Professional Documents
Culture Documents
Tiểu luận triết học về phật giáo
Tiểu luận triết học về phật giáo
Tiểu luận triết học về phật giáo
Tiểu luận
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI DÂN VIỆT NAM
Để chấn chỉnh giáo lý, giáo luật, tổ chức từ thế kỷ V-VIII TCN, Đạo Phật đã triệu tập 3
cuộc đại hội ở nước Magađa. Nửa sau thế kỷ VIII TCN Đạo Phật truyền sang Xrilanca
rồi đến Mianma, Thái Lan, Indonexia… Đầu thế kỷ I SCN, đạo Phật triệu tập đại hội lần
thứ 4 ở nước Cus an thông qua giáo lý của đạo Phật cải cách gọi là Đại thừa (giáo lý của
đạo Phật cũ gọi là Tiểu thừa). Đại thừa được ví như cỗ xe lớn, con đường cứu vớt rộng,
cứu vớt toàn bộ chúng sanh. Tiểu thừa được ví như cỗ xe nhỏ, con đường cứu vớt hẹp,
cứu vớt cho chính mình. Phái tiểu thừa cho rằng chỉ có một Phật duy nhất là Phât Thích
Ca, và chỉ có Phật Thích Ca mới cứu độ được chúng sanh, chỉ có những người xuất gia đi
tu mới được Phật Thích Ca cứu với đưa đến Niết bàn (là cảnh giới yên tĩnh gắn liền với
giác ngộ sáng suốt, không có phiền não khổ đau). Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích Ca
là phật cao nhất, ngoài ra còn có các Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc, Phật Đại
Dược Sư… Không chỉ có những người tu hành mà cả những người trần tục quy y Phật
giáo cũng đều có thể được cứu vớt đưa đến Niết Bàn, nghĩa là có thể thành Phật
Kinh điển của Phật giáo gồm có khoảng 5000 quyển chia thành Tam tạng (Tạng Kinh,
Tạng Luật, Tạng Luận).
Tạng Kinh ghi lại những lời giảng của Phật Thích ca, giúp chúng sanh loại trừ phiền
não để đạt đến niết bàn.
Tạng Luật ghi lại những giới luật mà giáo đoàn Phật giáo đề ra đòi hỏi các đệ tử phải
tuân theo để cho thân-tâm thanh tịnh.
Tạng Luận ghi lại những lời luận bàn của các bâc cao tang nhằm làm sáng rõ ý nghĩa
của những lời kinh, giúp người đời phân biệt được phải-trái, chính-tà.
Sang đại hội lần thứ 4, các nhà sư được khuyến khích ra nước ngoài truyền đạo, từ Ấn
Độ, Phật giáo Đại thừa lan truyền vào các nước Trung Á và Đông Á như Tây Tạng,
Trung Hoa, Mông Cổ, Nhật Bản, và cả Bắc Việt Nam. Trong khi đó Phật giáo Tiểu thừa
vẩn tồn tại phổ biến ở các nước Đông Nam Á như Xrilanca, Mianma, Thái Lan, Lào,
Campuchia, Nam Việt Nam…
Ngày nay, sự chia rẽ của Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đã được thống nhất và khắc
phục. Tư tưởng Triết học của Phật giáo phát triển mạnh mẽ, từ vấn đề nhân sinh sang
những vấn đền bản thể, từ những vấn đề của đời sống hiện thực sang những vấn đề siêu
hình phức tạp.
Các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không đứng yên mà luôn luôn chuyển động,
biến đổi, gọi là vô thường. Vạn vật biến đổi theo chu trình: sinh-trụ-dị-diệt.
Phật giáo cho rằng không phải sự vật hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, chết đi
mới gọi là chết mà trong sự sống có sự chết, chết không phải là hết mà là điều
kiện để sinh thành cái mới.
Sự biến đổi cũa vạn vật trong vũ trụ bị chi phối bởi quy luật nhân duyên. Trong
đó nhân là cái mầm tạo thành quả, duyên là điều kiện, là phương tiện. Tức là
sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều do nhân duyên mà thành, nhân duyê n mà
hợp thì sự vật sinh, nhân duyên tan thì sự vật diệt, tùy theo sự kết hợp của nhân
duyên mà tạo thành các sự vật khác nhau. Sự vật hiên tượng không phải do một
nhân duyên mà có thể do nhiều nhân duyên khác nhau tạo thành. Nhân duyên
cũng không phải tự nhiên mà có mà nó do nhân duyên có trước tạo thành. Hệ
thống nhân duyên là vô tận gọi là trùng trùng duyên khởi => Vạn vật trong vũ
trụ có mối quan hệ mật thiết, nương nhờ, tác động và chi phối lẫn nhau => đây
là một quan điểm triết học duy vật rất tiến bộ, đứng trên quan điểm của chủ
nghĩa duy vật, vô thần và xuất hiện tư tưởng biện chứng sơ khai.
Quan điểm về không gian và thời gian: không gian và thời gian là vô tận, Phật
giáo cho rằng thế giới vô cùng vô tận, nhiều như cá sông Hằng, nhưng vẫn đưa
ra khái niệm để đo lường cụ thể.
Về không gian: đưa ra khái niệm Tam thiên bao gồm: Đại thiên, Trung
thiên, Tiểu thiên. Mỗi Tiểu thiên thế giới có hàng chục ngàn thế giới khác
nhau.
Về thời gian: đưa ra khái niệm Tam kiếp bao gồm Đại kiếp, Trung kiếp,
Tiểu kiếp. Mỗi Tiểu kiếp có hàng chục triệu năm.
Cái chết:
Chết chưa phải là hết gọi là chấp đoạn mà sao khi chết thì linh hồn bất tử tiếp
tục đầu thai vào kiếp khác gọi là chấp thường.
Phật giáo giải thích con người sau khi chết bằng 2 thuyết: Nghiệp báo và Luân
hồi.
Trong quá trình con người tồn tại thì do ngũ uẩn (sinh lý và tâm lý) tạo thành,
con người có những hoạt động thiện và ác, từ đó tạo ra nghiệp và theo luật
nhân quả những việc thiện ác đó tạo nên động lực, nguyên nhân tạo ra sự kết
hợp của ngũ uẩn tiếp theo tức là tạo ra con người mới. Cứ như vậy, con người
vào vòng luân hồi sinh tử không dứt từ kiếp này sang kiếp khác.
Quan điểm về cái khổ và sự giải thoát:
Mục đích cuối cùng xuyên suốt của tư tưởng Phật giáo là sự giải thoát chúng
sinh thoát khỏi vòng luân hồi. Muốn giải thoát, Phật giáo đã đưa ra thuyết Tứ
diệu đế, tức 4 chân lý vĩ đại bao gồm: Khổ đế, Nhân đế (Tập đế), Diệt đế, Đại
đế.
Khổ đế: là chân lý nói về sự khổ của người đời. Phật giáo khái quát
trong thuyết Bát khổ: Sinh lý: sinh, lão, bệnh, tử ; sở cầu bất đắc khổ (điều
con người muốn mà không đạt được), ái biệt ly khổ (xa lìa người mình
thương yêu là khổ), oán tang hội khổ (sống với người mình không thích là
khổ), ngũ thụ uẩn khổ (khổ vì sự hội tụ của ngũ uẩn).
Thuyết Bát khổ của nhà Phật cho ta thấy dường như cuộc đời con người
ngoài cái khổ ra không còn cái gì khác. Đời là bể khổ, dù ở đâu làm gì cũng
phải khổ, nước mắt chúng sinh chứa đầy bể khổ.
Nhân đế: là chân lý nói về nguyên nhân tạo ra sự khổ. Nguyên nhân sâu
sa tạo ra sự khổ là do thập nhị nhân duyên, tức 12 nhân duyên tạo ra chu
trình khép kín của mỗi con người: vô minh, hành, thức, danh-sắc, lục nhập,
xuất, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão-tử.
Trong đó vô minh là căn nguyên, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Vô
minh nghĩa là mê hoặc, tối tăm, nhầm lẫn, ngu dốt, đần độn…là trạng thái trí
tuệ không đúng, vi thế sinh ra “vọng tâm chấp ngã” cho rằng cái ta trường
tồn trên hết và vĩnh viễn, từ đó sinh ra vị kỷ, tham lam, dục vọng và có
những hoạt động tương ứng, những hoạt động tương ứng đó đã tạo ra nghiệp
(Tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp). Do đã tạo ra nghiệp, đặc
biệt là nghiệp ác mà con người phải chịu đau khổ, không dứt ra khỏi vòng
luân hồi sinh tử được.
Diệt đế: là chân lý nói về khả năng có thể tiêu diệt được sự khổ nơi
cuộc sống chúng sinh để đạt đến Niết bàn (Nivana).
Niết bàn: Nghĩa rộng là trạng thái tâm hồn đã đoạn trừ được các rang buộc
của trần thế, những đau khổ phiền não do vô minh, do tham dục gây ra;
Nghĩa hẹp: là tâm hồn hoàn toàn được giải thoát.
Niết bàn sẽ giải phóng cho tinh thần.
Niết bàn bao gồm hai bộ phận: hữu dư niết bàn và vô dư niết bàn. Hữu dư
niết bàn: là hình thức chỉ đạt được trong lúc con người đang mang thân ngũ
uẩn, niết bàn ngay ở trong tâm của mình. Vô dư niết bàn: là hình thức chỉ
đạt được sau khi lìa bỏ thân xác, niết bàn ở một thế giới vô tư mà ở đó ngự
trị đức Phật, Chúa, Các Mác…
Đạo đế:
Là chân lý nói về con đường tu tập phải theo.Phật giáo chủ trương lấy trí tuệ
để diệt trừ vô minh phá vòng luân hồi, lại vừa chủ trương lấy tu tập chuyên
nghiệp để đạt đến sự giải thoát.
Phép tu tập: bao gồm 6 con đường:
Tứ niệm xứ: 4 nơi cần hướng sự suy nghĩ vào: thân, tâm, thụ, pháp.
Tứ chính cần: 4 điều siêng năng chân chính trong tu tập để bỏ ác làm
điều thiện.
Tứ thần túc: 4 nơi nương tựa để định tâm (thiền, niệm, tinh tiến, tuệ).
Ngũ căn, ngũ lực.
Bát chính đạo và tam học.
Trong những con đường tu tập thì bát chính đạo là quan trọn nhất, bao gồm:
1. Chính ngữ: giữ cho lời nói thanh tịnh, thẳng thắn, không nói hai lời,
đơm đặt, giả dối.
2. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính để tam nghiệp (tâm,
khẩu, ý) được trong sạch.
3. Chính nghiệp: hành động phải chân chính, có lợi cho nhân sinh.
4. Chính tinh tiến: tiến tới trong con đường tu hành.
5. Chính niệm: luôn suy nghĩ về chính pháp, gạt bỏ những suy nghĩ sai
lệch, hoạt động bất chính.
6. Chính định: giữ cho thâm tâm vẳng lặng không vọng đông để trí tuệ
bừng sáng.
7. Chính tri kiến: quan niệm chân chính về đạo, nhất là Tứ Diệu Đế.
Các tư tưởng của Thập bát chính đạo tạo thành tam học:
1, 2, 3 gói thành tư tưởng về giới: ngũ giới, thập giới. là những điều răn
cấm quy định giùp người tu hành không phạm phải những điều do tam nghiệp
gây ra.
4 ,5, 6 hợp thành tư tưởng về định, giúp người tu hành không tán đoạn thân
tâm, nhờ đó loại trừ được những ý nghĩ xấu.
7, 8 hợp thành tuệ: sự bừng sáng của tư duy.
Trong tư tưởng của tam học thì giới là quan trọng nhất. Có thực hiện giới thì
mới thực hiện định, từ đó tâm mới sáng để diệt trừ vô minh.
Quan điểm của Phật đã tạo ra quan điểm nhân văn và khát vọng giải phóng cho
con người ở chỗ hướng con người đến sự giải thoát, và sự giải thoát này không
phải dành riêng cho giới nào, mà dành cho tất cả mọi người.
Tuy nhiên quan điểm của tư tưởng Phật giáo và quan điểm của Các Mác, đó là:
Hồi giáo, Phật giáo, Kitô giáo đều hướng đến giải thoát cho con người.
Nhưng lý thuyết của những Đạo này không gắn vớit thực tiễn. Còn những quan
niệm của Các Mác lại gắn liền tới thực tiễn.
Con đường của Phật giáo vẫn theo phương pháp duy tâm, không khoa
học; Mác quan niệm giải phóng là con đường (vừa có cả nhận thức, lý luận mà
còn có cả đấu tranh cách mạng).
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH
THẦN CON NGƯỜI VIỆT NAM
2.1 Sự du nhập và quá trình phát triển của Phật giáo vào Việt Nam
Theo chân các nhà buôn, nhà truyền giáo Ấn Độ, Phật giáo vào nước ta vào khoảng thế
kỷ thứ I và thứ II sau công nguyên. Sau đó, nối gót người Ấn Độ các nhà Phật giáo Bắc
tông vào. Rồi những người tìm đường sang Trung Quốc, Ấn Độ học Phật trở về cũng tiếp
tục truyền bá Phật giáo. Bằng những con đường khác nhau đó, Phật giáo, một tôn giáo
chung của nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á lúc bấy giờ cũng tìm được chỗ đứng ở
Việt Nam.
Nhưng Phật giáo có nguồn gốc ở xã hội Ấn Độ cổ đại vốn mang trong mình những đặc
điểm của tư tưởng và tôn giáo, của con người và xã hội của quá khứ và hiên tại Ấn Độ
lúc bấy giờ. Có những điều không phù hợp với con người và xã hội Việt Nam đương
thời. Vì vậy để phát triển được ở Việt Nam, Phật giáo phải trải qua một quá trình thích
nghi:
Giai đoạn đầu của thời kỳ truyền bá Phật giáo vấp phải sự phản ứng của các tín
ngưỡng cổ truyền của người Việt Nam, của tục thờ phụng tổ tiên, của lệ cúng bái thổ
công và các thói quen thờ cúng .. . Người Việt Nam mang các tín ngưỡng trên không
khỏi ngỡ ngàng trước Phật giáo. Họ đã xa lánh, thậm trí chê bai, đả kích.
Thời kỳ sau của sự truyền bá, lúc Phật giáo đã làm quen với dân tộc nó vẫn còn liên
tục bị sự mổ xẻ của một số người. Người ta đã đặt nó trên bình diện chính trị - xã hội
để khảo nghiệm và thấy rằng ở Phật giáo có những điều không thích hợp. Do đó,
nhiều người Việt Nam trong những thời kỳ khác nhau đã phê phán, kỳ thị Phật giáo
như : Đàm Mĩ Mông (thế kỷ XII); Lê Quát, Trương Hán Siêu (thế kỷ XIV); Bùi Huy
Bích, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ XVIII); Phạm Quý Thích (thế kỷ XIX)... đều xem
Phật giáo là điều có hại cho xã hội.
Nhưng ở một phía khác, trên phương diện tín ngưỡng, người Việt Nam xưa lại tìm đến
Phật giáo. Dần dần, họ đi đến tôn sùng và đề cao nó. Các vua Lý, vua Trần từ các thế kỷ
XI đến XIV đều đề cao Phật giáo. Thời Lê, thời Nguyễn tuy tôn sùng Nho, nhưng vẫn để
cho Phật giáo lưu hành. Lê Sát, Lê Ngân là những đại thần thời Lê sở và những hoàng
thân, quốc thích thời Nguyễn trong nhà đều có chùa thờ Phật. Thậm chí Trương Hán Siêu
trước chống Phật giáo sau lại theo Phật giáo. Còn quần chúng nhân dân thì lẳng lặng đi
theo Phật giáo.
Hai khuynh hướng phủ nhận và thừa nhận trên đã đan xen nhau, kế tiếp nhau trong lịch
sử. Nhưng khuynh hướng thừa nhận mạnh hơn khuynh hướng phủ nhận và là khuynh
hướng chung của lịch sử, làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo và là một hiện tượng
triết học lâu dài của dân tộc.
Trở thành một hiện tượng đó, rõ ràng không phải là sự áp đặt, cũng không phải là sự lầm
lỡ nhất thời, mà như là một sự tất yếu, một hiện tượng có tính quy luật, không thể khác
trong hoàn cảnh lúc bấy giờ.
Tính tất yếu trên ít nhiều đã có người đề cập. Một số người có kiến thức lịch sử lại có
quan điểm hiện thực chủ nghĩa, không thể không công khai thừa nhận sự tồn tại hiển
nhiên của Phật giáo. Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích thế kỷ XVIII đều thừa
nhận một số yếu tố của Phật giáo. Thậm chí Lê Quý Đôn còn cho rằng chê bai tiên Phật
là thái độ "hẹp hòi".
Đạo Phật là tôn giáo thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý Trần được coi như một quốcgiáo.
Thời Lý Trần có rất nhiều nhà sư nổi tiếng trong cả nước, có uy tín và địa vị chính trị xã
hội. Có thể kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Thông, Minh Không, GiácHải,
Pháp Loa, Huyền Quang.
Nhà nước Lý ,Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan dung, hoà hợp tôn
giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa Phật Giáo và Nho giáo, giữa
giáo lý và thực tiễn đời sống. Đạo Phật thời Lý Trần đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị
của nhà nước, là đối trọng tư tưởng của Nho giáo. Như vậy, rõ ràng rằng, Phật giáo đã
đào tạo ra một tầng lớp trí thức mang tư tưởng yêu nước, ủng hộ cho nền độc lập của dân
tộc và ủ n g hộ ch o n hà nước p h ong kiến . Tro n g kh i đ ó , cù n g với s ự du n h ập của
ch ữ Há n , Nh o giáo đã đào tạo ra một tầng lớp trí thức để làm quan cho chính quyền đô
hộ.
Ngày nay các nhà sư giữ chức vụ cao trong giáo hội cũng tham gia vào hoạt động chính
trị càng cho thấy sự ảnh hưởng rõ nét của Phật giáo đến các hoạt động chính trị xã hội.
Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng người Việt Nam, khuyên răng con người
tránh xa cái ác để có được cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
niệm ‘vô thường’, ‘vô ngã’ Cho thấy Phật giáo nhìn sự vật trong sự vận động biến đổi
lien tục không có gì là trụ lại mãi, không có ai là tồn tại mãi. Tuy nhận thức đó chỉ nhìn
thấy cáibiến đổi mà không nhìn thấy cái ổn định tương đối.
Phật giáo đề cập đến mối nhân duyên đến mối quan hệ nhân quả, đến việc xét sự vật p hải
t ừ kế t q u ả t ìm ra n g u y ên n h ân v à xem kết q u ả n ày là n g u y ên n h ân kết q u ả
kh ác v à cả t ro n g mố i q u an h ệ kh ác.
2.6.1 Ca dao
Ca dao, dân ca là những tác phẩm truyền miệng thể hiện suy nghĩ và cuộc sống của người
dân. Ca dao đi vào lòng mỗi người qua câu hát ru, qua những câu hò hay hát đối. Có thể
nhận thấy Phật giáo gắn liền với con người nước Nam.
Con người Việt Nam xưa tới nay coi chữ Hiếu làm đầu, đây cũng chính là ảnh hưởng tốt
mà tư tưởng Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam mang lại:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Hay:
Vô chùa thấy Phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành
Sự ảnh hưởng của thuyết nhân quả trong sách Phật cũng gắn liền với ca dao dân ca Việt
Nam:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳn gặp để dành k iếp sau
Hay
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con
Qua những lời ca dao cũa Việt Nam về hình ảnh ngôi chùa, về quan niệm chữ Hiếu hay
về quy luật nhân quả, có thể nhận thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo đã ăn sâu vào đời
sống của dân tộc Việt Nam.
Nhiều gia đình còn có thói quen ăn chay vào rằm và mùng 1 hay ăn chay nguyên
tháng. Điều này xuất phát từ quan niệm coi mọi sinh vật đều có linh hồn của nhà
Phật. Cứ đến ngày cuối tháng hay rằm, các quán ăn chay rất đông người, thời đại
ngày càng phát triển, tục ăn chay phát triển lên một tầm mới, các nhà hàng chay sang
trọng xuất hiện và trở thành địa điểm quen thuộc của nhiều gia đình vào các ngày
rằm. Qua đó có thể thấy Phật giáo đã ngày một đi sâu vào cuộc sống của người dân
Việt Nam.
Ngoài ra vào ngày rằm mùng 1, người Việt đi chùa phóng sanh và bố thí cho người
ngèo. Quan niệm đó trong xã hội hiện đại đã được thay bằng những tấm lòng hảo
tâm giúp người khổ, những người có cuộc sống khó khan hay giúp đỡ đồng bào bão
lụt. Đây chính là ảnh hưởng từ quan niệm sống có tâm có đức của nhà Phật.
Ngoài ra, các tập tục khác của người Việt cũng ảnh hưởng từ Phật giáo như tục đốt
vàng mã, người dân quan niệm cuộc sống con người trải từ kiếp sống này qua kiếp
khác nên đốt vàng mã cho người cõi âm chính là giao lưu giữa hai thế giới. Tục cúng
sao hạn, cứ đầu mỗi năm mới, người dân lên chùa nhờ các tăng sư cúng sao giải hạn.
Các tập tục trên khi vào Việt Nam có những điều tốt như ăn chay, thờ Phật, đóng góp
hảo tâm,… nó gíup tinh thần tĩnh lặng, đề cao tinh thần hướng thiện, giúp đõ mọi
người. Tuy nhiên cũng có nhửng tục lệ khi vào nước ta đã bị bọn xấu làm biến tướng
như bói toán, xin xăm, giải hạn cúng sao. Từ đó nhận thấy, người dân cần phải sáng
suốt tiếp thu những tục lệ tốt và bài trừ những biến tướng thì Phật giáo mới luôn là
chổ đứng tinh thần cho người dân Việt Nam.
2.7 Ảnh hưởng của Phật giáo đến các loại hình nghệ thuật
2.7.1 Kiến trúc
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã đem theo các kiểu kiến trúc chùa tháp, lầu chuông gác
trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời
gian, kết hợp với lối tu duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra mô hình kiến trúc riêng
cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt nam thường được xây dựng với lối kiến trúc
đặc biệt, mái chùa bao giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có
cảnh trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng.
Theo mô hình kiến trúc theo kiểu chữ "công" : bái đường và điện Phật được nối nhau
bằng nhà thiên hương; kiêu chữ "Đinh" : trước; kiểu chữ "Tam" : có ba nếp nhà song
song với nhau, hay kiểu "Nội công ngoại Quốc" : phía trước là tiền đường và điện Phật,
sau là mảnh sân hình vuông trồng cây cảnh, đặt hòn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai
bên là nhà Đông và nhà Tây.
Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh cho nước Việt,
nhiều ngôi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa
Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam
có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng...
Ngày nay có dịp tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều cốt
tượng, phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một niềm tự hào của
nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có
mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt
nghìn tay, 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà Tây), Bộ tượng Thập Bát La
Hán chùa Phước Lâm (Hội An), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết
Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng là hiện vật
Bảo tàng lịch sử TPHCM... là những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo của Việt
Nam còn có những công trình điêu khắc quy mô và mang tính lịch sử như tượng "Phật
Nhập Niết Bàn" dài 49m ở núi Tà Cú, Phan Thiết được kiến tạo năm 1962, tượng Đức
Phật Thích Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu.
Góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Dạy bảo, khuyên răng
con người hướng đến điều thiện, từ bỏ gian tà, góp phần làm trong sạch xã hội, mang tình
người đến với nhau. Đây là giá trị nhân văn rất sâu sắc của Phật giáo. Tinh thần hiếu đạo,
sự tương thân tương trợ, lá lành đùm lá rách… được đề cao trong xã hội. Nhất là trong
thời đại ngày nay, khi mà các giá trị đạo đức ngày càng mai một thì những tư tưởng của
Phật giáo càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Phật giáo chú trọng cá nhân con người mà chưa đế cập đến xã hội con người, chưa nhìn
thấy sự đối kháng trong giai cấp và không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Phật giáo chưa nhìn thấy được sự cần thiết phải thực hiện chống áp bức, quan niệm từ bi
trong một khía cạnh nào đó ngăn cản, làm bất lợi cho sự đấu tranh giải phóng giai cấp.
Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sư bước sang lĩnh vực chính
trị - xã hội, họ phải sử dụng các tư tưởng của nhà Nho hay Lão - trang. Nhà sư Viên
Thông cho rằng: "Lòng dân là gốc trị loạn", trong đó "lòng dân" là khái niệm và tư
trưởng của nhà nho; hoặc nhà sư Đỗ Pháp Thuận nói: "Vô vi cư diện các, xứ xứ tức đao
binh" (nếu đường lối vô vi ngự trị trong triều đình, thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó
" vô vi" là khái niệm của Lão - Trang, mặc dù khái niệm đó đã được giải thích theo quan
niệm nhà Phật.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đối với phương pháp tư duy của người Việt Nam là quan
điểm duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào hiện thực, mà
hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong được phù hộ, độ trì. Và một khi tư
duy như vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và vô tình đã là chậm
tiến độ phát triển của con người.
Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải để cải tạo điều kiện sống mà chỉ để cố
san bằng xã hội bằng đạo đức, bác ái, nhẫn nhục…Coi nhu cầu thể xác là trần tục, kém
đạo đức, điều này đã không còn phù hợp trong một xã hội phát triển như ngày nay khi
yếu tố con người được đề cao hàng đầu, cả mặt thể xác lẫn tinh thần. Tư tưởng này đã
làm cho Phật giáo xa rời thế hệ trẻ.
Các phật tử hiện nay hầu hết là những người không có đủ tri thức về Phật giáo nên khó có
thể truyền bá một cách tự giác, tích cực. Các cao tăng chưa chú trọng nhiều đến việc xây
dựng hoàn thiện nhân cách con người, các buổi giảng kinh, truyền đạo chưa khai thác
theo hướng truyền bá tinh tính của Phật giáo mà phần nhiều theo thị hiếu, đó là: cầu an,
cầu siêu, cầu lộc…Người dân lên chùa với những mục đích, mong muốn cá nhân chứ
không phải để lĩnh hội tinh hoa phật pháp.
Vì vậy, vấn đề hiện giờ là phải xác định rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo đến hệ tư tưởng
của người Việt Nam như thế nào để từ đó có chính sách phát triển phù hợp long dân, thúc
đẩy xã hội phát triển, tiến bộ.