Professional Documents
Culture Documents
Nhanluc 20140615
Nhanluc 20140615
Nhanluc 20140615
Cách đây 15 năm người viết bài này đã có cơ hội nghiên cứu và viết tập sách “ Quản lý nguồn
lực buồng lái”, Nhà xuất bản GTVT xuất bản năm 2000. Vào thời điểm đó, Quàn lý nguồn lực
buồng lái và buồng máy (BRM và ERM) thuộc nội dung Phần B, mang tính khuyến nghị của Bộ
luật STCW 78/95. Tuy nhiên lúc đó chương trình SIRE của OCIMF yêu cầu các sĩ quan boong tàu
dầu phải có chứng chỉ đào tạo quản lý nguồn lực buồng lái, cuốn sách đã có tác dụng tham khảo
cho đào tạo theo theo yêu cầu đó. Đến nay vấn đề này đã trở nên phổ biến với các đòi hỏi cao
hơn khi nó được nghiên cứu và đưa vào Phần A (bắt buộc) của Bộ luật STCW sửa đổi 2010. Bài
viết này nhằm trao đổi để cùng nhau thống nhất nhận thức và hiểu biết sâu hơn các nguyên tắc
cơ bản của ERM (cùng với BRM) mặc dầu từ lâu nội dung này đã trở thành các năng lực đào tạo
và cấp chứng chỉ cho tất cả sĩ quan vận hành boong, máy trên tất cả các loại tàu.
Vài thập niên gần đây, các phân tích cho thấy rằng 80% sự cố tai nạn hàng hải là bắt nguồn từ
sai sót của con người. Nguyên nhân sâu xa của sai sót này là sự xem nhẹ thực hành các nguyên
tắc cơ bản của việc quản lý các nguồn lực trên buồng lái và trong buồng máy. Một trong các sai
sót nghiêm trọng trong thực hành quản lý là thiếu trao đổi và xử lý thông tin, xem nặng yếu tố
kỹ năng kỹ thuật đơn thuần, xem nhẹ yếu tố kỹ năng con người phi kỹ thuật. Thực tiễn đã chỉ ra
rằng chỉ sử dụng kỹ năng kỹ thuật đơn thuần và sự khéo léo không đủ để ngăn chặn sự cố tai
nạn, nó phải được kết hợp hài hóa với kỹ năng con người phi kỹ thuật hàm chứa trong các
nguyên tắc quản lý nguồn lực trên buồng lái và trong buồng máy mới nâng cao được an toàn
hàng hải giảm thiểu tai nạn sự cố.
1
Vào năm 2010, đề xuất sửa đổi của Công ước STCW và Bộ luật đã được thông qua tại Hội nghị
ngoại giao họp ở Manila. Lần sửa đổi này bao gồm nhiều sửa đổi nội dung Công ước để đáp ứng
sự phát triển nhanh chóng của công nghệ đương đại và để loại bỏ sự mơ hồ của các quy định
trước đây. Một trong những sửa đổi đó là yêu cầu kiến thức và thực hành về quản lý nguồn lực
buồng lái và buồng máy ( viết tắt là BRM/ERM ), đã được đưa vào nội dung bắt buộc về năng
lực của sĩ quan boong và máy ở cấp độ vận hành.
Năng lực của sĩ quan máy được đưa vào trong Bảng A-III/1 “ Quy định về tiêu chuẩn năng lực tối
thiểu cho sĩ quan phụ trách ca trực máy…” của STCW sửa đổi 2010. Yêu cầu này bao gồm kiến
thức, sự hiểu biết và trình độ năng lực trong việc "Duy trì ca trực máy an toàn". Nó đòi hỏi sĩ
quan máy phải có các kiến thức hiểu biết và thực hành về ERM.
Trong thực hành ERM, điều quan trọng là phát triển sự hiểu biết dựa trên nhận thức về các
thành phần cấu thành ERM. Hơn nữa, ERM không thể thực thi nếu nó chỉ được hiểu bởi các
chuyên gia, nó rất thiết thực cho tất cả nhân sự buồng máy để cùng chia xẻ nhận thức chung
một cách thống nhất và phù hợp về sự cần thiết áp dụng ERM. Về phương diện này, các sĩ quan
ở cấp quản lý cũng cần phải nhìn nhận, cập nhật và soát xét lại ERM vào thời điểm hiện nay vì
nó đã trở thành một yêu cầu bắt buộc khi xem xét năng lực “Vận dụng kỹ năng lãnh đ ạo và
quản lý” như một yếu tố thiết yếu của ERM quy định trong bảng A-III/2 “ Kiểm soát hoạt động
của tàu và chăm sóc người trên tàu ở mức trách nhiệm quản lý” giành cho sĩ quan cấp quản lý.
Các yếu tố cấu thành ERM không phải là những ý tư ởng mới hoặc những khái niệm tưởng
tượng mơ hồ, nó đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh nhân sự trong hoạt động vận hành máy mà
trước đây có thể bị coi nhẹ. Vì vậy mọi người có thể thực hành ERM trên cơ sở hiểu biết mục
đích và sự cần thiết của các yếu tố cấu thành của nó, không phụ thuộc kỹ năng kỹ thuật mà
bằng cách áp dụng yếu tố con người phi kỹ năng kỹ thuật biểu hiện qua khả năng lãnh đạo, sự
quyết đoán, trao đổi thông tin, nhận thức tình huống và các yếu tố khác.
Quản lý nguồn lực buồng máy (ERM) là việc thực hiện phương pháp quản lý một cách thích hợp
các nguồn lực bao gồm nhân sự, trang thiết bị và thông tin trong buồng máy đồng thời sử
dụng hiệu quả các nguồn lực đó để ngăn ngừa các sự cố tai nạn gây tổn thất cho con người, con
tàu, tài sản trên tàu và môi trường biển.
Quản lý nhân lực trong ERM chính là công tác nhân sự về nguồn lực con người. Con người được
phân bổ, bố trí ra sao khi làm việc trong buồng máy vì mục đích an toàn hàng hải. Mỗi chức
danh phải hiểu rõ chức năng nhiệm vụ của mình, thực hiện nghiêm túc mệnh lệnh/chỉ thị, làm
2
việc gì, ở đâu, khi nào, ghi chép và báo cáo. Yêu cầu con người phải được đào tạo có đủ năng
lực chuyên môn phù hợp để thực hiện nhiệm vụ và được đào tạo để có năng lực quản lý, sử
dụng và kiểm soát thuyền viên khác có hiệu quả. Yêu cầu mỗi vị trí nhân sự phải thành thạo các
chức năng/tính năng kỹ thuật của thiết bị mà mình phụ trách, có khả năng sử dụng thông tin từ
các thiết bị đó và chứng minh sự đúng đắn các chức năng mà thiết bị đó thể hiện thông qua các
thông tin, dữ liệu từ chính thiết bị. Quản lý nhân sự trong buồng máy còn là một khái niệm về
hoạt động hợp tác của nhiều người để tránh sai sót của một người.
Quản lý thiết bị là quản lý vận hành và bảo dưỡng máy chính, máy phụ, phát huy công năng của
thiết bị thông qua theo dõi, chỉnh định, ghi chép, sửa chữa, phối hợp hoạt động các thiết bị,
chất lượng nhiên liệu, phụ tùng vật tư dự trữ …
Quản lý thông tin nghĩa là quản lý các biên bản, hồ sơ ghi chép thông tin, các thông số của thiết
bị, các nguồn thông tin khác như thông tin từ buồng lái, thông tin từ các vị trí nhân sự khác
nhau trong buồng máy…, cần hiểu biết đầy
đủ, chia xẻ, trao đổi thông tin, đánh giá, và
phản hồi thông tin hiệu quả.
Thực ra ba nguồn lực nói trên gắn chặt, đan xen lẫn nhau và tác động lẫn nhau để phát huy hết
hiệu năng của mỗi nguồn lực. Thực hành đầy đủ ERM là điều cần thiết để đảm bảo an toàn
hàng hải cho các hoạt động/tác nghiệp trong buồng máy như trực ca, đặc biệt khi tàu được
điều động vào hoặc rời cảng, neo đậu, tàu hàng hải trong khu vực tàu thuyền đông đúc, trong
tình huống tầm nhìn xa hạn chế, xử lý tình huống khẩn cấp…
3
Theo Bộ luật STCW sửa đổi 2010, chức năng của sĩ quan máy ở mức trách nhiệm vận hành được
quy định trong Bảng A-III/1 “ Quy định về tiêu chuẩn năng lực tối thiểu cho sĩ quan phụ trách ca
trực máy…”. trong đó yêu cầu sĩ quan boong phải có kiến thức, sự hiểu biết và thực hành về
Quản lý nguồn lực buồng máy (ERM) để duy trì ca trực máy an toàn.
Quản lý nguồn lực buồng máy diễn giải qua các yếu tố cấu thành trong nội dung năng lực “Duy
trì ca trực máy an toàn” bao gồm:
4
Sơ đồ trên đây mô tả khái quát mối tương quan các yếu tố nói trên.
Sơ đồ cũng cho thấy rằng trao đổi thông tin là yếu tố quan trọng, thiết yếu nhất bao trùm
trong thực hành ERM. Trao đổi thông tin còn là một nhu cầu thực tế cơ bản hỗ trợ cho khả
năng lãnh đạo và sự quyết đoán của sĩ quan trực ca. Trao đổi thông tin cũng có ý nghĩa hỗ
trợ cho việc xem xét/tham khảo kinh nghiệm của nhóm làm việc.
5
Có thể lấy vài thí dụ sau đây, kể cả minh họa bằng hình ảnh, như là các biểu hiện trao đổi
thông tin/giao tiếp không phù hợp, không thành công về quản lý nguồn lực thông tin trong
buồng máy:
d. Sự quyết đoán
Quyết đoán nói chung là yếu tố con người thể hiện thẳng thắn cảm nghĩ, lòng mong muốn,
sự tự tin và hành động với cá tính mạnh mẽ, trên cơ sở giao tiếp chân thành và bình đẳng
với mọi người mà không xúc phạm họ. Đối với nhân sự buồng lái ý muốn nói rằng sau khi có
sự phán đoán, suy xét cần thiết, bất kể vị trí và mối quan hệ thứ bậc ở nơi làm việc, thuyền
viên khẳng định sự phán xét của mình và không hề do dự hành động quả quyết nhằm duy trì
an toàn hàng hải, Đặc biệt, trong trường hợp khẩn cấp hoặc sau khi xem xét một cách chu
đáo về một sự việc nào đó, người chịu trách nhiệm tại chỗ đưa ra quyết định của mình với
lập trường kiên định, tuy nhiên, tránh sự quyết đoán không có cơ sở rõ ràng. Cũng có thể
vào những thời điểm cần thiết bạn yêu cầu một sĩ quan cao cấp giải thích sự phù hợp của
quyết định mà họ đã đưa ra, hoặc thậm chí cảnh báo một sĩ quan cấp trên nếu bạn xem xét
rằng họ đã thực hiện một quyết định không phù hợp. Do đó sự quyết đoán là một thuộc
tính vốn có của BRM / ERM.
6
nhân không thể thực hiện, thông qua hợp tác tạo ra giá trị lớn hơn giá trị cá nhân - giá trị
tập thể - đó là khă năng ãnh
l đ ạo. Lãnh đạo là một kỹ năng cần thiết để ảnh hưởng, tác
động đến người khác, biết động viên thực hiện nhiệm vụ chung, là một yếu tố con người
quan trọng và cần thiết để thực hành ERM .
Xem xét kinh nghiệm nhóm có nghĩa là luôn tính đến kinh nghiệm của tất cả các thành viên
của nhóm để đạt được mục đích an toàn hàng hải và trực ca. Đôi khi ngay cả thành viên mới
7
của nhóm cũng có thể có những kinh nghiệm và kỹ năng hữu ích cho người phụ trách nhóm
trong một số tình huống nhất định. Vì vậy người phụ trách nhóm phải hiểu rõ sự trải
nghiệm, kinh nghiệm của c ác thành viên trong nhóm. Hình dưới đây mô tả một cuộc họp
của nhóm làm việc.
Trong thực hành ERM, điều quan trọng là phát triển sự hiểu biết dựa trên nhận thức về các
thành tố của ERM. Hơn nữa, ERM không thể thực thi nếu nó chỉ được hiểu bởi các sĩ quan, nó
rất thiết thực cho tất cả nhân sự buồng máy để cùng chia xẻ nhận thức chung một cách thống
nhất và phù hợp. Về phương diện này, các sĩ quan ở cấp quản lý cũng cần phải nhìn nhận, cập
nhật và soát xét lại ERM vào thời điểm hiện nay vì nó đã trở thành một yêu cầu bắt buộc khi
xem xét năng lực “Vận dụng kỹ năng lãnh đạo và quản lý” như một thành tố thiết yếu của ERM
quy định trong bảng A-III/2 “ Kiểm soát hoạt động của tàu và chăm sóc người trên tàu ở mức
trách nhiệm quản lý” giành cho sĩ quan cấp quản lý máy.
&
& &
Nhắc lại ERM có thể bạn cho rằng không có gì mới mẻ, tuy nhiên nhận thức một cách sâu sắc,
toàn diện, gắn kết các nguyên tắc và yếu tố trong ERM với nhau để cải tiến hiệu quả công tác
quản lý trên tàu, đặc biệt xem xét nội dung công tác đào tạo huấn luyện ERM theo STCW, đã
sửa đổi 2010, giúp cho thuyền viên, sĩ quan máy hiểu rõ bản chất, thực hành ERM là thiết thực
tận dụng mọi nguồn lực buồng máy, góp phần nâng cao an toàn trực ca buồng máy./.