Professional Documents
Culture Documents
Hà Thanh Hà - 705616028.
Hà Thanh Hà - 705616028.
VNSS 425-K70QTDL.1_LT
SBD:…………………………………
Cán bộ chấm thi 1
Tên chủ đề:
(ký ghi rõ họ tên)
SỔ TAY DU LỊCH ĐIỆN BIÊN
……………………………………..
……………………………………
…
MỤC LỤC
Đặc biệt, cửa khẩu Tây Trang là cửa khẩu quan trọng của vùng Tây
Bắc và với cả nước, được hai nước Việt Nam - Lào thỏa thuận nâng cấp
thành cửa khẩu quốc tế và khu kinh tế cửa khẩu cũng được xây dựng.
1.2. Bối cảnh lịch sử hình thành:
Điện Biên là vùng đất cổ, là trung tâm của người Việt Cổ, các di tích
thuộc địa bàn như hang Thẩm Khương, Thẩn Búa đã chứng minh được
con người từ thời thượng cổ đã xuất hiện ở nơi đây.
Khoảng thế kỷ thứ 6, 7 tại vùng Vân Nam (Trung Quốc), quốc gia
Nam Chiếu ra đời.
Thế kỷ 9 - 10, Tại Mường Thanh, người Lự phát triển khá mạnh.
Thế kỷ 11-12, người Thái đen tràn xuống chiếm Mường Lò (Nghĩa Lộ)
và sau đó, những cư dân này theo thủ lĩnh của họ là Pú Lạng Chượng tràn
qua Than Uyên, Văn Bàn... song làm chủ cả Mường Lò (Nghĩa Lộ) qua
tới Mường La (Sơn La) và Mường Thanh (Điện Biên).
Năm 1463, trấn Hưng Hóa được thành lập. Mặc dù vậy, thủ lĩnh người
Lự vẫn làm chủ Mường Thanh.
Năm 1831, Minh Mạng đổi thành tỉnh Hưng Hóa.
Năm 1841, Thiệu Trị đặt cho tên gọi Điện Biên từ châu Ninh Biên; có
nghĩa: Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là vùng biên giới, biên ải.
Điện Biên tức là miền biên cương vững chãi của tổ quốc.
Ngày 28/6/1909, ngày Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập
tỉnh Lai Châu.
Chiều 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến - Quyết thắng" của Quân đội nhân
dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries. Chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Ảnh: Tư liệu TTXVN
Ngày 7/5/1954, sau 9 năm kháng chiến trường kỳ cùng với quân dân
của cả nước nhân dân tỉnh Điện Biên làm nên chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu giúp đất nước ta chấm dứt
80 năm nô lệ.
Ngày 26/9/2003, chính phủ đã ban hành Nghị định về việc thành lập
thành phố Điện Biên Phủ.
Ngày 26/11/2003, Quốc hội đã phê chuẩn việc điều chỉnh địa giới
hành chính tỉnh Lai Châu. Tỉnh Lai Châu được tách thành hai tỉnh Lai
Châu mới và Điện Biên.
1.3. Đặc điểm:
Trước hết là về địa hình: rất phức tạp, chủ yếu là đồi núi dốc, hiểm trở
và bị chia cắt mạnh. Cấu tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam với độ cao từ 200m tới hơn 1.800m. Địa hình thấp dần
từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông. Các thung lũng,
sông suối nhỏ hẹp và dốc xen lẫn với các dãy núi cao, đô sộ.
Bao gồm có thung lũng Mường Thanh rộng hơn 150km2, là cánh đồng
lớn và nổi tiếng nhất của vùng Tây Bắc. Núi bị bào mòn mạnh tạo nên
những cao nguyên khá rộng như cao nguyên A Pa Chải, cao nguyên Tả
Phình. Ngoài ra nơi đây còn sở hữu nhiều dạng địa hình khác như thung
lũng, sông suối, thềm bãi bồi, nón phóng vật, sườn tích,...
Tiếp đến là thời tiết: nhiệt đới gió mùa núi cao, mùa đông tương đối
lạnh và có ít mưa; mùa hạ nóng, mưa nhiều với các đặc tính thất thường,
phân hoá đa dạng, chịu ảnh hưởng của gió tây nên khí hậu khô và nóng.
Xét về mặt dân cư: có 598.856 người (2019), là nơi hội tụ sinh sống
của nhiều tộc người với 19 dân tộc anh em (Thái; Mông; Kinh; Dao; Khơ
Mú; Hà Nhì; Lào; Hoa (Hán); Kháng; Mường; Cống; Xi Mun; Si La;
Nùng; Phù Lá; Thổ; Tày; Sán Chay và dân tộc khác), tạo thành bức tranh
đa sắc màu cho nền văn hóa Điện Biên
Cuối cùng là hệ thống sông: rất phong phú với ba hệ thống sông lớn là :
Sông Đà
Sông Mã
Sông Mê Công
PHẦN 2. NỘI DUNG
Triển lãm được tổ chức ở tầng nổi của Bảo tàng với diện tích trưng bày
là 1.250m2 với khoảng 1000 tài liệu, hiện vật (nhiều chất liệu), hình ảnh,
bản đồ được đánh giá là một trưng bày hiện đại, được tổ chức khoa học
và mỹ thuật với sự hỗ trợ của các của kỹ thuật và công nghệ tiên tiến.
Phần trưng bày này được sắp xếp theo trình tự thời gian bao gồm một
không gian chung với 5 chủ đề: Sơ lược cuộc kháng chiến chống Thực
dân Pháp xâm lược; Chiến dịch Điện Biên Phủ (âm mưu của Thực dân
Pháp, chủ trương của ta, diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ); Ảnh hưởng
của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với trong nước và thế giới; Sự giúp đỡ
của mọi người thế giới trong chiến dịch Điện Biên Phủ
.
Ngoài các tài liệu, phòng triển lãm nào cũng có phối cảnh không gian
với các mô hình giả về người, vật, đồ vật và cây cối. Một không gian
khác cũng nổi bật không kém là phần trưng bày về công tác quân y với
các mô hình bác sĩ, y tá chăm sóc thương binh trong các hầm trú ẩn cả về
phía ta và Pháp, đã cho thấy thực tế đau thương của chiến tranh, sự khốc
liệt của súng đạn, pháo và bom mìn. Cùng với đó, toàn bộ phía trong tầng
2 của nhà bảo tàng được thiết kế bức tranh panorama, thể hiện lại toàn bộ
chiến dịch Điện Biên Phủ bằng những bức tranh được vẽ liên hoàn trên
tường trong cùng một không gian
Tất cả đã khái quát lên vẻ đẹp sinh động, sắc nét cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp của quân và dân ta trong 56 ngày đêm “khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của chiến dịch Điện Biên Phủ. Sự hoành
tráng trong thiết kế cùng thủ pháp trưng bày độc đáo như đưa người xem
trở lại chứng kiến cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc Việt Nam
trong suốt chiều dài những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
1.2.4.Đồi A1
Đồi A1 thuộc địa phận huyện
Mường Thanh, thành phố Điện Biên
Phủ, tỉnh Điện Biên. Đồi A1 là cứ
điểm quan trọng bậc nhất trong
nhóm cứ điểm của thực dân Pháp ở
Điện Biên Phủ. Đồi A1 nằm theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm
2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m, Đông Nam cao hơn 493m. A1 thuộc dãy
núi phía Đông cùng với C1, C2, D và E tạo thành bức tường thành vững
chắc bảo vệ phân khu trung tâm, là điểm cao cuối cùng trực tiếp bảo vệ
cho Sở chỉ huy quân Pháp và được ví như “chìa khóa” của cả tập đoàn cứ
điểm Điện Biên Phủ.
Di tích A1 (cứ điểm Elian 2) nằm bên cạnh quốc lộ279 (đường 7/5)
thuộc huyện Mường Thanh - thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện
Biên.Cứ điểm này cao 32 m so với mặt đường nó có diện tích 83.000 m2,
cách Sở chỉ huy Điện Biên Phủ của thực dân Pháp khoảng 500 m về phía
Tây theo đường chim bay. Hơn 2000 cán bộ, chiến sĩ của ta đã anh dũng
hi sinh. Cuối cùng quân ta đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm A1 vào 4h sáng
ngày 7/5/1954, mở toang cánh cửa thép tiến thẳng vào trung tâm của
Điện Biên Phủ.
Truyền thuyết Hoa Ban gắn liền với chuyện tình yêu mãnh liệt nhưng
cũng đầy nước mắt giữa nàng Ban và chàng Khum, được ví như mối tình
giữa Romeo và Juliet của phương Tây. Mặc dù trái tim nàng Ban đã dành
cho chàng Khum nhưng cha Ban chê Khum nghèo nên đã gả cô cho con
trai tạo mường. Thấy cha cùng nhà tạo mường bàn chuyện cưới hỏi, nàng
Ban chạy tìm người yêu cầu cứu. Đúng lúc chàng Khum đi xa. Tuyệt
vọng, nàng Ban bèn buộc chiếc khăn piêu của mình vào cầu thang nhà
Khum rồi vượt núi, vượt đèo tìm chàng. Cuối cùng, kiệt sức, nàng gục
xuống chết trên núi. Nơi đó sau này mọc lên một loài cây ra hoa trắng
muốt vào mùa xuân. Dân các bản mường liền gọi là hoa Ban và coi đó là
loài hoa tượng trưng cho hoa tình yêu chung thuỷ. Còn chàng Khum trở
về thấy nàng đã bỏ đi, bèn theo tìm. Cuối cùng, chàng cũng kiệt sức mà
chết, hoá thành con chim sống lẻ loi. Cứ đến mùa xuân, khi hoa ban nở,
chim lại cất tiếng gọi bạn tình da diết. Từ đó, mỗi khi xuân về, hoa ban
nở trắng núi rừng, trai gái vùng Tây Bắc lại rủ nhau đi hội, ca hát, múa
xoè và bày tỏ tình yêu đôi lứa.
Lễ hội hoa Ban hay còn gọi là lễ hội Xên Mường được người Thái ở
Tây Bắc tổ chức vào dịp tháng 2 âm lịch, khi hoa ban bắt đầu nở trắng cả
núi rừng Tây Bắc. Lễ hội thể hiện tấm lòng tôn kính tri ân của nhân dân
tưởng nhớ công lao to lớn của các vị nhân thần tiền bối và cầu cho quốc
thái, dân an, bản mường no ấm, quanh năm mưa thuận gió hòa, mùa
màng bội thu, gia đình hạnh phúc. thể hiện nét văn hóa tâm linh trong đời
sống tinh thần của đồng bào dân tộc Thái với tâm nguyện thỉnh bái
“Then” – vị thần tối cao trong hàng ngũ thánh thần theo quan niệm của
người Thái; thỉnh bái “nàng Ban” – một nữ nhân vật huyền thoại biểu thị
cho sự trinh trắng của người thiếu nữ Thái và tình yêu đôi lứa thuỷ
chung; thỉnh bái ma trời, ma mường, ma núi, ma sông… phù hộ cho mưa
thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, vạn vật đơm hoa, kết trái, cho lứa đôi
hạnh phúc và phù hộ cho cuộc sống của dân bản luôn đầm ấm, yên vui.
Phần lễ : Họ mang lễ vật lên hang Thẩm Lé cúng. Lễ gồm một con lợn,
mấy cành ban, hoa ban, chai rượu, hai bát gạo, hai bát cơm, vài nén
hương cùng với trầu cau. Thầy mo làm lễ cúng thần hang, thần rừng, cầu
cho dân chúng có suộc sống ấm no, sung túc.
Phần hội : Thanh niên trai gái bắt đầu vui hội hái hoa, sôi nổi với những
trò diễn độc đáo. Âm vang nhộn nhịp của tiếng pí, tiếng khèn, tiếng trống
chiêng. Con trai thổi khèn, con gái dập dìu múa điệu Thẩm Lé, điệu múa
dành riêng cho việc đi hái hoa ban. Các chàng trai thi nhau trèo lên các
cây ban hái hoa. Một cây có khi 5, 6 người trèo lên. Ở bên dưới, các cô
gái lấy cái ớp (gần giống cái giỏ) đón những bông hoa thả xuống. Anh
chàng nào có ý với cô gái nào thì thả vào chỗ cô đó. Các cô cũng vậy,
ưng anh nào thì cố mà đón lấy hoa của anh đó.
3.2 Lễ hội Thành Bản Phủ.
Di tích lịch sử Thành Bản Phủ - Đền thờ Hoàng Công Chất đã được
Nhà nước xếp hạng công nhận là Di sản văn hóa quốc gia. Lễ hội Thành
Bản Phủ cũng đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia,
hàng năm thu hút hàng vạn lượt khách du lịch và nhân dân các dân tộc
đến tham quan, thắp hương tưởng niệm.
Lễ hội Thành Bản Phủ được tổ chức hàng năm trong 2 ngày 24 -25/2
âm lịch để tưởng nhớ thủ lĩnh tướng quân Hoàng Công Chất. Vào thế kỷ
18, tại địa phương này, Hoàng Công Chất đã cùng tướng Ngải, tướng
Khanh là hai vị thủ lĩnh người dân tộc Thái ở Điện Biên lãnh đạo nhân
dân các dân tộc đánh đuổi giặc Phẻ, giải phóng Mường Thanh. Để có căn
cứ hoạt động lâu dài, Hoàng Công Chất đã cho xây dựng Thành Bản Phủ.
Phần lễ: mở màn là âm vang của tiếng trống oai hùng, sau khi cử hành
nghi thức chào cờ xong sẽ là 1 phút mặc niệm, nhằm tưởng nhớ tới những
vị anh hùng liệt sỹ đã hy sinh thân mình để bảo vệ cho sự bình yên của
Tổ quốc. Chúc văn giỗ tướng quân gồm có ba phần: anh linh, nhạc đệm
hùng tráng, nghi lễ rước, dâng lễ vật và tái hiện lại lịch sử dân tộc bằng
cách sân khấu hóa. Đoàn lễ rước gồm đội múa rồng, múa lân, đội rước
kiệu đều mặc trang phục lễ hội. Đoàn tế lính nghĩa quân sẽ mặc trang
phục như lính trận, tay cầm giáo, mác hướng lên trời. Đoàn cầm cờ và lực
lượng quần chúng phải hết sức nghiêm trang. Màn tái hiện lại lịch sử
phong trào khởi nghĩa của tướng quân Hoàng Công Chất bằng sân khấu
hoá gồm 3 phần chính là bối cảnh lịch sử, tướng quân lãnh đạo quân và
dân đánh đuổi giặc ngoại xâm, Mường Thanh hân hoan trong ngày giải
phóng. Từ đó, thể hiện tinh thần đoàn kết giữa đồng bào Tây Bắc và các
tỉnh miền xuôi.
Phần hội: diễn ra với sự háo hức chờ đón những niềm vui của người dân
và du khách thập phương. Ngoài những trò chơi lành mạnh, hoạt động
nghệ thuật- văn hóa còn có trưng bày triển lãm tranh, ảnh hay các di vật
của nghĩa quân Hoàng Công Chất”. Các trò chơi dân gian trong lễ hội
Bản Phủ như đua ngựa giết Phẻ, bắn nỏ, kéo co, đi cà kheo, đẩy gậy, tung
còn, cuộc thi nấu ăn, ẩm thực văn hoá các dân tộc; biểu diễn văn nghệ của
các đoàn nghệ thuật quần chúng. Những cô gái trẻ dân tộc Thái ai cũng
duyên dáng, dịu dàng trong trang phục truyền thống trên tay cầm chiếc
quạt rất sặc sỡ, nhịp nhàng trong điều múa uyển chuyển, đằm thắm, tạo
sự lôi cuốn đối với khán giả. Vòng xoè đoàn kết là đặc trưng của dân tộc
Thái trong lễ hội.
3.3 Lễ hội Hạn Khuống.
Hạn khuống là một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống của
người Thái, Điện Biên. Lễ hội thường được tổ chức sau vụ thu hoạch vào
tháng 11 hàng năm. Lễ Hạn Khuống do bên gái tổ chức thực ra là một
cuộc vui để tìm hiểu bạn đời sau đó chia tay về nhà chồng. Khi nói đến
Hạn Khuống, người Thái nghĩ ngay đến nơi hò hẹn – giao duyên bằng
những lời ca thắm tình của nam nữ thanh niên Thái, một nét sinh hoạt văn
hóa cổ xưa của người Thái. Có thể nói, lửa sàn Hạn Khuống sẽ thêm
thắm đượm tình người khi du khách, bạn bè gần xa đến giao duyên trên
sàn Hạn Khuống vào ngày lễ hội, dịp tết đến xuân sang.
Ngoài căn nhà sàn thân quen của mình, khi tiết trời sang xuân, khi
bản mường bước vào
mùa lễ hội, nam nữ
thanh niên Thái cùng
nhau vào rừng đốn
chặt lấy vài cây rừng
về dựng một sàn ở khu
đất trống giữa bản,
được gọi là Hạn
Khuống nơi để nam nữ
thanh niên Thái đến
khắp (hát) đối đáp. Trên sàn Hạn Khuống chuẩn bị dụng cụ cho nam
thanh, nữ tú hội tụ giao duyên; con gái Thái thì quay sợi, cán bông, dệt
vải, thêu thùa bằng chỉ màu các loại, có bếp củi để đốt lửa. Dụng cụ cho
trai Thái gồm có lạt xanh, lạt đỏ, lạt trắng để đan hom, đan giỏ, đan ớp,
hoặc đan các con vật để tặng bạn gái, người mà trai Thái có ý tỏ tình
trong đêm khắp đối giao duyên. Sàn Hạn Khuống dựng cao khoảng 1,2m
– 1,5m, rộng chừng 0,6m, dài chừng 5m, xung quanh có lan can được
trang trí hoa văn mang bản sắc dân tộc
Khi đã vào cuộc, ngoài khắp đối ra là lời ứng tác giữa một bên là trai
Thái, một bên là các cô chủ Hạn Khuống. Lời ứng tác tinh tế, sắc sảo thể
hiện sự thông minh, tài ba của những chàng trai, cô gái Thái. Khi đã cảm
phục tài ứng tác của các chàng trai trong hát đối, các cô gái thả thang
xuống chạm đất đưa tay níu mời các chàng trai lên sàn Hạn Khuống. Sau
khi lên Hạn Khuống, bên gái tiếp tục thử sức tài ba, lòng kiên trì, đối đáp
của bên trai là không cho ghế, bên trai lại khắp xin ghế ngồi. Cứ thế, xin
được ghế ngồi rồi lại khắp đối xin
ống điếu thuốc lào… Sau một loạt
các bài khắp, các chàng trai đã vượt
qua thử thách và được các cô gái
đồng ý cho dự cuộc vui đến thâu
đêm. Khi chàng trai và cô gái nào để
ý đến nhau, có tình cảm riêng với
nhau thì tự đến bên nhau để tỏ tình
bằng những lời khắp đối ân tình.
Sinh hoạt của lễ Hạn Khuống như có sức hút kỳ lạ nếu ta để tâm nghe
những lời khắp đối bằng những câu thơ nổi tiếng của người Thái trong tác
phẩm “Xống chụ xon xao” được người Thái Tây Bắc lưu truyền, diễn
xướng qua nhiều thế hệ và đón nhận trường ca đó bằng cả tình cảm nồng
thắm, thiết tha. Chính vì lẽ đó, Hạn Khuống là nét văn hóa mang đậm giá
trị tinh thần trong đời sống thường nhật, biểu trưng tình cảm của người
Thái. Khắp đối giao duyên trên sàn Hạn Khuống là sự kết tụ văn hóa Thái
Tây Bắc, mà ở đó khởi nguồn từ cuộc sống và được biểu hiện nét sinh
hoạt văn hóa tinh thần đầy cảm xúc của người Thái.