Professional Documents
Culture Documents
Đồ Án Tốt Nghiệp 2022
Đồ Án Tốt Nghiệp 2022
Ngày nay ô tô không chỉ là phương tiện chủ yếu để chuyên chở hành khách hóa, sự mạnh mẽ và vẻ đẹp
của chiếc xe thể hiện sự lịch lãm tạo ra phòng cách cho người chủ sử dụng. Tính tiện nghi cho người dùng
và sự thân thiện với môi trường sống sung quanh là hai tiêu chí đặt ra hàng đầu mà tất cả các cường quốc
về công nghiệp ô tô đều phải dựa vào đó để nghiên cứu phát minh để có thể tạo ra những sản phẩm tốt
đẹp.
Nhằm nâng cao khả năng tư duy cho sinh viên và khả năng hiểu biến về tính toán thiết kế mà bản thân em
lựa chọn đề tài “NGHIÊN CỨU VÀ TÍNH TOÁN HỆ THỐNG PHANH THỦY LỰC CHO XE
TẢI”. Em biết hệ thống phanh là hệ thống quan trọng và phức tạp đóng vai trò an toàn trong quá trình
hoạt động và di chuyển của xe, đặc biệt do ngày nay hệ thống giao thông ngày càng tiên tiến, xe hện đại
có vận tốc chuyển động ngày càng cao cho nên việc đi sâu vào nghiên cứu và hoàn thiện sự làm việc của
hệ thống phanh nhằm đảm bảo tính an toàn cao cho sự chuyển động của ô tô ngày càng cấp thiết.
Trong phần nghiên cứu và tính toán này em lựa chọn số liệu có sẵn của xe tải HUYNDAI HD700, các tài
liệu tham khảo và hướng dẫn tính toán thiết kế. Với khối lượng kiến thức thu thập và sự tìm hiểu thông
tin của bản thân nên em mong muốn sẽ có được sự giúp đỡ và chỉ bảo từ các thầy hướng dẫn.
Cuối cũng em xin chân thành cám ơn các thầy bộ môn, và đặc biệt là thầy Nguyễn Quang Huy và thầy
Nguyễn Đăng Tấn đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Long …………….
Lương Hoàng Long……....
CHƯƠNG 1: TỔNG QUÁT VỀ HỆ THỐNG PHANH
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống phanh trên ô tô
Hệ thống phanh đầu tiên được sử dụng trên những xe ngựa kéo. Loại xe này có tốc độ nhanh nhưng ngựa
lại không thể tự mình dừng xe này lại. Cơ cấu phanh đầu tiên làm chậm tốc độ bánh xe bằng một cần kéo
bằng tay. Một khối gỗ nhỏ đôi khi được bọc da sẽ tiesp xúc trực tiếp với vành bánh xe để làm giảm tốc
độ. Tuy nhiên trong điều kiện thời tiết ẩm ướt thì cơ cấu phanh này không mang lại hiệu quả.
Sau đó vào đầu thế kỉ 20 và qua khoảng thời gian dài về công nghệ phát triển đột phá hơn của xe. Lúc này
xe kéo không còn là công cụ số 1 mà được thay thế bằng xe hơi và tốc độ chạy vượt xa thời kì trước đó
rất nhiều. Vì thế sự hỗ trợ và sự an toàn của người sử dụng phương tiện cần được đảm bảo hơn nhờ đến
hệ thống phanh. Phanh đĩa được phát minh đầu tiên vào năm 1902 bởi một người anh tên là William
Lanchester. Tuy nhiên mãi đến cuối thế kỉ 20 phanh đĩa mới được áp dụng. Vấn đề chính nằm ở tiếng kêu
lớn khi phanh đĩa ma sát với má phanh bằng đồng và một vài nguyên nhân khác nữa. Trong sự nỗ lực
nhằm cải tiến công nghệ và áp dụng thực tiễn nhiều hơn, Henry Ford đã có bước cải tiến khi sử dụng bàn
đạp để điều khiển phanh và phanh tay đã được sử dụng cho các bánh sau trong trường hợp khẩn cấp. Nhờ
đó Louis Renault đã đưa hệ thống phanh tang trống vào lắp ráp với cải tiếng về guốc phanh và trống
phanh.
Phanh đĩa đã được sử dụng rộng rãi từ những năm 1949, sử dụng kẹp phanh thủy lực và má phanh tạo ra
từ vật liệu ma sát cao. Năm 197 hệ thống phanh ABS ra đời với sự xuất hiện của bộ điều khiển thủy lực
và cảm biến tốc độ bánh xe. Hệ thống phanh giờ đây hoạt động hiệu quả và chính xác hơn. Ngoài ra còn
có các hệ thống an toàn khác giúp cho việc phanh xe trở nên an toàn và chính xác hơn. Để có thể tìm hiểu
kĩ hơn phần tiếp theo sẽ phân tích rõ về công dụng, yêu cầu và phân loại của hệ thống phanh một cách cụ
thể.
a. Cơ cấu phanh tang chống đối xứng qua trục (Phanh guốc đối xứng)
Hình 1.2: Cơ cấu phanh guốc đối xứng qua trục
Cơ cấu phanh tang chống đối xứng qua trục (có nghĩa là gồm hai guốc phanh bố trí đối xứng qua
đường trục thẳng đứng) được thể hiện trên hình 1.2. Trong đó sơ đồ hình 1.2.a là loại sử dụng cam ép
để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này hay sử dụng trên ô tô tải; sơ đồ hình 1.2.b là loại sử dụng
xi lanh thủy lực để ép guốc phanh vào trống phanh, loại này thường sử dụng trên xe ô tô du lịch và ô
tô tải loại nhỏ.
Cấu tạo chung của cơ cấu phanh loại này là hai chốt cố định có bố trí bạc lệch tâm để điều chỉnh
khe hở giữa má phanh và trống phanh ở phía dưới, khe hở phía dưới trên được điều chỉnh bằng trục
cam ép (hình 1.2.a) hoặc bằng cam lệch tâm (hình 1.2.b)
Trên hai guốc phanh có tán (hoặc dán) các tấm ma sát. Các tấm này có thể dải liên tục (hình 1.2.b)
hoặc phân chia thành một số đoạn (hình 1.2.a).
Ở hình 1.2.b trống phanh quay ngược chiều kim đồng hồ và guốc phanh bên trái là guốc xiết, gốc
bên phải là guốc nhả. Vì vậy má phanh bên guốc xiết dài hơn bên guốc nhả với mục đích để hai má
phanh có sự hao mòn như nhau trong quá trình sử dụng do má xiết chịu áp suất lớn hơn.
Còn đối với cơ cấu phanh được mở bằng ép cam (hình 1.2.a) áp lực tác dụng lên hai bên má phanh
là như nhau nên độ dài của chúng bằng nhau.
Hình 1.15: Sơ bộ các cụm chi tiết của hệ thống dẫn động phanh khí nén
1-Máy nén khí; 2-Bầu lọc khí; 3-Van điều khiển;4-Đồng hồ áp suất;
5- Bàn đạp phanh; 6-Van an toàn; 7-Bình chứa khí; 8-Van phân phối (Tổng phanh)
9-Bầu phanh; 10- Cam phanh; 11-Lò xo cấu phanh; 12-Guốc phanh;
Hệ dẫn động điều khiển phanh bằng khí nén thường gồm các bộ phận chính sau: máy nén khí, bình
chứa khí nén, van phân phối, đường ống dẫn khí nén, các xi lanh công tác (bầu phanh), bộ phận chia
khí nén đến các bình chứa của các dòng dẫn động khác nhau và các van an toàn của hệ thống. Để giam
thời gian chậm tác dụng của cơ cấu phanh ở xa, người ta có thể bố trí các van gia tốc.
Máy nén khí sử dụng trong hệ thống dẫn động phanh trên các ô tô tải thường là máy nén dạng pít
tông có 2 xi lanh. Máy nén khí được thiết kế với năng suất sao cho các thể nạp nhanh nhất tất cả các
bình khí trên ô tô sau khi khởi động động cơ. Trong khi ô tô hoạt động, nếu hệ thống đã được cung cấp
đủ khí nén thì máy nén tạm thời ngưng cung cấp khí và chuyển sang chế độ không tải nhờ van điều
khiển tự động.
Van điều áp 3 đồng thời là van an toàn có nhiệm vụ điều chỉnh áp suất làm việc trong hệ thống
trong phạm vi giới hạn nhất định.
Bộ tách nước có tác dụng tách hơi nước lẫn trong không khí và ngưng tụ lại thành nước rồi xả ra
ngoài, tránh không cho hơi nước lọt vào các bộ phận trong hệ thống phanh và gây tổn hại đến hệ thống
(gây gỉ các bộ phận hệ thống phanh).
Tổng van (van phân phối chính) là cơ cấu phân phối khí từ các bình chứa đến các bầu phanh để tạo
ra lực tác động lên cơ cấu ép thực hiện quá trình phanh. Trong dẫn động phanh khí có nhiệm vụ điều
khiển quá tình cấp khí nén từ bình khí tới các bầu phanh tại các bánh xe. Yêu cầu cơ bản đối với tổng
van khí là tính chép hình, nghĩa là áp suất phanh tại các bánh xe phải tỉ lệ với lực tác dụng lên bàn đạp,
đồng thời ứng với mỗi vị trí của bàn đạp điềuk hiển áp suất phanh phải có một giá trị xác định tương
ứng.
Van bảo vệ có nhiệm vụ phân phối khí nén từ máy nén khí theo 2 mạch dẫn động tương ứng. Trong
trường hợp một trong các mạch có hư hỏng thì các van có nhiệm vụ ngắt mạch hư hỏng ra khỏi hệ
thống đảm bảo cho sự làm việc bình thường của mạch còn lại.
Theo nguyên lí làm việc, tổng van phân phối chia làm 2 loại: van phân phối tác dụng thuận và van
phân phối tác dụng nghịch. Theo cách dẫn động. Van phân phối dẫn động khí nén 1 dòng và van phân
phối dẫn động khí nén 2 dòng. Theo số lượng ngăn (khoang) van phân phối được chia ra làm:
một,hai,ba và nhiều ngăn. Các ngăn được bố trí nối tiếp, song song và kết hợp.
Hình 1.16: Mặt cắt van phân chia và bảo vệ các nguồn khí nén
1-Thân van; 2-Piston trung tâm; 3 -Các van một chiều; 4 Piston tỳ; 5,6,7 – Lò xo của piston
I-Cửa dòng khí từ bình khí nén; II- Cửa dòng khí đến bình khí nén;
III – Cửa dòng khi nén tới bình chứa
Hình 1.17: Mặt cắt ngoài chi tiết của van phân phối chính
Nguyên lý hoạt động:
Khi máy nén khí làm việc thì cấp khí nén tới các bình chứa khí nén và trước khi tới các bình khí thì
đi qua van bảo vệ 2 ngả từ van bảo vệ này thì dòng khí được chia làm 2 dòng tới 2 bình chứa khí nén
khác nhau. Khí nén vào cửa I của van bảo vệ nhờ áp lực của dòng khí đã được nén áp suất sao cho nên
mở van 1 chiều (3) và đi tới bình chứa.
Lúc đầu khi trong hệ thống làm việc bình thường thì pít tông trung tâm (2) ở vị trí giữa của hai van
1 chiều (3). Cho đến khi mà trong hệ thống phanh có 1 dòng nào đó bị hỏng thì van 1 chiều của bên đó
tự động đóng ngắt dòng khí đi vào trong hệ thống của dòng đó như vậy đảm bảo sự làm việc bình
thường của dòng đóng lại.
1.3.4.4. Cơ cấu phanh dẫn động bằng thủy khí kết hợp
Sơ đồ cấu tạo chung của hệ thống bao gồm hai phần dẫn động:
Dẫn động thủy lực: có hai xi lanh chính dẫn hai dòng dầu đến các xi lanh bánh xe phía trước và
phía sau. Dẫn động khí nén: bao gồm từ máy nén khí, bình chứa khí, van phân phối khí và các xi lanh
khí nén.
Phần máy nén khsi và van phân phối hoàn toàn có cấu tạo và nguyên lý làm việc như trong hệ
thống dẫn động bằng khí nén.
Đây là dẫn động thủy khí kết hợp hai dòng nên van phân phối khí là loại van kép, có hai xi lanh
chính và hai xi lanh khí.
Khi phanh làm việc thì cơ cấu chấp hành là gồm có pít tông thủy lực ở bầu phanh và cơ cấu dẫn
động là gồm có pít tông các mang, thanh đẩy và pít tông thủy lực, dầu phanh lúc nào cũng có trong hệ
thống, bầu phanh chính của các cơ cấu phanh cầu trước và sau.
Khối lượng
Kích thước
6770x2210x287
Dài x Rộng x Cao : mm
0
Chiều dài cơ sở : 3735 mm
Động cơ
Lốp xe
+ Yêu cầu đối với cơ cấu phanh đòi + Yêu cầu không cần cao về độ chính xác
hỏi chế tác và độ hoàn thiệt chi tiết trong chế tạo.
Chế tác chính xác. Việc lựa chọn vật liệu chế + Việc lựa chọn vật liệu chế tạo má phanh
tạo má phanh cần phải đạt đủ điều không cần quá tốt.
kiện .
Giá thành Giá thành của cơ cấu phanh đĩa sẽ cao hơn so với cơ cấu của phanh guốc.
2.1.2. Tính toán cơ cấu phanh guốc bằng phương pháp họa đồ
- Các lực trong cơ cấu phanh guốc dẫn động thủy lực dùng chung một xi lanh
Hình 2.2: Các lực trong cơ cấu phanh guốc
Giải thích:
+ P: Lực do dẫn động phanh sinh ra, cụ thể là do piston của xi lanh công tác (lực này biết phương,
chiều và điểm đặt, chưa biết độ lớn).
+ U: Phản lực từ chốt phanh tác dụng lên guốc phanh, điểm đặt của lực này được coi là đặt tại tâm
quay của guốc phanh, tuy nhiên, phương chiều và độ lớn thì chưa biết.
+ R: Phản lực của trống phanh tác dụng lên má phanh. Lực này chưa biết cả về điểm đặt, phương,
chiều và độ lớn.
Nhận xét: Các lực này nếu tìm bằng phương pháp giải tích thì rất khó xác định. Lựa
chọn phương pháp họa đồ để xác định các lực.
- Các thông số cơ bản của cơ cấu phanh guốc:
-
Hình 2.3: Các thông số hình học của cơ cấu phanh guốc
rt – ban kính tang trống. O - góc ôm của má phanh; a – tọa độ của điểm đặt lực P; hệ trục vuông
góc X-X và Y-Y; Các góc 1. 2 được tính từ trục Y-Y; c – khoảng cách từ tâm chốt guốc phanh tới
trục XX; - góc tạo bởi trục Y-Y và đường thẳng qua tâm đĩa đỡ phanh.
Ta lấy các thông số hình học của cơ cấu phanh guốc theo xe tham khảo:
2.2. Xác định góc (), bán kính () và điểm đặt lực (ro) của lực R
Hình 2.4: Góc () và bán kính ()
+ Góc giữa lực N và trục X-X được xác định như sau:
Qua hai công thức trên ta thấy các thông số và xác định điểm đặt lực R chỉ phụ thuộc vào các
thông số hình học của má phanh, nên nếu các má phanh có các kích thước giống nhau thì và cũng
giống nhau.
+ Sau khi đã xác định được điểm đặt lực R, ta có thể xác định được phương như sau:
Với là hệ số ma sát giữa tấm ma sát với tang trống (=0,25 ~ 0,35). Chọn = 0,3. Do hệ số ma
sát ở các má phanh trước và má phanh sau bằng nhau với các guốc phanh trước và guốc phanh sau ở
cầu trước và cầu sau đều bằng nhau. ’’ = = arctg=1641’.
Với R đã biết, biểu thức mô men phanh sinh ra ở cơ cấu phanh của một bánh xe là:
2.3. Xác định các lực tác dụng lên guốc phanh bằng phương pháp đồ họa
Trong trường hợp dẫn động thủy lực với 1 xi lanh công tác chung cho 2 piston dẫn động các guốc
phanh trước và sau thì các lực tác động bằng nhau:
P’=P’’=P.
Họa đồ được xây dựng cho từng guốc phanh. Dưới đây là các bước xây dựng họa đồ cho cả 2 guốc
phanh phía trước và phía sau:
1. Xác định các thông số hình học cơ cấu phanh và vẽ sơ đồ theo đúng tỉ lệ: vẽ các lực P.
2. Tính góc và bán kính từ đó xác định điểm đặt của lực R.
3. Tính góc và vẽ phương của lực R. Kéo dài phương của lực R’ và P cắt nhau tại O’, kéo
dài phương của P và R’’ cắt nhau tại O’’.
Để xác định phương của U cần chú ý rằng, ở trạng thái cân bằng tổng các lực tác dụng lên
guốc phanh thì bằng 0: P + R + U = 0
Vì vậy 3 lực này phải tạo thành tam giác lực khép kín. Nghĩa là, nếu kéo dài 3 lực này thì
chúng phải cắt nhau tại một điểm, đó chính là điểm O’ và O’’. Như vậy để xác định phương
của U chỉ cần nối O’ và O’’ với O2.
4. Trên hình vẽ, lấy 2 đoạn P bằng nhau, đặt song song, ngược chiều. Từ các lực P này dựng
các tam giác lực cho các guốc phanh bằng cách vẽ các đường song song với các lực R và U đã
cho trên họa đồ.
3.12.2. Kiểm tra sự kín khít của khí nén và dầu trợ lực
- Sau khi nổi máy 1-2 phút, tắt máy.
- Sau khi đạp phanh vài lần với lực đạp không đổi, kiểm tra rằng độ cao cực tiểu của chân phanh
tăng dần sau mỗi lần đạp phanh.
- Có thể dùng nước xà phòng loãng để kiểm tra độ kín của đường ống dẫn khí nén trợ lực.
- Dùng mắt quan sát xem các đường ống dẫn dầu phanh thủy lực có bị rò rỉ hay không.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. PGS.TS. Nguyễn Trọng Hoan -2009. Tập bài giảng thiết kế tính toán ô tô.
[2]. Tài liệu đào tạo TEAM giai đoạn 2 tập 13 – Hệ thống phanh – TOYOTA.
[3]. Dương Đình Khuyến(1995) – Hướng dẫn thiết kế hệ thống phanh ô tô máy kéo
[4]. Trịnh Chất và Lê Văn Uyển – Năm 2007 – Tính toán thiết kế hệ thống dẫn động cơ khí tập 1 và tập 2
– Nhà xuất bản giáo dục
[5]. GS.TSKH.Nguyễn Hữu Cẩn(2004) – Phanh Ô tô cơ sở khoa học và thành tựu – Nhà xuất bản khoa
học và kĩ thuật
[6]. PGS.TS Ninh Đức Tốn và TS. Đỗ Trọng Hùng (2004) – Hướng dẫn làm bài tập dung sai – Trường
đại học bách khoa Hà Nội
[7]. Trần Văn Định (2000) – Sổ tay công nghệ chế tạo máy – Nhà xuất bản đại học Bách Khoa
PHỤ LỤC