơn board được bet thường
xuyên hơn hand chỉ có một lá cao hơn board.
◆ Air, không có đôi, không thùng, hai lá bài cao hơn board hoàn toàn không kết nối và
gutshot với 2 và không đôi và combo với draw thùng back door được bet thường xuyên
hơn với combo không có thùng back door.
Có khoảng 100 flop được donk bet 25-50% thời gian. Những ví dụ chính về những flop đó là: các
phân họ không có đôi 8MM, 8ML, 8LL, 7ML, 7LL, 6LL, và 5LL với khả năng tạo từ một đến ba
sảnh. Flop đồng chất duy nhất là 764, và những flop có đôi là 766, 755, 655 (Biểu đồ 29).
Donk bet xảy ra với tần suất bằng nhau khi đối đầu với UTG và BN, vào khoảng 35% thời gian
và check xảy ra 65% thời gian, vì sự phân phối equity không thay đổi quá nhiều ở cả hai trường
hợp.
Ở những flop donk bet trung bình, equity rất sát nhau. IP có ít lợi thế hơn, 52% so với của BB
là 48%. Tuy nhiên, range của BB phân cực hơn với phần lớn range là những hand mạnh, tốt và
rác, trong khi IP vẫn có rất nhiều những hand yếu có thể thu lợi từ việc chơi bị động và xem những
lá bài miễn phí để ghi nhận equity. (Biểu đồ 30).
Với 30-40bb, những hand mạnh ưa chuộng sử dụng size bet lớn hơn ở những board có đôi và
size bet nhỏ hơn ở những board không có đôi. Những hand được bet tuyến tính dựa theo equity
với những hand có equity cao nhất được bet thường xuyên hơn những hand equity thấp. Cấu trúc
của range bet giống với cái mà ta đã thấy trước đó ở những flop có tần suất donk bet cao, bet những
loại hand giống nhau, nhưng thực hiện với một tần suất thấp, check mọi thứ thường xuyên hơn nên
range check được bảo vệ hơn (Biểu đồ 31).
Với 20bbs, chiến thuật donk bet cực kỳ phân cực, bet hầu hết những hand mạnh, tốt và rác. Vì
lý do này, size bet lớn hơn được ưa chuộng, với size bet nhỏ hơn được sử dụng theo cách ngược
lại, hầu hết với những hand yếu, nhưng cũng một vài lúc với những hand mạnh, tốt và rác để chiến
thuật trở nên cân bằng (Biểu đồ 32).
Xấp xỉ 181 flop riêng biệt được donk bet với tần suất từ 10% đến 25%. Ở tình huống này size bet
67%-pot được ưa chuộng (9%) hơn là size bet 25%-pot (7%). BB donk bet thường xuyên để chống
lại BN (16%) nhiều hơn một chút so với UTG (14%).
Những phân họ flop được donk bet không có đôi là: ALL, 9MM, 8MM, 8ML, 8LL, 7ML, 7LL,
6LL, 5LL, và 4LL.
Biểu đồ 33
Ở những flop có tần suất donk bet thấp, sự chiếm ưu thế từ range của IP là rõ ràng (Biểu đồ 34).
Equity của OOP giảm xuống 45% và ghi nhận dưới mức vào 6%, chỉ nắm giữ 43% pot. Số lượng
hand rác của OOP cuối cùng chiếm nhiều hơn số lượng hand yếu. Tỉ lệ hand mạnh và tốt của OOP
thấp hơn rất nhiều so với IP. Vì lý do này, check bắt đầu trở thành chiến thuật chiếm ưu thế.
Ở những flop có tần suất donk bet thấp, range donk bet phân cực hơn một chút và, vì lý do này,
size bet lớn hơn được ưa chuộng. Donk bet dường như không quá bị ảnh hưởng bởi độ lớn stack
và vì vậy tần suất là giống nhau với các mức stack hiệu dụng 20bb, 30bb và 40bb (Biểu đồ 35-36).
Biểu đồ 35
Đa số các flop thuộc vào nhóm này. Khá nhiều các flop không được bao gồm trong bất kỳ nhóm
nào. Nói chung, điều này có nghĩa là những flop bộ ba, đồng chất, có đôi với lá bài cao, hai chất
không kết nối, HXX và AXX là những flop tệ để donk bet.
Nhìn chung, những flop thuộc nhóm này khá tệ cho BB, cung cấp trung bình 39% equity và EQR
thấp vào mức 76%, cho EV trung bình vào mức 30% pot. Ở những mặt board này, range IP mạnh
đến mức có thể ép OOP check với tần suất cao, với tần suất donk bet trung bình là khoảng 1%.
Range của OOP quá yếu đến mức có không có những hand đủ mạnh so với IP để có thể chia nhỏ
hand nên, đối với hầu hết các phần, loại bỏ lựa chọn donk bet ở những loại flop này không làm
giảm EV của BB quá đáng kể. Chơi với tần suất check 100% được khuyên dùng.
Những nhóm flop có cấu trúc và kết cấu giống nhau có xu hướng được chơi theo cách
giống nhau. Nên nếu bạn muốn đào sâu hơn vào thành phần range donk bet, tôi đề xuất chạy
những flop mẫu từ mỗi nhóm tần suất donk bet ở bộ giải GTO để bạn làm quen với những vị
trí khác nhau, cách phản ứng với flop raise và cách theo những vòng cược sau đó.
Ở Bảng 104 chúng ta có thể thấy các chỉ số flop chính của BB và BN với stack hiệu dụng 30bb
ở flop 654r. Chiến thuật GTO được so sánh với một mô phỏng mà lựa chọn donk bet của BB được
654r là một trong những flop donk bet cao nhất. Khi BB mất khả năng dẫn trước ở board này,
họ mất 1.1% pot hoặc 6.5bb/100 và EQR giảm 2.25%. Ở pot 5.6bb, chơi chiến thuật donk bet
100% tiêu tốn của BB 6.27bb/100 khi đối đầu với một đối thủ khai thác tối thiểu.
Value của donk bet sẽ thay đổi dựa trên SPR và value của lựa chọn để người chơi OOP bet là
gì. Ví dụ, ở flop A76r, OOP nên donk bet khoảng 0.4% thời gian, nếu chúng ta loại bỏ quyền chọn
donk bet của BB, EV tổng thể của họ vẫn giữ nguyên.
Donk bet chỉ xảy ra với tần suất cao ở số lượng nhỏ những flop mà cũng có tần suất thấp, nên
ảnh hưởng từ việc mất EV do chọn một chiến thuật đơn giản luôn luôn check khi là OOP sẽ không
quá đáng kể xét tổng thể. Thêm vào đó, áp dụng những chiến thuật donk bet chính xác có thể rất
khó khăn trong trò chơi. Điều đó nói lên rằng, nếu bạn đang chơi một trò thật sự khó khăn nơi mọi
lợi thế đều được tính đến, thì việc dành thời gian nghiên cứu và kết hợp donk bet có thể trở thành
một công cụ rất có giá trị, đặc biệt khi đối thủ của bạn không quen đối phó với flop donk bet, khiến
họ mắc nhiều sai lầm mà bạn có thể tận dụng.
Bạn cũng đương nhiên có thể lựa chọn donk bet khai thác chống lại những người chơi yếu. Ví
dụ, nếu bạn biết Villain sẽ c-bet ở tần suất cao nhưng sẽ không bao giờ raise donk bet mà không
có hand mạnh, bạn có thể đặt một lệnh bet nhỏ với một vài hand có tác dụng như một lệnh bet
chặn, cho phép bạn xem được lá bài tiếp theo giá rẻ giá rẻ với một vài hand yếu trong khi vẫn đưa
ra cho bạn thông tin về bài của đối thủ.
Một ví dụ khác là nếu bạn biết Villain chơi hổ báo quá mức và sẽ hầu như luôn luôn raise một
flop donk bet. Khi đó, bạn có thể dẫn trước với những hand rất mạnh để nhử Villain raise. Điều
GTO: Giải pháp GTO được sửa đổi với những size bet flop mới cho cả hai người chơi: 1.25-pot,
2/3-pot, 1/4- pot.
Hoán đổi vị trí: Giải pháp được sửa đổi mà range của các người chơi được hoán đổi, nên bây giờ
OOP có range của BN và người chơi IP có range của BB.
Bảng 105: Kết quả của việc hoán đổi range của BN và BB từ góc độ BN
Hero ở vị trí BN và open một mức GTO trung bình 49% range open và hành động fold đến
Villain ở BB call với một mức trung bình 64% range GTO. Bây giờ tưởng tượng rằng vị trí bị hoán
đổi ở flop, nhưng cả hai người chơi giữ nguyên range gốc. Bây giờ Hero là OOP với range 49%
của BN, và Villain là IP với range call 64% của BB (Table 105).
Khi chơi ở IP, chiến thuật của Hero hầu hết luôn luôn nhắm đến việc sẽ bet suốt ba vòng đặt
cược. Vì lý do này, size bet 67% được sử dụng thường xuyên hơn vì nó cho phép có thể triple
barrel một cách hiệu quả. Khi chúng ta hoán đổi các vị trí, một vài thành phần ở range của Hero
chỉ muốn chơi hai vòng cược. Vì vậy, sau khi overbet ở flop và bị call, Hero sẽ hầu hết all-in hoặc
check ở turn. Sau khi check và đối mặt lệnh bet, Hero sẽ hầu hết x/r all-in hoặc fold. Bằng cách
này, Hero giảm bớt bất lợi về vị trí.
Ở mặt 654r, Hero có bất lợi về range nên, không giống như ở mặt A76r, bet toàn bộ range không
được khuyên dùng vì rủi ro bị check-raise (điều mà sẽ huỷ hoại equity của Hero) tăng lên đáng kể.
Nên, có vị trí, Hero chỉ có thể bet khoảng 48% thời gian sau khi BB check. Khi Hero là OOP với
range của BN ở flop, tần suất bet tổng giảm xuống 9.23% và size bet được sử dụng nhiều nhất là
125%. Một lần nữa, Hero nhắm đến việc chơi trò chơi hai vòng cược và all-in ở turn với tần suất
cao hợp lý.
Những hand yếu chiếm 51% range của Hero. Khi là IP những hand này sẽ được check lại hầu
hết thời gian để ghi nhận equity và sẽ muốn chơi những pot bé, để tránh rủi ro bị x/r và mất equity.
Không may rằng, khi check OOP, Hero không được đảm bảo để xem lá turn và thay vào đó sẽ
thường xuyên phải đối mặt lệnh bet và bị ép phải từ bỏ equity với rất nhiều hand mà có thể hưởng
lợi từ việc xem lá turn miễn phí. Vì lý do này, khi OOP, Hero phải check nhiều hand mạnh mà có
thể x/r ở flop, ép Villain bet ít thường xuyên hơn, và từ đó cho phép những hand yếu của Hero ghi
nhận equity. Nếu Hero không bảo vệ range check, Villain sẽ bet ở tần suất cao hơn, tiêu tốn rất
nhiều EV của Hero. Vì lý do này, tần suất check của Hero thậm chí còn cao hơn khi OOP với bất
lợi về range. Khi OOP ở 654r, EQR của Hero giảm từ 100% xuống 79%, tốn 9.7% pot!
Tiếp theo, chúng ta sẽ phân tích tình huống tương tự từ góc nhìn của Villain, với BB bây giờ có
vị trí, và so sánh với mô phỏng GTO. Ở những tình huống hoán đổi chúng ta sẽ giả định OOP
check 100% thời gian với IP, nên các range là giống như khi BB là OOP (Bảng 106).
Ở mặt A76r range của Villain quá yếu do với Hero đến mức, kể cả khi có vị trí, tốt nhất là check
back 100% thời gian vì bet có thể dẫn đến việc bị x/r ở tần suất rất cao. Điều khác biệt chính là,
sau khi check back ở flop, Villain ghi nhận nhiều equity hơn rất nhiều khi OOP và bị ép fold rất
nhiều những hand yếu và rác mà sẽ được cải thiện hoặc có draw ở turn. Điều này dẫn đến khoản
tăng EV vô cùng lớn từ 25% khi OOP lên 37.8% khi IP với mức kiếm được tổng cộng là 12.8%!
Ở mặt 654r gần như tất cả các hand muốn bet khi OOP vẫn sẽ muốn bet khi Villain là IP. Điều
khác biệt chính là bây giờ size bet lớn hơn không còn quá cần thiết và Villain lựa chọn sử dụng
size bet 25% hầu như tuyệt đối. Ở trường hợp này BB tăng EV nhờ việc nắm giữ thêm 10% pot.
Những range đối xứng: Giải pháp đã được sửa đổi mà cả hai người chơi có range hoàn toàn giống
nhau. Chúng ta sẽ nghiên cứu một ví dụ với cả hai người chơi có range của BB và ví dụ khác với
cả hai người chơi có range của BN (Bảng 107-108).
Mặc dù có những range giống nhau, người chơi IP nắm giữ trung bình 5% pot nhiều hơn là 50%
equity, với EQR tổng là 110%. Trong khi đó OOP chỉ ghi nhận 90% equity, nắm giữ trung bình
chỉ 45% pot.
Những thí nghiệm khác nhau mà sử dụng những mẫu flop khác nhau, hoặc thậm chí một
tập hợp con lớn các flop, đưa ra các kết quả phù hợp với giá trị của các vị trí trong khoảng
5-10% pot.
Càng nhiều vòng cược còn lại, lợi thế thông tin của IP càng lớn vì IP hành động cuối cùng ở
mỗi vòng cược. Như đã đề cập trước đó, mỗi hành động được đưa ra trên bàn đều chứa đựng thông
tin, nên mỗi khi OOP đưa ra hành động, điều này tiết lộ một vài thông tin về range của họ cho IP,
người mà có thể sử dụng thông tin này làm lợi thế trước khi đưa ra hành động. Việc này tiếp diễn
đến river, thời điểm mà IP sẽ có hầu hết những thông tin hoàn chỉnh có thể bao gồm range của
OOP. Hơn nữa, khi nghiên cứu những chiến thuật kết hợp ở Chương 4, chúng ta đã thiết lập rằng
có sự tương quan trực tiếp giữa độ lớn stack hoặc SPR và khả năng ghi nhận equity của Hero.
Những stack lớn hơn có lợi cho người chơi IP và bất lợi cho OOP. Vì lý do này, OOP có xu hướng
sử dụng size bet lớn hơn IP, để khiến nhiều đối thủ fold hơn hoặc kết thúc hand bài ngay lập tức
hoặc, nếu bị call, giảm thiểu bất lợi về vị trí bằng cách giảm SPR.
Là IP với một range yếu không tệ bằng là OOP với một range yếu. Nhìn chung, những range
mạnh sẽ ghi nhận phần lớn equity của họ và đôi lúc thậm chí ghi nhận quá mức khi là OOP, trong
khi những range yếu ghi nhận dưới mức quá đà equity của họ khi OOP. Vì lý do này, fold quá đà
big blind để cướp đã từng là một chiến thuật chủ yếu trong poker cả trực tiếp và trực tuyến trong
nhiều năm vì người chơi thường cố gắng tránh những tình huống bất lợi này. Điều này lần lượt tạo
ra cơ hội cho những người chơi tinh ý tận dụng điều này bằng cách nới lỏng range open và tấn
công big blind của những người chơi chặt chẽ. Sau đó, người chơi bắt đầu điều chỉnh lại chiến
thuật BB của họ và bắt đầu call rất rộng với những lệnh raise open, dẫn đến cách phòng thủ của
BB có quá nhiều hand biên khiến cho việc chơi post-flop trở nên quá khó khăn cho BB, ảnh hưởng
EQR tổng của họ.
Hiện nay, với những bộ giải hiện đại, cả lối chơi pre và post-flop nói chung đã được cải thiện
đáng kể, dẫn đến việc những người chơi phòng thủ gần giống với cách tối ưu từ BB. Điều này đặc
biệt đúng ở cash game trực tuyến high stake nơi hầu hết người chơi dùng chiến dùng GTO pre-
flop cơ bản và giờ đây buộc phải tìm kiếm những lợi thế khả thi từ chỗ khác. Tuy nhiên, thậm chí
ở trình độ cao nhất, người chơi vẫn sẽ phạm sai lầm. Trò chơi không được giải hoàn toàn và luôn
có lỗ hổng cho sự cải thiện và khai thác.
Mục tiêu của chương này là để nâng cao hiểu biết cơ bản của người chơi về trò chơi để họ
có khả năng tự tìm ra những khía cạnh và biến chúng thành những chiến thuật chiến thắng
áp dụng vào trò chơi của riêng họ.
12
C-bet tại flop là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong poker. Nó là một tiêu đề phức tạp
đã được nghiên cứu và bàn luận bởi những tay chơi poker và những nhà lý thuyết hàng thập kỉ.
Trái ngược với hầu hết những quyển sách lý thuyết thông thường khác, tôi quyết định bắt đầu bàn
luận flop với BB thay vì trực tiếp đi vào c-bet. Điều này là vì tôi muốn những người đọc trước hết
hiểu rõ các khái niệm về bet nói chung, cách mà hành động ở post-flop là công cụ của các vị trí
liên quan của người chơi, sự phân phối range và SPR. Sau khi nghiên cứu lệnh bet OOP và sức
mạnh của vị trí, tất cả những gì còn lại là để hiểu c-bet ở flop để phân tích những tình huống từ
góc nhìn của người chơi IP.
Như những gì chúng ta đã làm khi nghiên cứu donk bet, đối với phần này chúng ta sẽ sử dụng
dữ liệu tổng hợp từ hàng nghìn giải pháp GTO với các độ lớn stack 20bb, 30bb và 40bb với những
range bắt đầu cơ bản GTO MTT. Những range của riêng bạn có thể khác với những cái sử dụng
cho những mô phỏng này, nhưng tôi nhận ra rằng, với điều kiện những range sử dụng là “hợp lý”,
kết quả chung cho lối chơi post-flop sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể. Nếu những range cơ bản của
riêng bạn khác quá nhiều với những chiến thuật cân bằng, bạn vẫn có thể hưởng lợi bởi việc nắm
rõ điểm cân bằng và sau đó áp dụng những lý thuyết đã bàn luận ở chương này để hiểu được cách
mà range thông thường của bạn khác với GTO và cách mà bạn có thể chệch khỏi điểm cân bằng
để tấn công mạnh hơn vào sự mất cân bằng đã được giới thiệu ở những chiến thuật mới. Có bộ
giải của riêng bạn và chạy một vài mô phỏng tùy chỉnh có thể giúp bạn hiểu rõ hơn tác động này
và tìm ra cách khai thác tốt chống lại những xu hướng phổ biến.
Ở phần trước chúng ta đã tìm ra rằng, từ góc nhìn GTO, không có quá nhiều động lực để OOP
bet ở flop, nhưng IP thì sao? Chiến thuật cân bằng của họ là gì? Họ có động lực để bet hoặc check
không? Họ có thể chơi một chiến thuật đơn thuần chỉ luôn luôn check back ở flop mà không có
sự mất EV đáng kể theo cách mà BB có thể không?
Nếu IP chơi một chiến thuật mà luôn luôn check back ở flop, họ sẽ có khoản EV mất đi vào
mức 26bb/100, do đó c-bet ở flop vô cùng quan trọng đối với IP. Ở phần này, chúng ta sẽ nghiên
cứu những nguyên tắc đằng sau c-bet ở flop và sử dụng kiến thức để phát triển một cách hiệu quả
những chiến thuật c-bet.
Những người chơi có range donk bet không GTO nhìn chung khá dễ khai thác vì range donk
bet của họ có xu hướng luôn luôn mạnh hoặc luôn luôn yếu, nên tất cả những gì bạn cần để chống
lại họ là tìm ra chiến thuật của họ. Nếu họ luôn luôn donk bet những hand mạnh, bạn có thể bắt
đầu fold quá đà phần dưới của range khi họ bet và bet ở tần suất cao khi họ check. Nếu họ donk
bet những hand yếu, bạn có thể raise để bluff họ ở flop, trap họ với những hand thực sự mạnh
mạnh của bạn mà không cần quá nhiều sự bảo vệ, và check back flop nhiều hơn một chút so với
bình thường để tránh bị x/r bằng một range check nghiêng mạnh về những hand mạnh.
Cả BN và UTG đều ghi nhận quá mức equity 15%, nhưng vì range của UTG có equity cao hơn,
họ có khả năng nắm giữ tỉ lệ pot lớn hơn là BN (Bảng 110).
Rõ ràng IP có lợi thế range tổng thể. Như kỳ vọng, ~15% range của UTG mạnh hơn rất nhiều
~44% range của BN (Biểu đồ 38). Điều này phù hợp với tần suất c-bet cao hơn của UTG.
Đôi lúc check back những hand mạnh rất phù hợp ở những tình huống khi chúng không cần quá
nhiều sự bảo vệ. Khi chúng block range c-bet của Villain, hoặc khi chúng quá nut đến mức sẽ
không ảnh hưởng gì nếu bạn đưa ra một lá bài miễn phí để Villain có thể cắn câu phần nhỏ hoặc
bắt đầu bluff, check behind với một vài hand mạnh của bạn là hợp lý. Việc này còn được gọi là
“trap”. Một lợi ích thêm nữa là check những hand mạnh cũng giúp bảo vệ range check của bạn.
Biểu đồ 41
Size bet càng lớn thường được sử dụng càng ít thường xuyên khi stack bé, và việc sử dụng
những lệnh bet lớn hơn (và thậm chí bet quá mức) trở nên phù hợp khi stack lớn hơn. Điều này có
ý nghĩa vì, nói chung, khi stack bé, những lệnh bet lớn không cần thiết để lấy được tất cả tiền sau
hai hoặc ba vòng cược. Không cần phải đưa ra phần quá lớn từ stack của bạn khi SPR thấp. Điều
ngoại lệ duy nhất là lệnh bet all-in, cái mà được sử dụng thường xuyên hơn khi stack ít đi, vì tỉ lệ
risk/reward cao hơn rất nhiều khi toàn bộ chip của bạn được bỏ vào và bạn được đảm bảo ghi nhận
equity (Biểu đồ 41).
Vì BB có nhiều hand không đồng chất liên tiếp hơn IP, những flop với nhiều khả năng tạo sảnh
hơn sẽ, như kỳ vọng, có lợi cho BB. Nên, tần suất c-bet giảm vì có nhiều khả năng tạo sảnh ở flop.
Những flop không có khả năng tạo sảnh nào sẽ có tần suất c-bet cao nhất.
Với những flop không có khả năng tạo sảnh, chúng ta có thể tạo ra một nhóm phụ cho số những
draw sảnh hai đầu có thể (Biểu đồ 42).
Không ngạc nhiên rằng, những flop với ba OESDs là những flop có tần suất c-bet thấp nhất và
size bet lớn hơn, vì BB sẽ có nhiều draw sảnh có thể xảy ra và những hand mạnh của IP cần được
bảo vệ nhiều hơn (Biểu đồ 43).
Flop 2xx duy nhất là 222 và nó được c-bet 100% thời gian. Những flop Axx là những flop được
c-bet nhiều thứ hai, với tần suất c-bet 96%. Những flop 3xx chỉ là 333, 322 hoặc 332 và được c-
bet 93% thời gian. Những flop Kxx được c-bet 88%, Qxx và Txx được c-bet 85% và, như kỳ vọng,
những flop trung bình và thấp được c-bet ở những tần suất thấp nhất, với 6xx có tần suất thấp nhất
vào mức chỉ 62% (Biểu đồ 44).
Biểu đồ 45 cho thấy tần suất IP nên bet phân loại theo kết cấu flop. Rõ ràng, những board có đôi
nên được bet mức tối thiểu thường xuyên. Điều này sẽ được nghiên cứu chi tiết hơn ở những phần
sau.
Bộ ba tuyệt đối là một trong những flop tốt nhất dành cho IP, người có thể nắm giữ trung bình
81% pot với kết cấu này. Những board có đôi, mặt khác, cung cấp cho BB rất nhiều những hand
mạnh, phân cực hoá range của họ và cho phép họ phản công. Sự phân cực range này là một trong
những lý do chính tại sao bet rất nhỏ là tối ưu ở board có đôi. Những lệnh bet nhỏ ép BB phải tiết
lộ rất nhiều thông tin về hand bài họ đang nắm giữ, vì có rất nhiều những hand rác và yếu BB phải
Nói chung, những lệnh bet nhỏ được ưa chuộng khi range của IP có sự phân phối không phân
cực với phần lớn các hand là tối, nhưng không quá ổn, và tần suất thấp của những hand rác và yếu.
Trong trường hợp sự phân phối range của IP phân cực hơn với tỉ lệ lớn hơn những hand mạnh, yếu
và rác, những size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên hơn.
Biểu đồ 47
Ở những flop với bộ ba, có một đặc điểm rõ ràng là size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên
hơn với những thứ hạng thấp, trong khi 1/3-pot là size bet được thấy sử dụng thường xuyên nhất.
Ở những flop có đôi, bet tối thiểu rõ ràng là size bet ưa chuộng cho hầu hết các thứ hạng ở flop,
mặc dù ⅓ pot được ưa chuộng ở những nhóm flop AAM, AAL và LLL, 1/2-pot hiếm khi được sử
dụng, trong khi ⅔ pot không bao giờ được sử dụng. Những nhóm flop được check nhiều nhất là
MMH, HHA, LLM, LLH, LLL, MMM, MML và LLA. Như kỳ vọng, những flop có đôi ở thứ
hạng thấp và trung bình có xu hướng có lợi cho BB hơn là IP, do đó chúng được check thường
xuyên hơn là những flop bao gồm đôi cao hoặc A.
Biểu đồ 52
Những flop đồng chất được c-bet nhiều nhất nhưng chúng cũng có mức EV thấp nhất cho IP. Ở
kết cấu này, phần trăm hand mạnh của IP giảm mạnh một biên độ lớn, trong khi phần trăm hand
mạnh của BB tăng vì rất nhiều hand có thể là hand rác ở kết cấu flop khác nhưng giờ có khả năng
tạo thùng và rất nhiều hand của IP có thể mạnh ở những kết cấu khác bị giảm equity. Phần trăm
Biểu đồ 53
Thứ hạng càng thấp và càng kết nối với board, IP càng ít c-bet, với MMM, LLL, MML, và
HMM là những flop ít được c-bet nhất. Những flop có khả năng tạo ba sảnh được check 31% thời
gian, những flop với hai sảnh được check 28% thời gian, flop với một sảnh được check 17% và
những flop không sảnh chỉ được check 10% thời gian. Độ lớn stack cũng có ảnh hưởng, với stack
càng lớn thì càng có khả năng check ở flop.
Chúng ta có thể đơn giản hoá chiến thuật ở những flop đồng chất bằng cách chỉ sử dụng size bet
⅓ pot hoặc bet tối thiểu mà không bị mất EV đáng kể.
Một lần nữa, chúng ta thấy được xu hướng của những thứ hạng thấp được c-bet ít thường xuyên
hơn. Tuy nhiên, chúng ta thấy sự khác biệt lớn ở cách mà size bet được sử dụng so sánh với những
flop đồng chất, với những size bet lớn hơn được sử dụng thường xuyên hơn. Một lần nữa, đây là
tính năng của cách là equity được phân bổ ở những flop hai chất, với IP có 24% những hand mạnh
so với 5% của BB.
Ở những flop ba chất, lợi thế range của IP thậm chí còn lớn hơn ở flop hai chất, dẫn đến sự ưa
chuộng thậm chí lớn hơn nữa cho những size bet lớn hơn. Những hand mạnh ở những flop ba chất
thường cũng có xu hướng mạnh ở turn và river. Ngược lại, ở những flop hai chất, sự hiện diện của
draw thùng dẫn đến sự biến đổi equity mạnh mẽ hơn. Việc không có draw thùng ở flop cũng tăng
phần trăm số hand rác của BB mà có thể có draw thùng ở board hai chất. Vì những lý do này, IP
sẽ có khả năng triple barrel hiệu quả hơn ở những flop ba chất và lấy được toàn bộ số tiền ở river.
Nếu Villain là một người chơi tốt, hoặc ít nhất bạn nghĩ rằng họ sẽ có khả năng phòng thủ tốt ở
những flop đặc trưng với các range trong lối chơi, thì có hai khái niệm chính cần xem xét:
◆ Size c-bet
Ở phần này, chúng ta tập trung vào hai yếu tố chính này và cố gắng sử dụng chúng để phát triển
trực giác của chúng ta để chúng ta có thể phát triển hiệu quả những chiến thuật c-bet của mình.
Tất cả những mô phỏng mà được sử dụng để phát triển dữ liệu trong phần này có những size bet
ở flop giống nhau: bet tối thiểu, 1/3-pot, 1/2-pot và 2/3-pot. Chúng ta có thể phân loại các size bet
ở flop thành hai nhóm dựa theo size c-bet được ưa chuộng bởi bộ giải: We can categorize flop bet-
sizes into two groups according to the c-bet size that is preferred by the solver:
Chúng ta cũng có thể phân loại flop dựa theo tần suất c-bet như sau:
Nhìn chung, khi một size bet lớn được sử dụng bởi IP, BB có range không phân cực nhất với
khoảng 4-5% những hand mạnh và số lượng những hand tốt nhiều hơn, 19-36%. Khi một size bet
nhỏ được sử dụng, BB có 7-9% những hand mạnh (gấp hai lần số lượng hand mạnh) và số lượng
hand tốt ít hơn, 20-27%. Do đó, IP tăng size khi OOP có rất nhiều hand có khả năng call ở flop,
và giảm size khi OOP khả năng có nhiều hand raise hơn.
Một xu hướng thú vị khác là cách mà tần suất c-bet của IP tăng khi nhiều hand rác ở range của
BB và giảm khi range của IP trở nên kém phân cực hơn. Khi số lượng những hand mạnh ở range
của họ giảm, số lượng những hand tốt và yếu trong range tăng.
Thực tế, ở 80%+ số flop c-bet, bạn có thể thắng bằng việc c-bet 100% thời gian với mức EV bị
mất là rất ít hoặc không có, thậm chí khi đối đầu với một đối thủ khai thác tối thiểu. Vì lợi thế
range quá rộng của IP, có rất ít cơ hội để Villain có thể tấn công flop c-bet.
Ở những flop có tần suất c-bet trung bình, range của IP vẫn chiếm ưu thế so với BB, nhưng các
range giờ khá gần nhau, vì range của IP trở nên phân cực hơn bằng cách có ít những hand mạnh
và nhiều hand yếu hơn là ở những flop c-bet cao, trong khi range của BB trở nên mạnh hơn. Bởi
vì việc chuyển đổi thành phần range này, IP không thể thắng bằng cách c-bet ở tần suất cao mà
không tốn EV, thậm chí khi đối đầu với những người chơi yếu, vì range của họ có thể hit flop rất
tốt, giúp họ dễ dàng phòng thủ lại những lệnh bet ở flop. Thay vì bet một range hợp nhất, IP chia
nhỏ range của họ, check back những hand tốt, không phải những hand tuyệt có thể hưởng lợi từ
việc giữ pot nhỏ và xem lá tiếp theo miễn phí ở tần suất cao, trong khi c-bet một range phân cực
hơn, dẫn đến những size bet lớn hơn trở nên ưu thế hơn.
Chơi ở turn sau khi check back ở flop có thể khá thử thách và, vì lý do này, tôi thường thấy
người chơi biện hộ rằng họ bet những hand mà đáng ra nên check ở flop để họ không phải đối mặt
với việc chơi ở turn quá khó khăn. Một trong những lập luận điển hình nhất lệnh bet còn được gọi
là “bet lấy thông tin”. Một vài người chơi sẵn sàng bet ở flop với một hand yếu mà đáng ra có thể
hưởng lợi từ việc check back và chơi một pot nhỏ, chỉ để tăng pot lên trong những tình huống mà
BB có khả năng sẽ x/r ở flop. Hoặc, thậm chí tệ hơn, họ sẽ call một flop x/r chỉ để fold khi gặp
lệnh bet ở turn 100% thời gian khi bài họ không được cải thiện. Sai lầm vô cùng to lớn này thường
gặp ở những người chơi nghiệp dư và thậm chí những người chơi chuyên nghiệp vì họ muốn tránh
bị mất “lợi thế bet dẫn trước”. Họ sẵn sàng bỏ thêm nhiều tiền vào pot chỉ để fold khi gặp người
chơi quá hổ báo và rồi có thể cảm thấy tốt hơn vì đã thực hiện một lệnh “fold tốt”.
Chơi poker đơn giản hơn khi bạn có range mạnh hơn và bạn là người duy nhất bet, đặt đối
thủ vào một bài kiểm tra, nhưng đó không thể là lời biện hộ cho việc bị -EV vì chơi quá mức
những hand của mình.
Poker không chỉ là cố gắng thắng mỗi một hand bạn chơi một cách cố chấp, mà thay vào
đó là về việc kiếm được EV cao nhất mỗi lần chơi.
◆ Nếu đối thủ có rất nhiều hand rác trong range, bạn nên c-bet ở tần suất cao và kỳ vọng
khiến đối thủ phải fold thường xuyên. Nếu họ có rất ít những hand mạnh so với bạn, bạn
nên tăng mức c-bet!
◆ % c-bet cao và những flop có size bet lớn chắc chắn là những flop tốt nhất cho IP.
Chúng cho phép lối chơi hổ báo và bạn nên kỳ vọng sẽ nắm giữ được hầu hết pot.
◆ % c-bet thấp và những flop có size bet nhỏ là những flop tốt nhất cho BB. Equity trở nên
gần nhau và bạn nên cẩn trọng, thường xuyên bet nhỏ và ở tần suất thấp.
◆ Những loại hand mà bộ giải thường check back ở flop hầu như giống nhau.
Sự thay đổi là tần suất chúng được check.
◆ Bet-fold những hand có equity cao ở flop là một thảm hoạ. Nếu range của bạn không đủ
mạnh để c-bet 100% mà không gặp rủi ro bị x/r vớt tần suất cap, bạn nên chia nhỏ range,
c-bet một range phân cực hơn và check back những hand tốt và yếu mà có thể hưởng lợi từ
việc xem lá turn miễn phí.
◆ Nếu bạn có một range check ở mặt flop cho trước, check back những hand mạnh mà chặn
range c-bet của đối thủ, đặc biệt là khi, ở flop đó, bạn có khả năng kiếm được nhiều cú fold.
◆ Đừng đặt bản thân vào sơ đồ quyết định mà bạn không thoải mái. Nó là điều hoàn toàn
khác để hỏi bản thân cách mà bộ giải sẽ chơi ở một vị trí khó nhằn và hỏi cách chơi tốt
nhất bạn có thể nghĩ đến bây giờ là gì.
◆ Tốt hơn là nên có một kế hoạch, kể cả là đơn giản, hơn là không có kế hoạch gì.
◆ Ở những pot nhiều nhà, blocker quan trọng hơn là độ mạnh thuần của hand.
◆ Thông thường, hãy chơi bị động ở pot nhiều nhà. Không nên bet với draw quá thường
xuyên trừ khi chúng là nut.
◆ Đừng bao giờ nghĩ về một hand chung chung. Hãy luôn nghĩ về bối cảnh hiện tại.
◆ Những hand với equity backdoor và không có value showdown thường sẽ là những cú
semi-bluff tốt.
◆ Nếu bạn có một range check, hãy chắc chắn rằng check back những hand mạnh với một
vài tần suất khác nhau để bạn không dễ dàng bị khai thác bởi những người chơi hổ báo
sau khi bạn check.
◆ Nếu bạn không chắc chắn về chiến thuật ở flop với range của mình, bạn có thể mặc định
c-bet ⅓ pot ở hầu hết các tình huống stack ít và trung bình.
◆ Nếu bạn không chắc chắn rằng mình nên bet hay check, hỏi bản thân điều gì sẽ xảy ra
nếu bạn bị raise. Nếu hand của bạn ghét bị raise và bạn có khả năng đối mặt lệnh x/r,
thì bạn nên check.
◆ Nếu BB không có range donk bet ở những flop donk bet tốt, bạn nên c-bet ít thường
xuyên hơn mức cân bằng vì bạn sẽ bị x/r thường xuyên hơn.
◆ Đừng cố gắng loại bỏ những người chơi giải trí với top pair. Thường xuyên hơn là không,
họ sẽ không fold nó.
Đôi lúc range của IP quá mạnh so với BB đến mức, kể cả nếu họ có thể c-bet kiếm lợi nhuận 100%
và nhận được nhiều nhà fold, chiến thuật bao gồm check back flop với tần suất cao. Điều này xảy
ra ở những flop mà range của BB cực kỳ phân cực với những hand mạnh và rất nhiều những hand
rác với ít những hand ở mức giữa.
Ví dụ
Board: A♠T♥T♦
EQB của IP: 57% những hand mạnh, 37% tốt, 5% yếu và 1% rác
EQB của BB: 7% mạnh, 12% tốt, 0% yếu và 81% rác.
Tình huống này thường được biết đến là dẫn trước hoặc ở phía sau vì đối thủ sẽ có hand khủng
hoặc ít đến không có gì, không có nhiều ở mức giữa. Ở thiết lập này, IP sẽ muốn check back ở flop
với rất nhiều những hand tốt để kiểm soát pot, với một lượng lớn những hand mạnh để trap. IP
cũng muốn c-bet tất cả các hand rác và hầu hết những hand yếu, cân bằng với những hand mạnh
và một vài hand tốt. Điều này cho phép IP thường xuyên thắng những pot không cạnh tranh ở flop
với hand rác trong khi vẫn có thể bắt bluff hiệu quả ở những vòng cược sau sau khi check back ở
flop.
Khi đối mặt với x/r, bạn nên luôn luôn cân nhắc range của đối thủ và range của bạn so với equity
range. Nếu Villain có khả năng x/r flop ít hơn mức trung bình đề xuất, họ sẽ có thể mất những cú
bluff tối ưu. Range của họ sẽ lệch nhiều về những hand mạnh và equity tổng thể của bạn sẽ thấp
hơn rất nhiều những gì bạn kỳ vọng. Nếu trong trường hợp đó, bạn có thể khai thác Villain bằng
cách fold quá đà ở flop. Kể cả nếu họ đã bluff bạn một lần, tần suất của họ vẫn là quá ít để bạn
Nếu range của đối thủ thiên về draw, bạn có thể 3-bet một cách hổ báo với những hand tốt và
mạnh mà có thể hưởng lợi từ việc được bảo vệ. Nếu range của Villain phân cực với những hand
mạnh hoặc bluff, range của bạn sẽ chơi tốt hơn nếu là những hand bắt bluff. Hãy để họ phải bỏ
thêm nhiều tiền vào với những cú bluff và đừng raise back với những hand mạnh trung bình.
Những ví dụ C-bet ở IP
% c-bet cao và size bet lớn: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠ (40bb)
Biểu đồ 58: % c-bet cao và size bet lớn: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠
(40bb)
Nếu chúng ta đưa cho IP quyền chọn sử dụng lệnh bet 120%, bộ giải sẽ sử dụng chúng 14.15%
thời gian, mặc dù điều này không kiếm thêm EV cho IP. Mặt khác, đơn giản hoá chiến thuật thành
Biểu đồ 59
Ở A♥Q♦3♠, UTG có tất cả những hand rất mạnh, như AA, QQ và AK, trong khi BB có thể 3-
bet AA và QQ tất cả thời gian và AK hầu hết thời gian. Việc thiếu những hand nut ở range của BB
cho phép IP bet lớn qua nhiều vòng cược, ghi nhận quá mức 72% equity và nắm giữ 85% pot.
Phản ứng thông thường của UTG nên là fold khoảng 30% range của họ, bao gồm hầu hết những
hand đôi, K cao mà không có gutshot và không có gì. Range 3-bet của UTG bao gồm những hand
như AK, AJ, tần suất nhỏ AQ, và khoảng 5% set để value, cộng thêm một vài KJo, QJs và QTs
mà không có BDFD và khoảng một nửa JJ để bluff. 52% range của UTG call với lệnh x/r và chơi
ở turn với bất kỳ top pair, middle pair và gutshot nào.
% c-bet cao và size bet nhỏ: BB với UTG ở mặt Q♥J♥T♥ (40bb)
Biểu đồ 59: % c-bet cao và size bet nhỏ: BB và UTG ở mặt Q♥J♥T♥ (40bb)
Ở mặt Q♥J♥T♥, UTG có lợi thế range đáng kể, nên họ sẽ muốn c-bet ở tần suất cao, nhưng
range của BB quá phân cực, với nhiều hand không có khả năng tiếp tục ở flop nếu UTG sử dụng
size bet lớn. Cùng lúc đó, BB có nhiều những hand mạnh sẵn sàng tiếp tục với những size bet lớn.
Nên, bằng cách bet lớn UTG có thể khiến BB chơi dễ dàng hơn, cho phép họ fold chính xác những
hand yếu và tiếp tục với một range rất mạnh. Nếu thay vào đó, UTG bet mức tối thiểu, điều này sẽ
câu dẫn BB chơi tiếp với nhiều hand yếu mà UTG hoàn toàn chiếm ưu thế, giữ cho range của họ
rộng hơn ở những vòng cược sau.
Bảng 114: Phân tích range c-bet của UTG ở mặt Q♥J♥T♥
Phản ứng của UTG với một flop x/r ở kết cấu này là hầu như không bao giờ 3-bet, fold khoảng
35% thời gian và call 65% còn lại. Range c-bet của UTG bao gồm khá nhiều các hand là hai đôi
hoặc tốt hơn, một đôi với draw sảnh và khá nhiều những hand có draw thùng.
% c-bet trung bình và size bet lớn: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bbs)
Biểu đồ 62
Ở kết cấu flop này, IP có 59% equity và có khả năng nắm giữ 69.04% pot. Đơn giản hoá chiến
thuật thành size bet duy nhất ⅔ pot bảo toàn hầu hết EV của IP, 68.95%, với mức EV mất đi là -
0.09 hoặc -0.6bb/100.
Chiến thuật c-bet 100% không thể được áp dụng vào flop này vì nó tốn của UTG mức EV mất
đi là 4.25% pot, hoặc -24bb/100. Ở điểm cân bằng, tần suất x/r của BB so với UTG là khoảng 4%,
nhưng so với chiến thuật c-bet 100%, BB có thể tấn công UTG bằng cách tăng tần suất x/r lên mức
rất lớn 48.42%.
Phản ứng của UTG ở điểm cân bằng là fold khoảng 32% thời gian, bao gồm hầu hết là overcard
không có BDFD. UTG 3-bet all-in ~13.5%, và 3-bet một size nhỏ hơn khoảng 8% thời gian. Range
3-bet bao gồm những hand như overpair, top pair top kicker và draw thùng nut (đặc biệt với hai
overcard) và một vài hand bluff với những hand như A♥ cộng thêm một overcard. Phần còn lại
của range là call, với tần suất call ~47%.
Ở mặt flop này, range của BB rất phân cực và có số lượng tốt những hand mạnh vào mức 14%,
không quá cách biệt so với 23% của BN. Đặc biệt hơn, range của BB có 8.9% trip sixes, trong khi
BN chỉ có 5%. Vì lý do này, BN không thể sử dụng size lớn, nhưng BB vẫn có 52% hand rác mà
sẽ khó khăn để tiếp tục đối đầu kể cả với lệnh bet tối thiểu. Điều này cho phép BN có tần suất c-
bet tổng thể cao vào mức 72%.
Phản ứng cân bằng của BN đối với x/r là fold khoảng 35% hand, 3-bet 11% sử dụng lệnh raise
tối thiểu và call 54%. Range fold của BN bao gồm tất cả những hand air, và rất nhiều Át và K cao
với chỉ một lá overcard đối với flop J. Range 3-bet của BN là cực kỳ phân cực, bao gồm những
hand như A6 và K6, một vài top pair mạnh, bluff với hai lá overcard với thùng backdoor hoặc
thùng và sảnh backdoor. Range call bao gồm bất kỳ hand đôi+, hầu hết Át và K và Q cao với
backdoor equity.
Biểu đồ 66
Phản ứng cân bằng của BN là fold 43% thời gian, call 34% và 3-bet all-in 23%. Range 3-bet
của BN bao gồm những hand như QQ-99, top pair kicker+ tốt, và một vài hai overcard ngẫu nhiên
Biểu đồ 67: % c-bet thấp và size bet nhỏ: BB với BN ở mặt 5♥5♦4♥ (40bbs)
Ở mặt flop này, BN không có lợi thế về range đáng kể, do đó sẽ ưa thích những size bet nhỏ
hơn. Thực tế, hầu hết range của BN tạo bởi những hand tốt, với sự phân phối không phân cực mà
dẫn đến tần suất c-bet thấp, vì nhiều những hand tốt và yếu ở range của BN sẽ được hưởng lợi từ
việc check back ở flop.
Chiến thuật GTO của BN với một flop x/r là 3-bet ở flop 19% thời gian sử dụng lệnh raise 25%-
pot, call 56% và fold 25%. Range 3-bet của BN bao gồm những hand như 38% xám (hầu hết với
kicker cao), 34% overpairs (hầu hết là JJ-66), 26% draw thùng (hầu hết là draw thùng Át cao với
hai overcards) và một vài hand bluff với A♥ và K♥. Range fold hầu hết là air và overcards không
có draw hoặc thùng backdoor. Range call được tạo bởi bất vì hand đôi + và những draw mà bị
raise và overcard với draw thùng backdoor.
Bây giờ khi bạn OOP, có một vấn đề khác bạn không gặp phải khi là IP. Check ở flop không ngay
lập tức cho phép bạn xem lá turn và ghi nhận equity vì, khi bạn check flop từ OOP, người chơi IP
có quyền chọn bet và ép bạn phải fold một vài hand. Vì lý do này, bạn phải check một range mạnh
hơn khi OOP so với khi IP, vì range của bạn có thể bị tấn công ngay lập tức bởi Villain. Điều này
ép buộc bạn phải check một range mà nó không chỉ được cân bằng ở lá turn trung bình khi hành
động thành x/x. mà còn là một range mà được cân bằng ngay lập tức và có thể chống lại sự hổ báo.
Độ lớn của stack có ảnh hưởng đáng kể đến chiến thuật pre-flop và do đó các range cold call sẽ
khác biệt rất lớn từ độ lớn của stack này với stack khác, dẫn đến sự phân phối equity ở post-flop
khác nhau. Ở phần này, chúng ta sẽ tập trung vào cold call của BN vì BN là vị trí từ ngoài các nhà
blind mà thường cold call nhiều nhất. Về phía người open, chúng ta sẽ tập trung vào CO và UTG,
để cung cấp hai ví dụ đặc biệt nhất của thiết lập này, một chống lại range open rộng nhất có thể,
và một chống lại range open chặt nhất. Cách chơi từ các vị trí khác sẽ rơi vào hai thái cực này.
Những độ lớn stack chúng ta sẽ nghiên cứu là 40bb và 20bb, thông thường cho một thiết lập
MTT với 12.5% antes, và cấu trúc bet sau đây:
Tình huống tuyệt vời nhất cho Hero là khi chơi ở UTG với 40bb. Ở thiết lập này, cả hai người
chơi hầu như có số hand giống nhau ở range của họ nhưng range của Hero chiếm ưu thế so với
BN ở tất cả các thiết lập khác. Range của BN chặt hơn Hero, tạo nên một tình huống công bằng
hơn mà sẽ có lợi tuyệt đối cho BN, với điều kiện họ đang chơi ở post-flop khi IP.
Đương nhiên, đối với BN để có được tình huống post-flop ưa thích này, họ phải chấp nhận rủi
ro khi call lậnh raise open ở vị trí đầu tiên. Vậy nên nó không giống như việc BN có thể cold call
dễ dàng bất kỳ hand nào, vì họ có thể bị rủi ro từ các nhà blind và đồng thời rủi ro chơi post-flop
có nhiều nhà.
Ranges in Play
The following hand ranges identify the ranges in play for the subsequent analysis (Hand Ranges
341-348)
Nhìn chung, các chiến thuật có thể đơn giản hoá thành hai size bet, một size bet lớn và một size
bet nhỏ, phụ thuộc vào từng flop. Với 40bb, bạn có thể sử dụng ¾-pot và bet tối thiểu hoặc ⅓-pot,
UTG c-bet thường xuyên hơn rất nhiều so với CO. Thực tế, range của CO nhìn chung yếu hơn
BN và CO có thể dễ dàng lựa chọn chiến thuật check 100% với tối thiểu hoặc không EV mất đi.
Điều này giống BB với tình huống IP khi mà BB có thể lựa chọn không bao giờ donk bet ở flop.
Chiến thuật này rất hiệu quả như một cách khai thác chống lại đa số vì hầu hết người chơi có xu
hướng tự động bet ở flop khi OOP check đến họ, trong khi chiến thuật cân bằng là cố gắng vào
pot một nửa số thời gian. Check ở flop với tất cả các hand cho phép Hero chơi chiến thuật
check/raise một cách hổ báo, lấy được lợi thế từ việc hổ báo của IP, trong khi giảm thiểu được
hiệu ứng SPR và bất lợi về vị trí.
Nhiều người chơi mắc sai lầm vì c-bet quá thường xuyên khi OOP, đặc biệt với cả những hand
yếu và rác, chỉ để x/f ở turn hầu hết thời gian. Đây là một sơ hở nghiêm trọng mà có thể bị tấn
công dễ dàng bởi những đối thủ giỏi quan sát mà có thể call lệnh bet ở flop rồi sau đó tấn công ở
turn 100% thời gian khi được check tới.
Biểu đồ 73
Kể cả khi OOP, range của UTG vẫn đủ mạnh để c-bet hầu hết thời gian, check ở flop trung bình
32%. Những hand mạnh được check 19% thời gian, nhiều hơn 3 lần so với Hero khi IP. Check ở
flop không ngay lập tức đưa đến lá turn, nên Hero vẫn phải lo lắng về IP bet sau khi check ở flop.
Vì lý do này, Hero cần phải có, trung bình, một range check mạnh hơn và cân bằng hơn, cho phép
Hero x/r ở flop với tần suất hợp lý, từ đó bảo vệ anh ta khỏi việc IP bet quá thường xuyên với size
bet lớn khi được check đến.
Khi Hero là IP, những hand rác được c-bet thường xuyên hơn những hand tốt và yếu, khiến cho
range c-bet phân cực hơn. Tuy nhiên, khi Hero là OOP, vai trò này đảo ngược và những hand tốt
và yếu được c-bet thường xuyên hơn những hand rác. Lý do cho điều này là vì Hero vẫn phải hành
động đầu tiên ở turn, điều mà sẽ cung cấp thông tin cho đối thủ về độ mạnh hand của họ. Nếu họ
bet quá nhiều những hand equity thấp khi OOP, range ở turn trung bình của họ sẽ quá yếu và kết
quả là bị khai thác. Vì lý do này, thay vì bỏ ra quá nhiều chip với nhiều những hand rác chỉ để sau
đó phải từ bỏ pot, Hero chỉ đơn giản cần check chúng với dự định fold hầu hết thời gian với lệnh
bet ở flop. Cho rằng range check của họ cũng có nhiều hand mạnh hơn khi họ là IP, Hero có thể
kỳ vọng ở flop sẽ thực hiện x/x thường xuyên hơn, ghi nhận equity miễn phí.
Biểu đồ 74
Người chơi OOP có một lợi thế phân cực đáng kể ở những flop ba chất, cho phép họ sử dụng
size-bet lớn hơn thường xuyên hơn. Ở những flop hai chất, equity và EQR của nhiều những hand
mạnh của OOP bị giảm đi do sự xuất hiện của draw thùng, dẫn đến tần suất c-bet giảm đi. Những
board một chất cải thiện sự phân phối equity của IP đáng kể. Điều này dẫn đến việc OOP sử dụng
size-bet nhỏ hơn và c-bet chỉ khoảng 50% số hand.
Biểu đồ 75
Biểu đồ 76
Stack hiệu dụng 40bb: Hero là một người chơi hổ báo ở pre-flop và Villain là nhà call.
IP 3-bet
BN với CO / BN với MP / BN với EP / CO với MP / CO với EP / EP với EP
OOP 3-bet
BB với BN / BB với CO / BB với EP / SB với BN / SB với CO / SB với EP
Một vài điều rất thú vị là cách mà bộ giải xử lý để tạo nên những tình huống post-flop giống
nhau từ các range pre-flop khác nhau, đặc biệt khi IP 3-bet. Equity, EQR và EVs của các người
chơi là đồng nhất trên board. Thực tế, EQB cũng tương tự và điều này dẫn đến việc các chiến thuật
c-bet của IP đồng nhất ở hầu hết các ván đấu.
Ở những pot 3-bet, người chơi hổ báo ở pre-flop sẽ thông thường có một lợi thế phân cực, với
hầu hết tỉ lệ lợi thế hand mạnh là 2 chọi 1, hand tốt là 1,5 chọi 1 và với ⅓ range của người chơi
Biểu đồ 80
Cho rằng IP có range check back đáng kể, nhiều những hand mạnh được check back, đặc biệt
khi chúng chặn range c-bet của Villain. Ví dụ top set QQ ở mặt Q82r được check back 68% thời
gian.
Bộ ba và những flop ba chất có đôi là kết cấu được c-bet thường xuyên nhất, với những flop hai
chất và đồng chất được c-bet ít thường xuyên nhất. Ở những flop hai chất, OOP có một vị trí tốt
để x/r với nhiều draw thùng, mà có thể ép Hero phải bỏ pot. Vì lý do này, những flop hai chất được
check back ở tần suất cao, cho phép nhiều những hand tốt và yếu của IP ghi nhận equity.
Những board thấp và Kxx là những thứ hạng được c-bet thường xuyên nhất. Những board trung
bình được check back với một tần suất trung bình vì chúng kết nối rất tốt với range của OOP,
nhưng IP vẫn có rất nhiều overpair trong range của họ. Những flop Qxx và Jxx, mặt khác, kết nối
tốt với range của những người chơi call ở pre-flop và cũng làm giảm đi nhiều hand của IP xuống
thành đôi mạnh thứ hai hoặc thứ ba, khiến cho IP được khuyến khích check back.
Axx là một board thú vị. Đa số có xu hướng c-bet ở những flop Axx 100% thời gian. Tuy nhiên,
ở những mô phỏng mà các board Axx là tĩnh và phân cực range của OOP vì chúng sẽ hoặc là có
một hand mạnh, một hand trung bình mà không thể call nhiều lệnh bet, hoặc rất nhiều hand rác
mà không thể tiếp tục chơi flop, nhưng cũng sẽ không cải thiện nhiều ở hầu hết vòng turn. Cho
rằng giá trị những hand này sẽ không thay đổi nhiều và, với SPR thấp, tất cả tiền có thể dễ dàng
được bỏ vào ở hai vòng cược. Vì lý do này, check back ở flop để có được thông tin thêm từ OOP
khi họ phải hành động ở turn mang rất nhiều ý nghĩa, cho phép IP bảo vệ range check back ở flop
với rất nhiều những hand mạnh, trong khi cũng ghi nhận equity với những hand mạnh trung bình.
Range 3-bet của SB, ở mức trung bình, mạnh hơn một chút so với range của BB. Điều này cho
phép Hero c-bet nhỏ thường xuyên hơn khi ở SB so với BB.
Biểu đồ 84
Khi OOP, Hero c-bet với tần suất cao hơn với hầu hết tất cả các kết cấu flop, ngoại trừ board
một chất mà có thể bị c-bet ở tần suất tương tự. Từ OOP, Hero sẽ sử dụng những size bet lớn hơn
so với khi IP.
Sau lệnh 3-bet từ vị trí blind, Hero sẽ muốn được c-bet những board thấp với tần suất cao, cho
rằng họ có một range mạnh hơn với nhiều overpairs. Những board trung bình được check thường
xuyên hơn khi chúng có khả năng tạo sảnh và draw sảnh. Những board Qxx, Jxx và Txx là một
trong số những board được check nhiều nhất vì chúng kết nối tốt với range của IP.
Biểu đồ 87
Một khác biệt thú vị được thấy ở những board Axx là chúng được c-bet 77% thời gian khi Hero
OOP nhưng chỉ 53% khi Hero IP. Ở cả hai trường hợp, sự phân phối equity của những người chơi
là tương tự, và khác biệt chủ yếu lúc này dường như là, chơi OOP, Hero không muốn đưa quyền
chọn cho Villain để có lá turn miễn phí khi IP. Nếu hành động là x/x ở flop, Hero là người sẽ phải
hành động đầu tiên ở turn, đưa ra nhiều thông tin về range. Nên, Hero quyết định bet hầu hết ở
C-bet để Defense
Trong no-limit hold’em, c-bet để defense rất dễ thay đổi theo size bet. Một vài người chơi thích sử
dụng MDF như là chiến thuật GTO-giả, nhưng vì chúng ta đã chỉ ra trước đó, trong khi con số này
có thể ở một vài trường hợp đóng vai trò như một hướng dẫn sơ bộ, nhưng nó không đề cập đến
phân phối range và equity.
Đặt toàn bộ chiến thuật của bạn dựa vào MDF sẽ rất bất lợi.
Ví dụ, ở tình huống BB với UTG 40bb, nếu UTG bet ⅓-pot thì, theo như MDF, BB được cho
là defend 75% thời gian. Tuy nhiên, ở một flop như AQ3r, range của BB có 70% những hand rác
và 10% những hand yếu. Trung bình, những hand rác của BB có 16% equity chống lại UTG, nhưng
pot-odd đặt ra bởi size bet của UTG là 20%. Nên kể cả khi chống lại size bet ⅓-pot, call nhiều
những hand này sẽ bị -EV.
Raise có thể thậm chí còn tệ hơn, vì điều đó nhiều tiền hơn vào pot với một range mạnh mà sẽ
không fold đủ để khiến cho bluff có lợi nhuận. Ở tình huống này, chiến thuật phòng thủ GTO của
BB với size bet ⅓-pot là fold 58% và defend chỉ 42% thời gian, điều mà đâu đó gần với 75% MDF.
Ở flop này, UTG có thể c-bet toàn bộ range và BB không thể làm gì để ngăn chặn họ khỏi việc có
lệnh bet thu được lợi nhuận với bất kỳ hai lá bài nào.
Do đó, nếu bạn đang cầm những hand như 96s với draw thùng backdoor, K-cao yếu hoặc đôi
nhỏ và có khoảng 10-20% equity, bạn đơn giản nên fold kể cả khi Villain đang bet ATC. Lệnh call
pre-flop có lợi nhuận và sẽ có những flop khác mà range của bạn sẽ mạnh hơn rất nhiều và bạn sẽ
có thể kết nối một hand mạnh để có một cơ hội bluff tốt hơn, hoặc đối thủ của bạn đơn giản sẽ
check back thường xuyên hơn, cho phép bạn khi nhận nhiều equity hơn.
Đừng bao giờ cố ép buộc! Mục đích của bạn không phải là cố gắng để thắng tất cả mọi
hand mình chơi, mà là chơi mỗi hand theo cách thu được nhiều lợi nhuận nhất. Nếu call và
Khi đối mặt với một lệnh bet, điều quan trọng cần thiết là luôn luôn phải cân nhắc range của
Villain ở trường hợp cụ thể đó. Ví dụ, khi đối mặt lệnh bet tối thiểu, pot odd của bạn sẽ là tuyệt
vời, nhưng Villain sẽ sử dụng một thành phần range khác so với khi họ bet bằng size pot. Điều này
sẽ ảnh hưởng đến chiến thuật của bạn vì những hand của bạn sẽ có equity khác nhau dựa vào cách
mà Villain xây dựng những range bet khác nhau của họ. Nếu Villain là loại người chơi mà luôn
luôn c-bet những hand mạnh và check back những hand trung bình ở những vị trí cụ thể, nhiều
những phần dưới của hand range bạn nên defend chống lại người chơi GTO sẽ có equity thấp hơn
chống lại chiến thuật không cân bằng này. Bạn có thể khai thác cấu trúc range yếu này bằng cách
overfold ở flop.
Ở phần này, chúng ta sẽ xem xét chi tiết trận đấu giữa BB và IP c-bet để phòng thủ ở pot chỉ
một lần raise với độ lớn stack 40bb. Chúng ta sẽ một lần nữa tập trung vào tình huống BB với BN
và BB với UTG, nên chúng ta có thể so sánh chiến thuật của BB chống lại những range có thể cả
rộng nhất và chặt chẽ nhất. Ở trận đấu này, IP có thể c-bet 1/4-pot, 1/3-pot, 1/2-pot, 2/3-pot và BB
có quyền chọn x/r 50% pot, x/r 25% pot, call và fold. (Size raise 25% dẫn đến một size bet nhỏ
hơn gấp hai lần size bet ban đầu khi IP sử dụng lệnh bet ⅔-pot, do đó nó được làm tròn thành mức
raise tối thiểu trong những mô phỏng GTO).
Range của BB khi chống lại UTG yếu hơn khi chống lại BN. Điều này dẫn đến việc BB fold ở
mức trung bình nhiều hand hơn khi đối mặt với c-bet từ UTG hơn là khi đối mặt với c-bet từ BN.
Tăng size raise khi Villain bet nhỏ giữ cho những hand có equity thấp nhất của họ không khác
biệt với call và fold. Tương tự, khi IP sử dụng một size bet lớn, BB không phải thực hiện một lệnh
raise lớn mà có thể bị commit quá đà. Thường thì một lệnh raise tối thiểu để check là đủ. Ngoại lệ
cho nguyên tắc này là trường hợp những lệnh raise all-in, vì chúng có tỉ lệ risk/reward tốt hơn khi
size bet của IP lớn.
Size bet của IP càng nhỏ, range bet của họ sẽ càng phân cực. Điều này cho phép BB tăng tần
suất x/r tổng thể.
Range fold của BB được tạo thành bởi hầu hết những hand rác, nên tổng số hand rác của BB là
nhân tố chính khi xác định tần suất fold tổng thể của họ.
Những hand mạnh hầu hết muốn được x/r ở flop, nhưng nhiều trong số đó cũng muốn x/c với
mục đích x/r ở vòng cược sau. Điều này giúp cho range x/c của BB được bảo vệ. Những hand tốt
hầu hết muốn được call, nhưng một vài trong số đó muốn x/r, đặc biệt những combo cần được bảo
vệ và không chặn được range c-bet của Villain, như top pair ở những board tầm trung, hai bottom
pair ở những board cao và những draw combo mà có thể hưởng lợi từ việc thắng được toàn bộ tiền
ở flop hoặc giảm đi SPR nên chúng không dễ bị đuổi khỏi pot ở vòng turn.
Những hand yếu hầu hết được x/c, nhưng hầu như ⅓ số chúng bị fold và khoảng 15% được x/r.
Những hand rác hầu hết được fold, nhưng một vài được x/c và số ít trong số đó là những combo
bluff x/r tốt.
◆ Tránh việc chia nhỏ range sớm ở các hand trừ khi bạn có nhiều những hand mạnh mà bạn
có thể phân chia thành range x/r và x/c.
◆ Thường sử dụng những size bet x/r lớn chống lại những lệnh c-bet nhỏ, và những size bet
x/r nhỏ chống lại những lệnh c-bet lớn, ngoại trừ khi chống lại những lệnh bet all-in mà
có tỉ lệ risk/reward tốt hơn.
◆ Thông thường, những range x/r ở flop là phân cực, bao gồm những hand sẵn sàng đối đầu
với lệnh 3-bet và những hand sẵn sàng raise/fold. Một tình thế dẫn đến thua thua là khi x/r
những hand tốt nhưng không đủ tốt để chơi ở flop trong khi lại quá tốt để phải fold khi gặp
lệnh raise. Hãy nghĩ trước về điều đó và tránh đặt bản thân vào tình thế khó.
◆ Nếu hand của bạn có rất nhiều equity nhưng không có quá nhiều giá trị showdown, hoặc
nếu nó dễ bị mất rất nhiều value ở những vòng cược sau, hãy cân nhắc chơi hổ báo với mục
đích bỏ tiền vào khi hand của bạn vẫn đang có giá trị.
◆ Stack càng lớn, bạn càng cần những hand trung bình mạnh hơn để x/r ở flop. Những draw
tốt có thể được barreled qua nhiều vòng đặt cược tăng về mặt value.
◆ Khi x/r là một chiến thuật có thể, luôn luôn cân nhắc những hiệu ứng của lá bài chặn.
Một hand value mà không có lá bài chặn range c-bet của Villain sẽ tạo nên hand x/r tốt
hơn là một hand có. Ví dụ, 44 ở mặt 9♥8♥4♥ tạo thành hand x/r tốt hơn là 99. Điều
ngược lại đúng với những cú bluff. Một combo bluff mà chặn range c-bet của Villain thì
giá trị hơn cái mà chặn những combo bluff của Villain. Nếu hand của bạn block cả bluff
và value, thì hãy thử nghĩ về những biến số khác mà có thể thay đổi quyết định của bạn
theo cách này hoặc cách khác.
◆ Nó rất khó để x/c bottom pair qua nhiều vòng đặt cược, đặc biệt khi đôi đó nhỏ. Hãy cân
nhắc đặt một vài bottom pair vào range x/r flop của bạn.
◆ Át-cao và K-cao là những hand tốt ở nhiều vị trí. Đừng quá vội vàng bỏ chúng ở flop, đặc
◆ Nếu range của bạn có rất nhiều những hand rác, bạn nên fold rất nhiều chúng khi gặp c-
bet, bất kể size bet của đối thủ bạn và MDF là gì.
◆ Đừng cố gắng đại diện cho một range có value thấp và hy vọng đối thủ của bạn sẽ từ bỏ
một hand lớn. Điều đó sẽ không xảy ra đủ thường xuyên.
◆ Luôn luôn để ý size bet và pod odd của Villain đưa ra. Hãy luôn nhận thức thực tế
về out và equity của bạn.
◆ Range x/r ở flop của bạn sẽ không cần thiết phải bao gồm những hand mạnh nhất
nhưng, thay vào đó, những hand mà có thể hưởng lợi từ việc giảm SPR và có những lá
bài chặn đúng (tiến hoặc lùi).
◆ Đừng ngần ngại chơi hổ báo ở flop khi mà bạn có rất nhiều những hand mạnh ở
range của bạn.
◆ Draw thùng và draw sảnh hai đầu là những hand tốt, nhưng chúng không phải là nut.
Bạn không phải x/r ở flop tất cả những khi có draw tốt. Điều quan trọng là cũng phải có
độ bao phủ board tốt ở range x/c của bạn.
◆ Trước khi snap fold hand của mình khi bạn không hit gì ở flop, hãy nghĩ một vài giây
về cách mà equity được phân chia ở flop. Hãy cân nhắc về mức thường xuyên mà
Villain nên bet ở flop và khả năng mà họ sẽ fold khi gặp lệnh x/r ở flop.
BB đối mặt với lệnh c-bet 2/3-pot: BB với UTG ở mặt A♥Q♦3♠ (40bb)
AQ3r là một flop vô cùng tệ với BB, vị trí mà chỉ có thể nắm giữ 14% pot (một nửa số equity
của họ). Ở ván đấu này, hầu hết range của BB trở thành những hand rác mà không có hy vọng sẽ
cải thiện được. Với chỉ khoảng 3% những hand mạnh, BB hầu như không thể làm gì để ngăn chặn
UTG c-bet range của họ bằng một size bet lớn, điều mà sẽ khiến phải fold 68% thời gian.
◆ Hai đôi được x/r 42%, với Q3s được x/r 100%. A3s được x/r 1/3 thời gian. AQo được x/r
40% và AQs chỉ được x/r khoảng 7%. A3 cần một vài sự bảo vệ và hưởng lợi từ việc giảm
SPR, trong khi AQs giúp bảo vệ range call và có thể được x/r ở những vòng cược sau.
◆ Top pair không bao giờ bị fold ở flop và được x/r khoảng 15% thời gian. Nếu BB có AK, nó
sẽ được x/r mọi lúc. AJ được x/r 63% thời gian và tất cả những hand Ax khác được x/r khoảng
6%.
◆ Second pair được fold 25% và không bao giờ được x/r. Hand mạnh nhất KQ được call
100%. QJ-Q9 trung bình được fold khoảng 53% thời gian khi không có draw thùng
backdoor và kicker yếu hơn Q8s-Q2s được call 100%. Ở thiết lập này, đôi trung bình với
kicker thấp có equity tốt hơn đôi trung bình kicker cao.
◆ Các đôi ở giữa Q và 3 luôn luôn được fold. Điều này bao gồm một vài đôi lớn như JJ và
TT mà có thể trở thành hand bài bắt bluff tệ, vì chúng chỉ có hai outs mà thậm chí không
phải outs tốt.
◆ Bottom pair được fold 66%. Chúng có thể được call hoặc x/r đôi lúc vì chúng có rất nhiều
equity hơn những đôi như 77. Bất kỳ hand 3x nào cũng có thể có đến 5 outs (lá 3 khác
cộng thêm kicker). Ở trường hợp này, những kicker yếu hơn dễ bị ảnh hưởng hơn những
kicker cao, và những hand như K3s được fold 100%, trong khi một hand như 53s có thể
được x/r 43%, x/c 20% và x/f 36.5%. Thông thường những bottom pair không phải những
hand tốt để call down, nhưng chúng phát huy tốt thành những cú semi-bluffs.
◆ Sảnh lọt khe lớn như KJ có thể được call hầu hết thời gian. Những hand yếu hơn KT và JT
sẽ chơi một chiến thuật hỗn hợp, đôi lúc call và đôi lúc fold. Wheel gutshots mà có thể tạo
thành sảnh A-5 có thể được x/r ,một vài lúc khi chúng có draw thùng backdoor nhưng sẽ
hầu hết được fold khi không có.
◆ Át: Át là một lá bài đặc biệt và có thường có ảnh hưởng lớn đáng kể.
Overcard và undercard có thể được chia nhỏ thành các lá mang lại draw thùng backdoor và
những lá không.
Chiến thuật ở Flop 1: Chơi ở Turn sau khi Check Back ở (x/x)
Biểu đồ 115
Biểu đồ 116
Biểu đồ 118
Một vài người chơi gặp khó khăn khi cân đối xử lý một hand rất mạnh ở vòng cược trước trở
nên yếu đi ở vòng cược sau. Họ bị tấn công về mặt cảm xúc vì giá trị hand lúc đầu và cảm thấy có
quyền thắng pot chỉ vì họ bắt đầu với hand mạnh nhất. Tuy nhiên, đó chỉ là một phần của trò chơi.
Poker là trò chơi về equity, về mức độ ta đang có, về cách mà chúng được phân bố và cách
mà ta ghi nhận chúng trong khi ngăn chặn đối thủ khỏi việc ghi nhận equity của họ.
Vô số lần, tôi đã nghe thấy nhiều người chơi nói những điều đại loại như, “Mỗi khi tôi có AA,
lá thùng hay sảnh xuất hiện, tôi đều không may mắn.” Bạn cho rằng hand mạnh đôi lúc bị yếu đi.
Nó có thể được dự đoán một cách toán học và nên được dự tính trước. Do đó, bạn nên chuẩn bị
trước cho những lúc nó diễn ra.
Nắm rõ range của mình, cũng như của đối thủ và hiểu rằng, kể ra ở những lần bạn có thể
đôi lúc thua một pot lớn, bạn có thể trở thành người ăn đậm nhất. Điều quan trọng là chơi
tốt và điều chỉnh hợp lý theo các mà các tình huống thay đổi. Điều đó sẽ cho phép bạn chiếm
ưu thế về lâu dài.
Hành động đầu tiên của OOP: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bb)
Sau khi OOP x/b/c ở flop, equity của cả hai người chơi sẽ rất gần nhau ở lá turn trung bình (Biểu
đồ 119). Thực tế, OOP có EQ cao hơn (51.65%), nhưng ghi nhận nó dưới mức, chỉ nắm giữ 48.6%
pot, trong khi IP, với 46.6% EQ, nắm giữ 51.4% pot. Tương tự với flop donk bet, ở vòng turn OOP
lựa chọn donk bet khi IP không có nhiều những hand mạnh chiếm ưu thế trong range của họ và,
thay vào đó, có nhiều những hand yếu hơn mà có thể hưởng lợi từ việc check back ở turn (Biểu
đồ 120).
Bảng 138: Dữ liệu EQ của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)
Bảng 139: Dữ liệu EV của OOP bởi lá turn ở mặt 9♥8♥4♦ (x/b/c)
OOP chơi khá tốt khi lá turn là chất cơ và sẽ, trung bình, có nhiều combo thùng hơn IP. Tuy
nhiên, OOP không dẫn trước quá thường xuyên vì thùng không được nut như IP, vị trí mà sẽ có
nhiều thùng nut trong range. Những lá bài tệ nhất đối với OOP là K khác chất, như K♣/K♠, và
những lá lý tưởng nhất là 5 khác chất, như 5♣/5♠ (Bảng 138-141).
IP đối mặt với lệnh Check: BB với UTG ở mặt 9♥8♥4♦ (40bb)
(x/b/c/x)
Biểu đồ 124
Thông thường, người chơi IP sẽ có lợi thế phân cực đáng kể sau khi OOP đã check hai lần. IP
tuân theo một xu hướng tương tự mà ta đã thấy ở flop, lựa chọn chia nhỏ range của họ. Điều này
dẫn đến việc c-bet một lần nữa với hầu hết những hand mạnh mạnh của họ và check back hầu hết
những hand tốt mà không muốn bị bet/fold và sẽ hưởng lợi từ việc xem lá river miễn phí. IP sẽ c-
bet quá 65% thời gian và sẽ hầu hết sử dụng size bet ⅔ pot (Biểu đồ 124-125).
IP hoạt động rất tốt trên các mặt bài cao, đặc biệt là quân Át và K. Những combo bài cơ thực
sự block được nhiều tổ hợp flush IP và dẫn đến giảm EV (Tables 142-145).
Diagram 128
Đối mặt với lần barrel thứ hai là khá xấu cho OOP. Tại thời điểm này, cả hai người chơi đã chia
range của họ nhiều lần. IP sẽ check back rất nhiều hand có độ bền trung bình và hiện đang bet với
range phân cực rất lớn. OOP lúc này sẽ bet hoặc raise nhiều ván hand mạnh, vì vậy range của họ
yếu so với range c-bet của IP ở turn, dẫn đến tỷ lệ fold OOP trung bình hơn 40% khi đối đầu với
c-bet ở turn. Hầu hết các ván bài mạnh sẽ được x / r ở turn, nhưng một số vẫn bị chơi chậm, để
phạm vi x / c của OOP được bảo vệ (Diagrams 128-129).
14
Theo một nghĩa nào đó, river là vòng dễ chơi nhất, nhưng hầu hết người chơi đều phải vật lộn với
nó. Trên thực tế, river thực sự là nơi dễ mắc sai lầm nhất và phần lớn tiền thắng hoặc thua. Vào
thời điểm chúng ta đến river, cái pot sẽ lớn hơn rất nhiều so với những con vòng trước đây. Pot
lớn hơn có nghĩa là bet lớn hơn (thường là all-in) và, với cược lớn hơn, sai lầm có thể rất tốn kém.
Tính toán cân bằng ở river và chiến lược khai thác trên một lần chạy nhất định từ range của người
chơi, SPR và các lý thuyết bet trong bất kỳ điểm quyết định nào là tương đối dễ dàng, đặc biệt là
với các bộ giải GTO hiện đại. Các phép tính về river thường mất vài giây. Điều khiến con river
trở nên thử thách là đây là vòng khó nhất để ước tính range xuất phát của người chơi.
Khi bắt đầu mỗi ván bài, tất cả người chơi có cùng range chính xác: 100% hoặc 169 ván bài chiến
lược duy nhất. Khi những người chơi thực hiện các hành động khác nhau, phạm vi trước khi thất
bại của họ trở nên hẹp hơn, do đó, phạm vi bắt đầu thất bại cũng không quá khó để ước tính. Trong
quá trình hành động sau, range hand bài trước của người chơi tương tác với bàn theo nhiều cách
khác nhau như là đồng chất hoặc kết nối, buộc chúng tôi phải theo dõi các combo bài cụ thể. Post-
flop phụ thuộc vào cách bàn cờ chạy ra ngoài và range bắt nguồn từ các hành động ở các vòng
trước đó. Tất cả những điều này làm cho việc xác định range chính xác của người chơi trở nên khó
khăn hơn đáng kể khi chúng ta nắm trong tay stack deep hơn. Ngoài ra, vì hầu hết các ván bài
May mắn thay, chúng tôi không phải ghi nhớ từng dòng hành động và range đi đến river. River có
một số đặc điểm độc đáo giúp đơn giản hóa các phép tính và làm cho các mô hình trừu tượng và
trò chơi đồ chơi trở nên đặc biệt hữu ích để thể hiện chính xác các kịch bản của nó.
◆ Trên river không còn nhiều quân bài nữa nên giá trị của ván bài được cố định. Không
có draw mua bán nào nữa, dẫn đến mỗi ván bài có 100% hoặc 0% equity so với ván
bài khác.
◆ Tỷ lệ hand vs range equity chỉ đơn giản là phần nhỏ trong range của đối thủ. Ví dụ:
nếu một ván bài có 50% equity so với range của đối thủ, điều đó có nghĩa là nó đi
trước 50% range của đối thủ và thua nửa còn lại.
◆ Có một thứ tự tuyến tính của các hand về sức mạnh mà không phụ thuộc vào lịch sử.
Điều này có nghĩa là thứ hạng của tất cả các trường hợp ở river có thể có từ mạnh nhất
đến yếu nhất là như nhau cho dù họ đến đó bằng cách nào.
◆ Không có vòng cá cược nào trong tương lai phải lo lắng. Bất kỳ call hoặc check IP nào
ngay lập tức kết thúc ván bài và nhận ra equity.
◆ Liệt kê tất cả các hand ở river trong cả hai range theo thứ tự sức mạnh giảm dần và chia
chúng theo người có chúng.
◆ Chỉ định trọng lượng.
◆ Xem xét blocker.
◆ Thiết lập sơ đồ tư duy.
Table 150 thể hiện tình huống bắt bluff so với Người chơi 1 có range phân cực (50% nut, 50%
air) và Người chơi 2 100% có những hand bắt bluff (tay 5) luôn thua những hand nut (tay 1) nhưng
Table 150: Thành phần Ranges (Phân cực vs Bài bắt bluff)
Tất nhiên, một giải pháp river thực sự sẽ bao gồm nhiều hand hơn, với trọng lượng khác nhau
và mối quan hệ block phức tạp hơn, nhưng về bản chất, tất cả những gì bạn cần để xác định đầy
đủ tình huống river là bảng range, mối quan hệ block và sơ đồ trò chơi với size pot, stack size và
cấu trúc bet. Trên thực tế, đây là cách tất cả các bộ giải GTO hoạt động. Họ có một danh sách tất
cả các con river có thể xảy ra và hand nào có các block trên mỗi con river. Các ván bài được liệt
kê theo thứ tự sức mạnh và range của người chơi cho người giải biết ai có ván bài nào và tần suất
họ có nó. Làm thế nào người chơi đến được tình huống river cụ thể không quan trọng. Miễn là
chúng đi đến cùng một cấu trúc tổng thể, cặp chiến lược GTO trong tình huống đó sẽ tương đương
nhau.
Ví dụ, tình huống bắt bluff (nut/air vs bluff-catcher) có thể được mô tả theo một cách khác với
các hand khác nhau. Tuy nhiên, miễn là một người chơi có một nửa range của họ là nut, và nửa
còn lại là air so với range của đối thủ và range của người chơi kia là 100% của những người bắt
bluff vô tội vạ, thì giải pháp GTO sẽ là chính xác.
Table 152 cũng thể hiện được nhiều trường hợp nut/air vs bắt bluff. Range của P2 (hands 4-7)
chỉ có thể chiến thắng hand 8-9 trong range của P1 và luôn luôn thua hands 2-3. Cấu trúc range
này và cấu trúc ở bảng Table 151 đều có chung một chiến lược GTO.
Kết quả này có tầm quan trọng sống còn. Nếu chúng ta nghĩ về một sơ đồ trò chơi, có hàng
nghìn hoặc có thể hàng chục nghìn lá river có thể hình thành, vì vậy chúng ta cần có khả năng
phân loại hoặc sắp xếp chúng thành các dạng kịch bản mà chúng ta có thể xác định và giải quyết.
Ví dụ: nếu bạn có thể nhận ra tình huống river là người phân cực và người bắt bluff vô tội vạ,
bạn sẽ biết rằng chiến lược GTO dành cho người chơi phân cực là luôn dốc toàn lực với các hand
nut của họ và Alpha % trong số lần bluff của họ, và người chơi bắt bluff phải call bằng 1-Alpha
trong range của họ. Không thực sự quan trọng nếu nut là fullhouse, sảnh, thùng hoặc bất kỳ sự kết
hợp nào của những hand đó. Điều quan trọng duy nhất sẽ là thành phần range tổng thể trong đó
range của một người chơi là 50% nut và 50% air và range của người chơi khác bao gồm 100%
người bắt bluff.
Stack: Người chơi có 500 chip, nhưng chúng ta sẽ phân tích với những độ deep khác nhau của
stack để hiểu được ảnh hưởng của SPR trên các chiến thuật cân bằng. Heads-up Pot: Sẽ có 2
người đối đầu nhau ở trong hand, P1 và P2.
Cấu trúc bet: Cả 2 người chơi đều được phép bet , x/r, call, all-in và fold.
Sức mạnh hand bài: Điều này được thể hiện ở Table 153.
Cuộc thảo luận này sẽ xoay quanh hai nhóm chính của các mô hình:
◆ Phân cực không có range chồng chéo giữa các người chơi.
◆ Mô hình tuyến tính trong đó cả hai người chơi có thể có bất kỳ loại giá trị hand nào.
Kích thước stack không ảnh hưởng đến chiến lược chung. Trong thiết lập này, EV của người
chơi phân cực tăng lên theo kích thước bet, và do đó, chiến lược cân bằng của họ là luôn sử dụng
all-in với các hand nut (KK-QQ) và bluff các hand air (77-66) với tần số Alpha. Vị trí cũng không
quan trọng. P2 sẽ không bao giờ bet, và chiến lược của họ call 1-Alpha của tất cả các hand bài (JJ-
88) (Table 154).
Trong tình huống trong Bảng 155, P2 có 0% equity trong pot. Ở trạng thái cân bằng, P2 không bao
giờ nên đặt thêm tiền để cược và không bao call một lệnh bet ở bất kỳ size nào. P2 không bao giờ
nên bet vì P1 sẽ không bao giờ fold lại (P1 biết range của P2 được giới hạn ở 99).
Ở trạng thái cân bằng, vị trí không quan trọng trong thiết lập này, nhưng P1 có tùy chọn để khai
thác luôn đặt cược khi IP check hoặc đặt cược khi OOP, tùy thuộc vào những gì P1 cho rằng sẽ
khiến P2 bỏ thêm tiền vào pot.