Tiểu Luận

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 34

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG


---o0o---

TIỂU LUẬN
TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI:

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

Lớp : Tài chính quốc tế.1


Giáo viên hướng dẫn : TS. Ngô Khánh Huyền
Sinh viên thực hiện : A33170 – Phạm Thị Huế
A39721 – Nguyễn Phương Thảo

HÀ NỘI – 2022


LỜI MỞ ĐẦU
Qua nhiều thập niên kiềm chế tài chính nặng nề, các quốc gia nhận thức rõ các
giá phải trả, đồng thời, với những điều kiện mới của môi trường toàn cầu, các nước cố
gắng tạo cho mình những giải pháp tự do hóa tài chính để làm tăng tính cạnh tranh
trong hệ thống tài chính, từ đó cải thiện hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực.
Các nước đều có những sự khác biệt nhất định như: yếu tố cơ bản của kinh tế vĩ
mô; trình độ phát triển của hệ thống tài chính; mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp
lý; năng lực điều hành, quản trị v.v... là những vấn đề cần quan tâm khi lựa chọn các
biện pháp và trình tự tự do hóa tài chính. Mục đích chính là tối đa hóa những lợi ích
của tự do hóa tài chính đồng thời giảm thiểu được những thiệt hại mà tự do hóa tài
chính mang theo. Tự do hóa tài chính giúp tạo ra một môi trường minh bạch, linh hoạt
và hiệu quả cho hệ thống tài chính, thu hút đầu tư, kích thích sự cạnh tranh lành mạnh,
mang lại động lực phát triển cũng như cơ hội sử dụng các dịch vụ tài chính đa dạng,
chất lượng cao. Những lợi ích tiềm năng của tự do hóa tài chính là rất lớn, nhưng bên
cạnh đó cũng có những mặt trái được cho là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ và khủng
hoảng tài chính.
Vậy để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng tìm hiểu tự do hóa tài chính là gì? Tại sao
chúng ta cần tự do hóa tài chính? Tự do hóa tài chính mang lại những cơ hội và thách
thức gì cho các quốc gia tham gia?
MỤC LỤC
PHẦN 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH...............................................
1.1. Khái niệm về tự do hóa tài chính...................................................................1
1.1.1. Khái niệm về tài chính................................................................................1
1.1.2. Khái niệm về tự do hóa tài chính................................................................1
1.1.3. Xu hướng của tự do hóa tài chính...............................................................2
1.2. Quá trình phát triển của thuyết tự do hóa tài chính....................................3
1.3. Sự cần thiết phải tự do hóa tài chính.............................................................5
1.4. Bản chất của tự do hóa tài chính...................................................................5
1.5. Đo lường mức độ hóa tài chính......................................................................6
1.6. Ưu và nhược điểm của tự do hóa tài chính...................................................6
1.6.1. Ưu điểm......................................................................................................6
1.6.2. Nhược điểm................................................................................................7
1.7. Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết của quá trình tự do hóa tài chính9
1.7.1. Nhân tố tác động tới quá trình tự do hóa tài chính......................................9
1.7.2. Điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài chính...................................9
PHẦN 2. NGUYÊN TẮC, TRÌNH TỰ VÀ NỘI DUNG TỰ DO HÓA TÀI
CHÍNH 10
2.1. Nguyên tắc tự do hóa tài chính....................................................................10
2.2. Trình tự tự do hóa tài chính.........................................................................10
2.3. Nội dung tự do hóa tài chính........................................................................12
2.3.1. Tự do hóa lãi suất.....................................................................................13
2.3.2. Tự do hóa tỷ giá hối đoái..........................................................................14
2.3.3. Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính
khác trên thị trường tài chính....................................................................16
2.3.4. Tự do hóa giao dịch vốn...........................................................................16
PHẦN 3. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ....................
PHẦN 4. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI............................................
PHẦN 5. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM...................................................
5.1. Thực trạng Việt Nam....................................................................................24
5.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam........................................................25
DANH MỤC VIẾT TẮT

Ký hiệu viết tắt Tên đầy đủ

GDV Giao dịch vốn

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTW Ngân hàng Trung ương


PHẦN 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH

1.1. Khái niệm về tự do hóa tài chính


1.1.1. Khái niệm về tài chính
Tài chính - tiếng Anh là Finance.
Theo quan điểm khoa học đương đại: Tài chính là các quan hệ lợi ích kinh tế
giữa các chủ thể khác nhau được biểu hiện bằng tiền.
Bản chất là quan hệ lợi ích kinh tế.
Phương thức quan hệ: Thông qua các hoạt động cụ thể như: tham gia đầu tư, sản
xuất, phân phối theo các quan hệ tỷ lệ hoặc khuôn khổ giới hạn nhất định. 
Nội dung quan hệ lợi ích: doanh thu, lợi nhuận, lợi tức, thuế... 
Hình thức biểu hiện lợi ích: Được đo bằng tiền dưới nhiều loại phương tiện khác
nhau như: tiền mặt, tiền trên tài khoản, tiền điện tử, các loại giấy tờ có giá thông qua
các công cụ chủ yếu là lãi suất, tỷ giá, giá cả..
Theo kinh tế học hiện đại, tài chính biểu thị vốn dưới dạng tiền tệ, ở dạng các
khoản tiền có thể vay mượn hoặc đóng góp vốn thông qua thị trường tài chính.
Ở Việt Nam, tài chính có ba chức năng chính:
 Thứ nhất là giám sát, kiểm tra sự vận động của các nguồn tài chính khi sử
dụng quỹ tiền tệ nhằm kiểm tra sự hiệu quả của chế độ tài chính do Nhà nước
ban hành và có sự điều chỉnh phù hợp.
 Chức năng thứ hai là phản hồi - Chức năng này được vận dụng nhằm tổ chức
quá trình phân phối của cải xã hội bằng hình thức giá trị
 Thứ ba là chức năng huy động: Thể hiện khả năng tổ chức, khai thác nguồn tài
chính nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế. Việc huy động vốn phải
tuân theo quan hệ cung cầu và cơ chế thị trường.
Cả ba chức năng hỗ trợ lẫn nhau giúp doanh nghiệp đạt lợi nhuận tối đa.
1.1.2. Khái niệm về tự do hóa tài chính
Tự do hóa tài chính trong tiếng Anh được gọi là Financial Liberalization.
Tự do hóa tài chính đang là một khái niệm rộng và đa dạng, tuy nhiên có thể hình
dung được vấn đề qua các khái niệm sau đây:
Thứ nhất, tự do hóa tài chính được hiểu là sự xóa bỏ đi các hạn chế, định hướng
hay ràng buộc trong quá trình phân bổ nguồn lực tín dụng. Mọi điều tiết trong quá
trình phân bổ này được đặt trên nền tảng cơ chế giá; nghĩa là các tổ chức tài chính
1
được quyền tự do xác định lãi suất – tiền gửi và cho vay. Định nghĩa này cũng bao
hàm việc xóa bỏ mức trần lãi suất cũng như các ràng buộc khác trong việc sử dụng
nguồn vốn huy động được (ví dụ như các khoản tín dụng ưu đãi).
Thứ hai, tự do hóa tài chính cũng đồng nghĩa với việc mở rộng cạnh tranh trong
các hoạt động tài chính mang tính chất trung gian, điều này đồng nghĩa với việc chấm
dứt sự phân biệt đối xử về pháp lí giữa những loại hình hoạt động khác nhau.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) định nghĩa như sau: “Tự do hoá tài chính là quá
trình giảm thiểu và cuối cùng là huỷ bỏ sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động
của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả
hơn theo quy luật thị trường”. Đây chính là quá trình nới lỏng những hạn chế về các
quyền tham gia thị trường cho các bên tìm kiếm lợi ích trong phạm vi kiểm soát được
của pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau.
1.1.3. Xu hướng của tự do hóa tài chính
Trong những năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế của các quốc gia trên thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào chính sách cũng như cơ cấu
hệ thống tài chính của mỗi nước.
Với nhiều sự biến động cụ thể và thậm chí là khủng hoảng tại một số quốc gia,
đặc biệt là các nền kinh tế Đông Á – một thời được coi là tồn tại sự phát triển bền
vững từ đó đã đã gây ra nhiều tranh luận về hệ thống quản lí tài chính của quốc gia.
Tuy nhiên, một xu thế được coi là một hướng đi thích hợp trong bối cảnh hiện
nay và được nhiều quốc gia thực hiện. Xu thế tự do hóa tài chính đó là từng bước tiến
hành tự do hóa hệ thống tài chính của đất nước.
Xu thế tự do hóa tài chính hiện nay đã và đang trở thành xu thế lớn của kinh tế
học hiện đại và được thể hiện trên thực tiễn qua nhiều khía cạnh, theo một đánh giá
của Tổng giám đốc Hiệp hội ngân hàng Pháp thì:
“Từ hơn 30 năm nay, một số lượng lớn các nước đang dấn thân vào con đường tự
do hóa hệ thống tài chính của quốc gia; nhưng với những biến động trong thời gian
gần đây, câu hỏi được đặt ra là nên tự do hóa như thế nào còn chưa có câu trả lời cụ
thể và do đó, rất cần có những tổng kết, kinh nghiệm để đúc kết thành những bài học
có tính chất nguyên tắc chung”.
Theo kết quả đánh giá của Tổ chức Heritage về mức độ tự do hóa kinh tế cho
thấy, Việt Nam được xếp vào nhóm nước có độ mở cửa còn thấp so với trong khu vực
và trên thế giới.

2
1.2. Quá trình phát triển của thuyết tự do hóa tài chính
Kể từ những năm 1970, lý thuyết về tự do hóa tài chính đã trải qua hai cuộc cách
mạng mang tính thời đại. Cuộc cách mạng lý thuyết đầu tiên là từ sau Thế chiến II đến
đầu những năm 1980, một nhóm các nhà kinh tế phương Tây như Ronald I.
MacKinnon (1973), Edward S. Shaw (1973), John G. Gurley (1960), Raymond W.
Goldsmith (1969)… , xuất phát từ tình trạng “kém phát triển” của nền kinh tế các
nước đang phát triển, hướng đến sự chưa hoàn chỉnh của thị trường tài chính đang phổ
biến ở các nước đang phát triển lúc bấy giờ, sự méo mó nghiêm trọng của thị trường
vốn và “hội chứng can thiệp toàn diện” của chính phủ vào tài chính đã ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế. Vì vậy, họ cho rằng các nước đang phát triển nên tiến hành tăng
cường tài chính (financial deepening). Cuộc cách mạng lý thuyết thứ hai đề cập đến
một số nhà kinh tế học mà đại diện là Ronald I. McKinnon (1993) và Markwell Frye
(1988) trên cơ sở tổng kết thực tiễn cải cách tài chính ở các nước đang phát triển từ lý
thuyết trình tự tự do hóa tài chính được đề xuất từ đầu những năm 1990. Lý thuyết này
cho rằng các phương thức làm sâu sắc thêm tài chính và tự do hóa tài chính ở các nước
đang phát triển là có trình tự và nếu tự do hóa tài chính được thực hiện theo một trình
tự nhất định thì sự ổn định của phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển sẽ được
đảm bảo. Sự ra đời và phát triển của lý thuyết tự do hóa tài chính có ý nghĩa định
hướng to lớn về mặt lý luận và thực tiễn để các nước đang phát triển xử lý đúng đắn
mối quan hệ giữa kinh tế và tài chính, chính phủ và thị trường.
Trong một thời gian dài, các nhà kinh tế luôn cho rằng sự phát triển kinh tế chậm
của các nước đang phát triển là do "thiếu vốn", và tin rằng nếu các nước đang phát
triển muốn đạt được sự phát triển kinh tế, họ phải tăng tỷ lệ tiết kiệm hoặc thu hút vốn
nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hình thành vốn. Trong mô hình Harrod-Domar nổi
tiếng, tích lũy tư bản được coi là nhân tố quyết định tăng trưởng kinh tế. Lewis, nhà
kinh tế học người Mỹ nổi tiếng với việc đề xuất “thuyết cơ cấu kinh tế kép”, cũng cho
rằng vấn đề cốt lõi của phát triển kinh tế là tăng tốc độ hình thành tư bản. Tuy nhiên,
một khi những lý thuyết có thẩm quyền này được sử dụng để giải thích thực tiễn,
chúng dường như có phần “bất lực”. Năm 1973, các nhà kinh tế học McKinnon và
Shaw đồng thời đưa ra quan điểm tiên phong, cho rằng tình trạng nghèo đói của các
nước đang phát triển không chỉ do khan hiếm vốn mà quan trọng hơn là do sự méo mó
của thị trường tài chính đã gây ra. Hiệu quả sử dụng vốn thấp đã kìm hãm tăng trưởng
kinh tế. Năm 1973, McKinnon và Shaw đã xuất bản hai cuốn sách "Tiền tệ và vốn
trong phát triển kinh tế" và "Độ sâu tài chính trong phát triển kinh tế", đồng thời thiết
lập một bộ lý thuyết về "Áp chế tài chính (Financial Repression)" và "Độ sâu tài chính
(Financial Deepening)".

3
McKinnon và Shaw tin rằng thị trường tài chính của các nước đang phát triển bị
phân chia và cô lập với nhau một cách giả tạo, và chúng là những thị trường không
hoàn thiện. Khi một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn để mở rộng
quy mô, cải tiến công nghệ và cập nhật thiết bị, họ chỉ có thể dựa vào nguồn tài chính
nội bộ vì họ không thể tham gia thị trường tài chính để huy động vốn. Đồng thời, lãi
suất thực quá thấp hoặc thậm chí âm do chính phủ thực hiện chính sách tài chính sai
lầm, lãi suất danh nghĩa thấp hoặc do lạm phát cao hoặc cả hai. Đối với những người
tiết kiệm, vì lãi suất thấp không hấp dẫn và người dân không muốn gửi tiền dư thừa
vào hệ thống tài chính, cầu trên thị trường tài chính vượt xa cung và chính phủ buộc
phải cung cấp tín dụng theo cách "phân chia". Theo tỷ lệ tín dụng, tiền được sử dụng
hầu như không có gì, và lãi suất thực tế đôi khi còn âm. Kết quả là các quỹ được sử
dụng tràn lan, lợi nhuận đầu tư thấp, mức sản lượng thấp, thu nhập quốc dân sau khi
trừ đi phần tiêu dùng không còn bao nhiêu, và tỷ lệ tiết kiệm giảm xuống. Mặt khác,
lãi suất thấp cản trở việc chuyển đổi thu nhập mới thành đầu tư. Nguồn vốn đầu tư mới
cần thiết cho phát triển kinh tế không đủ, khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư ngày
càng nới rộng, mâu thuẫn tổng cầu và tổng cung ngày càng gay gắt, nền kinh tế trì trệ.
Ngược lại, tình hình kinh tế tồi tệ sẽ thu hẹp các nguồn tiết kiệm, tạo ra tình trạng thiếu
vốn và buộc các cơ quan chính phủ phải áp đặt các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn
đối với lãi suất, do đó tạo thành một vòng luẩn quẩn. McKinnon và Shaw gọi mức lãi
suất thấp dẫn đến sự kém hiệu quả của hệ thống tài chính và nền kinh tế này là "áp chế
tài chính".
Nhắm vào hiện tượng kìm hãm tài chính phổ biến ở các nước đang phát triển,
McKinnon và Shaw tiếp tục đưa ra lý thuyết độ sâu tài chính của mình. Ý tưởng cốt lõi
của lý thuyết này là nới lỏng sự kiểm soát của chính phủ đối với hệ thống tài chính,
đặc biệt là kiểm soát lãi suất, để lãi suất thực tế sẽ tăng lên để phản ánh đầy đủ cung và
cầu vốn. Theo cách này, các nhà đầu tư phải xem xét chi phí tài chính và cân nhắc đầy
đủ chi phí đầu tư và lợi nhuận kỳ vọng, do đó cải thiện đáng kể hiệu quả phân bổ vốn.
Hơn nữa, lãi suất cao khuyến khích mọi người tiết kiệm, do đó cung cấp một kênh dễ
dàng để tiết kiệm được chuyển đổi thành đầu tư. Như Shaw (1973) đã nói: “Bản chất
của tự do hóa tài chính và chiều sâu tài chính là nới lỏng lãi suất để chúng phản ánh sự
khan hiếm của tiết kiệm và kích thích tiết kiệm”.
Sau khi các lý thuyết độ sâu tài chính truyền thống, đặc biệt là lý thuyết độ sâu
tài chính của McKinnon và Shaw với nội dung chính là tự do hóa tài chính, ngay lập
tức làm dấy lên mối quan tâm rộng rãi trong giới lý thuyết kinh tế về cải cách và phát
triển tài chính của các nước đang phát triển. Nó đã trở thành cơ sở lý thuyết chính cho
việc thực hiện cải cách tự do hóa tài chính ở các nước đang phát triển bắt đầu từ nửa

4
cuối những năm 1970 và trong suốt những năm 1980. Lý thuyết về độ sâu tài chính đã
được điều chỉnh cho phù hợp với lý thuyết chủ nghĩa tân tự do đang dần xuất hiện ở
các nước phát triển phương Tây vào thời điểm đó, và nó là sự phản ánh của chủ nghĩa
tân tự do trong lý thuyết tài chính và kinh tế học phát triển. Tuy nhiên, do cải cách tự
do hóa tài chính ở Mỹ Latinh theo thuyết độ sâu tài chính này đã bộc lộ nhiều vấn đề
nên nó đã bị chỉ trích rất nhiều. Trường phái hậu Keynes bác bỏ lý thuyết độ sâu tài
chính của McKinnon và Shaw chủ yếu từ quan điểm về nhu cầu hiệu quả. Họ tin rằng
không phải tiết kiệm quyết định đầu tư mà chính đầu tư quyết định tiết kiệm. Lãi suất
thực quá cao sẽ không khuyến khích đầu tư và do đó không khuyến khích tiết kiệm.
Việc cắt giảm đầu tư càng làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua hiệu ứng số
nhân. Nhằm khắc phục những khiếm khuyết trong lý thuyết của McKinnon và Shaw,
một số nhà kinh tế học sau này, trong đó có McKinnon và Shaw, đã tiến hành nghiên
cứu và cải tiến thêm. Từ giữa những năm 1970 đến đầu những năm 1980, các nhà kinh
tế có đóng góp lớn trong lĩnh vực này bao gồm Kapur, giáo sư kinh tế tại Đại học
Quốc gia Singapore, Mathiesan, nhà kinh tế tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, và giáo sư Đại
học Fry (Fry). Những đóng góp của họ cho thuyết độ sâu tài chính chủ yếu được phản
ánh trong các mô hình toán học và phương pháp nghiên cứu tương ứng, đặc biệt là sự
phát triển phân tích tĩnh của McKinnon và Shaw thành phân tích động. Các mô hình lý
thuyết đại diện của nó chủ yếu bao gồm mô hình Karp-Matheson, mô hình phát triển
tài chính và kinh tế mở của Frye và mô hình hai khu vực của Galbis. Họ đã chứng
minh sự cần thiết của tự do hóa tài chính từ các góc độ khác nhau, làm phong phú và
phát triển ý tưởng về tự do hóa tài chính, đồng thời làm cho tính thực tiễn của lý thuyết
tự do hóa tài chính trở nên cụ thể hơn.
1.3. Sự cần thiết phải tự do hóa tài chính
Tự do hoá tài chính là cần thiết do:
 Khắc phục các hạn chế của áp chế tài chính, đáp ứng đòi hỏi của tăng trưởng
kinh tế, tăng sức mạnh tài chính quốc gia;
 Yêu cầu của áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các tổ chức tài chính hoạt động hiệu
quả;
 Tăng chất lượng, đa dạng hoá và giảm chi phí các dịch vụ tài chính;
 Yêu cầu của tăng cường chuyển giao công nghệ, giảm thiểu rủi ro;
 Tạo điều kiện thiết lập chính sách kinh tế vĩ mô  có hiệu quả;
 Thúc đẩy tiến trình tự do hoá kinh tế, tự do hoá thương mại và ngoại thương

5
1.4. Bản chất của tự do hóa tài chính
Có thể nói, bản chất của tự do hóa tài chính là hoạt động tài chính theo cơ chế nội
tại vốn có của thị trường và chuyển vai trò điều tiết tài chính từ chính phủ sang thị
trường, mục tiêu là tìm ra sự phối hợp có hiệu quả giữa Nhà nước và thị trường trong
việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Do đó, kết quả của tự do hóa
tài chính thường được thể hiện bằng tỷ số giữa tiền mở rộng (tiền mặt và tiền gửi trong
hệ thống NHTM) trên thu nhập quốc dân.
Bên cạnh đó, tự do hóa tài chính là sự xóa bỏ các hạn chế, định hướng hay ràng
buộc về số lượng trong quá trình cấp và phân phối tín dụng. Sự điều tiết về số lượng
này được thay thế bởi một cơ chế tỷ giá: tự do hóa mang lại cho các định chế tài chính
quyền tự do xác định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay và tự do sử dụng công cụ lãi
suất. trên lý thuyết, tự do hóa dẫn đến chấm dứt các mức lãi trần lãi suất cũng như
những ràng buộc trong việc sử dụng các nguồn vốn huy động được. Tự do hóa cũng
chấm dứt những kênh cấp vốn ưu đãi.
Ngoài ra việc mở rộng cạnh tranh trong các hoạt động trung gian tài chính, chấm
dứt sự phân biệt đối xử về pháp lý giữa các thành phần kinh tế cũng được xem là một
khía cạnh của tự do hóa tài chính. Tuy nhiên, tự do hóa không có nghĩa là chấm dứt
mọi quy định hay giám sát của hoạt động tài chính. Ngược lại, tự do hóa đòi hỏi phải
tăng cường cơ sở hạ tầng quy chế và các cơ quan giám sát. Việc đặt ra các quy định là
cần thiết để đảm bảo cho sự vận hành hiệu quả của các thị trường tài chính và ngân
hàng.
1.5. Đo lường mức độ hóa tài chính
Có một số chỉ số đo lường mức độ tự do hóa tài chính để tham khảo:

 Chỉ số KAOPEN đo lường mức độ mở cửa tài chính (độ mở cửa tài khoản
vốn);
 Phương pháp đo lường mức độ hội nhập bằng cách định lượng các dòng vốn
thực;
 Chỉ số Schindler dễ đo lường mức độ tự do hóa các giao dịch vốn;
 Chỉ số tự do hóa tài chính: đo lường mức độ tự do hóa tài chính bằng cách cho
điểm các thành phần của tự do hóa tài chính.
Đây là cách đo lường có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các quốc gia và bao quát
khá rộng tới các bộ phận khác nhau của tự do hóa tài chính chứ không riêng về giao
dịch vốn.

6
1.6. Ưu và nhược điểm của tự do hóa tài chính
1.6.1. Ưu điểm
Thứ nhất, tự do hóa tài chính chắc chắn đã nâng cao khả năng cạnh tranh của thị
trường tài chính, cải thiện hiệu quả của thị trường tài chính thế giới và thúc đẩy sự
phát triển của ngành ngân hàng thế giới. Tự do hóa tài chính tạo ra cả áp lực và cơ hội
cho tất cả những người tham gia thị trường tài chính, cho dù họ là người đi vay hay
người cho vay, khiến họ có thể tạo ra áp lực và tạo cơ hội để làm cho việc giảm chi phí
hoặc tăng lợi nhuận trở nên khả thi và cần thiết.
Thứ hai, người ta thường tin rằng trong điều kiện tự do hóa tài chính, thông tin
tài chính cởi mở hơn, có thể phản ánh cung và cầu của thị trường một cách chính xác
và nhanh chóng hơn, tức là sự khan hiếm vốn và hình thành một hệ thống tín hiệu giá
hiệu quả hơn. Quan trọng nhất, tự do hóa tài chính làm giảm các rào cản đối với dòng
vốn giữa các sản phẩm và ngân hàng, từ đó làm cho việc phân bổ nguồn lực trở nên tối
ưu hơn.
Thứ ba, tự do hóa tài chính mang lại nhiều cơ hội kiếm lời hơn cho các doanh
nghiệp tài chính. Một mặt, tự do hóa tài chính đã thúc đẩy mạnh mẽ việc hình
thành vốn tài chính và cung cấp cho các doanh nghiệp tài chính một không gian hoạt
động rộng lớn hơn; mặt khác, việc dỡ bỏ dần hệ thống quản lý riêng biệt khiến cho các
tổ chức tài chính (đặc biệt là các ngân hàng thương mại) đem lại phương pháp hoạt
động linh hoạt hơn.
Thứ tư, tự do hóa tài chính, đặc biệt là việc dỡ bỏ dần hệ thống quản lý riêng biệt,
tạo điều kiện và phương pháp để các ngân hàng thương mại lựa chọn cân bằng giữa
khả năng sinh lời và tính an toàn. Việc thành lập hệ thống quản lý phân tách ban đầu
tập trung vào sự an toàn của các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, theo hệ thống quản
lý phân tách truyền thống, một mặt do thiếu phương thức vận hành và mặt khác là sự
cạnh tranh từ các ngân hàng trong và ngoài nước, tính an toàn của các ngân hàng
thương mại chưa thực sự được đảm bảo, các ngân hàng đổ vỡ vẫn nối tiếp nhau. Sau
khi hệ thống quản lý tách biệt dần được dỡ bỏ, các ngân hàng thương mại có một số
lượng lớn phương thức hoạt động, điều này có thể kết hợp hợp lý các sản phẩm có rủi
ro cao, năng suất cao với các sản phẩm có rủi ro thấp, năng suất thấp, giải phóng các
ngân hàng thương mại khỏi tình trạng tiến thoái lưỡng nan ban đầu.
Thứ năm, tự do hóa tài chính đã thúc đẩy hội nhập tài chính toàn cầu, khi các
quốc gia ngày càng mở cửa thị trường tài chính, tốc độ luân chuyển vốn tiếp tục tăng
nhanh. Việc tự do hóa dòng vốn đã cho phép cải thiện phân bổ nguồn lực trên toàn thế
giới.

7
1.6.2. Nhược điểm
Đầu tiên, tự do hóa tài chính cải thiện hiệu quả thị trường tài chính ở một số khía
cạnh, nhưng nó cũng đồng thời có tác động làm giảm hiệu quả của thị trường tài chính
theo những cách khác. Ví dụ: sự hội nhập của thị trường tài chính, vô số đổi mới tài
chính và sự xuất hiện của một số lượng lớn các tổ chức tài chính đã làm giảm tính
minh bạch của thị trường tài chính. Đối mặt với các công cụ phái sinh cực kỳ phức tạp,
khách hàng của ngân hàng chỉ có thể làm theo lời khuyên của ngân hàng, do đó các
ngân hàng ít có động lực để nâng cao hiệu quả. Bên cạnh đó, việc mở rộng dung lượng
thị trường tài chính đã mang lại cơ hội cho các ngân hàng, đồng thời giảm áp lực buộc
các ngân hàng phải tiết giảm chi phí, tăng hiệu quả
Thứ hai, động lực cống hiến cho đổi mới tài chính của các ngân hàng đã giảm sút
đáng kể. Trong điều kiện bị kiểm soát tài chính chặt chẽ, các tổ chức tài chính (đặc
biệt là các ngân hàng thương mại) buộc phải liên tục tung ra các sản phẩm tài chính
mới nhằm lách kiểm soát tài chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của chính mình. Khi
tự do hóa tài chính đã trở thành thành tựu, các quốc gia trên thế giới nhìn chung đều
thực hiện tự do hóa lãi suất và tỷ giá hối đoái. Rào cản quản lý riêng biệt về cơ bản đã
được dỡ bỏ. Nhu cầu đổi mới tài chính không còn quá nổi bật. Trong những năm gần
đây, đà đổi mới tài chính đã chậm lại. Sự phục hồi dần tỷ trọng của kinh doanh truyền
thống bắt nguồn từ điều này.
Thứ ba, rõ ràng nhất và cũng là điều ít gây tranh cãi nhất là tự do hóa tài chính đã
làm tăng rủi ro cho khách hàng và bản thân ngành tài chính. Việc bãi bỏ quy định về
lãi suất và tỷ giá hối đoái đã dẫn đến sự gia tăng mạnh về biến động thị trường.  Sau
khi dỡ bỏ hệ thống quản lý riêng và thực hiện quyền năng của các ngân hàng thương
mại, một số lượng lớn các ngân hàng thương mại đã tham gia vào các lĩnh vực kinh
doanh rủi ro cao và tài sản rủi ro của họ đã tăng lên đáng kể. Việc giảm bớt các rào cản
đối với dòng vốn và mở cửa thị trường tài chính ngày càng tăng ở các quốc gia khác
nhau đã thúc đẩy dòng vốn quốc tế. Mặc dù về mặt lý thuyết, dòng vốn trôi chảy hơn
có lợi cho việc phân bổ nguồn lực tối ưu, nhưng trong điều kiện thị trường "bán hoàn
hảo", tác động của tiền nóng đôi khi có thể gây ra tác hại lớn.
Thứ tư, sau khi tự do hóa tài chính, mối liên kết giữa các ngân hàng, ngân hàng
thương mại và các tổ chức tài chính phi ngân hàng và thị trường tài chính của các quốc
gia trở nên chặt chẽ hơn, và nguy cơ khủng hoảng tài chính của một công ty ảnh
hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính đã tăng lên.
Thứ năm, vì khách hàng của ngân hàng thua lỗ khi đối mặt với các công cụ phái
sinh cực kỳ phức tạp, họ chỉ có thể làm theo lời khuyên của ngân hàng. Những vụ lừa

8
đảo do nhân viên ngân hàng gây ra thường xuyên xuất hiện. Đồng thời, trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt, để theo đuổi lợi ích, các ngân hàng thường có xu hướng bỏ qua rủi
ro và theo đuổi lợi nhuận, nới lỏng việc xem xét khách hàng, tỷ lệ vỡ nợ của khách
hàng tiếp tục tăng và các vụ lừa đảo ngân hàng là phổ biến.
Thứ sáu, sau khi thực hiện tự do hóa tài chính. Mặc dù các ngân hàng thương mại
đã có thêm nhiều cơ hội kiếm lời nhưng việc mất vị thế độc quyền và cạnh tranh gay
gắt hơn đã khiến biên lợi nhuận của các ngân hàng thương mại có dấu hiệu sụt giảm.
1.7. Nhân tố tác động và điều kiện cần thiết của quá trình tự do hóa tài chính
1.7.1. Nhân tố tác động tới quá trình tự do hóa tài chính
 Nhân tố khách quan:

Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế là nhân tố thúc đẩy tự do hóa tài chính. Quá trình
toàn cầu hóa, đặc biệt là tự do hoá thương mại ngày càng lớn đã kéo theo sự lưu
chuyển vốn quốc tế mạnh mẽ và như vậy sự tự do hoá trong dịch vụ tài chính là không
tránh khỏi nhằm hướng tới một thị trường tài chính mang tính toàn cầu. Quá trình này
dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và tác động lẫn nhau ngày càng
mạnh mẽ.
 Nhân tố chủ quan:

Tự do hóa tài chính còn bị tác động bởi ý muốn chủ quan của chính các quốc gia
trong việc điều hành nền kinh tế. Mỗi quốc gia với một chế độ chính trị nhất định, có
những hướng điều hành đất nước nói chung và nền kinh tế nói riêng cụ thể cho riêng
mình. Nếu một nước muốn mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế thì trong cách thức điều
hành sẽ thể hiện rõ quan điểm này và việc tự do hóa tài chính sẽ được thúc đẩy, không
chỉ tự do hóa tài chính trong nước mà mở rộng cả với nước ngoài. Còn nếu một quốc
gia theo quan điểm đóng cửa, với nền kinh tế không theo cơ chế thị trường mà mọi
hoạt động kinh tế đều được quyết định theo cơ chế tập trung, do nhà nước quyết định
thì thực sự sẽ không có tự do hóa tài chính tại những quốc gia này.
1.7.2. Điều kiện cần thiết để thực hiện tự do hóa tài chính
Cần phải có những điều kiện để thực hiện tự do hóa tài chính hay nói một cách
khác, đây chính là tiền đề để làm gia tăng lợi ích khi tự do hóa tài chính và đồng thời
giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Các nhà kinh tế cho rằng, các quốc gia khi tiến
hành tự do hóa tài chính cần chú ý những điều kiện cơ bản sau đây:
 Môi trường kinh tế vĩ mô lành mạnh;
 Cơ chế thị trường được vận hành tốt;
 Năng lực quản lý vĩ mô của chính phủ;

9
 Sự đầy đủ và đồng bộ của khuôn khổ pháp lý;
 Năng lực, sự phát triển của các định chế tham gia thị trường.

10
PHẦN 2. NGUYÊN TẮC, TRÌNH TỰ VÀ NỘI DUNG TỰ DO HÓA TÀI
CHÍNH

2.1. Nguyên tắc tự do hóa tài chính


Việc xây dựng lộ trình cũng cần phải tiến hành theo các nguyên tắc nhất định
nhằm tránh rủi ro. Nguyên tắc chung để tự do hoá tài chính là:
Nguyên tắc 1: Tự do hóa tài chính được thực hiện tốt nhất trong bối cảnh kinh tế
vĩ mô lành mạnh. Bởi vì những mất cân đối và bất ổn định kinh tế vĩ mô dễ làm trầm
trọng thêm những yếu kém của khu vực tài chính và tự do hóa tài chính trong bối cảnh
đó dễ dẫn đến bất ổn, thậm chí khủng hoảng tài chính. Nguyên tắc này bao hàm cả tính
hợp lý của các chính sách kinh tế vĩ mô trong đó đáng chú ý là sự nhất quán trong
chính sách kinh tế vĩ mô. Rủi ro bất ổn tài chính, tiền tệ có thể tăng khi chính sách vĩ
mô thiếu nhất quán. Tự do hoá hoàn toàn lãi suất ở những nước có tỷ lệ lạm phát cao
và không ổn định có thể dẫn tới mức lãi suất thực cao và chênh lệch lớn giữa lãi suất
tiền gửi và cho vay, đồng thời có thể biến động mạnh về tỷ giá làm cho các luồng vốn
không ổn định và giảm hiệu quả của việc kiểm soát tiền tệ.
Nguyên tắc 2: Tự do hóa tài chính phải gắn bó chặt chẽ với việc thiết lập một cơ
sở hạ tầng thể chế có thể giảm thiểu rủi ro bất ổn tài chính. Cần xây dựng và hoàn
thiện: các biện pháp giám sát tài chính thận trọng, luồng vốn ra vào và giám sát nội bộ;
quy trình minh bạch thông tin, hệ thống tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán, quản trị rủi ro
định chế tài chính; quy trình sáp nhập và thâu tóm, gia nhập và rút khỏi thị trường...
Nguyên tắc 3: Để có tốc độ tự do hóa tài chính thích hợp, tại từng thời điểm, cần
phải xem xét lại những điều kiện tài chính và sự lành mạnh của các định chế tài chính
cũng như thời gian cần thiết để tái cơ cấu các định chế này (nếu cần). Theo Chen và
cộng sự (2009), các điều kiện cần xem xét cho tự do hóa tài chính gồm: những đặc
trưng cơ bản của hệ thống tài chính (ngân hàng; phi ngân hàng, giám sát; cạnh tranh);
luật chơi cho quản trị rủi ro (hệ thống pháp lý; quản trị; vốn; kiểm soát tài chính và tài
khoản vốn); môi trường vĩ mô khuôn khổ chính sách tiền tệ như mục tiêu, quy chế
NHTW, công cụ chính sách tiền tệ; diễn biến lạm phát, tài khóa, và cán cân vãng lai và
cán cân thanh toán).
2.2. Trình tự tự do hóa tài chính
McKinnon (1982) lập luận rằng tự do hóa tài chính nói riêng và tự do hóa kinh tế
nói chung phải được tiến hành theo trình tự. Lý thuyết “Second Best” (chính sách tốt
nhất thứ hai) được áp dụng. Vấn đề phức tạp là ta có thể lập luận để ủng hộ cho bất cứ
trình tự tự do hóa nào dựa vào cách đặt giả thiết và quá trình không chỉ phụ thuộc vào
trình tự mà còn vào cả nhịp độ.
11
Sau đây là trình tự tự do hóa kinh tế được một số nhà kinh tế chấp nhận.

Sơ đồ 2.1. Trình tự tự do hóa tài chính theo lý thuyết của Mckinnon - Shaw

Tự do hóa tài chính

Giảm dự Bỏ kiểm Đa dạng Tăng Bỏ tín


trữ bắt soát lãi hóa sở cạnh dụng chỉ
buộc suất hữu tranh định

Giảm Cải cách


thâm hụt Cải cách thương mại tài khoản
ngân sách vốn

Quản lý tỷ giá hối đoái

(Nguồn: Nguyễn Xuân Thành, 2007)


Giảm thâm hụt ngân sách là bước đi cần thiết đầu tiên, đóng vai trò quan trọng
trong việc ổn định kinh tế vĩ mô, là nền tảng cho những cải cách tài chính tiếp theo.
Việc giảm thâm hụt ngân sách sẽ giúp gia tăng tiết kiệm nội địa, tăng đầu tư tư nhân,
hay làm giảm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Ngoài ra, giảm thâm hụt ngân sách
cũng giúp củng cố niềm tin đối với năng lực điều hành vĩ mô của chính phủ, qua đó
giúp bình ổn kỳ vọng lạm phát của người dân và của các nhà đầu tư. Nhờ đó, lạm phát
thực sẽ được kiểm soát tốt hơn, tạo ra sự ổn định giúp duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh
và bền vững của nền kinh tế.
Sau khi nền tảng vĩ mô lành mạnh được tạo dựng vững chắc, các cải cách tự do
hóa cần được tiến hành dần dần theo trình tự cụ thể. Trước tiên, nguồn cung tín dụng
cho nền kinh tế cần được khơi thông hơn nữa với biện pháp hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với hệ thống ngân hàng thương mại. Cùng thời điểm này, lãi suất cần thoát
khỏi sự kiểm soát của chính phủ, để trở thành chỉ báo thực giúp cân bằng quan hệ cung
cầu nguồn tín dụng trên thị trường. Hệ thống tài chính bắt đầu làm quen với sự điều
chỉnh từ chính sách tự do hóa.
Tự do hóa lãi suất sẽ thúc đẩy sự năng động của thị trường trong việc tìm kiếm
và sử dụng nguồn lực. Trong giai đoạn tiếp theo, nhằm mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh tính
hiệu quả của thị trường, chính phủ cần tiến hành tư nhân hóa khu vực tài chính, giảm
dần sở hữu nhà nước trong hệ thống ngân hàng thương mại, đặc biệt là có những chính
sách giúp gia tăng tính cạnh tranh trên thị trường tài chính trong nước, xóa bỏ tình
trạng độc quyền. Nhờ thoát khỏi sự trì trệ của sở hữu nhà nước, hệ thống ngân hàng
12
thương mại sẽ có điều kiện phát triển lên một tầm cao mới, hoạt động hiệu quả hơn
theo các nguyên tắc của thị trường. Đến thời điểm này, chính phủ về cơ bản là đã tiến
hành xong tự do hóa thị trường tài chính nội địa.
Cần có một khoảng thời gian nhất định để những chính sách tự do hóa nội địa
phát huy hiệu quả, thị trường làm quen với những thay đổi và vận hành thông suốt.
Trong giai đoạn tiếp theo, thị trường tài chính nội địa sẽ được mở cửa cho sự tham gia
của các thể chế tài chính bên ngoài, thị trường trong nước liên thông với thị trường
quốc tế. Cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, đòi hỏi các thể chế tài chính liên tục cải tổ
hoạt động, hiệu quả hơn nhằm thích nghi với hoàn cảnh mới.
Giai đoạn cuối cùng của quá trình tự do hóa là việc chính phủ dỡ bỏ hoàn toàn
việc kiểm soát tài khoản vốn. Các dòng luân chuyển tiền tệ dễ dàng lưu thông giữa các
thị trường quốc gia, khu vực và toàn cầu. Khu vực tài chính trong nước chính thức trở
thành một phần của hệ thống tài chính toàn cầu.
Quá trình tự do hóa tài chính nói trên không thể thiếu được hai quá trình song
song rất quan trọng là cải cách tự do hóa thương mại và cải cách chính sách tỷ giá. Tự
do hóa tài chính có thể đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế bằng cách gia tăng về lượng và
về hiệu quả vốn đầu tư. Tuy nhiên, lượng vốn gia tăng phải được phân bổ trên cơ sở
các tin hiệu đúng về giá vào những ngành có lợi thế so sánh và có suất sinh lợi xã hội
cao. Do vậy, cải cách thương mại cần phải được tiến hành song song để giảm thiểu
những biến dạng về giá do các rào cản thương mại gây ra.
Lý do cải cách thương mại phải được thực hiện trước việc nới lỏng kiểm soát
ngoại hối và cải cách tài khoản vốn là tự do hóa tài khoản vốn thường dẫn tới dòng
vốn chảy vào, rồi làm tăng đột ngột và tỷ giá hối đoái bị lên giá. Động thái này tạo ra
các tín hiệu giá mâu thuẫn với cải cách thương mại: tỷ giá hối đoái lên giá làm suy
giảm khu vực xuất khẩu trong khi cải cách thương mại là để tăng cường khu vực này.
Quản lý tỷ giá hối đoái là nhiệm vụ cần được tiến hành trong suốt quá trình tự do
hóa với vai trò vừa là công cụ, vừa là mục tiêu. Việc lựa chọn cơ chế tỷ giá hối đoái
(thả nổi, cố định, biên độ giao động thay đổi,...) tùy thuộc vào tình hình kinh tế cũng
như bước đi cụ thể đang tiến hành trong quá trình cải cách.
2.3. Nội dung tự do hóa tài chính
Nội dung cơ bản của tự do hoá tài chính gồm 4 vấn đề: Tự do hoá lãi suất, tự do
hoá tỷ giá hối đoái, tự do hoá hoạt động của các tổ chức tín dụng, các định chế trên thị
trường tài chính và tự do hóa giao dịch vốn.

13
2.3.1. Tự do hóa lãi suất
 Khái niệm
Tự do hoá lãi suất trong tiếng Anh được gọi là Interest Rate Liberalization.
Tự do hoá lãi suất là cơ chế lãi suất trong đó có rất ít hoặc không có sự can thiệp
của các cơ quan chức năng vào việc hình thành lãi suất mà lãi suất được hình thành
trên cơ sở thị trường, vận động theo qui luật cung cầu.

 Bản chất
Tự do hoá lãi suất được hiểu là lãi suất hoàn toàn được điều chỉnh theo yêu cầu
của thị trường. 
Sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương đối với lãi suất thị trường được điều
hành thông qua các công cụ gián tiếp như lãi suất tái chiết khấu hay tái cấp vốn để tác
động lên cung cầu vốn trên thị trường tiền tệ nhằm xác lập mức lãi suất cân bằng. 
Như vậy tự do hoá lãi suất có thể được hiểu là việc tháo bỏ hoàn toàn các ràng
buộc về lãi suất trong nền kinh tế, cho phép lãi suất trong nền kinh tế đạt tới điểm cân
bằng của nó. 
Thực chất của tự do hoá lãi suất là một quá trình loại bỏ các qui phạm, giới hạn
bất hợp lí, loại bỏ tối đa các kiểm soát về lãi suất trong kinh doanh tiền tệ của khu vực
trung gian tài chính và thay thế bằng các biện pháp điều tiết lãi suất gián tiếp của Ngân
hàng Trung ương thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ.
Trong điều hành chính sách lãi suất, Ngân hàng Trung ương chỉ công bố các mức
lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn của mình
đối với các tổ chức tín dụng. 
Các mức lãi suất tiền gửi, cho vay cụ thể theo từng thời kì, từng đối tượng của
các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định, dựa trên
cung cầu vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó hình thành nên mức lãi suất phản
ánh đúng nhu cầu thị trường. 
Khi muốn điều hành lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng trong nền kinh
tế, phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn, Ngân hàng Trung
ương sẽ thực hiện thông qua điều hành lãi suất tái chiết khấu của mình đối với các tổ
chức tín dụng, từ đó tác động đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và cuối
cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín dụng.

14
 Lợi ích
Tự do hóa lãi suất góp phần làm cho các dòng vốn trong xã hội được tự do lưu
chuyển đến bất kì đâu, tùy thuộc vào ý muốn của nhà đầu tư mà không phải gặp bất cứ
sự ngăn cản phi kinh tế nào. Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm, phản
ánh nhu cầu đòi hỏi của thị trường.
Nhờ có quá trình tự do hóa lãi suất mà dòng vốn được lưu chuyển từ nơi có lợi
nhuận thấp đến nơi có lợi nhuận cao, từ nơi nhiều rủi ro đến nơi mức rủi ro thấp hơn,
từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô, tăng vốn đầu tư
phát triển sản xuất, giúp các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển
mạnh và có hiệu quả.

 Điều kiện thực hiện


Để tự do hoá lãi suất, cần có những điều kiện sau: 

 Một là, hành lang pháp lí cho hoạt động kinh tế tài chính đã tương đối đồng
bộ và hoàn chỉnh;
 Hai là, thị trường tài chính gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán
đã ra đời và vận hành hiệu quả;
 Ba là, các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để và có
hiệu quả;
 Bốn là, môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và tương đối chắc chắn;
 Năm là, hệ thống ngân hàng ổn định và hoạt động hữu hiệu;
 Sáu là, các nguồn lực trong nước như vốn, tài nguyên, lao động ... đã được
phân phối và sử dụng tương đối hợp lí.
2.3.2. Tự do hóa tỷ giá hối đoái
 Khái niệm
Tự do hoá tỷ giá hối đoái trong tiếng Anh được gọi là Exchange Rate
Liberalization.
Tự do hoá tỷ giá hối đoái là để cho diễn biến tỷ giá hối đoái trên thị trường biến
động dưới tác động của quan hệ cung cầu là chủ yếu, cơ quan quản lí Nhà nước tránh
sự can thiệp trực tiếp và thái quá.

 Ý nghĩa
Xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra rất nhanh chóng. Việc giao lưu, thông
thương hàng hoá giữa các nước ngày một gia tăng. Tỷ giá hối đoái là một trong những
nhân tố ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến hoạt động đó.
15
Vì vậy, yêu cầu các quốc gia dần phải từ bỏ cách kiểm soát quá chặt chẽ tỷ giá,
đưa đồng bản tệ có khả năng chuyển đổi cao. Khi Chính phủ và Ngân hàng Trung
ương từ bỏ việc can thiệp của mình và để cho tỷ giá được tự do xác định trên thị
trường thì nước đó đang theo đuổi chính sách tỷ giá tự do.
Vì vậy, tự do hoá tỷ giá là một quá trình tiến tới cho phép tỷ giá được tự xác định
trên thị trường.

 Nội dung
Tự do hoá tỷ giá hối đoái bao gồm những nội dung chính sau: 

 Thứ nhất, bãi bỏ tỷ giá cố định với việc công bố tỷ giá chính thức. 
 Thứ hai, nới lỏng biên độ giao dịch và tiến tới xoá bỏ biên độ giao dịch tỷ
giá trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại. 
 Thứ ba, để cho tỷ giá biến động theo tương quan cung cầu trên thị trường
và chỉ can thiệp có giới hạn khi xét thấy cần thiết.
 Điều kiện thực hiện
Tự do hoá tỷ giá cũng tiềm ẩn trong đó những bất ổn nhất là đối với những nền
kinh tế đang phát triển. Chẳng hạn như tỷ giá cao ảnh hưởng tới việc nhập khẩu, tỷ giá
thấp ảnh hưởng tới xuất khẩu ... bên cạnh đó còn các vấn đề kinh tế khác sẽ có những
diễn biến xấu khi tỷ giá thay đổi quá đột ngột như tỷ lệ lạm phát, lượng cung cầu ngoại
tệ.
Vì vậy, không một cơ chế của quốc gia nào về tỷ giá lại thả nổi hoàn toàn, vì như
vậy, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước sẽ bị triệt tiêu. Chính vì vậy, hầu hết các
nước áp dụng cơ chế tự do hoá tài chính, thì tỷ giá cũng sẽ được thả nổi nhưng có
quản lí, nghĩa là không thả nổi hoàn toàn.
Để thực hiện tự do hoá tỷ giá hối đoái phải có một số điều kiện nhất định: 

 Một là, thị trường hối đoái phải được hình thành trước và hoạt động trôi
chảy;
 Hai là, lưu thông tiền tệ trong nước tương đối ổn định và được kiểm soát
tốt. Ba là, hoạt động kinh tế tài chính đối ngoại phải tương đối ổn định;
 Bốn là, dự trữ ngoại hối phải đủ lớn, cán cân vãng lai thặng dư và tương đối
ổn định;
 Năm là, hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế hoạt động hiệu quả và ổn
định.

16
2.3.3. Tự do hóa hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác
trên thị trường tài chính
 Khái niệm:
Tự do hoá hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế tài chính nghĩa là
xóa bỏ sự can thiệp trực tiếp của Chính phủ vào quá trình hoạt động các tổ chức này,
để các tổ chức này hoạt động theo quy luật thị trường.
Tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên trên thị trường tài chính được
hiểu là việc xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các tổ chức tài chính thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau, giữa các loại hình tổ chức tài chính, giữa các tổ chức tài chính trong
nước và tổ chức tài chính nước ngoài (giới hạn về phạm vi hoạt động, hình thức cung
cấp, huy động vốn...). Đồng thời, mở rộng hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính, từng
bước chuyển từ hoạt động cung ứng dịch vụ độc quyền của ngành ngân hàng sang thị
trường tài chính đa ngành.

 Biểu hiện của tự do hoá hoạt động của các tổ chức tín dụng và các định chế
tài chính:
 Loại bỏ kiểm soát lãi suất: Điều này được nhắc đến với việc loại bỏ kiểm
soát lãi suất nhận gửi và cả lãi suất cho vay đối với các ngân hàng.
 Giảm dự trữ bắt buộc
 Giảm thiểu sự can thiệp của Nhà nước đối với các quyết định cho vay của
các ngân hàng, xóa bỏ tín dụng chỉ định đối với các ngân hàng thương mại
 Tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh
 Sự mở rộng hơn nữa các định chế tài chính trong nước và gia nhập của các
tổ chức tài chính nước ngoài tăng lên
 Tác động của tự do hóa hoạt động của các tổ chức tài chính:
Việc xoá bỏ các rào cản và trở ngại cung cấp dịch vụ tài chính làm áp lực cạnh
tranh tăng lên trong lĩnh vực tài chính, buộc các định chế kém thích nghi hơn phải rút
khỏi thị trường và khiến cho các dịch vụ tài chính tăng lên cả về số lượng và chất
lượng và cuối cùng khách hàng là người hưởng lợi.
2.3.4. Tự do hóa giao dịch vốn
 Khái niệm
Một cách đơn giản, giao dịch vốn (GDV) là những giao dịch liên quan đến
chuyển vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, tự do hóa GDV là quá
trình dỡ bỏ dần những hạn chế áp dụng đối với những giao dịch này. Đối với người

17
dân, tự do hóa GDV cho phép họ thực hiện các hoạt động ở nước ngoài như mở tài
khoản ngân hàng, tham gia hoạt động đầu tư nhằm đạt lợi nhuận cao. Các doanh
nghiệp được phép đầu tư và sở hữu những công ty khác, các dòng vốn được tự do lưu
chuyển từ nơi có tỷ suất sinh lợi thấp sang nơi có tỷ suất sinh lợi cao.

 Biểu hiện của tự do hóa các giao dịch vốn :


 Cho phép người không cư trú sở hữu các tài sản tài chính trong nước ở cả
dạng giấy tờ nợ hoặc cổ phiếu;
 Cho phép người cư trú nắm giữ tài sản tài chính nước ngoài;
 Cho phép cả người cư trú và người không cư trú được tự do nắm giữ và trao
đổi các tài sản tài chính trên thị trường nội địa, đây là mức độ cao nhất của
tự do hóa các giao dịch vốn, đồng thời cũng là mức độ cao nhất của tự do
hóa tài chính.
 Tác động của tự do hóa giao dịch vốn:
Lợi ích:
Hình thành sự bình đẳng trong hoạt động đầu tư tài chính, các luồng vốn luân
chuyển linh hoạt và hiệu quả, tạo điều kiện tiếp cận các luồng vốn quốc tế tăng vốn
đầu tư trong nước, chuyển giao công nghệ và phát riển thị trường tài chính;
Nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn vốn, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn
vốn trong và ngoài nước với chi phí thấp, nâng cao tính tự chủ của nhà đầu tư và khả
năng phản ứng của thị trường, góp phần hoàn thiện thể chế;
Việc mở cửa thị trường tín dụng làm tăng tính linh hoạt của các doanh nghiệp
trước những biến động về hàng hóa và lợi nhuận.
Rủi ro:
Bên cạnh những thuận lợi, tự do hóa GDV cũng tạo ra sự đa dạng hóa các rủi ro
phát sinh.
Nếu chính sách vĩ mô không đủ mạnh và quản lý tài chính yếu kém, việc gia tăng
luồng vốn vào quá mức sẽ gây ra những rủi ro đáng kể đối với nền kinh tế.
Tự do hóa GDV tác động mạnh đến hệ thống ngân hàng, cả chính sách tiền tệ của
Ngân hàng Trung ương và hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng, các tập
đoàn và ngân hàng lớn ngày càng có ảnh hưởng mạnh đến chính sách của các quốc
gia. Quá trình tự do hóa GDV ảnh hưởng đến các NHTM – thành viên trực tiếp tham
gia các GDV quốc tế và thông qua hoạt động của những khu vực khác trong nền kinh
tế, gây khó khăn về quản lý tài sản, nhất là trong việc điều chỉnh tỉ giá, lãi suất, phòng

18
ngừa rủi ro nhằm cân bằng lợi ích giữa việc nắm giữ ngoại tệ và nội tệ cũng như cơ
cấu tiền gửi và cho vay.
Trong quá trình tự do hóa GDV, các luồng vốn vào ngày càng tăng mạnh. Trong
đó, luồng vốn vào quá mức có thể dẫn đến tăng trưởng kinh tế quá nóng, nếu tiền cung
ứng tăng quá mức so với tăng trưởng GDP thực tế sẽ làm tăng tổng phương tiện thanh
toán (M2), gây áp lực lạm phát và biến động về tỉ giá hối đoái, làm tăng thâm hụt cán
cân vãng lai, nhất là khi sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu,
làm thay đổi cơ cấu tài trợ và tiềm ẩn rủi ro cán cân thanh toán và tính thanh khoản của
hệ thống ngân hàng.
Trong xu thế toàn cầu hóa, chu chuyển các luồng vốn giữa các quốc gia tăng
mạnh cả về quy mô và tốc độ, mỗi quốc gia cần có chính sách và biện pháp đối phó
thích hợp nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng bền vững. Đặc biệt là,
cần xác định rõ liều lượng, lộ trình và thời điểm áp dụng chính sách, trước hết cần dựa
trên mục tiêu kinh tế của nước thụ hưởng, cơ chế tỉ giá, các quy định về thể chế. Trong
đó, cần xác định được động cơ và nguyên nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn,
tác động của nó đến nền kinh tế và hệ thống tài chính. Nếu luồng vốn vào do cầu tiền
trong nước tăng lên, giá chứng khoán và bất động sản giảm, dẫn đến điều chỉnh danh
mục đầu tư và không cần can thiệp vì việc mở rộng tiền sẽ không gây áp lực lạm phát.
Trái lại, khi luồng vốn vào do lãi suất thế giới thấp hơn, giá của tài sản tài chính và bất
động sản tăng lên, trường hợp này cần có biện pháp điều chỉnh.
Luồng vốn vào quá nhiều đòi hỏi phải can thiệp nhằm giảm áp lực tăng M2,
nhưng rất tốn kém, hiệu quả của biện pháp này tùy thuộc vào trình độ phát triển thị
trường tài chính trong nước, thậm chí có thể làm nguồn vốn vào tăng trở lại, gây khó
khăn cho các nhà tạo lập chính sách, việc điều hành chính sách tiền tệ trở nên khó
khăn nếu đồng thời phải thực hiện mục tiêu ổn định tỉ giá, duy trì chính sách tiền tệ
độc lập và tài khoản vốn mở.
Tự do hóa giao dịch tài chính quốc tế mà trọng tâm là GDV là vấn đề quan trọng
nhưng rất phức tạp và cần được tiến hành một cách có trật tự và thận trọng, tùy thuộc
và điều kiện của mỗi nước, những lợi ích tiềm năng và khả năng cạnh tranh của hệ
thống tài chính. Quá trình này cần được bắt đầu bằng tự do hóa luồng vốn FDI, đồng
thời phải lành mạnh hóa hệ thống tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính và giám
sát chặt chẽ thị trường tài chính.

19
PHẦN 3. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tự do hóa tài chính bao gồm việc bãi bỏ quy định đối với tài khoản vốn của khu
vực nước ngoài và khu vực tài chính trong nước. Thị trường tài chính thực hiện một số
chức năng cung ứng và luân chuyển vốn trong nền kinh tế. Về cơ bản, quá trình tự do
hóa tài chính hỗ trợ huy động các nguồn lực tài chính, tạo điều kiện quản lý rủi ro,
phân bố nguồn lực cho các dự án hiệu quả nhất, giám sát việc sử dụng các nguồn lực
tài chính, thực hiện quản trị doanh nghiệp và cung cấp một hệ thống thanh toán giúp
giao dịch giữa các bên tham gia kinh tế hiệu quả hơn. Bãi bỏ quy định lãi suất dẫn đến
chuyển động hướng tới tư nhân hóa lãi suất, làm cho lãi suất trở nên phù hợp với thị
trường hơn là do nhà nước kiểm soát. Tự do hóa sẽ dẫn đến lãi suất cao hơn, cái thiện
quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, và tăng cường khả năng tiếp cận tài chính
của các khu vực thiếu hụt vốn. Điều này cũng khuyến khích tiền gửi, vì lợi nhuận từ
tiền gửi có giá trị hơn; do đó, người gửi tiền sẽ tìm cách thu được tiền lãi cao hơn từ
việc cải thiện lãi suất. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình thực hiện tự do hóa tài chính là
lãi suất cao hơn sẽ dẫn đến chi phí vốn cao hơn và điều này có thế dẫn đến lạm phát ở
một số quốc gia (Levine, 2001).
Williamson và Mahar (1998) cho rằng tự do hóa tài chính là giải phóng thị
trường và cho phép các yếu tố cung cầu xác định giá thị trường và tín dụng. Johnston
và Sundararajan (1999) nêu rõ rằng tự do hóa khu vực tài chính có thể bao gồm: Các
cải cách hoạt động được thiết kế đế bãi bỏ quy định, và chuyển đối hệ thống tài chính
và cấu trúc của nó nhàm đạt được một hệ thống tự do hóa theo định hướng thị trường
trong một khuôn khổ quy định phù hợp. Tự do hóa tài chính đề cập đến các biện pháp
nhằm làm loãng hoặc phá bỏ sự kiểm soát của pháp luật đối với cấu trúc thể chế, công
cụ và hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường trong các phân khúc khác nhau
của khu vực tài chính. Các biện pháp này có thể liên quan đến các quy định nội bộ
hoặc bên ngoài.
Tự do hóa tài chính cũng bao gồm tự do hóa thương mại đề cập đến việc loại bỏ
hoặc cắt giảm các hạn chế hoặc rào cản đối với việc trao đổi tự do hàng hóa và dịch vụ
giữa các quốc gia. Điều này bao gồm việc cắt giảm thuế quan (thuế và phụ phí) và các
trở ngại phi thuế quan (như các quy tắc cấp phép, hạn ngạch và các yêu cầu khác).
Việc nới lỏng hoặc xóa bỏ những hạn chế này thường được gọi là thúc đẩy thương mại
tự do. Tự do hóa thương mại làm giảm chi phí tiêu dùng, tăng hiệu quả và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế (Eichengreen, 2001).
Người đề xướng đầu tiên về kinh tế thị trường tự do là Adam (1776). Ông ủng hộ
"bàn tay vô hình" trong thiết lập các yếu tố của nền kinh tế, nền kinh tế theo cơ chế thị

20
trường tự vận hành, các lực lượng cung và cầu tương tác để mang lại trạng thái cân
bằng trong nền kinh tế của một quốc gia. Theo Adam (1776), thị trường tự do đòi hỏi
rất ít hoặc không có sự tác động của nhà nước, nó cũng cho phép các cá nhân hành
động theo tư lợi của họ liên quan đến các quyết định kinh tế. Điều này đảm bảo các
nguồn lực kinh tế được phân bổ theo mong muốn của các cá nhân và doanh nghiệp
trên thương trường. Quá trình tự do hóa tài chính được thực hiện thông qua các quy
định về việc đi vay nước ngoài của các tổ chức tài chính và các tập đoàn phi tài chính,
tỷ giá hối đoái trên nhiều thị trường và dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong một chế
độ tài khoản vốn được tự do hóa hoàn toàn, các ngân hàng và tập đoàn được phép tự
do đi vay ở nước ngoài. Yêu cầu dự trữ có thể được đưa ra nhưng thấp hơn 10%.
Ngoài ra, không có tỷ giá hối đoái được định giá thấp hơn hoặc cao hơn giá trị thực
cho các giao dịch vãng lai hoặc giao dịch vốn, cũng như không có bất kỳ hạn chế nào
đối với dòng vốn ra. Một hệ thống tài chính trong nước được tự do hóa hoàn toàn có
đặc điểm là thiếu sự kiểm soát đối với lãi suất cho vay và đi vay, thiếu sự kiểm soát tín
dụng, tức là không có trợ cấp cho một số lĩnh vực hoặc phân bổ tín dụng nhất định.
Ngoài ra, hoạt động thanh toán bằng ngoại tệ cũng được phép. Trong thị trường tự do
hóa tài chính hoàn toàn, các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ vốn cổ phần
trong nước mà không bị giới hạn tỷ lệ vốn cổ phần nắm giữ, cổ tức và lãi suất có thể
được chuyển về nước một cách tự do kể từ khi đầu tư ban đầu.
Trong mô hình tân cổ điển của Solow (1956), tự do hóa tài chính tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phân bổ nguồn lực quốc tế hiệu quả hơn. Nguồn lực chảy từ các
quốc gia dồi dào vốn (nơi mà khả năng hoàn vốn thấp) đến các quốc gia khan hiếm
vốn (nơi mà khả năng hoàn vốn cao). Dòng chảy của các nguồn vốn vào các quốc gia
đang phát triển làm giảm chi phí vốn của các quốc gia đang phát triển, tạo ra sự gia
tăng tạm thời trong đầu tư và tăng trưởng làm nâng cao mức sống người dân trong dài
hạn. Dựa trên quan điểm tân cổ điển thì tự do hóa tài chính huy động các khoản tiết
kiệm và phân bổ vốn cho các mục đích sử dụng hiệu quả hơn, cả hai đều giúp tăng
lượng vốn vật chất và năng suất của vôn. Bằng cách này, tự do hóa tài chính làm tăng
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tự do hóa tài chính làm tăng thu nhập, giảm nghèo, và do
đó giúp tăng trưởng kinh tế. Điều mà mô hình tân cổ điển dự đoán là việc tự do hóa tài
khoản vốn của một quốc gia nghèo sẽ tạm thời làm tăng thu nhập bình quân đầu người
của quốc gia đó. Sự gia tăng tạm thời về tăng trưởng có ý nghĩa quan trọng, bời vì nó
nâng cao vĩnh viễn mức sống của đất nước. Goldsmith (1969) khẳng định rằng thông
qua việc nâng cao hiệu quả và khối lượng đầu tư, trung gian tài chính thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Các ngân hàng và thị trường tài chính hoạt động hiệu quả giúp cung
cấp các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo, giúp thúc đẩy tăng trưởng thông qua các kênh
tiết kiệm và đầu tư.
21
McKinnon (1973) và Shaw (1973) nhấn mạnh tác động của khu vực tài chính
trong việc nâng cao mức tiết kiệm bằng cách tạo ra các động lực thích hợp, để một nền
kinh tế đạt được khối lượng tiết kiệm và đầu tư cao hơn. McKinnon (1973) và Shaw
(1973) phê bình các chính sách của chính phủ, tập trung vào việc hạn chế và kiểm soát
thị trường tài chính, còn được gọi là áp chế tài chính. Ngoài ra, các chính sách này bao
gồm: Việc quy định các mức lãi suất, chính phủ kiểm soát hoạt động tín dụng và quy
định hạn mức cấp tín dụng cho các ngân hàng, dẫn đến dư thừa cầu và luân chuyển
vốn không hiệu quả. McKinnon (1973) và Shaw (1973) cho rằng những chính sách
này là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tăng trưởng thấp ở nhiều nước đang phát triển trong
những năm 1950 và năm 1960. Cả hai đều lập luận ủng hộ tự do hóa thị trường tài
chính với lý do rằng điều này sẽ dẫn đến đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn, từ đó dẫn
đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Tự do hóa tài chính giúp dòng vốn cho hoạt
động tín dụng và đầu tư cổ phiếu có thế tăng lên, một lần nữa làm tăng sự sẵn có của
nguồn vốn cho đầu tư và tăng trưởng. Trong cả hai trường hợp, hạn chế về tài chính
của các doanh nghiệp được giảm bớt và đầu tư sẽ tăng lên, dẫn đến hiệu quả kinh
doanh cao hon. Do đó, các nước đang phát triển có hệ thống tài chính bị kìm hãm đã
tiến hành cải cách tài chính nhằm huy động các nguồn lực tài chính với lượng tiết kiệm
trong nước tăng lên thông qua khu vực tài chính chính thức. Giảm vai trò của các cơ
quan kiểm soát trực tiếp trong việc xác định phân bổ tín dụng, tăng cường sự luân
chuyển nguồn vốn giữa các chủ thể và mở rộng phạm vi các nguồn tài chính trong
nước. McKinnon (1973) và Shaw (1973) cho rằng các chính sách tự do hóa tài chính
sẽ loại bỏ sự méo mó do hành chính gây ra và có thể giúp mở rộng hình thành vốn
bằng cách làm tăng tổng cầu trong thực tế.
Tuy nhiên, Stiglitz (1989) cho rằng cần phải có một số hình thức can thiệp của
chính phủ, sử dụng một số công cụ điều hành thị trường tài chính. Stiglitz (2000)
khẳng định thêm rằng khi sự bất cân xứng thông tin là phổ biến trong thị trường giao
dịch và tài chính, ở các quốc gia có hành lang pháp lý bảo vệ thấp và quản trị điều
hành kém, tự do hóa tài chính sẽ không thúc đẩy tăng trưởng.

22
PHẦN 4. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH TRÊN THẾ GIỚI

Thực tiễn tự do hóa ở một số nước trên thế giới:


Các phương thức tự do hóa tài chính chủ yếu được chia thành: mở cửa hoàn toàn
và mở cửa dần dần. Mở cửa hoàn toàn có lợi cho cải cách nhanh chóng hoàn thành,
giảm xung đột trong cải cách, triệt tiêu “tính đảo ngược” có thể xảy ra trong cải cách,
tránh trùng lặp và đảo ngược quá trình cải cách giảm chi phí cải cách. Tuy nhiên, tiến
hành mở của hoàn toàn trong tình huống không có các điều kiện cần thiết sẽ có tác
động tiêu cực rất lớn. Mở cửa dần dần tạo thêm thời gian và không gian để tạo điều
kiện cải cách, không ngừng kiểm tra, kịp thời lựa chọn phương thức phát triển phù hợp
nhất với điều kiện quốc gia. Tuy nhiên, phương thức cải cách này diễn ra chậm, chi
phí tương đối cao, nhiều mâu thuẫn trong quá trình có thể xuất hiện và cản trở quá
trình cải cách. Các quốc gia đã lựa chọn các mô hình cải cách khác nhau tùy theo điều
kiện quốc gia và nhu cầu phát triển kinh tế.
Ví dụ với mô hình mở cửa hoàn toàn, Argentina từng nổi tiếng về tự do hóa tài
chính, lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán có độ mở cao, các biện pháp chủ yếu bao
gồm: hủy bỏ kiểm soát lãi suất và hướng dẫn kiểm soát tín dụng, hạ tỷ lệ dự trữ tiền
gửi, tư nhân hóa ngân hàng quốc doanh, hủy bỏ kiểm soát ngoại hối và hạn chế dòng
vốn.v.v.. Mặc dù tình hình kinh tế của Argentina đã được cải thiện kể từ những năm
1990, tài sản tài chính đã tăng lên đáng kể và lĩnh vực tài chính phát triển nhanh
chóng, nhưng những cải cách hoàn toàn cũng khiến hệ thống tài chính của Argentina
trở nên rất mong manh. Cuộc khủng hoảng đồng Peso Mexico năm 1995 đã châm ngòi
cho cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina, từ đó dẫn đến nhiều cuộc khủng hoảng
tài chính lớn nổ ra ở Argentina, đặc biệt là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2001-
2002. Vào cuối năm 2001, Argentina đã trải qua tình trạng mất giá tiền tệ, ngân hàng
bị tê liệt và tiền gửi cũng bị đóng băng. Cuộc khủng hoảng tài chính đã gây ra bất ổn
và bạo loạn xã hội trên toàn quốc, hàng chục nghìn người đã xuống đường biểu tình.
Tình hình chính trị rối ren, chỉ trong một tháng đã có 5 tổng thống bị thay thế liên tiếp.
Tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh và đến năm 2003, tỷ lệ nghèo xã hội ở Argentina vẫn dao
động quanh mức 60%. Nguyên nhân chính khiến cuộc cải cách của Argentina thất bại
là do ngành tài chính của Argentina đã quá cởi mở, các ngân hàng đa quốc gia chiếm
hơn 60% tài sản của ngành ngân hàng khiến chính phủ mất khả năng điều tiết và kiểm
soát vĩ mô, không thể chống lại tình trạng hoảng loạn tài chính, ngăn chặn tình trạng
tháo chạy vốn, gây hỗn loạn xã hội và bất ổn chính trị.
Vậy nhưng Vương quốc Anh và New Zealand đã đạt được sự phát triển kinh tế
đáng kể thông qua các cải cách tự do hóa tài chính hoàn toàn. Cùng thực hiện một

23
cuộc cải cách mở cửa hoàn toàn nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược. Tại sao cuộc
cải cách của Argentina lại thất bại đến vậy? So với Vương quốc Anh và New Zealand,
Argentina thiếu nền tảng kinh tế vĩ mô ổn định và quy định tài chính nhạy bén, hiệu
quả. Tự do hóa tài chính không phải là tự do hóa vô điều kiện mà phải thống nhất với
tiến trình kinh tế thị trường, với hành vi của chính phủ, doanh nghiệp và các định chế
tài chính và được điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi của môi trường kinh tế -
chính trị.
Với mô hình mở cửa dần dần, lấy Hàn Quốc làm ví dụ. Đầu những năm 1980,
Hàn Quốc bắt đầu từng bước thực hiện tự do hóa tài chính. Bước đầu tiên là thực hiện
tư nhân hóa các ngân hàng quốc doanh và nới lỏng giám sát phân bổ tín dụng ngân
hàng; bước thứ hai là phát triển thị trường tài chính trong nước và nới lỏng các hạn chế
về kinh doanh chéo của các tổ chức tài chính; bước thứ ba là từng bước nới lỏng kiểm
soát dòng vốn, kiểm soát lãi suất. Về kết quả cải cách, GDP của Hàn Quốc tiếp tục
tăng trưởng, tiết kiệm và đầu tư tăng ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt, cạnh tranh
trong ngành tài chính ngày càng gay gắt và chuẩn hóa, mức độ tự do hóa tài chính tăng
lên. Tuy nhiên, cải cách tài chính của Hàn Quốc chưa triệt để, ngoại trừ bước đầu tiến
hành rất tốt, các biện pháp còn lại đều rất chậm. Bên cạnh đó thì cũng có Mỹ, Nhật
Bản và các quốc gia khác đã thực hiện thành công các cải cách tự do hóa tài chính theo
mô hình mở cửa dần dần.

24
PHẦN 5. TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM

5.1. Thực trạng Việt Nam


Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật. Năm 1986 Việt Nam đã thi hành
chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở cửa. Xu thế ngày càng được khẳng
định bằng một loạt các mối quan hệ mới được thiết lập như tham gia ASEAN (1995),
APEC (1998) ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (2000),... Hệ thống tài chính
cũng có những cải tổ căn bản theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa từng bước.
Song song với nó là hệ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn
bản vào những năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp. Ngân hàng Nhà nước
và Ngân hàng thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ này đã đem đến
những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực làm cho hệ thống ngân hàng ngày
càng thích ứng với cơ chế thị trường hơn. Về lãi suất cũng từng bước thay đổi để thích
hợp với những thay đổi của đất nước.
Trước 1989: Lãi suất thực âm.
1989-1990: Bắt đầu thực hiện chính sách lãi suất dương.
1992-1996: Lãi suất thực dương, có trần lãi suất tín dụng, quy định lãi suất tiền
gửi.
1996-1997: Lãi suất thực dương, xóa bỏ quy định lãi suất tiền gửi. Áp dụng
chênh lệch lãi suất cho vay và tiền gửi là 0,35%.
1998: Xóa bỏ chênh lệch lãi suất.
1999: Hợp nhất lãi suất cho vay ngắn hạn và dài hạn.
2000-5/2001: Xoá bỏ kiểm soát lãi suất tiết kiệm ngoại tệ. Thực hiện chính sách
lãi suất cơ bản.
Về tỷ giá cũng có những điều chỉnh:
Trước năm 1989: Tỷ giá cố định.
1989-1992: Tỷ giá thả nổi.
1992 đến nay: Tỷ giá thả nổi có quản lý.
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam có phần mở rộng hơn đối với hoạt động của
các công ty bảo hiểm nước ngoài. Chính sách mở cửa được thực hiện bắt đầu năm
1993 khi Chính phủ ban hành Chỉ thị 100/CP cho phép các nhà bảo hiểm nước ngoài
được phép đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức liên doanh, mở chi nhánh, hoặc

25
100% sở hữu vốn nước ngoài. Hiện giờ có 16 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Thị trường chứng khoán Việt Nam mới được thành lập 7/2000. Nó mới sơ khai
và chưa ổn định, song nó là một mốc son đánh giá cho quá trình cải cách mở cửa thu
hút vốn đầu tư nước ngoài và mở rộng hoạt động của thị trường tài chính trong nước.
Đánh giá được thực tế của mình Việt Nam đang thực hiện bước trung gian để
tiến tới tự do hoá tài chính đó là tài chính hạn chế để dần dần mở cửa nền kinh tế nói
chung và dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Tài chính hạn chế là bước quá độ tiến tới thị trường hoá các quan hệ và hoạt
động tài chính. Đó là một chính sách hợp lý và khoa học bởi vì trong điều kiện hiện
nay Nhà nước và Ngân hàng Trung ương không thể thả nổi hoàn toàn đối với hoạt
động của các ngân hàng thương mại, cũng như các tổ chức tín dụng. Chừng nào mà
chúng ta còn thiếu nhiều các điều kiện về luật pháp và các công cụ tài chính điều tiết
gián tiếp, Nhà nước và Ngân hàng Trung ương còn chưa có nhiều kinh nghiệm trong
điều hành và quản lý các hoạt động và các quan hệ tài chính của một nền kinh tế thị
trường vốn dĩ rất phức tạp thì khi đó các biện pháp và chính sách quản lý và điều tiết
trực tiếp vẫn là rất cần thiết có ý nghĩa quan trọng để tránh những mất ổn định và tỉnh
trạng hoạt động một cách vô chính phủ. Trong điều kiện nền kinh tế đang còn nghèo
nàn lạc hậu như vậy thì việc thực hiện tự do hoá lãi suất, thả nổi hoàn toàn tỷ giá hối
đoái và các hoạt động tài chính nói chung ngay lập tức sẽ tạo điều kiện cho các hoạt
động tài chính không lành mạnh phát triển, phá vỡ sự ổn định và phát triển hiện nay.
Bài học thực tế về sự buông lỏng quản lý đối với hệ thống các quỹ tín dụng nhân dân
vào những năm 1990-1991 và nghiêm trọng hơn là sự chủ quan trong quản lý các hoạt
động cung cấp vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại trong những năm qua đã là
những thiệt hại không nhỏ về kinh tế và xã hội.
5.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Thực tế đã cho thấy tự do hoá tài chính là một con đường rất gian khổ và lâu dài.
Hơn nữa mức độ thành công tự do hoá tài chính của các quốc gia khác nhau, thậm chí
còn gây hậu quả tiêu cực. Bất kỳ sự nhảy vọt nào cũng có thể dẫn tới tình trạng khủng
hoảng và cô chính phủ vì thế từ kinh nghiệm các nước rút ra bài học đối với Việt Nam.
Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp tục tiến hành mở cửa dần dần thị trường tài chính
với một phạm vi thích hợp với một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng cao dần
năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn
và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời
gian qua đã cho thấy rằng sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh

26
vực dịch vụ tài chính cũng đã mang lại những lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh
tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích lũy vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với
một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Phân tích
ở trên đã cho thấy rằng mặc dù đã có 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính
ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của
thời kỳ bao cấp. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ
bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế mà cần phải được
bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân
chủ yếu của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới (cùng với một số
nguyên nhân khác) là sự yếu kém của chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội
địa của các nước thi hành chính sách mở cửa. Do đó đã không đối phó nổi những trận
bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị
trường nếu quá đột ngột (tức là chưa nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa
đã tiến hành mở cửa) sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát
của Chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy cải cách và loại bỏ dần tính
hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với kinh tế thị trường
trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành
công khi tham gia hội nhập.
Thứ ba, Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ ra những cải cách
về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực, nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về
quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những điều
kiện quốc tế. Trong đó những cải cách về điều hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ
và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm
đối với nền kinh tế. Bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho
thấy việc duy trì một chế độ tỷ giá chính thức quá xa so với tỷ giá thực, việc thả lỏng
trong quản lý ngoại tệ và việc quá lạm dụng chính sách lãi suất để tác động vào nền
kinh tế một cách cưỡng bức trong một thời gian dài nếu không được điều chỉnh để tiến
gần hơn với những điều kiện quốc tế sẽ là một bất lợi lớn khi tiến hành mở cửa thị
trường và tham gia hội nhập, thậm chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng.
Thứ tư, Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch vụ
tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm
tạo ra một hành lang pháp lý ổn định để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm hơn
với việc sử dụng đồng vốn của mình đồng thời tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các
27
doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó đặc
biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của Chính phủ và
các cơ quan bảo vệ pháp luật, đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể
cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà
nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính.
Trước mắt cần xóa bỏ ngay đối với sự ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài bởi hiện tại có sự chênh lệch quá cao trong mức thuế thu nhập trong
doanh nghiệp giữa doanh nghiệp trong nước (32%) và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài (25%).
Thứ năm, Việt Nam cần tận dụng tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong
các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc
nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành viên, đặc biệt trong thời
gian chuyển đổi. Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều kiện tốt để
cơ cấu, cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững trước sự
du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do hoá hoàn toàn.
Trong thời gian trước mắt việc tham gia và thực hiện tốt các Hiệp định khu vực như
AFTA, APEC nên được đặt ở vị trí ưu tiên hàng đầu và coi đó là bước đệm - bước đúc
rút kinh nghiệm trước khi tiến hành tới đàm phán ra nhập WTO trong tương lai.
Cuối cùng khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, chúng ta
không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở hữu vốn của người nước ngoài
(cá nhân hoặc tổ chức) đồng thời kèm theo những ràng buộc về hình thức đầu tư và
nhân sự điều hành hoặc sử dụng lao động để đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và
duy trì sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường tài chính. Việc mở cửa thị trường
nên được tiến hành rộng rãi trước hết đối với thị trường bảo hiểm. Đối với lĩnh vực
ngân hàng và thị trường chứng khoán cần phải có những bước đi hết sức thận trọng
bằng những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến tới việc mở cửa một cách toàn diện
khi đủ điều kiện cho phép.

28
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đề tài nghiên cứu: “Tự do hóa tài chính: cơ sở lý luận, thực tiễn ở các nước và vấn đề
thực hiện ở Việt Nam”, Viện nghiên cứu tài chính Bộ tài chính.
2. Nguyễn Đình Tài, Tự do hóa tài chính đối với nền kinh tế chuyển đổi: Thực tiễn, vấn
đề và bước đi, Tạp chính ngân hàng số 13 năm 1998. 
3. Nguyễn Duy Thành (2007), Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Tài chính phát
triển, Trường Đại Học Fulbright Việt Nam
4. www.sbv.gov.vn
5. https://kinhtevimo.vn/tu-do-hoa-tai-chinh-la-gi-xu-huong-tu-do-hoa-tai-chinh-hien-
nay
6. F.S.Mishkin (1994), Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kỹ
thuật
7. wiki.mbalib.com/wiki/金融自由化
8. pide.org.pk/psde/wp-content/uploads/2017/12/Syed%20Fareed%20Ullah.pdf
9. www.wenmi.com/article/pyl4uo002hz7.html
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN

You might also like