Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM

KHOA CƠ KHÍ ĐỘNG LỰC


------oOo-----

TIỂU LUẬN
Đề tài: Laser lighting system on cars

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Đỗ Văn Dũng

Sinh viên thực hiện:


1. Thái Khắc Sơn – 20145598
2. Phạm Cao Sang – 20145596

Mã lớp học: AEES330233_22_1_09CLC 

TPHCM, Tháng 11, năm 2022


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………
……………………………………

Điểm:……………

KÝ TÊN
MỤC LỤC
Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ LASER
Chương 2: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGUỒN SÁNG
Chương 3: PHÂN LOẠI
Chương 4: CẤU TẠO VÀ NGUYÊN LÝ HOẠT ĐỘNG ĐÈN LASER
4.1. Cấu tạo
4.2. Nguyên lý hoạt động

Chương 5: Ưu điểm và nhược điểm

5.1. Ưu điểm

5.2. Nhược điểm

Chương 6: KẾT LUẬN


Chương 1: GIỚI THIỆU VỀ LASER

Laser là chữ viết tắt của cụm từ “Light Amplification by Stimulated


Emission of Radiation” nghĩa là sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ kích hoạt.
Có thể hiểu đơn giản nguồn ánh sáng được tạo ra trong trường hợp này dựa vào
sự khuếch đại ánh sáng bằng bức xạ phát ra.

Laser là loại ánh sáng đặc biệt nên được ứng dụng phổ biến trong nhiều lĩnh
vực. Đèn laser là thiết bị hiện nay được nhiều người biết đến với sử dụng.
Chẳng hạn với Bi laser của ô tô được tạo nên từ 1 model nhỏ ở mỗi bên. Phía
trong là diot laser sẽ phát chùm tia sáng đơn sắc xanh. Cấu tạo đèn có 3 phần
chính.
Chương 2: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGUỒN SÁNG

 Lửa: Tặng vật của Prometheus


Nguồn sáng nhân tạo đầu tiên là lửa. Theo Thần thoại Hy Lạp, thần
Prometheus đã ban tặng lửa cho loài người. Lửa phục vụ con người như là một
nguồn sáng cố định, trong khi những bó đuốc thì trở thành một dạng “lửa cầm
tay” có thể di chuyển được.
Thiết kế của lửa đã được thay đổi theo thời gian: từ búi lửa đơn giản được
rút ra từ đống lửa cho tới chiếc que được quấn giẻ và ngâm trong dầu mỏ, mỡ
hoặc dầu ăn. Đuốc là một phát minh rất cổ xưa và người ta cho rằng nó đã tồn
tại được khoảng một triệu năm. Ngày nay đuốc vẫn còn được sử dụng dù không
quá phổ biến.

Hậu duệ rất xa xăm của các bó đuốc ngày nay sử dụng khí đốt để châm
ngọn lửa Olympic, còn pháo sáng thì được quân đội, thợ săn và du khách sử
dụng để nghi trang hay báo hiệu vào ban đêm.
Ngoài đuốc trong thời kỳ đồ đá, nhân loại cũng đã phát minh ra đèn dầu -
một chiếc bình chứa đầy mỡ hoặc dầu ăn, với một cái bấc được ngâm trong đó
(bằng gai hoặc vải), lửa sẽ được thắp sáng tại đầu ngọn bấc đó.
Ở thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên đã xuất hiện những ngọn nến
đầu tiên - những thanh mỡ động vật dạng rắn được chảy tan dần với cái bấc bên
trong khi đốt. Vào thời trung cổ, dầu cá voi và sáp ong được sử dụng làm
nguyên liệu cho nến, còn ở thời hiện tại thì chúng ta sử dụng parafin
cho việc này.

Đuốc, nến và đèn dầu cho ra ánh sáng rất yếu. Quang phổ của lửa ở
không gian mở rất khác so với quang phổ Mặt Trời mà thiên nhiên đã “rèn
giũa” mắt người. Phần lớn bức xạ rơi vào dải nhiệt (hồng ngoại). Ánh sáng nhìn
thấy được bức xạ ra chủ yếu nhờ các phần tử carbon được đốt nóng bởi ngọn
lửa ở nhiệt độ cao.
Phổ của lửa trong dải nhìn thấy được chỉ chiếm một phần dải màu vàng và
màu đỏ. Làm việc trong ánh sáng như vậy gần như là không thể và nhiều công
xưởng thời trung cổ đã cấm làm những công việc cần tầm nhìn vào ban đêm
dưới ánh sáng nhân tạo, bởi vì chất lượng sản phẩm sẽ bị giảm đi rất nhiều.
 Đèn khí đốt thắp sáng phố phường
Vào thế kỷ 19, chiếu sáng bằng khí đốt đã được sử dụng rộng rãi. Năm 1807,
những chiếc đèn đường bằng khí đốt đầu tiên đã được thắp sáng ở Pall Mall,
một trong những con phố trung tâm tại London. Đến năm 1823, hơn 340 km
tổng chiều dài phố phường London đã được chiếu sáng bằng 40.000 đèn khí
đốt.
Chúng được thắp sáng thủ công mỗi đêm bởi những người thợ chuyên biệt
cho công việc này, họ được gọi là những người thợ đốt đèn. Nghề nghiệp này
từng phải được tuyển lựa rất khắt khe và ở một số nước nó là công việc rất vinh
dự.
Tuy nhiên, chiếu sáng bằng khí đốt không được hiệu quả lắm. Vấn đề
nằm ở chỗ, nếu ngọn lửa đốt ít oxy thì cho ra ánh sáng rực rỡ nhưng lại rất
nhiều khói, còn ngọn lửa không khói (khi dư oxy) thì thực tế lại không nhìn rõ
được.
Vào năm 1885, Wellsbach (Freiherr von Welsbach) đã đề xuất sử dụng lưới
đốt - là chiếc túi bằng vải được tẩm dung dịch các chất vô cơ (nhiều loại muối
khác nhau). Khi bị đốt, túi vải sẽ cháy và “bộ khung” mỏng còn lại sẽ phát sáng
rực rỡ. Đến cuối thế kỷ 19, đèn dầu lửa đã xuất hiện mà ngày nay chúng ta vẫn
có thể còn thấy. Phần lớn chúng được trang bị lưới đốt mà bây giờ được tạo nên
từ kim loại hoặc amiăng.
 Những bước đi đầu tiên của đèn điện
Nguồn phát sáng bằng điện đầu tiên thật kỳ cục lại là đèn chiếu sáng bằng
pin. Thật ra, ánh sáng được phát xạ ra chưa phải là bóng đèn sợi đốt, mà bởi
vầng hồ quang điện giữa các điện cực carbon, còn pin thì chiếm diện tích cỡ
chiếc bàn làm việc.
Năm 1809, Humphry Davy đã trình diễn ánh sáng hồ quang hình cung tại
Viện Khoa học Hoàng gia ở London. Thời điểm đó còn chưa có máy phát điện
(Faraday phát minh ra hiện tượng cảm ứng điện vào năm 1832) và pin là nguồn
năng lượng điện duy nhất.
Năm 1878, Pavel Yablochkov đã cải tiến thiết kế bằng cách đặt các điện
cực theo chiều dọc và chia tách chúng bằng một lớp cách điện. Thiết kế này có
tên gọi là “nến Yablochkov” và nhanh chóng được sử dụng trên toàn thế giới.
Nhà hát opera Paris từng được chiếu sáng nhờ những “ngọn nến” đó.
Hồ quang điện cho ra phổ ánh sáng khá cân bằng và thậm chí là sáng chói,
nên người ta sớm ưa chuộng và sử dụng nó rất rộng rãi. Cho tới năm 1884, các
thành phố lớn của Mỹ đã được chiếu sáng bởi hơn 90.000 bóng đèn hồ quang.
 Dây tóc bóng đèn
Hầu hết mọi người đều gán việc phát minh ra đèn sợi đốt với tên tuổi của
Edison. Tuy nhiên, bất chấp mọi công trạng lớn lao trong lĩnh vực này, ông
không phải là người phát minh ra đèn điện.
Chiếc đèn sợi đốt đầu tiên giống như món đồ trang sức hoặc tác phẩm nghệ
thuật, cả về độ phức tạp sản xuất và giá thành. Rất lâu trước Edison, vào năm
1820, Warren De la Rue đã đặt sợi dây bạch kim vào chiếc bình thủy
tinh được hút hết không khí và truyền dòng điện qua nó. Thành công đấy,
nhưng đó đúng là chiếc đèn... bạch kim. Nó đắt đến nỗi việc sử dụng rộng rãi là
không thể.
Nhiều nhà sáng chế đã thử nghiệm với các loại vật liệu khác. Năm 1879,
một cách độc lập với nhau, Joseph Sven và Thomas Edison đã cùng phát triển
loại đèn sợi đốt bằng sợi carbon. Với phát minh của mình, Edison đã tổ chức
buổi trình diễn cực lớn: vào đêm trước năm mới 1880, ông đã sử dụng 100
chiếc đèn của mình để chiếu sáng đường phố, phòng thí nghiệm cá nhân và nhà
ga thị trấn Menlo Park.
Các toa xe lửa chật cứng người muốn tới để nhìn thấy điều kỳ diệu này,
tuyến đường sắt Pennsylvania thậm chí phải tăng thêm nhiều chuyến tàu tới
New Jersey. Đèn của Edison hoạt động được trong khoảng 100 giờ, tiêu thụ
100W và phát ra luồng sáng cường độ 16 candela (để so sánh, đèn sợi đốt 100W
hiện đại cho ánh sáng với công suất cỡ 100-140 candela).
Sự cải tiến tiếp theo của đèn điện đã được diễn ra theo hai hướng: dây tóc
carbon được thay thế vào năm 1907 bởi vonfram và từ năm 1913 trở đi thì đèn
được bơm đầy khí trơ (lúc đầu là khí nitơ, sau đó chuyển sang khí argon và
krypton). Cả hai cải tiến đều đã được thực hiện trong các phòng thí nghiệm của
hãng General Electric, được thành lập bởi chính Thomas Edison.
Đèn sợi đốt hiện đại mà chúng ta biết đang được sử dụng rộng rãi trong cuộc
sống hàng ngày, tuy nhiên không thể nói được rằng ánh sáng của nó là lý tưởng:
nó được dịch chuyển sang các dải màu đỏ và hồng ngoại của quang phổ. Hiệu
quả cũng còn khiêm tốn: hiệu suất thắp sáng của nó chỉ từ 1% đến 4%. Theo
nghĩa này, đèn sợi đốt là thiết bị sưởi ấm hơn là thiết bị chiếu sáng.
 Đèn nhân nhồi
Ngoài hiệu suất thấp, đèn sợi đốt thông thường còn có một nhược điểm
nghiêm trọng khác: trong quá trình hoạt động, vonfram bay hơi dần từ bề mặt
được nung nóng của dây tóc và lắng cặn xuống thành bóng đèn. Khi bóng đèn
có vẻ “nhuốm màu”, nó sẽ làm suy yếu công suất ánh sáng, và cũng do sự bay
hơi của vonfram từ bề mặt của dây tóc thì tuổi thọ của bóng đèn bị giảm đi.
Nhưng nếu thêm vào khí làm đầy bóng đèn một thứ khí hơi, chẳng hạn
như iốt, thì mọi chuyện sẽ được thay đổi hẳn. Các nguyên tử vonfram bay hơi sẽ
kết hợp với các nguyên tử iốt, tạo thành iốt vonfram, sẽ không lắng đọng trên
thành bóng đèn, sẽ bị phân hủy trên bề mặt đang nóng của dây tóc, đưa vonfram
trở lại dây tóc và hơi iốt trở lại bóng đèn.
Nhưng lại có chuyện: nhiệt độ của thành bóng cũng phải khá cao - khoảng
250°C. Đó chính là lý do tại sao bóng đèn halogen rất nhỏ gọn và đương nhiên
là rất nóng. Đèn halogen, do nhiệt độ cao của dây tóc, cho ánh sáng trắng hơn
và có tuổi thọ cao hơn so với đèn sợi đốt thông thường.
 Ánh sáng lạnh
Các đèn này chính là hậu duệ trực tiếp của hồ quang điện. Chỉ có khác là sự
phóng điện trong chúng lại xảy ra giữa hai điện cực trong một buồng chứa đầy
các loại khí khác nhau. Tùy thuộc vào áp suất (thấp là <0,001 mmHg, cao vào
khoảng 0,2 đến 15 atm, và siêu cao ở mức từ 20 đến 100 atm) và loại khí làm
đầy, tính chất bức xạ và chức năng của đèn là có thể rất khác nhau.
Đèn huỳnh quang “ánh sáng ban ngày” mà ai cũng biết là thường chứa
đầy hơi thủy ngân ở áp suất thấp. Khi dòng điện truyền qua hơi thủy ngân sẽ
xuất hiện sự phóng điện hồ quang và phát xạ ra ánh sáng trong dải cực tím.
Chất phát quang lắng đọng trên bề mặt bên trong của thành bóng đèn sẽ
phát ra ánh sáng nhìn thấy được, dưới tác động của bức xạ cực tím. Tùy thuộc
vào loại chất phát quang, ánh sáng có thể là màu trắng tinh khiết hoặc “màu
lạnh” (hơi xanh) hoặc “màu ấm” (hơi vàng).
Phổ của đèn huỳnh quang là biến thiên tuyến tính và bao gồm một số vạch
trong các dải khác nhau của quang phổ. Hiệu suất của những đèn như vậy đạt
tới hàng chục phần trăm, trong cuộc sống thường nhật chúng thường được gọi là
đèn ánh sáng lạnh.
 Đèn chiếu
Còn một loại đèn phóng điện khí khác là HID (High Intensity Dischrge - đèn
phóng điện khí cường độ cao, hoặc đèn phóng ánh sáng khí hồ quang). Ở đây,
chất phát quang không được sử dụng mà chính khí sẽ phát ra ánh sáng trong dải
phổ nhìn thấy được khi có dòng điện chạy qua và khi có phóng điện hồ quang.
Loại khí làm đầy thường là sử dụng khí hơi thủy ngân, natri hoặc các kim loại-
halogen.

Đèn hồ quang thủy ngân áp suất cao được sử dụng trong các đèn pha để
chiếu sáng sân vận động và những đối tượng lớn khác, chúng cho ra ánh sáng
trắng xanh rất sáng (tia cực tím bị tán xạ bởi các bộ lọc). Công suất của đèn
thủy ngân hồ quang có thể là hàng chục kW. Đèn kim loại-halogen là một dạng
đèn thủy ngân, chúng có tính năng hiệu chỉnh màu sắc và hiệu suất được tăng
cường.
Tất cả chúng ta đều biết về đèn hồ quang natri áp suất thấp: chúng chính là
những đèn đường đem lại ánh sáng “hổ phách” ấm áp. Chúng rất tốt bởi vì có
hiệu suất tuyệt vời, tuổi thọ bền (hơn 25.000 giờ) và giá thành rất rẻ. Nhân tiện,
đèn xenon là rất quen thuộc với những ai lái xe (mà những chiếc xe hiện đại
được trang bị) - là các đèn phóng điện khí áp suất cực cao.
 Đèn quảng cáo

Theo truyền thống, các biển hiệu quảng cáo làm bằng các ống đầy khí hình
cong được gọi là neon. Đây cũng là các đèn phóng điện khí, nhưng dựa trên loại
phóng điện khác - phóng điện âm ỉ. Cường độ phát sáng trong chúng là không
lớn lắm. Tùy thuộc vào khí được bơm bên trong, chúng có thể phát sáng với các
màu khác nhau (đặc thù của đèn neon là màu đỏ-cam).
 Đèn LED
Nói về các nguồn sáng tự trị thì người ta không thể không nhắc tới đèn
LED. Đây là những thiết bị bán dẫn tạo ra (khi dòng điện đi qua chúng) bức xạ
quang học. Bức xạ của đèn LED được mắt người nhìn nhận là đơn sắc.
Màu của bức xạ được xác định bởi vật liệu bán dẫn được sử dụng và các chất
dẫn xuất. Do hiệu suất cao, dòng điện và điện áp hoạt động thấp, đèn LED là vật
liệu tuyệt vời để sản xuất các nguồn ánh sáng tự trị.
 Laser

Laser được phát triển độc lập bởi nhà vật lý người Mỹ là Townes và các
nhà vật lý Liên Xô là Basov và Prokhorov vào năm 1960. Laser cho ra một
chùm hẹp bức xạ đơn sắc (bước sóng đơn) khá mạnh.
Laser không được sử dụng cho chiếu sáng công cộng, nhưng với những ứng
dụng chuyên biệt ví dụ như các show biểu diễn ánh sáng thì nó không có đối thủ
ngang tầm. Tùy thuộc vào loại chất được sử dụng và nguyên lý chế tạo, bức xạ
của laser có thể có màu sắc khác nhau. Trong cuộc sống hàng ngày, laser bán
dẫn là thường được sử dụng nhất - chúng là họ hàng gần gũi với đèn LED.
Chương 3: Phân loại
Hiện nay đang có 4 công nghệ chiếu sáng chính trên xe hơi là đèn halogen,
xenon, LED và laser. Đèn pha halogen được trang bị phổ biến cho các ô tô hiện
nay. Một số ô tô cao cấp hơn trang bị đèn pha xenon hay LED và mới nhất là
công nghệ đèn pha laser. Mỗi loại công nghệ đều có ưu nhược điểm riêng.

Có thể nhận thấy những điểm khác biệt chính của các loại đèn trên đó là màu
sắc và cường độ ánh sáng

 Đèn LED có màu sắc ánh sáng vào khoảng 6.000 độ K trở lên, và có thể
phát ra các tia sáng trắng hơn ánh sáng ban ngày. 
 Đèn xenon phát ánh sáng trong khoảng 4.500 độ K
 Các đèn pha halogen chiếu ra các tia sáng màu vàng với nhiệt độ 3.200
độ K
Qua Bài viết sau đây, CARVIET sẽ phân tích ưu nhược điểm của các loại
đèn pha ô tô giúp khách hàng có sự lựa chọn tốt nhất cho chiếc xe của mình.

ĐÈN HALOGEN

Đèn halogen được sử dụng phổ biến nhất trên thị trường các loại đèn pha ô
tô và được tìm thấy trong đa số mẫu xe. Bởi ưu điểm :

 Chi phí thấp


 Dễ thay mới
 Kích thước phong phú
 Cấu tạo đơn giản
 Tuổi thọ trung bình cao khoảng 1.000 giờ và có công suất khoảng 55 W
dưới điều kiện chiếu sáng thông thường
Tuy nhiên vẫn tồn tại những nhược điểm : 

 Tiêu tốn năng lượng do đa số năng lượng bị biến thành nhiệt năng vô ích
thay vì quang năng. 
 Bóng đèn halogen, qua một thời gian sử dụng ở nhiệt độ cao khiến
vonfram bốc hơi và đọng lại trên lớp thủy tinh gây thủng bóng đèn. Khi
đó chức năng chiếu sáng của bóng đèn coi như không còn.
 Đòi hỏi đặc biệt lưu ý khi thao tác và bảo dưỡng

ĐÈN XENON

Bóng đèn Xenon là hệ thống ánh sáng có cường độ cao.


 

Đèn Xenon tạo ra luồng sáng sáng hơn đèn Halogen và tỏa nhiệt ít hơn. So
với bóng Halogen, đèn Xenon có ưu điểm

 Sáng hơn, bền hơn đèn Halogen


 Tuổi thọ bình quân 2.000 giờ, nhiệt độ màu của bóng vào khoảng 4.300
độ Kelvin, tức gần với ánh sáng ban ngày. 
 Cải thiện tầm nhìn rõ rệt:  đèn xenon tạo ra ánh sáng màu xanh-trắng
và cường độ sáng rất cao. Gấp từ 2 đến 3 lần đèn halogen
 Chi phí và giá thành hợp lí
Nhược điểm:

 Chiếu sáng quá chói và gây ảnh hưởng giao thông trên đường
 Hệ thống phức tạp hơn bóng đèn halogen
 Mất một thời gian để chiếu sáng mạnh nhất

ĐÈN LED

Led là đèn pha công nghệ mới được phát triển gần đây, thay vì phát sáng
bằng khí như xenon hay sợi đốt của halogen, đèn pha Led phát sáng thông qua
các diode nhỏ khi có dòng điện kích thích.

Loại đèn pha này chỉ có một nguồn năng lương rất nhỏ nhưng có thể phát
một lượng nhiệt đáng kể trên diode. Điều này gây rủi ro tiềm ẩn cho các chi tiết
lắp ghép cạnh đó cũng như cáp kết nối. Đó là lý do tại sao đèn pha LED cần hệ
thống làm mát giống như bộ tản nhiệt hoặc quạt để tránh hiện tượng tan chảy.
Đèn pha LED gồm những bóng LED có kích cỡ nhỏ vì thế có thể được chế
tạo với bất cứ hình dạng nào. Hơn nữa, loại ánh sáng của đèn pha LED là ánh
sáng định hướng chứ không phải khuếch tán nên đây là loại đèn pha chất lượng
tốt. Tuy rằng nói về cường độ sáng thì nó không bằng xenon nhưng vẫn có
những ưu điểm về:

 Nhỏ gọn, hoạt động hiệu quả với nhiều hình dáng đa dạng
 Tiêu thụ ít điện năng
 Ánh sáng định hướng chứ không khuếch tán
  Một lợi điểm nữa là LED đạt độ sáng tối đa cực nhanh. Chỉ trong một
vài phần triệu của giây. Đó là lí do vì sao LED rất thường được dùng cho
đèn báo rẽ và đèn hậu. Chúng có thể giúp tăng thời gian phản ứng của
những lái xe khác lên 30%. Một số nhà sản xuất cũng tuyên bố rằng tuổi
thọ đèn LED của họ lên đến 15.000 giờ.
Nhược điểm:

 Chi phí sản xuất cao


 Tỏa nhiệt lớn ở những chi tiết liền kề
 Thiết kế phức tạp và chịu nhiệt độ cao ở khoang động cơ

ĐÈN LASER

Đây là công nghệ chiếu sáng mới nhất trên xe hơi. Hiện chỉ có rất ít mẫu
siêu xe, như BMW i8 hay Audi R8, được trang bị công nghệ này.

Cũng cần lưu ý rằng tuy gọi là đèn laser nhưng thực chất ánh sáng phát ra
từ nó không phải là tia laser. Thay vào đó, tia laser được chiếu vào một thấu
kính có chứa khí phốt pho bên trong. Chất khí này sẽ bị kích thích và phát sáng.

Đèn laser được cho là tạo ra luồng sáng gấp 1.000 lần đèn pha LED.
Trong khi tiêu tốn khoảng 2/3 (hoặc thậm chí 1/2) công suất. Và nhờ có khí
phốt pho, nhiệt độ màu của ánh sáng (5.500 – 6.000K) hầu như gần với nhiệt độ
màu của ánh sáng tự nhiên (khoảng 6.500K)
Chương 4: Cấu tạo và nguyên lý hoạt động đèn laser

4.1. Cấu tạo


Khác với cấu tạo của các loại đèn thế hệ trước, đèn bi laser tăng sáng có
điểm khác biệt gồm 3 phần chính:
Nguồn bơm hay còn gọi là nguồn năng lượng: Đây chính là nơi cung cấp
năng lượng cho cả hệ thống đèn chiếu sáng của ô tô. Môi trường kích thích
chính là yếu tố quyết định để chọn nguồn bơm. Điều này rất quan trọng vì
nguồn bơm và môi trường tích hợp sẽ quyết định năng lượng được truyền vào
(hay còn gọi là độ sáng của đèn bi laser, đèn pha/cos/gầm).

Môi trường kích (môi trường laser): Hiện nay, có rất nhiều môi trường
laser khác nhau như lỏng, rắn, khí, bán dẫn… Về bản chất bước sóng phát sáng,
ánh sáng của đèn bi laser phụ thuộc hoàn vào môi trường kích thích.
Gương hoặc hệ thống gương: Vai trò của phần này là tạo nên hệ thống
khuếch đại ánh sáng cho tia laser. Do môi trường của laser rất đa dạng từ lỏng,
khí, rắn, đến bán dẫn nên cách thức tạo ra đèn bi laser cũng có nhiều điểm khác
biệt.

4.2. Nguyên lý hoạt động


Bản chất đèn bi laser phát sáng từ chính nó cứ không phải từ tia laser. Tia
laser hoạt động theo nguyên lý gom tụ 1 điểm chiếu tập trung vào thấu kính hội
tụ chứa photpho màu vàng, càng xa càng khuếch tán. Chính môi trường laser (là
photpho) nhận ánh sáng của tia laser sau đó tự kích phát sáng. Tia laser có khả
năng chiếu xa tối đa lên đến 600m. Lợi thế này của đèn bi laser ô tô giúp người
lái xe dễ quan sát người đi đường, vật cản, đảm bảo an toàn khi tham gia giao
thông trên đường.

Đèn bi laser ô tô là một trong những phát minh có tính bước ngoặt,
chuyển giao công nghệ hiện đại. Nguyên lý khuếch đại ánh sáng bằng phản xạ
kích thích được áp dụng khi ứng dụng đèn bi laser cho các dòng xe hạng sang.

Nhiệt độ màu ánh sáng tối đa mà đèn bi laser ô tô có thể cung cấp lên đến
12000 Kelvin. Tuy nhiên trong giới hạn sử dụng môi trường laser là photpho
vàng nên nền nhiệt độ giao động trong khoảng từ 6000 Kelvin đến 6500 Kelvin.
Chương 5: Ưu điểm và nhược điểm
Sở hữu công nghệ tối ưu, chắc chắn đèn bi laser ô tô có rất nhiều ưu điểm,
nhưng không phải vì thế mà loại đèn này không có nhược điểm. Cùng tìm hiểu
chi tiết những lợi ích cũng như hạn chế của loại đèn bi laser này.

5.1. Ưu điểm
Khoảng chiếu sáng xa, đèn bi laser cho khả năng chiếu sáng lên đến
600m. Trong khi các loại đèn công nghệ cũ khoảng chiếu xa chỉ bằng ½, tương
đương trên dưới 300m.
Nguồn cung cấp ánh sáng khỏe, vùng chiếu sáng tán rộng nên cực kỳ
được ưa chuộng khi các chủ xe phải di chuyển vào ban đêm, di chuyển trong
điều kiện thời tiết khắc nghiệt.

Đèn bi laser cung cấp ánh sáng có nền màu gần như tương đương với nền
màu ánh sáng của mặt trời. Dễ hiểu hơn màu sáng của đèn laser là ánh sáng
giống với ánh sáng ban ngày nhất.
Trước khi xuất hiện đèn laser, đèn led được coi là loại đèn sở hữu công
nghệ phát sáng mạnh nhất. Nhưng thực tế cho thấy đèn bi laser ô tô cho ánh
sáng gấp hơn 1000 lần so với đèn bi Led. Quan trọng hơn, điện năng tiêu thụ lại
chỉ chưa đến một nửa so với đàn anh.
Đèn bi laser ghi điểm tuyệt đối về hình thức, thiết kế: Vừa đẹp mắt, vừa
tối ưu tích hợp với cấu tạo của xe hơi. Các thương hiệu liên tục cập nhật những
tính năng và mẫu mà mới nhất của đèn bi laser cho xe hơi, nhằm tăng giá trị,
nâng cấp phiên bản xe.

Nếu như đèn halogen có thời gian hoạt động từ 800 đến 1000 giờ, đèn bi
xenon khoảng trên dưới 1500 giờ, đèn bi led cao hơn khoảng 3000 giờ thì đèn
bi laser có thời gian hoạt động, sử dụng lên đến cả chục năm. Đây là điểm cộng,
một ưu thế vượt trội mà các loại đèn khác không thể cạnh tranh. Hơn nữa, đèn
bi laser bất chấp và thách thức mọi môi trường, thời tiết khắc nghiệt nhất.

5.2. Nhược điểm


Sở hữu nhiều công nghệ, nhiều lợi ích ưu việt kể ở trên, nhưng đèn bi
laser gặp một vài khó khăn khi dấn thân vào thị trường Việt Nam. Do còn khá
mới, giá thành đắt, nên chưa được sản xuất đại trà. Chỉ được áp dụng trên một
số dòng xe sang như BMW i8, Audi 8
Đèn bi laser không có khả năng tích hợp đèn pha/cos. Do vậy, bạn vẫn
phải lắp thêm 1 loại đèn led, hoặc đèn xenon khác để sử dụng.
Để đảm bảo tuổi thọ cho bóng đèn bi laser ô tô, bạn nên lắp thêm quạt tản
nhiệt hoặc đế tản nhiệt. Vì dù công suất thấp, nhưng hiệu năng ánh sáng cực
mạnh cũng sinh ra nhiệt lượng. Điều này khiến tuổi thọ của đèn bi laser bị ảnh
hưởng không nhỏ.
Chương 6: Kết luận
Đèn laser tuy ra đời sau đèn led, xeon, halogen… nhưng lại trở thành một
trong những đèn tốt nhất hiện tại. Đèn laser vượt trội hơn các đèn còn lại về
nhiều mặt, nó phục vụ được cho còn người nhiều hơn trong một số lĩnh vực như
ô tô, y tế,… Với thời buổi công nghệ hiện đại các thiết bị ngày càng được nâng
cấp và cải thiện để phục vụ con người tốt hơn.

You might also like