Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 58

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA NGỮ VĂN

HỌC PHẦN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM


LÀNG XÃ VIỆT NAM

Lớp học phần: 2211LITR191201

Nhóm: Mưa nắng thất thường

Tên sinh viên Mã số sinh viên


1. Lê Thị Xuân Mai 48.01.601.019
2. Trần Nguyễn Gia Huy 48.01.601.013
3. Lê Nguyễn Trà My 48.01.601.020
4. Trương Thị Thảo Nguyên 48.01.601.024
5. Hồ Tâm Như 48.01.601.030
6. Nguyễn Thị Oanh 48.01.601.032
7. Trương Mỹ Quỳnh 48.01.601.036

PAGE \* MERGEFORMAT 1
BẢNG PHÂN CÔNG VÀ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THÀNH CÔNG VIỆC

PAGE \* MERGEFORMAT 1
MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC LỊCH SỬ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM 3
1.1 Khái niệm làng, xã, thôn 3
1.2 Phân loại làng xã 4
1.3 Tên gọi làng xã 5
1.4 Nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển  5
CHƯƠNG 2: KẾT CẤU KINH TẾ CỦA LÀNG XÃ 12
2.1 Chế độ sở hữu ruộng đất 12
2.2 Thương nghiệp làng xã 14
2.3 Thủ công nghiệp làng quê 14
CHƯƠNG 3: KẾT CẤU XÃ HỘI CỦA LÀNG XÃ 16
3.1 Các loại hình tổ chức làng xã 16
3.2 Tổ chức bộ máy tự trị và hành chính 18
3.3 Hương ước 19
3.4 Tái lập hương ước và vai trò của hương ước mới trong quản lý làng xã hiện nay
26
CHƯƠNG 4: VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM 28
4.1 Tín ngưỡng - tôn giáo trong làng xã cổ truyền Việt Nam 28
4.2 Tôn giáo, tư tưởng 34
4.3 Tính tự trị 49
4.4 Tính cộng đồng 52
4.5 Ý nghĩa tích cực và hạn chế của tính tự trị và tính cộng đồng trong làng xã cổ
truyền Việt Nam 53
4.6 Biểu tượng truyền thống của làng xã 53
4.7 Một số tác phẩm nghệ thuật xoay quanh chủ đề làng xã hay nông thôn Việt Nam
54
CHƯƠNG 5: LÀNG NAM BỘ 57

PAGE \* MERGEFORMAT 1
CHƯƠNG 1: NGUỒN GỐC LỊCH SỬ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA LÀNG XÃ VIỆT NAM
1.1 Khái niệm làng, xã, thôn: Có nhiều khái niệm về làng

a) Làng:

Thời Văn Lang – Âu Lạc, làng là danh từ chỉ một đơn vị cư trú trên một địa vực
nhất định của người Việt, chủ yếu sống bằng nông nghiệp.

Theo GS. Bùi Xuân Đính: “Làng là một đơn vị tụ cư truyền thống của người nông
dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, các tục lệ (về cưới cheo, tang
ma, khao vọng) thờ cúng riêng, tâm lý tính cách riêng và cả “thổ ngữ” (tiếng làng) riêng,
hoàn chỉnh và tương đối ổn định trong quá trình lịch sử”.

“Làng còn là danh từ dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam thời xưa”
( Nguyễn Trãi, Dư địa chí; “Các trấn tổng xã danh bị lãm” (1810–1813)).

Làng là một đơn vị cư trú và một hình thức tổ chức xã hội quan trọng của nông thôn
ở Việt Nam.

“Làng là một tế bào xã hội của người Việt. Nó là tập hợp dân cư chủ yếu theo quan
hệ láng giềng, cùng sống trên một khu vực gồm một khu đất để làm nhà ở và một khu đất
để trồng trọt, một tập hợp những gia đình nhỏ sản xuất và sinh hoạt độc lập” (Phạm Hùng
Cường, Làng xã truyền thống Việt Nam, Bảo tồn và phát triển).

Trải qua quá trình phát triển, làng dần trở thành một đơn vị xã hội cơ bản. Làng trở
thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở (xã) từ thế kỷ VII dưới thời thuộc nhà Đường.
Đến thế kỷ thứ XIX có tới 12 loại đơn vị hành chính cấp cơ sở ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ
như xã, thôn, phường, giáp, trang trại, xóm… 

b) Xã

Xã là danh từ chỉ một làng lớn.

Từ thời Minh Mạng trở về sau, xã dùng để chỉ các đơn vị hành chính cơ sở của nhà
nước. 

* Khái niệm: “Làng xã” là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và sinh
hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở. Những người sống gần nhau có xu
hướng liên kết chặt chẽ với nhau. Sản phẩm của khối liên kết này là làng, xóm (Trần
Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam).
PAGE \* MERGEFORMAT 1
b) Thôn

Giữa thế kỷ X, thôn là danh từ chỉ một làng nhỏ thông thường dưới chế độ phong
kiến Việt Nam; là một đơn vị hành chính dưới cấp xã.

1.2 Phân loại làng xã

a) Theo thời gian hình thành: Về lịch sử thay đổi của làng xã, có ba lần biến cách:

Thế kỷ XV khi chế độ quân điền được thực hiện. 

Cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp đặt ách thống trị trên đất nước ta.

Cách mạng tháng Tám 1945 và cải cách ruộng đất đã làm thay đổi hẳn cơ chế làng
xã, tác động mạnh vào tổ chức cổ truyền này.

b) Theo vùng địa lý: Thượng, Hạ, Đông, Đoài.

Làng miền núi (bản, mường, plây, buôn); làng trung du, làng đồng bằng (làng, ấp,
phum, sóc).

Những người sống trên một khu vực mặc dù thuộc các dòng họ khác nhau cũng hợp
lại thành một làng. 

c) Theo nghề nghiệp

Làng nông nghiệp, làng chài, làng thủ công như làng đúc đồng, làng dệt lụa, làng
gốm.

Những người cùng làm một nghề về sau gọi là phường. Những phường này sẽ là
mầm mống của thành thị.

d) Theo phương thức thành lập 

Được phản ánh qua tên gọi: Xá

Làng thành lập dựa trên hình thức di dân khai canh; đồn điền nông nghiệp chuyển
thành trại; điền trang gọi là trấn…

e) Theo tôn giáo

Làng thuần lương, làng công giáo toàn tòng.

f) Theo đặc điểm văn hóa

Làng văn (làng văn vật), ngày nay chúng ta gọi là làng văn hóa.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
“Làng văn là dạng làng nổi tiếng về văn học được mọi người kính nể, ngày nay con
cháu vẫn tiếp tục phát huy. Đó là những làng có truyền thống học chữ Nho, nhiều người
đỗ đạt... cùng sinh hoạt văn hóa của các gia đình Nho học tạo ra nét văn hóa riêng cho
các làng văn” (Chuyên khảo Làng văn hóa xứ Thanh)

Làng võ là những làng có truyền thống thượng võ, dân làng hầu hết mọi người đều
biết võ nghệ, trong làng thường có lò võ.

1.3 Tên gọi làng xã: Các loại làng xã có thay đổi tên qua các thời kỳ lịch sử do nhiều
nguyên nhân khác nhau. 

Thời kỳ dựng nước, ở Việt Nam hình thành nhiều đơn vị tụ cư với những tên gọi
riêng biệt nằm trong 15 bộ của nước Văn Lang. 

Tới thời kỳ Bắc thuộc, chính quyền phong kiến phương Bắc với tay sâu vào làng xã
người Việt (dịch âm tên đất, tên làng từ tiếng Việt cổ sang tiếng Hán). Thời này, làng xã
được gọi là các chạ, kẻ, chiềng.

Thời thuộc Đường, chính quyền đô hộ biến được một số ít làng xã Việt thành làng
xã phụ thuộc vào chúng. Ở bộ phận làng xã này, nhà Đường gọi là hương hay xã.

Đầu thế kỷ X, Khúc Hạo tiến hành nhiều biện pháp cải cách đất nước. Ông đã bỏ tên
gọi là hương của chính quyền nhà Đường đặt ra trước đó, đổi thành giáp. Bên cạnh tên
giáp, bấy giờ còn có một số tên như thôn, động, sách, trang, trại. 

Từ thời Lý – Trần trở về sau, đơn vị hành chính cấp cơ sở là xã (xã lớn, xã vừa và
xã nhỏ).Các làng xã mang tên nôm đều có thêm tên Hán Việt hay chỉ có tên Hán Việt. Có
một số làng xã tên gọi phản ánh những đặc trưng của làng (về thiên nhiên, địa hình lịch
sử, đặc sản, nghề nghiệp). 

1.4 Nguồn gốc lịch sử và quá trình phát triển 

a) Làng xã Việt Nam có quá trình hình thành khá phức tạp. 

* Ý kiến thứ nhất: 

Từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên cách ngày nay khoảng 4000 năm, trên đất nước
ta đã diễn ra quá trình tan rã của công xã thị tộc và thay vào đó là quá trình hình thành
công nông thôn (làng Việt).

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Chính sự tư hữu về TLSX đã đưa đến sự phân hóa giàu nghèo xã hội, tạo ra sự
“phân ly” trong công xã nguyên thủy, khiến một bộ phận dân cư từ bỏ thị tộc của mình đi
nơi khác. Bộ phận dân cư phân ly của các thị tộc khác nhau đã tập hợp lại trên một địa
điểm mới, tạo nên một công xã nông thôn mới, được bổ sung bằng một quan hệ mới –
quan hệ láng giềng.

Lúc này toàn bộ ruộng đất cùng với rừng núi, sông ngòi, ao đầm trong phạm vi làng
đều thuộc quyền sở hữu của làng. Ruộng đất phân chia cho các gia đình sử dụng (mang
tính chất bình đẳng, dân chủ). Đơn vị sản xuất chủ yếu trong làng là gia đình nhỏ.  Ngoài
những ruộng đất phân chia cho các thành viên cày cấy, làng có thể giữ một phần ruộng
đất để sản xuất chung nhằm sử dụng hoa lợi thu hoạch vào những chi phí công
cộng. Công việc khai hoang, làm thủy lợi và các hình thức lao động công ích khác đều
được tiến hành bằng lao động hợp tác của các thành viên trong làng.

Làng Việt là một loại hình của công xã phương Đông, trong đó nông nghiệp gắn với
TCN, làng xóm gắn với ruộng đất, nên mang tính ổn định cao. Tính ổn định cao này đã
hóa thân thành tinh thần công xã, thành truyền thống xóm làng trở thành nguồn sức mạnh
tiềm tàng trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

Những làng Việt cổ thời hậu kỳ xã hội nguyên thủy hoặc thời Văn Lang-Âu Lạc
thường được gọi tên kèm theo chữ Kẻ. Đó là những làng truyền thống.

Thời phong kiến độc lập có các dạng làng mới được thành lập (làng khai canh, làng
biệt triện…)

* Ý kiến thứ hai:

Làng Việt được hình thành trong quá trình liên hiệp (gắn kết với nhau chống thiên
tai, bảo vệ cuộc sống…) giữa những người nông dân lao động trên con đường chinh phục
những vùng đất mới để trồng trọt. 

b) Phát triển

Cuối thời kỳ Hùng Vương: Tồn tại phổ biến loại hình làng định cư công xã nông
thôn. Đứng đầu công xã là Bồ chính (già làng) và Hội đồng công xã để đảm nhận chức
năng tổ chức và giải quyết những vấn đề có liên quan đến sinh hoạt cộng đồng. Xuất hiện
liên minh giữa các công xã.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Thời kỳ Bắc thuộc: Phong kiến Trung Quốc đã tìm mọi cách nắm lấy và sử dụng
làng Việt truyền thống như một công cụ phục vụ cho mưu đồ thống trị và đồng hóa của
chúng. Người Việt không ngừng bảo tồn và củng cố cộng đồng xóm làng, biến xóm làng
của mình thành những pháo đài chống Bắc thuộc, chống đồng hóa, dựa vào làng và xuất
phát từ làng mà đấu tranh giành lại nước.

Cuối thời kỳ Bắc thuộc, nhân cơ hội nhà Đường đang khủng hoảng, họ Khúc được
sự ủng hộ của quần chúng nổi dậy lật đổ chính quyền đô hộ. Đầu thế kỷ X, chính quyền
tự chủ của họ Khúc bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của nhà nước đối với
ruộng đất công xã. Tích cực thi hành chính sách cải cách hành chính, biến làng thành đơn
vị hành chính cấp cơ sở của nhà nước, gọi là xã. Khái niệm “làng xã” như một đơn vị tụ
cư, kinh tế, tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ
sở. Đây cũng chính là bước chuyển biến rất quan trọng của nông thôn Việt Nam truyền
thống.

Trong suốt thế kỷ X-XI, XII: Nhà nước TW tập quyền với tư cách là người chủ sở
hữu tối cao về ruộng đất bóc lột tô thuế và lao dịch đối với làng xã. Chế độ tư hữu ruộng
đất mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, nhưng ngày càng phát triển nhanh. Cấp xã trở thành đơn
vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn, cấp thôn dường như đồng thời xuất hiện do nhu cầu
quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước thông qua xã quản lý dân làng, nhưng
xã khó có thể làm tốt chức năng quản lý hành chính của mình nếu không thông qua một
cấp trung gian khác là thôn. Thôn vì thế đã trở thành đầu mối giáp nối, gắn kết và điều
hòa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và tục lệ, chính trị và xã hội.

Đầu thời Trần(1242), Trần Thái Tông tiến hành phân chia ra các xã lớn, nhỏ mà đặt
các chức đại tư xã, tiểu tư xã là các xã quan thay mặt nhà nước trực tiếp quản lý từ 1 đến
4 xã. 

Chiếm được nước ta, nhà Minh áp đặt mô hình nông thôn Trung Quốc vào nông
thôn Việt Nam. Chúng tiến hành chia dân ta thành từng “lý” (mỗi lý gồm 110 hộ) và
đứng đầu lý là lý trưởng. Dưới lý là giáp. Những chức lý trưởng, giáp thủ đều luân phiên
nhau làm trong thời hạn một năm với nhiệm vụ thu thuế và bắt phu dịch.

Sau khi chiến thắng quân Minh (11-1428), Lê Lợi tiến hành tổ chức lại làng
xã. Phân ra làm 3 loại xã theo số đinh. Những xã loại vừa và nhỏ trong thực tế chỉ là
thôn. Thôn cũng được chia ra thành nhiều loại (thôn phụ thuộc xã và những thôn độc
PAGE \* MERGEFORMAT 1
lập). Đặt các xã quan (viên chức của nhà nước, do nhà nước cử ra để quản lý làng xã) tùy
theo từng loại xã. 

Năm 1466, Lê Thánh Tông tiến hành cải cách lại bộ máy quản lý hành chính: Đổi
chức xã quan thành xã trưởng, quy định việc bầu xã trưởng cũng như tư cách, đạo đức,
năng lực của xã trưởng rất chặt chẽ. Xã dưới thời Lê Thánh Tông được tổ chức theo
hộ. Gia đình là tế bào của xã hội, là đơn vị sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tiểu
nông. Tổ chức và quản lý làng xã theo đơn vị hộ gia đình.

Giữa năm 1490, Lê Thánh Tông lại ban hành thể lệ tách xã cũ, lập xã mới. Trong xã
hội tồn tại phổ biến loại hình một xã có nhiều thôn phụ thuộc và bên cạnh xã trưởng xuất
hiện thôn trưởng. Đồng thời với việc cải tổ bộ máy quản lý hành là việc thi hành chính
sách mới về ruộng đất, thâu tóm toàn bộ ruộng đất của các làng xã trong tay nhà nước và
tiến hành phân chia theo thể lệ, thời gian cũng như quy định mức tô thuế chung cho cả
nước, biến làng xã thành người quản lý ruộng đất công cho nhà vua và nông dân cày
ruộng đất công làng xã thành tá điền của nhà nước. Những làng xã tương đối tự trị trước
đây giờ trở thành một đơn vị kinh tế phụ thuộc nhà nước, vừa cung cấp lương thực, thực
phẩm, lao dịch, binh dịch cho nhà nước, vừa cung cấp đất đai để nhà nước ban cho những
viên chức của mình.Ra điều luật cho phép các làng xã được lập hương ước riêng. 

Đưa ra được phương án tối ưu để xử lý hài hòa mối quan hệ giữa quyền quản lý
của nhà nước và truyền thống tự trị của xóm làng. Các vương triều phong kiến sau đó
(vua Lê đầu thế kỷ XVI, nhà Mạc,...) trên đại thể đều lấy mô hình tổ chức quản lý làng xã
thời Lê Thánh Tông làm khuôn mẫu.

Từ thế kỷ XVI, nhất là vào các thế kỷ XVII-XVIII, tình hình nông thôn có nhiều
thay đổi nên mô hình tổ chức quản lý làng xã nông nghiệp tự cấp tự túc, công điền, độc
canh lúa nước không còn hiệu lực nữa. 1658, vua Lê Thần Tông tiến hành cải cách bộ
máy quản lý làng xã nhằm cứu vãn lại tình thế nhưng không được các làng xã ủng hộ. Ít
năm sau, dưới thời Cảnh Trị (1663-1672), vua Lê Huyền Tông phải định lại việc bầu xã
trưởng nhằm kiểm tra chặt chẽ hơn người lãnh đạo làng xã.

Bước sang thế kỷ XVIII, can thiệp một cách trực tiếp vào công việc của làng xã
(1762, vua Lê Dụ Tông định lại phép khảo công xã trưởng...), nhưng đã không còn hiệu
quả. Long Đức (1732) và Vĩnh Hựu (1735) họ Trịnh đã buộc phải quyết định bãi bỏ phép
khảo khóa xã trưởng, phó mặc cho làng xã tự chọn lấy xã trưởng của mình. Đây là sự bất
PAGE \* MERGEFORMAT 1
lực hoàn toàn của nhà nước phong kiến trong việc quản lý các xã trưởng, bỏ mặc cho bọn
cường hào hoành hành, gây ra muôn vàn tệ nạn ở thôn quê. 

Tình hình nông thôn càng ngày càng nặng nề căng thẳng. Người nông dân Việt Nam
giờ đây bị bần cùng hóa, phá sản, phải rời bỏ đồng ruộng, xóm làng đi lang thang kiếm
ăn một cách tuyệt vọng. 

Bùng phát các cuộc khởi nghĩa nông dân rộng lớn và cuối cùng tất cả các chính
quyền (Lê - Trịnh, Nguyễn) đó đều bị lật nhào bởi phong trào nông dân Tây Sơn.

Sau đó, Quang Trung lên ngôi vua kiên quyết và khẩn trương đưa dân phiêu tán trở
về quê quán sản xuất và thanh toán tình trạng ruộng đất bỏ hoang. Chủ trương này vừa
mới được triển khai thì Quang Trung đã qua đời và người kế nghiệp ông không đủ bản
lĩnh và tài năng để tổ chức thực hiện chủ trương đó, nên tình hình không những không
được cải thiện mà thậm chí ngày một xấu đi.

Gia Long khôi phục lại quyền thống trị của họ Nguyễn trong bối cảnh như thế, đã
đặc biệt đề cao vai trò của làng xã trong quốc sách trị nước của mình. Ông muốn cải tổ
làng xã nhưng vì đây là vấn đề không đơn giản và chưa tìm ra được giải pháp thỏa đáng
nên chính sách của Gia Long đối với làng xã chưa có gì mới so với trước. Dưới thời vua
Gia Long, công việc điều tra ruộng đất, trên phạm vi toàn miền Bắc và lập sổ địa bạ để
quản lý ruộng đất một cách thống nhất và chặt chẽ đã được tiến hành một cách quy mô và
vượt xa bất cứ các triều đại nào trước đó.

Minh Mệnh lên ngôi trong tình hình xã hội rất phức tạp: Ở nông thôn, nông dân đói
khổ phải bỏ đi phiêu tán rất nhiều, làng xã chứa chất đầy rẫy những vấn đề phức tạp, mà
phức tạp hơn cả vẫn là làm sao có thể quản lý được bộ máy quản lý làng xã. Minh Mệnh
đã đi đến quyết định cải tổ lại bộ máy quản lý xã thôn: Bỏ chức xã trưởng và thay vào đó
là chức lý trưởng, quy định một xã chỉ có 1 lý trưởng và tùy theo quy mô làng xã đặt
thêm phó lý; Lý trưởng và phó lý phải được chọn trong số những người “cật lực cần
cán”, do dân bầu, được phủ huyện xét kỹ và bẩm lên trấn để cấp văn bằng, mộc triện;
Trách nhiệm của lý trưởng rất nặng nề nhưng không nằm trong hàng quan chức nữa (biện
pháp hạn chế quyền hành của lý trưởng), nhưng lại chính là cơ hội tốt để cho bọn cường
hào đứng sau lý trưởng mà thao túng làng xã. Cải cách của Minh Mệnh làm cho cường
hào có điều kiện phát triển mạnh thêm.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Suốt thời kỳ tồn tại của nhà Nguyễn, nhà nước bất lực hay không thể giải tỏa nỗi sự
lộng hành, lũng đoạn của bọn cường hào, làm cho nhà Nguyễn không quản lý được làng
xã một cách chặt chẽ.

Sau khi chiếm được nước ta: Thực dân Pháp đã chọn phương án không những
không thủ tiêu tổ chức xã thôn cổ truyền mà còn tìm mọi cách duy trì nó thông qua bọn
địa chủ phong kiến và hội đồng kỳ mục, biến nó thành công cụ hữu hiệu cho chính sách
thống trị và khai thác thuộc địa. Nhưng thôn làng cổ truyền chính là nơi nuôi dưỡng tinh
thần yêu nước, ý thức quốc gia dân tộc, nhiều làng xã đã trở thành những pháo đài,
những căn cứ chống Pháp mà chúng không thể đàn áp nổi. Để bảo đảm cho nền thống trị
của mình, thực dân Pháp cải tổ lại tổ chức xã thôn cổ truyền, hướng hoạt động của bộ
máy này vào việc phục vụ ngày một đắc lực cho chính sách đô hộ của thực dân Pháp. Lợi
dụng truyền thống quản lý làng xã của người Việt thông qua hương ước, đưa luật pháp
của chính quyền bảo hộ vào lệ làng, lệ làng hóa phép nước, khuôn tất cả các hương ước
vào một khuôn mẫu chung có lợi cho thực dân Pháp và buộc các làng phải nghiêm luật
thực hiện.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công và sự thành lập chính quyền dân chủ nhân
dân về nguyên tắc là sự phủ định hoàn toàn bộ máy chính quyền cũ của đế quốc phong
kiến từ TW đến cơ sở. Trong những ngày đầu của chính quyền dân chủ nhân dân, các Ủy
ban nhân dân lâm thời ở cơ sở được thành lập dựa theo các đơn vị xã thôn của thời kỳ
trước cách mạng. Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã (4-1946), nhiều thôn làng cũ sát
nhập lại thành những xã tương đối lớn (có quan hệ về nguồn gốc lịch sử, văn hóa, có sự
gần gũi về địa vực cư trú, có sự gắn bó tự nhiên về kinh tế, xã hội…).

Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ: Xu hướng sáp nhập nhiều xã cũ
thành một xã lớn được đẩy mạnh hơn (do nhu cầu của việc thành lập các làng chiến
đấu). Cấp xã được xây dựng thành cấp cơ sở của hệ thống chính quyền, cấp thôn vẫn tồn
tại cho đến những năm cuối của cuộc kháng chiến. Ở vùng thực dân Pháp tạm thời chiếm
đóng: chủ trương lập bộ máy tề để quản lý làng xã, lập ra các làng tề trên cơ sở vẫn dựa
theo quy mô các làng xã truyền thống.

Trong công cuộc cải cách ruộng đất và thời kỳ xây dựng tổ đổi công: Đảng dựa vào
thôn xóm mà phát động phong trào. Đến thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp bậc thấp, thôn
không còn là đơn vị hành chính cơ sở, nhưng nó đã hóa thân vào HTX và còn giữ được

PAGE \* MERGEFORMAT 1
nét truyền thống riêng của mình. Từ khi HTX chuyển lên bậc cao với quy mô toàn xã thì
thôn làng truyền thống hầu như bị giải thể. Việc chia tách hay quy gọn các xã chỉ thuần
túy theo quy mô diện tích và dân số mà hầu như không tính đến cơ sở truyền thống của
làng xã.

Khi mô hình tập thể hóa nông nghiệp được đẩy tới đỉnh cao, khắp nông thôn miền
Bắc cuộc sống của người nông dân đang dấn sâu vào cảnh nghèo nàn đơn điệu. Để tồn tại
và phát triển, phải đổi mới mô hình tổ chức và quản lý nông thôn, nông nghiệp.

Đây là sự mở đầu hết sức có ý nghĩa không chỉ công cuộc đổi mới nông nghiệp,
nông thôn mà cũng chính là bước chuẩn bị hết sức cơ bản cho sự nghiệp đổi mới toàn
diện của Đảng và nhà nước ta ở thập kỷ cuối thế kỷ XX và thập kỷ đầu thế kỷ XXI.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
CHƯƠNG 2: KẾT CẤU KINH TẾ CỦA LÀNG XÃ
KHÁI QUÁT: Làng xã Việt Nam truyền thống từ trong lịch sử có nhiều loại hình kinh tế
phong phú như trồng trọt, chăn nuôi, thương nghiệp, nhưng có nét đặc trưng là không có
sự tách biệt dứt khoát giữa trồng trọt, chăn nuôi, thương nghiệp như nhiều nước
khác.Hầu hết các làng xã Việt Nam đều lấy hoạt động kinh tế nông nghiệp làm cơ sở, có
kết hợp với các làng nghề thủ công, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Chăn nuôi không tách rời
với nông nghiệp trồng lúa nước ở Việt Nam trong các làng xã. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế nông nghiệp, các nghề thủ công, thương nghiệp ở các làng xã cũng ngày càng
phát triển và được mở rộng hơn. Thủ công từng bước tách khỏi nông nghiệp, xuất hiện
ngày càng nhiều các làng nghề.

2.1 Chế độ sở hữu ruộng đất

2.1.1 Ruộng đất công: là ruộng công làng xã, do làng xã trực tiếp quản lý và phân chia
cho các thành viên của làng theo lệ làng hoặc theo quy định của nhà nước (chính sách
quân điền thời Lê Sơ, thời Nguyễn).

a) Nguồn gốc và diễn biến

Thời Văn Lang- Âu Lạc, ruộng đất còn thuộc quyền sở hữu chung của cả cộng
đồng. Mọi thành viên trong các làng xóm đều bình đẳng, không ai có quyền chiếm giữ
làm của riêng. Mỗi thành viên trong làng (chạ) được phân chia một số lượng ruộng đất
(theo quy định của làng) để cày cấy và hưởng thụ. Người được chia chỉ có quyền sử dụng
(chiếm hữu) mà không có quyền sở hữu. Ruộng đất vẫn là của công của làng.

Trong thời kỳ bị phong kiến Trung Hoa đô hộ, chế độ sở hữu tập thể về ruộng đất về
cơ bản, nói chung vẫn thuộc làng xã, nhưng cũng có những chuyển biến nhất định trong
một bộ phận ruộng đất nào đó, một số hình thức sở hữu ruộng đất mới xuất hiện như sở
hữu tư nhân, sở hữu tối cao của chính quyền đô hộ.

Sang thời kỳ đất nước độc lập tự chủ, tình hình ruộng đất có nhiều chuyển biến tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh tế của các làng xã. Dưới thời Lý Trần (XI-XIV), làng
xã vẫn giữ được quyền sở hữu của mình và ruộng đất công làng xã vẫn giữ một vị trí rất
quan trọng trong đời sống của nhân dân. Hàng năm, làng xã vẫn tiến hành phân chia
ruộng đất cho nông dân theo tục lệ và chịu trách nhiệm thu thuế theo diện tích đã trình
lên quan trên nộp cho nhà nước.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Nhìn chung trong thời kỳ phong kiến bộ phận ruộng đất công ngày càng giảm. Đến
thế kỷ XIX, ở Nam Bộ hầu hết là ruộng đất tư. Ở Trung Bộ như Bình Định, ruộng đất
công không còn là bao khiến Tổng đốc Bình – Phú là Vũ Xuân Cẩn phải 2 lần tâu với
vua Minh Mạng ban hành phép quân điền chia lại ruộng đất ở riêng Bình Định năm 1839.
Ở Bắc Bộ ruộng đất công cũng thu hẹp, ở các địa phương ruộng đất tư đã nhiều hơn
ruộng đất công.

b) Nguyên tắc quản lý và cách phân chia

Từ thế kỷ X cho đến thế kỷ XIV, làng xã nắm quyền sở hữu và phân chia đất công,
nhà nước chỉ có quyền sở hữu trên danh nghĩa.

Từ thế kỷ XV, nhà Lê Sơ với tay xuống can thiệp vào việc phân chia bằng

chính sách “quân điền”.

c) Tính hai mặt của ruộng đất công trong làng xã

Một mặt ruộng đất công làng xã có tác dụng hình thành nên truyền thống cộng đồng
tương trợ giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân ta như “Bán anh em xa mua láng giềng gần”,
“Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”.

Nhưng sự tồn tại của ruộng đất công làng xã cũng tạo nên những mặt hạn chế như
làm thui chột vai trò cá nhân do bị hòa tan vào cộng đồng, làm cho con người ít sáng tạo,
hình thành nên các tư tưởng cục bộ, bản vị, ngay thay đổi nên bảo thủ.

2.1.2 Ruộng đất tư nhân

a) Nguồn gốc: Do cá nhân khai hoang, do mua bán, thừa kế hay nhà nước ban tặng, ban
thưởng...

b) Phương thức khai thác: theo 2 phương thức chủ yếu:

- Ruộng tự canh là ruộng đất mà chủ ruộng tự cày cấy.

- Ruộng phát canh là ruộng mà chủ ruộng thuê tá điền cày cấy để bóc lột địa tô.

2.1.3 Nông nghiệp

Nền văn minh cổ truyền Việt Nam là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước.
Nhưng tùy điều kiện tự nhiên và nhu cầu cuộc sống từng vùng, nghề nông thường kết
hợp với nhiều nghề phụ. Dưới chế độ phong kiến, ở các làng xã Việt Nam, nông nghiệp
luôn đóng vai trò là ngành kinh tế chủ đạo. Do đất đai nước ta thuận lợi cho nên việc phát
PAGE \* MERGEFORMAT 1
triển nông nghiệp có nhiều đồng bằng rộng lớn phì nhiêu nên cư dân Việt Nam thời
phong kiến chọn nông nghiệp làm nghề sinh sống chủ yếu. Mặt khác, do lấy Nho gia làm
hệ tư tưởng thống trị nên các triều đại phong kiến Việt Nam luôn chủ trương xây dựng và
phát triển nền kinh tế đất nước lấy nông nghiệp làm nền tảng “dĩ nông vi bản”. Các triều
đại từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê Sơ, Mạc, Nguyễn đều thi hành chính sách trọng nông.

2.2 Thương nghiệp làng xã

Do nhu cầu quá bức bách trong đời sống của người nông dân mà thời phong kiến
các chợ làng đã tự phát hình thành. Chợ làng thường nằm ở các vị trí là ngã ba ngã tư
đường giao thông, các khu vực trung tâm hành chính; còn nếu là vùng có sông thì bao giờ
cũng thường gắn với bến sông. Chợ làng là nơi nông dân bán nông phẩm gồm lương
thực, rau, củ, quả do họ làm ra; đồng thời người nông dân chỉ ra chợ mua thực phẩm chủ
yếu là các loại cá, thịt, muối, mắm.

2.2.1. Hệ thống chợ địa phương gồm chợ phiên - phố nhỏ và thị trấn – thị từ

2.2.2. Làng chợ, làng cuộn

2.3 Thủ công nghiệp làng quê

Do đặc điểm nghề nông nên ở nông thôn luôn tồn tại sẵn những nguyên liệu cho các
nghề thủ công phát triển, do đó hầu hết các làng xã Việt Nam đều có sản xuất thủ công
với tư cách là nghề phụ của nông dân lúc nông nhàn. Sản xuất thủ công do đó phần lớn
mang tính chất gia đình như chăn tằm dệt lụa, làm nón, đan lát, thêu thùa...

2.3.1. Làng nghề

Làng nghề Việt Nam là một thuật ngữ dùng để chỉ các cộng đồng cư dân, chủ yếu ở
các vùng ngoại vi thành phố và nông thôn, có chung truyền thống sản xuất các sản phẩm
thủ công cùng chủng loại tại Việt Nam. Làng nghề thường mang tính tập tục truyền thống
đặc sắc, đặc trưng, không chỉ có tính chất kinh tế mà còn bao gồm cả tính văn hóa, đặc
điểm du lịch tại Việt Nam.

Phân bố: Các làng nghề truyền thống hầu hết tập trung ở vùng châu thổ sông Hồng
như Hà Nội, Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định... Một số ít rải rác ở các vùng cao và châu
thổ miền Trung và miền Nam

Hình thành và phát triển: những cứ liệu lịch sử đã chứng minh được các làng nghề
Việt Nam đã ra đời từ hàng ngàn năm trước đây. Cùng với sự phát triển của nền văn
PAGE \* MERGEFORMAT 1
minh nông nghiệp, nhiều nghề thủ công đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam, ban
đầu là những công việc phụ tranh thủ lúc nông nhàn, để chế tại những vật dụng cần thiết
trong sinh hoạt, sau phát triển lên thành nhu cầu trao đổi hàng hóa và tìm kiếm thu nhập
ngoài nghề nông.

Những đặc điểm sản phẩm: bởi những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem
lại mà trong mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển
dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp với làng thì dần bị mai
một. Từ đó bắt đầu hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất
nào đó như làng gốm, làng chiếu, làng lụa, làng chạm gỗ, làng đồ đồng...

Những làng nghề nổi tiếng: Dù nhiều làng nghề đã biến mất cùng với thời gian,
nhưng hiện nay, các con số thống kê cho thấy ở Việt Nam còn gần 2.000 làng nghề thuộc
các nhóm nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, vàng bạc, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt,
giấy, tranh dân gian, gỗ, đá.... Trong đó có các làng nghề rất nổi tiếng như:

+ Làng sơn mài Cát Đằng (Ý Yến, Nam Định)

+ Làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội)

+ Làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh)

+ Làng đá mỹ nghệ Non Nước (Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng)

+ Làng lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội)

Ngoài ra, còn có các làng nghề truyền thống khác vẫn còn duy trì hoạt động.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
CHƯƠNG 3: KẾT CẤU XÃ HỘI CỦA LÀNG XÃ

3.1 Các loại hình tổ chức làng xã

a) Tập hợp người theo địa vực ngõ, xóm gồm 4 cách:

Thứ nhất, tập hợp cư dân của làng dọc theo chân đê hoặc dọc theo bờ sông. VD: các
làng ở đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.

Thứ hai, phân bố khu cư trú theo một hình khối liên tục không có khoảng cách giữa
các thôn, xóm (các thôn, xóm liền nhau) hay ô bàn cờ.

Thứ ba, phân bố theo hình vằn khanh (hình dạng thế đất của làng).

Thứ tư, phân bố lẻ tẻ cách biệt nhau bởi đồng ruộng và tách thành nhiều thôn xóm.

b) Tập hợp theo dòng họ

* Khái niệm: Những gia đình cùng một huyết thống tập hợp lại trong một
cộng đồng gọi là họ. Mỗi họ thường có nhà thờ tổ tiên chung và do một tộc trưởng
đứng đầu. Ngôi tộc trưởng thường thế tập và giành cho người con trai trưởng của
dòng trưởng trong họ. Làng Việt Nam là một phức hợp của nhiều tổ chức xã hội
mà trước hết là dòng họ. Các mối liên kết trong làng có nghề nghiệp, tín ngưỡng
tôn giáo, địa vực láng giềng, xóm, giáp, đơn vị hành chính làng xã và họ hàng
dòng máu, nhưng mối liên kết họ hàng vẫn là bền vững nhất. Có thể coi cộng đồng
làng trước tiên là tập hợp của những dòng họ.
* Quá trình hình thành và phát triển:

Từ khởi đầu cho đến nay là sự chuyển đổi và phát triển từ liên kết hộ gia đình tiến
lên là liên kết họ hàng và các dòng họ với nhau. Đó cũng là mối liên kết tự nhiên theo
hôn nhân và theo sản xuất. Từ đời xưa, tổ chức cư trú của nhiều làng đã theo dòng họ.
Những địa danh làng mang tên họ còn lưu lại đến ngày nay khá nhiều từ Nghệ Tĩnh đến
đồng bằng Bắc Bộ như Đỗ Động, Lưu Xá, quan hệ tông tộc này được duy trì, tồn tại phục
vụ cho chế độ phong kiến.

Có người cho rằng quan hệ tông tộc trong làng Việt tồn tại trong mấy thế kỷ qua có
nguồn gốc trực tiếp từ thị tộc nguyên thủy. Ý kiến này chỉ đúng một phần, còn một phần
nữa là cơ chế xã hội của chế độ phong kiến Việt Nam đã sản sinh ra và duy trì nó. Cần

PAGE \* MERGEFORMAT 1
phân biệt thị tộc và tông tộc. Tông tộc và thân tộc ra đời muộn, phục vụ cho chế độ
phong kiến thời trung cổ.

Nhà nước phong kiến dựa vào tông tộc để thống trị, lợi dụng tông tộc làm một chỗ
dựa vương quyền. Sự kết hợp vương quyền với dòng họ đã tạo ra những “danh hương,
vọng tộc”. Ở mỗi làng lại có một số dòng họ lớn sản sinh ra nhiều thế hệ sĩ phu quan lại,
khoa bảng. Chế độ phong kiến Việt Nam đề cao gia tộc, gia trưởng, pháp lý hóa các quan
hệ họ hàng, tạo ra một dạng phong kiến mang đậm tông tộc chủ nghĩa.

* Ý nghĩa:

Hỗ trợ cho nền kinh tế tiểu nông khá tốt, giúp cho tiểu nông khắc phục được nhiều
trở ngại, khó khăn trong sản xuất và sinh hoạt.

Họ hàng căn bản không đối lập với làng xã, có khác biệt nhưng vẫn thống nhất với
làng xã. Họ hàng liên quan với làng thông qua tổ chức giáp. Giáp là đơn vị nhỏ của làng,
có giáp tổ chức theo khu vực địa lý, có giáp lại tổ chức theo dòng họ. Có nhiều làng thì
giáp là họ. Có thể cho giáp là khâu trung gian giữa làng và họ, “hành chính hóa” dòng họ,
quản lý dòng họ và quản lý bằng dòng họ. Như vậy, dòng họ có vị trí quan trọng, có nơi
là nòng cốt của làng. Có làng do một vài họ chi phối.

c) Tập hợp theo giáp (tuổi)

Tất cả nam giới trong làng tập hợp lại trong những giáp. Mỗi làng thường có nhiều
giáp. Người con trai sinh ra được bố mẹ đăng ký vào giáp và từ đó cho đến lúc chết, theo
tuổi tác lần lượt giữ các cương vị trong giáp, được hưởng quyền lợi và làm nghĩa vụ đối
với làng, nước một cách bình đẳng. Trật tự duy nhất của giáp là tuổi tác. Từ 18 tuổi gọi là
dân đinh, bắt đầu gánh vác nghĩa vụ cho đến 59 tuổi sau khi lên lão thì được miễn trừ.
Giáp là một tổ chức rất năng động trong các hoạt động của làng xã. Đứng đầu giáp là Cai
giáp, giúp việc cho Cai Giáp có 3 ông Lềnh (Lềnh nhất, Lềnh hai, Lềnh ba). Lưu ý, ngoài
giáp tổ chức như nói ở trên thì trong lịch sử còn tồn tại loại hình giáp là đơn vị hành
chính.

d) Tập hợp theo nghề nghiệp, sở thích và Phường, hội

Làng Việt Nam còn tổ chức theo chức nghiệp.

VD: Hội Tư Văn là hội của những người đi học và làm quan lập ra, xuất hiện rất
sớm, có thể có từ thế kỷ XV duy trì phát triển vào các thế kỷ XVIII, XIX và đầu XX. Hội
PAGE \* MERGEFORMAT 1
Tư Văn là của các đồ nho có chữ Hán, trong thời Pháp thuộc có nơi kết nạp thêm người
học chữ tây. Một số làng có thêm Hội Tư võ, Hội Làng binh của những người đi lính và
các quan võ về làng. Hội theo giới tính có Hội Chư bà, hội theo lứa tuổi có Hội Mục
đồng (của trẻ chăn trâu), hội Lão (của những người già cả) và hội Đồng niên. Tuy nhiên,
sự ràng buộc của các loại hội này không chặt chẽ và sâu sắc bằng phường và hội hay
dòng họ, nhưng cũng thường xuyên một năm vài ba lần họp hành, ăn uống, sự liên kết
này cũng góp phần ràng buộc các cư dân làng xã theo một định hướng luân lý, đạo đức.

Làng Việt Nam còn có phường hội, một mối dây ràng buộc con người họ. Những
người cùng nghề trong một làng họp thành phường hay phe. Phường là tổ chức nghề
nghiệp của những người làm nghề thủ công và buôn bán, mà ở nước ta chủ yếu là của
nông dân làm thêm các nghề thủ công hay buôn bán. Phường thủ công hay buôn bán đều
có những quy định cụ thể gọi là phường lệ để ràng buộc người cùng nghề, ổn định sản
xuất, chống cạnh tranh, là mối dây ràng buộc khá chặt chẽ đối với những người làm thủ
công hoặc buôn bán. Hiện tượng phường tồn tại trong làng quê làm cho cơ cấu và cơ chế
vận hành của làng nông thôn Việt Nam khác với phương Tây. Như vậy, nông thôn nước
ta về kinh tế, bên cạnh nông nghiệp lại đan xen hay gắn liền với thủ công nghiệp và buôn
bán nhỏ.

Cuối cùng, hợp tác theo quan hệ tương trợ: một số người do nhu cầu của cuộc sống
họp nhau thành các hội. Những hội này hoàn toàn mang tính tự nguyện và thường chỉ
hoạt động trong một thời gian. Các mối quan hệ chằng chéo đan xen trên đây đã thắt chặt
sự gắn bó cộng đồng giữa các thành viên trong làng xã.

3.2 Tổ chức bộ máy tự trị và hành chính

a) Bộ máy tự trị - tự quản

Tiên chỉ: là chức vụ do làng bầu ra, là người có uy tín và có quyền cao nhất,
là người đứng đầu Hội đồng kỳ mục, có phẩm tước cao nhất làng, tuổi đời nhiều
nhất trong số các quan lại đã nghỉ hưu, các chức sắc và khoa mục. Đây là những
nhân vật đứng đầu làng, có quyền quyết định mọi việc của làng.
Thứ chỉ: là người thứ hai trong bộ máy quản lý của làng, thay mặt cho Tiên
chỉ mỗi khi Tiên chỉ vắng mặt, không tham gia hội họp, hoặc trực tiếp thay mặt
Tiên chỉ giải quyết những công việc mà Tiên chỉ phân công.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Bô lão: gồm các người già cả trong làng từ 60 tuổi trở lên sau khi đã khao
vọng làng. Các cụ được quyền tham gia hội họp bàn bạc việc làng.
Kỳ mục: bao gồm các quan lại đã nghỉ hưu, các chức sắc (từ cửu phẩm trở
lên, các tú tài, cử nhân suất đội trở lên), các bậc khoa bảng, các cựu chánh phó
tổng và chánh, phó tổng đương chức, các hương trưởng, hào trưởng, các cựu lý
trưởng, phó lý, các xã nhiêu, chánh phó tổng do mua mà có. Nhóm Kỳ mục do
Tiên chỉ đứng đầu, là cơ quan quản lý quan trọng nhất của làng xã, điều kiện vào
hội đồng không nhất định mà tùy theo Hương ước của mỗi làng.

b) Bộ máy quản lý hành chính (Hội đồng Kỳ địch)

Là cơ quan chấp hành do Lý trưởng đứng đầu. Giúp Lý trưởng là phó lý. Tuần đinh
chịu trách nhiệm về trị an của làng, là người chỉ huy tự vệ làng đốc thúc việc canh phòng
và đốc thúc việc nộp thuế của đinh tráng.

Bộ phận này có trách nhiệm đại diện cho làng khi làm việc với các cơ quan nhà
nước cấp trên, đồng thời chịu trách nhiệm trước nhà nước về các nghĩa vụ của làng đối
với nước như tô thuế, sai phái lao dịch, đi phu đi lính. Bộ phận Kỳ địch quản lý sổ đinh,
sổ điền của làng trên cơ sở đó để điều động, sai phái dân đinh thu tô thuế và các khoản
mà làng đặt ra để chi dùng cho các hoạt động của làng và nộp cho nhà nước.

Mặt khác, Lý trưởng và các thành viên của hội đồng Kỳ địch không có lương hàng
tháng của nhà nước mà chỉ có ít phụ cấp. Nhà nước phong kiến và thực dân cho phép họ
tích trữ những khoản thuế ruộng công bù vào. Do vậy, Lý trưởng và dịch mục thường
phải đứng về phía kỳ mục, về phía làng xã, làm cho chính quyền nhà nước đến tận làng
xã mang nội dung “lưỡng tính”, pháp quyền chính thống đến đây bị khúc xạ, bị suy yếu
bớt.

3.3 Hương ước

* Khái niệm:

Hương ước, tùy theo cách ghi chép của từng làng mà có tên gọi khác nhau (hương
ước, khoán ước, hương biên, hương khoán...). Hương ước là bản ghi chép các điều lệ liên
quan đến tổ chức xã hội cũng như đến đời sống xã hội trong làng, các điều lệ hình thành
dần trong lịch sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Xưa kia các điều lệ ấy quen được gọi là “lệ làng”, được truyền từ đời này sang đời
khác. Rất có thể lúc đầu hương ước được đúc kết trong các áng văn vần để cho dễ nhớ và
dễ truyền khẩu, đại khái cũng giống như các áng văn mang tính chất luật tục, ngày nay
còn thấy ở nhiều dân tộc thiểu số. Trải qua thời kỳ Đại Việt, dần dần ở tất cả các làng,
các lệ làng được sắp xếp thành hệ thống, thành hương ước. Và tất cả các hương ước của
người Việt đều được ghi chép thành văn bản. Hương ước có những nét đặc thù tùy theo
từng làng. Hương ước là danh từ thông dụng nhất và có ý nghĩa đầy đủ nhất để gọi bản
ghi chép hệ thống các lệ làng. Nhưng tùy theo từng nơi mà người ta còn dùng cả những
danh từ khác nhau “hương biên”, “hương lệ”, “hội định”, “hội ước”...

Hương ước được xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ giữa các thành viên của
cộng đồng làng xã với nhau, giữa mỗi thành viên với cộng đồng, giữa các cộng đồng nhỏ
trong làng và cộng đồng làng.

VD: Hương ước làng Quỳnh Đôi lại chia làm 3 phần: khoán hội, khoán làng,
khoán phe. Hoặc như làng Mộ Trạch (Cẩm Bình, Hải Dương) cũng là làng đông dân,
lâu đời lại có nhiều quan lại sĩ phu thì hương ước cũng ra đời rất sớm và có trên trăm
điều khoản. Còn các làng bé nhỏ, nghề nghiệp không phức tạp (chủ yếu là nông
nghiệp), dân thưa thì hương ước ngắn gọn, sơ lược….

* Quá trình hình thành:

Một trong những tính chất của hương ước là tự điều khiển xã hội trong làng, dân
càng đông càng nhiều nghề mà lại muốn tạo nên một kết cấu chặt chẽ, ổn định thì
hương ước phải phong phú, phức tạp, đề cập nhiều mặt của cuộc sống (bao gồm tư
tưởng, tín ngưỡng, hội làng, kinh tế, giáo dục, hương ẩm...). Quá trình can thiệp của
nhà nước vào làng, dần dần biến làng thành một đơn vị hành chính cấp cơ sở của nhà
nước đương nhiên là quá trình hạn chế và thu hẹp dần quyền tự trị của làng xã. Tất
nhiên làng xã dù là đơn vị hiền lành nhất thì cũng không bao giờ dễ dàng chấp nhận
ngay sự can thiệp này và khi ngấm ngầm, lúc công khai tìm mọi cách chống lại sự can
thiệp đó của nhà nước.

Cuộc đấu tranh giằng dai giữa làng xã với nhà nước, giữa truyền thống tự trị với
cách thức tổ chức quản lý tập trung thống nhất, khiến cho nhà nước không thể không
có nhân nhượng nhất định đối với làng xã trên nguyên tắc bảo đảm quyền quản lý của
mình. Hương ước ra đời vừa đáp ứng nhu cầu tự trị, tự quản của làng xã, vừa khẳng
PAGE \* MERGEFORMAT 1
định quyền quản lý làng xã của bản thân nhà nước thống trị. Một hương ước chính thức
thành văn bao giờ cũng phải bảo đảm cả hai yếu tố luật nước và lệ làng. Chắc chắn sẽ
không có hương ước nếu như hoàn toàn chỉ có luật nước, nhưng cũng không thể trở
thành một hương ước chính thức nếu như hoàn toàn chỉ có những tập tục cổ truyền của
làng xã từ ngàn xưa mà không hề biết đến đời sống chính trị và pháp luật hiện hành.

Hương ước phản ánh lợi ích, ý chí, nguyện vọng của các cộng đồng làng xã,
buộc các chính quyền nhà nước phải tính đến trong việc ban hành và thực thi luật
nước. Điều này có nghĩa là bộ máy nhà nước khi xây dựng và ban hành pháp luật đều
phải xử lý mối quan hệ lợi ích của nhà nước và lợi ích của các cộng đồng làng xã.
Trong bối cảnh các làng xã Việt Nam trước đây là “một tiểu triều đình” thì lợi ích của
các cộng đồng làng xã chi phối mạnh mẽ lợi ích của nhà nước. Do vậy, luật nước chỉ
có thể phát huy hiệu lực và “thẩm thấu” vào đời sống khi chúng tương đồng trên những
nội dung cơ bản về quan hệ lợi ích được xác định trong các hương ước.

* Một số nội dung cơ bản của hương ước:

Nhìn chung, hương ước của các làng thường có các nội dung cơ bản sau đây:

+ Những điều khoản quy định về ranh giới lãnh thổ làng

+ Những điều khoản quy định về việc bảo vệ, sử dụng đất đai và môi trường có
liên quan đến sản xuất nông nghiệp

+ Những điều khoản quy định về tổ chức quản lý các mối quan hệ trong làng ví
dụ quy định về xóm ngõ, phe giáp

+ Những điều khoản quy định về bộ máy quản lý và quan hệ giữa các bộ phận
đó với nhau

+ Những điều khoản quy định về việc đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ đối với
nhà nước như đóng thuế, đi phu đi lính

+ Những điều khoản quy định về xét công, tội, thưởng, phạt, đền bù, suy tôn,
cấm đoán

+ Những điều khoản quy định về sửa đổi bổ sung, lưu giữ lệ làng... Tuy nhiên,
tùy theo đặc điểm của mỗi làng mà có thể có những đặc điểm cụ thể khác nhau. Lệ
làng có vai trò là một bộ luật (hiến pháp) riêng của làng.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
VD: Dưới đây là nội dung một số điều trong bản hương ước làng Quỳnh Đôi:

...

Điều 21: Lệ hương ước là lệ chung cho cả làng, kẻ trên, kẻ dưới, người lớn, người
nhỏ, đã có lệ đặt ra thứ tự rồi, quan viên nên vui lòng giữ phép để làm gương cho cả làng.
Nếu quan viên nào cứ họp riêng một mình, các ông già và người trẻ không được dự vào
thời cách ấy là không hợp lệ hương ẩm, các lệ ấy nên thôi, quan viên nên nghĩ lại điều ấy

...

Điều 63: Người ta phải lấy luân lý làm trọng, nghĩa là làm cha thì tính nết cho
lành, làm con thì thờ cha mẹ cho có hiếu, làm anh thì ở với em cho hiền hòa, làm em thì
ở với anh cho cung kính, chồng nói thì vợ nghe, làm người nên cư xử như thế. Nếu
không như thế chẳng khác gì loài súc vật. Ai có điều lỗi không đợi người nhà trình
làng, chỉ cần có người cáo giác với làng, theo tội nặng nhẹ, làng phạt.

...

Điều 69: Học trò cốt giữ nết na làm đầu, gần đây học trò chỉ biết chuyện tập văn bài,
về mặt tu luyện tính nết cho tốt thì còn thiếu, làng có bàn bạc làm việc gì thì tụ họp gièm
pha, phỉ báng này nọ, lấy lời bậy bạ viết vào giấy. Cái tệ ấy nên bỏ, từ nay về sau ai còn
giữ thói ấy có người phát giác, làng bắt phạt một con lợn đáng giá là 3 quan tiền

...

Điều 72: Phàm ai uống rượu thì phải có điều độ, không nên uống nhiều, nếu ai uống
quá say nói ầm ĩ huyên náo, nói cạnh khóe người ta, khen chê chính quyền trong làng,
chửi bóng chửi gió hàng xóm láng giềng, trêu ghẹo đàn bà, con gái đều là vì rượu làm,
nên cả làng bắt phạt: lợn một con đáng giá là 1 quan 5 tiền.

Điều 73: Trong làng cốt lấy sự không kiện nhau là quý, phàm ai có sự gì uất ức thì
phải trình làng để làng xét xử, không được đưa nhau đi kiện ở quan. Nếu làng xét xử
không được rõ ràng công bằng thì mới đưa nhau đến quan xử, quan xử y như làng xửa
thì làng phạt lợn 1 con đáng giá 3 quan. Nếu không trình làng đi kiện ở quan, làng cũng
phạt như vậy.

...

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Điều 84: Khi đi chợ gặp người già, có mang xách gì, mình là người trẻ tuổi, sức
mạnh bạo nên mang xách hộ cho người già, nếu cứ lững thững thì làm lơ như thể không
biết, thời phải phạt.

...

Điều 95: Người ở với nhau cùng xóm nên thương nhau, giúp đỡ nhau là lẽ thường.
Các nhà giàu làng ta thường có lúa gạo bán ở chợ, tháng bảy tháng tám gặp mưa gió, có
người đến vay thì nói hết rồi, cần tiền đến mua thì họ bán cao giá như thế thật đáng ghét.
Từ nay về sau, các nhà ấy phải nên chừa cái tệ ấy. Người nào còn giữ thói xấu ấy, có
người phát giác thì không cho người làm thuê đến nhà ấy làm công.

...

Nội dung của các điều khoản trên đã phản ánh sự khác biệt giữa lệ làng và
phép nước. Điểm nổi bật ở đây là nội dung hương ước nhằm bảo vệ trật tự xã hội,
bảo vệ những điều kiện của sản xuất và an ninh thôn xóm..Hương ước đó được
nâng lên thành nguyên tắc, quy ước và trở thành sức mạnh của làng xã. Hương
ước không chỉ đơn thuần mang tính chất là một hệ thống luật tục. Trong hương
ước không chỉ có những điều cấm không được làm những gì mà lại còn có những
điều khuyên nên làm những gì.

Có bốn loại quy ước chủ yếu trong các bản hương ước, những quy ước về chế độ
ruộng đất; những quy ước về việc khuyến nông, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường;
những quy ước về tổ chức xã hội và trách nhiệm của các chức trách trong làng; những
quy ước về văn hóa tinh thần và về tín ngưỡng. Loại quy ước về chế độ ruộng đất có tầm
quan trọng hàng đầu. Tuy ở nông thôn cũng có những nghề như lâm nghiệp, ngư nghiệp
và thủ công, mỹ nghệ... nhưng ở tuyệt đại đa số các làng, nhân dân chủ yếu làm nông
nghiệp.

Trong hương ước, những quy ước về chế độ ruộng đất được xác định một cách rất
cụ thể và chi tiết.

Trong loại quy ước về việc thúc đẩy và bảo vệ sản xuất, thì quan trọng nhất là
những quy ước về việc duy tu đê đập, việc sử dụng nguồn nước, khơi vét kênh mương,
việc cấm lạm sát trâu bò để bảo đảm sức kéo trong cày, bừa, việc cấm bỏ ruộng hoang,
việc cấm chặt cây ở rừng chắn gió (nhất là ở vùng ven biển)... Ngoài ra, ở những làng

PAGE \* MERGEFORMAT 1
mà nghề thủ công hoặc mỹ nghệ là nguồn sinh nhai quan trọng thì lại có thể có những
quy ước nhằm khuyến khích sự phát triển nghề thủ công hoặc mỹ nghệ ấy.

Loại quy ước về tổ chức xã hội và về trách nhiệm của các chức dịch trong làng có
thể mang những chi tiết khác nhau nếu xem xét hương ước của các làng khác nhau. Tuy
nhiên, về vấn đề này, các hương ước của mọi làng nói chung đều bao gồm hai nội dung
chủ yếu:

Chiếm phần khá quan trọng trong hương ước là loại quy ước về văn hóa tinh thần,
về tín ngưỡng. Các quy ước này gồm hai phạm vi chính. Đó là các quy ước về việc bảo
đảm những mối quan hệ tốt trong gia đình, trong dòng họ, trong toàn thể dân làng, về
việc coi trọng sinh nghiệp, về việc cưu mang giúp đỡ lẫn nhau, về việc khuyến học... Nói
chung, những quy ước thuộc loại này không đơn thuần chỉ mang tính chất là những luật
lệ mà còn bao hàm cả ý nghĩa giáo huấn nhằm mục đích xây dựng thuần phong mỹ tục.
Các quy ước liên quan đến tín ngưỡng là những quy ước về việc tổ chức chăm nom và
duy tu những nơi thờ cúng, đình, đền, miếu, chùa, những quy ước về việc tuân thủ những
điều cấm kỵ mang tính chất tôn giáo, tín ngưỡng thể lệ tổ chức việc cúng tế, tổ chức các
hội lễ dân gian khác nhau, nhất là tổ chức hội lễ của làng.

* Vai trò và tác động của hương ước trong quản lý làng xã: Hương ước của làng có
vai trò tích cực lẫn tiêu cực.

Mặt tích cực:

Tác dụng đoàn kết, cố kết thắt chặt các thành viên của làng lại với nhau, do đó
củng cố tinh thần cộng đồng, tinh thần tập thể, và liên đới trách nhiệm. Hương ước có
vai trò quan trọng đối với việc ổn định nếp sống trong làng và có sức mạnh một phần
là do các hình phạt và hình thức khen thưởng. Kẻ vi phạm phải nộp tiền phạt, nhiều
hay ít thì tùy loại vi phạm và mức độ vi phạm. Với những tội nào đó thì lại phải làm
cỗ lớn để trước là làm lễ tạ tội với thần Thành hoàng ở đình, sau là mời dân làng dự
tiệc. Nhân dân thường gọi đó là phạt vạ.

Hương ước phản ánh tâm lý của dân làng, phản ánh một phương diện quan trọng
của văn hóa làng. Đó là các quan niệm của dân làng về điều phải, điều trái. Luật pháp
nhà nước khó phản ánh sinh động các quan niệm phải, trái, đúng, sai của dân từng làng
như trong hương ước. Hương ước vừa uốn người ta vào khuôn phép của cộng đồng, vừa
động viên người ta hành động. Và nếu người ta quen nói “phép vua thua lệ làng” thì câu
PAGE \* MERGEFORMAT 1
tục ngữ này trước hết cần phải được hiểu là lệ làng, hương ước gần với dân làng hơn,
được dân tuân thủ một cách dễ dàng hơn

Áp lực của hương ước là một áp lực tinh thần, và người ta tuân theo vì thói quen, vì
thấy mọi người đều làm như thế. Như vậy, làng là gốc nước và luật nước ban hành chủ
yếu là cho các làng và thực hiện ở các làng. Theo lý luận, luật nước là các quy phạm có
tính phổ biến và điển hình tạo ra các khuôn khổ pháp lý chung cho sự điều chỉnh. Tuy
nhiên, các khuôn khổ pháp lý chừng ấy không thể áp dụng chung cho mọi đối tượng, mọi
nơi trong hoàn cảnh làng xã Việt Nam tự trị và khép kín với lối sống và tập tục khác
nhau. Để có thể đi vào đời sống, phát huy khả năng điều chỉnh của mình, các quy phạm
của luật nước phải tìm cách hoá thân vào các quy định của hương ước, thông qua hương
ước để đưa các mục tiêu điều chỉnh của mình đến từng cộng đồng làng xã.

Tóm lại, hương ước là một khế ước tự nguyện của toàn thể dân làng. Khế ước ấy
gắn bó dân làng với nhau và điều tiết các trách nhiệm và quyền lợi của mọi thành viên
nên nó có ý nghĩa trong việc bổ sung cho luật pháp khi cần xử lí, những vấn đề rất cụ thể
nảy sinh từ nếp sống đặc thù từng làng. Không chỉ có ý nghĩa như một thứ luật pháp mà
nó có ý nghĩa như một hệ thống tiêu chuẩn đạo đức, chứa đựng những giá trị văn hóa dân
gian hình thành từ lâu đời và thường xuyên được bổ sung. Hương ước bao hàm cả yếu tố
tích cực và tiêu cực và phần nào phản ánh được hệ ý thức của dân làng, trước hết là hệ ý
thức liên quan đến thế giới hiện thực. Trong hương ước cũng đã đề cập đến mối quan hệ
giữa con người với thế giới siêu nhiên. Những mối quan hệ này lại được thể hiện chủ yếu
trong các lễ hội dân gian và nhất là trong lễ hội của làng.

Mặt tiêu cực: Lệ làng góp phần tạo nên trong nhân dân tư tưởng cục bộ, coi
thường luật pháp của nhà nước, tâm lý phe phái, đua ganh hư vị. Làm con người đánh
mất cái tôi nên ít có ý thức khẳng định cá nhân, hạn chế sự sáng tạo.

3.4 Tái lập hương ước và vai trò của hương ước mới trong quản lý làng xã hiện
nay

Hương ước thường được gọi là lệ làng, và “phép vua thua lệ làng” là biểu hiện
sinh động và rõ nét tính tự trị của làng xã đối với nhà nước qua các thời kỳ lịch sử. Vì
thế việc tái lập hương ước và sử dụng những nội dung của hương ước để quản lý làng
xã là điều rất quan trọng.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Làng xã Việt Nam trong lịch sử không đóng kín cửa, không bàng quan với mọi
biến động bên ngoài hay từ bên trên nó, trái lại nó rất quan tâm, nhạy cảm đối với
những vấn đề thiết thân như trị thủy, chống ngoại xâm. Nét bao trùm là làng xã Việt
Nam gắn bó chặt chẽ với đất nước. Nhân dân gắn bó với quê hương. Trong lịch sử lâu
dài của dân tộc, con người Việt Nam rất quan tâm đến vận mệnh của Tổ quốc sẵn sàng
hy sinh vì độc lập tự do của đất nước, đoàn kết chống ngoại xâm. Mối liên kết bền
vững, lòng nhân ái, ý thức tự cường dân tộc là truyền thống tươi đẹp, là mặt tích cực
cần được tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày
nay. Bên cạnh đó, cũng cần khắc phục những tàn dư “phép vua thua lệ làng” của xã
hội cũ còn rơi rớt lại để đi vào CNH – HĐH đất nước.

Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay, Đảng và nhà nước ta đã đề ra
chủ trương cho phép các làng xã được tái lập hương ước nhằm tạo điều kiện cho việc
quản lý chặt chẽ và hiệu quả hơn nông thôn nước ta, góp phần bài trừ các tệ nạn xã
hội, tăng cường tình đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau để thực hiện nếp sống mới,
xây dựng gia đình văn hóa, làng văn hóa. Đây là một chủ trương đúng đắn được nhân
dân đồng tình ủng hộ và hiện đang là một trong những tiêu chí để công nhận làng văn
hóa. Đánh giá đúng vai trò của hương ước trong việc xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là chủ trương xây dựng nông thôn mới hiện nay.

Hương ước có sức mạnh to lớn trong việc điều chỉnh hành vi của quần chúng
nông dân ở các làng xã, do đó đảng và nhà nước ta chủ trương các làng xã tái lập
hương ước mới. Tuy nhiên để tránh tình trạng lệ làng trái với phép nước thì nhà nước
phải có định hướng trong việc xây dựng nội dung của hương ước; các nội dung của
hương ước đề ra phải là những quy định nằm trong pháp luật hoặc không được trái với
Hiến pháp và pháp luật của nhà nước. Hương ước mới đảm bảo việc loại trừ các hủ
tục, các tệ nạn xã hội và xây dựng nếp sống mới ở làng xã.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
PAGE \* MERGEFORMAT 1
CHƯƠNG 4: VĂN HÓA LÀNG XÃ VIỆT NAM

4.1 Tín ngưỡng - tôn giáo trong làng xã cổ truyền Việt Nam

4.1.1 Đình làng và tín ngưỡng Thành hoàng

a) Đình làng - đặc trưng tín ngưỡng độc đáo của người Việt

Đình làng là nơi thờ phụng Thành hoàng (thần bảo vệ làng) và ông Khai canh; trở
thành một biểu tượng văn hoá tâm linh của mỗi người dân quê Việt. Làng nào cũng có
đình, có khi mỗi thôn lại có một đình riêng. Đình để thờ Thành hoàng nhưng đồng thời
cũng trở thành nơi hội họp của chức sắc trong làng, hay là nơi sinh hoạt của cộng đồng
làng xã. Mọi hoạt động này đều xảy ra ở đình với sự chứng kiến của Thành hoàng.
Những sinh hoạt văn hóa tại đình làng nhằm củng cố ý thức cộng đồng. Gắn với tín
ngưỡng này là hội làng và được tổ chức hàng năm. Đây cũng là một tín ngưỡng thờ cúng
người có công với làng với nước. Nó là cơ sở cho tín ngưỡng thờ cúng các anh hùng dân
tộc

Tín ngưỡng Thành hoàng: Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong đình
làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên và lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ
tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là
hộ quốc tý dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó.

Trong phạm vi gia đình, người Việt thờ tổ tiên và vài vị thần như Táo công, Thổ
công, thần Tài...; ở phạm vi làng xã, người Việt thờ Thành hoàng. Thành hoàng làng
(Thành hoàng) là danh từ chung để chỉ vị thần được thờ trong một làng xã Việt Nam.
Thường những người có công với làng hoặc với nước sẽ được tôn làm Thành hoàng.
Giống như Táo công và Thổ công, Thành hoàng cai quản và quyết định họa phúc của một
làng và thường được thờ ở đình làng. Do vậy hầu hết ở mỗi làng quê hay phố nghề (nơi
thị thành) đều lập đình (hoặc đền, miếu) thờ vị Thành hoàng của làng hay phường hội.
Thành hoàng là người có công với dân, với nước, lập làng, dựng ấp hay sáng lập nên một
nghề (ông tổ của nghề).Thành hoàng là vị thần linh cai quản và che chở cho dân làng.
Mỗi làng có một vị thần Thành hoàng riêng được dân làng tôn thờ. Ở nhiều làng xã mới
lập về sau do công cuộc khai hoang đều có dựng đền, đình, miếu để thờ thần Thành
hoàng của làng.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Tục thờ Thành hoàng hay thần hoàng ở nước ta là do ảnh hưởng từ văn hóa Trung
Hoa truyền sang từ thời Đường. Tuy nhiên theo Phan Kế Bính thì trước đó nhân dân ta
cũng đã có những tín ngưỡng dân gian rồi. Sau khi du nhập vào làng xã Việt Nam đã
nhanh chóng bám rễ vào trong tâm thức người nông dân Việt, trở nên hết sức đa dạng,
thể hiện truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Tôn thờ Thành hoàng làng chính là một
nhu cầu tâm lý, người dân thờ Thành hoàng làng để phục vụ cho hiện thực cuộc sống, là
chỗ dựa tinh thần không thể thiếu được, là phương tiện, là động lực thúc đẩy sản xuất và
ổn định cuộc sống.

Sử sách cho biết Thành hoàng đầu tiên ở nước ta là thần Tô Lịch-Thần Thành hoàng
của thành Đại La, trụ sở của phủ đô hộ Đường tại nước ta (thế kỷ thứ IX). Thần Tô Lịch
là do Lý Nguyên Gia và Cao Biền tôn vinh là "Đô phủ Thành hoàng thần quân", chữ
Thành hoàng bắt đầu có từ đó. Trong quá trình hình thành và phát triển của làng xã Việt
Nam, Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh; bởi theo họ, chỉ có thần mới có
thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày
thêm ổn định, thịnh vượng. Thành hoàng chính là vị thần tối linh của làng xã không chỉ
về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất.

Thần được coi là người có thể bao quát, chứng kiến toàn bộ đời sống của dân làng,
bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khỏe mạnh. Cho nên sự thờ phụng Thành
hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của làng. Thành
hoàng cũng được gọi là phúc thần, tức vị thần ban phúc cho dân làng, thường mỗi làng
thờ một Thành hoàng, xong cũng có khi một làng thờ hai, ba hoặc hai ba làng thờ một vị.
Thành hoàng có thể là nam thần hay nữ thần, tuỳ sự tích mỗi làng.Đó có thể là một vị
thần như Phù đổng Thiên vương, thần núi như Tản Viên Sơn thần, thần có công với dân
với nước như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Yết Kiêu, Dã Tượng... lại có khi là các
yêu thần, tà thần... với nhiều sự tích hết sức lạ lùng, nhiều khi có vẻ vô lý. Đã là Thành
hoàng làng thì đại bộ phận có một lý lịch ghi thành văn bản gọi là thần tích hoặc thần
phả, ngọc phả, phả lục v.v.. Những thần tích đó vừa là bằng chứng của tín ngưỡng dân
gian, vừa là một thành phần của nền văn hoá dân gian. Nói cách khác, thần tích mà hiện
nay còn lại chính là một sở hữu đồng thời một sáng tạo văn hoá phi vật thể của dải đất
ngàn năm văn vật. Nó là tâm hồn, tư duy, là trí tưởng tượng, là quan niệm về vũ trụ và
nhân sinh của bao thế hệ cư dân . Đại đa số sự tích về Thành hoàng làng đều là những
truyền thuyết, sau này những truyền thuyết ấy được các địa phương chú trọng và trở
PAGE \* MERGEFORMAT 1
thành văn bản chính thức được nhà nước công nhận, từ đó đã ra đời các Thần tích, Thần
phả, Sắc phong. Thành hoàng làng có nhiều nguồn gốc, có thể là nhân thần, có thể là
nhiên thần, nhưng tựu trung lại là các vị thần đã được lịch sử hóa hay huyền thoại hóa.
Tuy nhiên các Thành hoàng được sắc vua phong (trừ những tà thần, yêu thần...) luôn luôn
tượng trưng cho làng xã mà mình cai quản là biểu hiện của lịch sử, của đạo đức, phong
tục, pháp luật cũng như hy vọng sống của cả làng. Thành hoàng có sức tỏa sáng vô hình
như một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ. Theo
tục lệ xưa, các đời vua thường phong các vị Thành hoàng thành ba bậc: Thượng đẳng
thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, tùy theo sự tích và công trạng của các vị thần đối
với nước với dân, với làng xã. Các vị thần cũng được xét đưa từ thứ vị nọ lên thứ vị kia,
nếu trong thời gian cai quản các vị này đã phù hộ, giúp đỡ được nhiều cho đời sống vật
chất và tâm linh của dân chúng. Việc thăng phong các vị Thành hoàng căn cứ vào sớ tâu
của làng xã về công trạng của các vị thần. Sớ này phải nộp về triều đình trong một thời
gian quy định. Mỗi lần thăng phong triều đình đều gửi sắc vua ban rất linh đình và cất nó
trong hòm sắc thờ ở hậu cung đình làng.

Nhưng có khi Thành hoàng chỉ là một người dân mà theo quan niệm, là người được
các vị thần ban cho sứ mệnh để sau này thay họ cai quản làng xã, được gọi là Thành
hoàng sống.Tương truyền rằng, khoảng năm 1938 đến năm 1940 của thế kỷ XX, ở xóm
Dinh Thị xã Vĩnh Yên – Vĩnh Phúc có ông Nguyễn Đình Cận làm nghề nuôi dê lấy sữa.
Hàng ngày ông dẫn đàn dê đến chăn ở khu đồi làng Khai Quang. Mỗi lần ông đi qua đình
làng thì ngai thờ Thành hoàng đổ nhào về phía trước. Nhiều lần như vậy, ông Thủ Từ lấy
làm lạ nên chú ý đến chuyện không bình thường này. Ông thấy, cứ mỗi lần ông Cận đi
qua đình là ngai thờ Thành hoàng đều bị đổ. Ông trình bày đầu đuôi mọi sự với hương
chức làng. Hương chức cùng các vị bô lão họp bàn, làm lễ khấn xin thần linh báo mộng
để dân làng biết lý do việc ngai của Thành hoàng đổ. Thần linh báo mộng rằng: Thành
hoàng cũ Thượng đế chuyển sang làm việc khác và chỉ định ông Nguyễn Đình Cận thay
thế. Sau đó, làng làm lễ đón ông Cận về thờ. Thành hoàng có sức tỏa sáng vô hình như
một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một hệ thống chặt chẽ. Chính sự thờ
phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống cộng cảm hoà
đồng, đất lề quê thói được bảo tồn. Vì lẽ đó, các hương chức cũng như các gia đình trong
làng, mỗi khi muốn mở hội hoặc tổ chức việc gì đều phải có lễ cúng Thành hoàng để xin
phép trước. Dường như sự ngưỡng mộ Thành hoàng của người dân không kém gì sự

PAGE \* MERGEFORMAT 1
ngưỡng mộ đối với tổ tiên của họ. Hiểu được nhu cầu tâm linh của người dân, cộng thêm
ý muốn tạo lập một thiết chế văn hóa – tín ngưỡng chính thống của vương triều, để nhằm
xóa bỏ dần tầm ảnh hưởng của các triều đại trước; nên dưới thời các vua đầu nhà
Nguyễn, cứ ba năm xét ban sắc phong thần một lần. Chỉ riêng năm 1852, vài năm trước
thời nguy khốn của đất nước bởi thực dân Pháp xâm lược, vua Tự Đức đã sai cấp đồng
loạt 13.069 sắc phong cho cả nước. Cùng với việc “Quốc điển hóa” sự thờ phụng; cũng
chính là để nhanh chóng đạt được mục đích trên. Do đó tín ngưỡng thờ cúng Thành
hoàng dần trở thành một tín ngưỡng quan trọng nhất của làng Việt.

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng thường được thể hiện trong các lễ hội xuân hoặc
Tết cổ truyền. Vào mùa xuân, mùa bắt đầu của một năm mới cũng là lúc mùa lễ hội diễn
ra. Lễ hội, nhất là lễ hội thờ Thành hoàng làng thực chất là chiếc cầu nối giữa quá khứ
với hiện tại, là sự giao lưu văn hoá giữa các làng xóm với nhau, là nét văn hoá đặc trưng
trong sinh hoạt văn hoá làng, là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ
phụng tập thể-thờ Thành hoàng làng trong tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của
người dân. Lễ hội làng thì làng Việt có rất nhiều lễ hội, nhưng tựu trung lại có 5 loại lễ
hội sau:

- Lễ hội nông nghiệp: Khai ươn (gieo mạ), xuống đồng, thường tân (mừng cơm
mới), cầu mưa (cầu đảo).

- Lễ hội phồn thực giao duyên: Đề cao sự sinh sôi nảy nở của con người, mùa màng
và gia súc. Thông qua lễ hội nam nữ có cơ hội trao duyên với nhau bằng nhiều hình thức.

- Lễ hội đua tài thi nghề khéo: làm bánh, làm mâm cỗ, thi cấy, thi gặt...

- Lễ hội tưởng niệm lịch sử: đây là lễ hội quan trọng và thiêng liêng nhất, dân làng
làm lễ tưởng niệm thể hiện sự biết ơn đối với các ông Thành hoàng, Khai canh, những
người có công với làng với nước. Là lễ hội điển hình nhất, tập trung những yếu tố văn
hóa của dân tộc.

- Lễ hội văn nghệ giải trí thuần túy: hội kéo co, chọi gà, hội vật.

Mỗi lễ hội thường được thể hiện qua 5 phạm trù:

- Thời gian: kéo dài trong bao lâu? Tổ chức vào mùa nào trong năm là tốt nhất?

- Không gian lễ hội: địa điểm tổ chức lễ hội phải đạt được yêu cầu gì?

- Đặc trưng của lễ hội là gì?


PAGE \* MERGEFORMAT 1
- Chức năng của lễ hội: giao lưu tình cảm hay giao lưu văn hóa, giáo dục tinh thần
cộng đồng, mỗi lễ hội có một chức năng chính.

- Hệ thống hành động lễ hội: gồm những hành động gì? Trong các lễ hội của làng thì
Hội làng là tín ngưỡng quan trọng nhất, bao gồm cả lễ và hội, chứa đựng nhiều nội dung
khác nhau.

Hội làng thực chất là một lễ hội đa dạng, là một phức hợp sinh hoạt văn hóa thiêng
liêng nhất, là dịp biểu dương sức mạnh đoàn kết gắn bó mọi thành viên với cộng đồng.
Lễ hội là dịp chuyển giao văn hóa và sáng tạo văn hóa. Ngày hội làng (mỗi làng chọn
một ngày) là ngày dân làng tưởng niệm, nhớ ơn, thờ cúng ông Thành hoàng và ông Khai
canh của làng. Lễ hội này có các đặc trưng sau:

- Mang nội dung ý nghĩa đề cao sản xuất nông nghiệp quyện chặt với truyền thống
yêu quê hương, đất nước.

- Thi tài khéo tay liên quan trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp.

- Tổ chức cúng giỗ, tế lễ các anh hùng dân tộc hay các nhân vật của làng có công
với làng với nước.

- Ngày hội làng là sinh hoạt văn hóa hoàn chỉnh có hệ thống bao gồm nhiều yếu tố
có liên quan tác động lẫn nhau để tạo nên nét tâm lý xã hội, tâm lý tộc người, cũng là tâm
lý dân tộc Việt Nam. Đặc điểm này được biểu hiện ở những nét sau: Yếu tố vật chất: Bao
giờ cũng tế lễ, rước xách, hành hương, có bày cỗ cúng tế, ăn uống linh đình, có bài trí
lộng lẫy, mỗi người đi dự lễ hội có trang phục đẹp nhất, thích nhất. Yếu tố tinh thần: Phải
đạt được yếu tố linh thiêng, có lễ bái, có tổ chức các trò chơi, biểu diễn nghệ thuật và yêu
cầu giải trí sau (trước) lao động. Có sự biết ơn người xưa, có hành động phát huy tinh
thần thượng võ... nhưng quan trọng nhất là nhu cầu giao lưu tình cảm của các cư dân
trong làng và cả với những làng lân cận, tạo tình cảm tương thân tương ái, đoàn kết cộng
đồng, trai gái giao duyên.

- Thành phần tham gia hội làng: mang tính tập thể đậm nét, thu hút tất cả các tầng
lớp, lứa tuổi. Hội làng là ngày cao điểm sinh hoạt văn hóa của dân làng, thu hút tất cả tài
năng, sức người, sức của và tinh thần của dân làng, làm mở mày mở mặt dân làng, là ước
vọng vươn tới cuộc sống thái bình, ấm no, an lạc...

PAGE \* MERGEFORMAT 1
- Đặc điểm nổi bật: Hội làng là ngày hội cổ truyền và là nơi kết tinh nên tình quê
hương, đất nước, tinh thần cộng đồng. Hội làng thường được dân làng chuẩn bị trước cả
tháng, những ngày chuẩn bị không khí làng náo nức hẳn lên. Đó là những ngày mang tình
làng nghĩa nước, đem cá nhân hòa vào cộng đồng, ai cũng phấn chấn, trai thì mạnh, gái
thì duyên, già thì trẻ lại, trẻ thì trẻ hơn, là ngày khẳng định văn hóa Việt Nam, tẩy rửa
văn hóa lai căng đem lại thức bổ dưỡng tốt cho tâm hồn, hình hành khát vọng, niềm tin
và lẽ sống cho người Việt. Ở Quảng Bình, phần lớn lễ hội thờ Thành hoàng được tổ chức
vào mùa hạ (rằm tháng 6 âm lịch)…. Ngày nay, lễ hội làng đang phát triển mạnh mẽ và
nở rộ ở khắp nơi. Tục thờ cúng Thành hoàng, diễn lại thần tích, rước xách, tế lễ đang
được phục hồi, vì có như vậy mới ghi nhớ được công lao của các vị tiền bối với nước, với
làng.Hàng năm, ngày giỗ Thành hoàng là ngày hội đông vui nhất của làng, của phố.
Trong những ngày hội, ngoài việc làm cỗ, ăn uống còn rất nhiều nghi lễ như diễn lại sự
tích về Thành hoàng, tế lễ, rước kiệu hay các trò vui: đấu võ, chọi gà, thổi cơm thi, bơi
chải, đánh đu, đánh cờ người, hát chèo, diễn tuồng... Không khí vui vẻ cả ngày lẫn đêm
(có nơi hai, ba ngày), từ các lão ông, lão bà đến mỗi cháu bé, và chờ đợi nhất, vui nhất là
những trai gái đương lứa, đây là dịp để gặp gỡ, kết bạn, tỏ tình. c. Tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong mọi gia đình, dòng họ và thờ cúng tổ tiên của cả
nước đã có từ lâu đời ở người Việt. Đây là sinh hoạt văn hóa tinh thần mang ý nghĩa
thiêng liêng, giúp con người nhớ về cội nguồn và cầu mong tổ tiên phù hộ cho cuộc sống
con cháu. Thờ cúng tổ tiên tạo không gian thiêng liêng, những môi trường văn hóa truyền
thống phía sau bát nhang trên bàn thờ của mỗi gia đình chứa đựng biết bao giá trị văn hóa
truyền thống đáng quý về tinh thần lao động quên mình, về công lao giết giặc, về tính
cách cao đẹp có ý nghĩa giáo dục rất lớn. Thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn.
Cùng với việc thờ cúng tổ tiên thì tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng đem lại cho người
dân ý thức hướng về cội nguồn, về quê cha đất tổ bằng những biểu hiện sinh hoạt văn hoá
truyền thống. Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá là trách nhiệm của mỗi người và
cũng là để góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá
dân tộc.Các thế hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhưng Thành hoàng thì còn mãi, trở thành một
chứng tích không thể phủ nhận được của một làng qua những cơn chìm nổi.

4.2 Tôn giáo, tư tưởng

4.2.1. Nho giáo trong tâm thức người Việt

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Lịch sử tư tưởng Trung Quốc rất phong phú. Từ rất sớm, người Trung Quốc đã đưa
ra những quan điểm để giải thích thế giới. Đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, chiến tranh
loạn lạc xảy ra triền miên, các nhà tư tưởng Trung Quốc quan tâm trước hết đến việc tìm
kiếm đường lối tối ưu bảo đảm cho đất nước được ổn định, thống nhất, nhân dân được an
cư lạc nghiệp. Học thuyết của các nhà tư tưởng ấy đã đặt cơ sở cho việc hình thành các
trường phái tư tưởng của Trung Quốc thời cổ trung đại, trong đó quan trọng nhất là các
phái Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp gia. Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng
nhất ở Trung Quốc thời cổ trung đại. Người đầu tiên đề xướng Nho học là Khổng Tử
sống vào thời Xuân Thu (vào thế kỷ VI TCN). Đến thời Chiến Quốc, đại biểu trung thành
của phái này là Mạnh Tử, nhưng lúc bấy giờ vì không đáp ứng được yêu cầu của xã hội,
nên Nho học chưa có vai trò gì đáng kể. Từ đời Tần sang đời Hán, nhà Tần chủ trương
dùng đường lối Pháp gia để thống nhất và cai trị Trung Quốc nên rất coi thường Nho
giáo. Đến đời Hán Vũ Đế (140 - 87 TCN), nhà Hán đã trở nên cường thịnh; để ngăn chặn
xã hội hướng cát cứ và tăng cường chế độ chuyên chế trung ương tập quyền, Hán Vũ Đế
đã chọn Nho học làm cơ sở lý luận và tư tưởng cho nền thống trị của giai cấp phong kiến,
vì với chủ trương thống nhất và đường lối nhân chính, trường phái này đáp ứng được yêu
cầu đó của lịch sử. Cũng từ đó, Nho học phát triển trở thành trường phái tư tưởng quan
trọng nhất ở Trung Quốc, người có nhiều đóng góp nhất là Đổng Trọng Thư (179 - 104
TCN). Từ khi ra đời, Nho giáo đã tồn tại gần hai nghìn năm. Mặc dù có ít nhiều thay đổi
qua các triều đại, nhưng nó vẫn là công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến. Nho
giáo xuất phát từ quyền lợi của giai cấp thống trị. Do đó, càng về sau, cùng với sự suy đồi
của giai cấp địa chủ phong kiến, nó càng trở nên bảo thủ, lỗi thời và kìm hãm sự phát
triển của xã hội. + Đặc điểm du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam Giới nghiên
cứu Việt Nam đã từng bàn nhiều về vấn đề này. Ngay từ thế kỷ II TCN cho đến cuối thế
kỷ X, Trung Quốc sau những cuộc hành quân xâm lược đã đặt sự thống trị của họ trên
toàn bộ đất nước Việt Nam. Từ đó, với sự du nhập của Nho giáo, một số trí thức được
đào tạo và sử dụng trong bộ máy cai trị của kẻ xâm lược. Nhưng vì sao suốt 1000 năm,
Nho giáo không thể phát triển được và chỉ dừng lại trong một phạm vi nhỏ thuộc tầng lớp
trên ưu đãi? Ngược lại, vì sao Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ khoảng thế kỷ VI
lại nhanh chóng lan rộng trong nhân dân lao động? Có lẽ do đặc điểm và dị biệt của Phật
giáo và Nho giáo; từ hoàn cảnh du nhập của hai trào lưu tư tưởng nói trên. Dưới thời Bắc
thuộc, chính quyền đô hộ đã đưa chữ Hán và phong tục tập quán của người Hoa cùng với

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Nho giáo sang nhằm Hán hóa Việt tộc. Tuy nhiên, dân tộc ta với ý thức độc lập mạnh mẽ
đã đấu tranh kiên cường chống đồng hóa trong suốt hơn 1000 năm. Về cơ bản do mất
nước nhưng không mất làng nên văn hóa Việt vẫn được bảo tồn, nhân dân ta dựa vào
làng để khước từ sự tiếp thu văn hóa Hán, trong đó có Nho giáo. Chính vì thế mà hơn
1000 năm Bắc thuộc, phong kiến phương Bắc chỉ truyền bá Nho giáo đến một bộ phận
nhỏ người Việt là một số quý tộc, quan lại tay sai và con em của họ (thường là những
người tham gia vào bộ máy cai trị của phong kiến phương Bắc), truyền bá Nho giáo vào
nước ta bọn phong kiến phương Bắc nhằm lợi dụng tư tưởng trung quân của Nho giáo để
buộc nhân dân ta phải trung thành với chính quyền đô hộ, chấp nhận thân phận nô lệ. Tuy
nhiên thực tế cho thấy chính sách trên đã thất bại. Khi giành lại độc lập, các triều đại
phong kiến Việt Nam Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý – Trần đều coi Phật giáo là quốc giáo.
Bước sang nửa thế kỷ XI, nhà Lý với nhu cầu xây dựng nhà nước quân chủ hoàn bị mới
bắt đầu xem xét lựa chọn hình mẫu nhà nước quân chủ quan liêu Trung Hoa để từng
bước điều chỉnh bộ máy theo hướng hoàn bị hơn mới bắt đầu chuyển sang lấy Nho giáo
làm hệ tư tưởng chính trị. Đặc biệt từ thời Lê Sơ đến Trịnh – Mạc, Tây Sơn, Nguyễn bắt
đầu coi Nho giáo là quốc giáo thì Nho giáo mới có điều kiện phát triển và ảnh hưởng
ngày một sâu rộng tới làng xã.

Phân tích: Khi Nho gia chuyển thành Nho giáo thì chính là lúc các nguyên tắc
chính trị và luân lý của học thuyết này bị giáo điều như nguyên tắc tôn giáo bị thần thánh
hóa. Rồi Khổng, Mạnh được tôn thờ như thần trong tâm thức, tâm linh làng xã. Sau khi
giành được độc lập, đứng trước nhu cầu xây dựng lại đất nước và làm ổn định mọi mặt
của đời sống, nhà nước phong kiến Việt Nam cần có ngay một hệ tư tưởng thích hợp, đó
chính là Nho giáo. Từ đây, Nho giáo vốn không phát triển được bao nhiêu qua một nghìn
năm lịch sử, giờ được đề cao và giữ địa vị thống trị trong thượng tầng kiến trúc. Đội ngũ
trí thức Nho học ngày một đông đảo, được giao nhiệm vụ quan trọng là phổ biến Nho
giáo trong toàn quốc và xây dựng bộ máy cai trị từ TW đến làng, xã. Nhà nước Việt Nam
đã sớm biết sử dụng trí thức Nho học, đưa những người có học thức và đỗ đạt vào bộ
máy cai trị, thay thế cho tầng lớp quý tộc. Phải chăng chính vì thế mà bộ máy cai trị có
văn hóa ấy đã tranh thủ được sự đồng tình và tin cậy của nhân dân, và từ đó củng cố trật
tự xã hội theo tinh thần Nho giáo. Năm 1070, Quốc Tử Giám - trường đại học của nhà
nước được xây dựng ở Thủ đô, các trường tư thục được mở ở hầu khắp các thôn xã, nhân
dân Việt Nam đã coi việc học hành là một nhiệm vụ quan trọng và đặt người trí thức ở vị

PAGE \* MERGEFORMAT 1
trí cao nhất trong xã hội (sĩ, nông, công, thương). Nhà Lê và sau này nhà Nguyễn đã sử
dụng Nho giáo để cố gắng xây dựng một nền thống nhất chính trị giữa gia đình và triều
đình với hệ thống tam cương (quân, phu, phụ). Vào thời Nguyễn, hầu hết các tỉnh, huyện
ở đồng bằng đều có Văn chỉ, Văn miếu để đề cao, lồng ghép – thậm chí chồng xếp một
cách đặc biệt lên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nho giáo có tác dụng củng cố cố gia đình
và dòng họ, bảo vệ lễ giáo phong kiến, bảo vệ quyền lợi của tập đoàn phong kiến thống
trị, khi mà Phật giáo không củng cố gia đình thân tộc, không bàn đến quân thần – phụ tử,
không bảo vệ trật tự đẳng cấp.

Trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, Nho giáo giáo dục nhân dân tinh thần phục tùng
tuyệt đối với nhà vua, củng cố trật tự làng xã, bảo đảm sự đóng góp thường xuyên, đầy
đủ về tô thuế và tạp dịch cho nhà nước. Với Nho giáo, xã hội Việt Nam phát triển truyền
thống nhân đạo và yêu nước của mình, có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để suốt 1000
năm bảo vệ được nền độc lập và đánh bại quân xâm lược.

Trước sự xâm lược của phương Tây, Nho giáo đã bộc lộ những nhược điểm của
mình. Sau khi Pháp tiến công xâm lược Đà Nẵng thì triều đình Huế đã diễn ra cuộc tranh
luận gay gắt giữa phái chủ chiến và phái chủ hòa. Có lẽ bởi nhãn quan thiển cận và bảo
thủ của Nho giáo mà cả hai phái đều tỏ ra hoàn toàn bất lực trước tình hình mới mà lịch
sử hàng ngàn năm qua chưa từng biết đến, cuối cùng Việt Nam rơi vào tay thực dân
Pháp. Năm 1911, việc Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước có ý nghĩa quan trọng đối
với lịch sử Việt Nam. Là một người xuất thân từ một gia đình nhà nho, Người đã sớm
thấy sự hạn chế của Nho giáo ở những nhà trí thức đương thời. Mặc dù đã chứng minh
những tội ác của chủ nghĩa đế quốc ở trong nước và trên thế giới, Người vẫn khâm phục
và nhiều lần ngợi ca cuộc cách mạng đã từng nêu cao lá cờ Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
Tiếp thu những thành tựu mới của văn hóa nhân loại mà chủ nghĩa Mác – Lênin được coi
là đỉnh cao nhất, HCM đã đem lại sự hồi sinh cho nền văn hóa của dân tộc trên cơ sở đó,
sáng tạo ra đường lối giải phóng và xây dựng lại đất nước, và Người cũng đã nêu những
quan điểm của mình đối với Nho giáo. Đặc biệt, sau khi cách mạng tháng Tám thành
công, trong nhiệm vụ xây dựng lại đất nước có việc đánh giá lại những di sản tư tưởng
của dân tộc, trong đó có vấn đề đánh giá lại Nho giáo. Trong mấy thập kỷ qua, xung
quanh vấn đề Nho giáo đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng Nho giáo
đã chi phối toàn bộ sinh hoạt vật chất và tinh thần ở Việt Nam. Có ý kiến lại cho rằng
nhân dân Việt Nam từ chối Nho giáo. Trên con đường phát triển, xã hội Việt Nam đã kế
PAGE \* MERGEFORMAT 1
thừa nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trong đó có sự đóng góp của Nho giáo.
Không thể phủ nhận ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam khi nó đã được kẻ xâm lược
truyền bá suốt 1000 năm và nhất là sau đó lại được nhà nước Việt Nam chủ động sử dụng
như hệ tư tưởng chính thống. Với chính sách tôn trọng trí thức và đào tạo trí thức theo
tinh thần Nho giáo, nhà nước Việt Nam đã tích cực đưa Nho giáo vào xã hội Việt Nam.
Lý thuyết Nho gia trở thành tư tưởng chi phối hành vi của các tầng lớp trí thức và quan
liêu. Nhiều nghi lễ Nho giáo cũng đã thâm nhập vào nhân dân và ảnh hưởng lớn đến cả
phong tục tập quán. Ngoài ra, theo HCM, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân. Mục tiêu của tu thân là năm mối quan hệ: vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em và bạn bè. Và sự tu thân phải hướng về gia đình, tổ quốc và nhân loại.
Đối với gia đình phải xây dựng được những tình cảm sâu sắc và một trật tự chặt chẽ, con
phục tùng cha, vợ phục tùng chồng. Đối với tổ quốc phải bảo đảm sự an vui của toàn dân
trong sự trung thành tuyệt đối với nhà vua. Đối với nhân loại, phấn đấu cho cuộc sống đại
đồng và hạnh phúc. Ở Việt Nam, hệ thống tu thân này đã giúp ích trong việc giáo dục
nhân dân tinh thần gìn giữ đạo đức, bồi dưỡng phẩm chất cá nhân và thái độ quý trọng
đối với những người có công với đất nước. Với truyền thống của dân tộc, giới trí thức
Việt Nam đã góp phần xây dựng những quan hệ tốt đẹp giữa người và người. Trong gia
đình là thuận vợ thuận chồng, củng cố tình yêu thương và mở rộng nó ra với xóm làng
quê hương. Đối với tổ quốc, đạo đức của Việt Nam đề cao tinh thần yêu nước, chiến đấu
dũng cảm để giành độc lập và cùng chăm lo hạnh phúc của mọi người. Đối với nhân loại,
sự tu dưỡng hướng vào tình hữu nghị giữa các dân tộc trên đất nước Việt Nam và đối với
các nước láng giềng theo tinh thần bốn bể đều là anh em. Nhân dân Việt Nam ngày nay
tiếp tục sử dụng nhiều câu chữ của Nho giáo để củng cố tinh thần đạo đức đó với một nội
dung mới. Nho giáo từ lâu giữ địa vị thống trị ở Trung Quốc và ở nhiều nước khác như
Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Những nước này đã trải qua mấy ngàn năm trong một
xã hội “bình yên và không thay đổi”. Từ khi tiếp xúc với phương Tây công nghiệp, phải
đương đầu với chủ nghĩa đế quốc thì những nước nói trên không còn bình yên nữa. Để có
thể tồn tại, các nước ấy phải tự thay đổi một cách sâu sắc và toàn diện.

Trên con đường đi lên CNXH, ảnh hưởng của Nho giáo vẫn tiếp tục tồn tại, ảnh
hưởng ở trong nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế,
sở hữu tập thể đã dần thay thế cho sở hữu tư nhân. Ở nông thôn, ruộng tư lại trở thành
ruộng công. Với ảnh hưởng của Nho giáo, hệ tư tưởng của một xã hội được xây dựng chủ

PAGE \* MERGEFORMAT 1
yếu trên cơ sở chế độ ruộng công với chính sách cống nạp từ bên dưới và phân phối từ
bên trên lại bộc lộ mặt bảo thủ của nó. Với tư tưởng “trọng nông ức thương”, Nho giáo
từng kìm hãm công nghiệp và kinh tế hàng hóa. Về mặt sản xuất, Nho giáo coi thường
khoa học kỹ thuật. Về mặt phân phối, nó khuyến khích chủ nghĩa bình quân. Kinh tế Việt
Nam không thể đổi mới và phát triển nếu không gạt bỏ được sự cản trở ấy của tư tưởng
Nho giáo. Về xã hội, Nho giáo xây dựng một chế độ quan liêu rất chặt chẽ với uy quyền
tuyệt đối của nhà vua, của cha, của chồng. Không thể có dân chủ trong chế độ quan liêu
được xây dựng theo tinh thần Nho giáo. Nho giáo đề cao đạo đức và coi như biện pháp
hiệu nghiệm nhất để cai trị (đức trị). Nhưng trong xã hội mới, để đảm bảo sự công bằng
xã hội cần gạt bỏ mọi sự tùy tiện quan liêu để con người sống theo pháp luật; cần khai
thác những nhân tố Nho giáo thích hợp để phát triển đất nước.

4.2.2 "Phật giáo dân gian". Tính thích ứng, tính đơn giản, tính điều hòa và dung hợp

Đạo Phật được hình thành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI TCN, người sáng lập là
thái tử Siddharta (Tất Đạt Đa), hiệu là Gô ta ma (Cồ Đàm). Đạo Phật sinh ra vào lúc ở
Ấn Độ đạo Bà la môn đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội. Nỗi
bất bình về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với những khổ cực của dân
chúng, chính là nguyên nhân hình thành nên học thuyết của tôn giáo mới – đạo Phật. Đạo
Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể trở
thành Phật, từ chỗ tự giác tiến lên giác ngộ. Phật khuyên mọi người nên biết tiết chế dục
vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, làm điều lành, tránh điều ác, Phật là biểu tượng của sự
sáng suốt và từ bi. Thực chất của đạo Phật là một học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát.
Cốt lõi của học thuyết này là Tứ diệu đế (bốn chân lý kỳ diệu) hay con gọi là tứ thánh đế
(bốn chân lý thánh): khổ đế - là chân lý về bản chất nỗi khổ; nhân đế hay tập đế - là chân
lý về nguyên nhân của nỗi khổ; diệu đế- là chân lý về cảnh giới diệt khổ và cuối cùng là
đạo đế - chân lý chỉ ra con đường diệt khổ. Thuyết nhân quả nghiệp báo của Phật giáo
phù hợp với tín ngưỡng dân gian người Việt về việc ông trời trừng phạt kẻ ác, cứu giúp
người lành. Thuyết luân hồi phù hợp với quan niệm hồn tồn tại sau khi chết và cũng phù
hợp với nhận xét về sự tuần hoàn ở các cây của cư dân nông nghiệp. Cũng như bất cứ
một tôn giáo nào trên con đường phát triển, Phật giáo đã chia thành nhiều tông phái khác
nhau với hai dòng chính là tiểu thừa (Nam tông) và Đại thừa (Bắc tông). Phật giáo vào
nước ta biến dạng khá nhiều. Khi vào đất Việt, Phật giáo cũng biến hóa cho phù hợp với

PAGE \* MERGEFORMAT 1
phong tục, tập quán của nhân dân bản địa. Quá trình du nhập Phật giáo vào nước ta theo
hai đường cơ bản: 

Đường biển: Xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn, rồi qua ngã Srilanka, In-đô-
nê-xi-a, Việt Nam… Lợi dụng được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp
với hai mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các vùng
này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dương này, các
thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng đi cùng để cầu nguyện cho thủy thủ
đoàn và các nhà sư này nhờ đó mà truyền bá đạo Phật vào các dân tộc Đông Nam Á.
Giao Châu bấy giờ tiêu biểu là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của
các hương thuyền. Từ đây, có những người như Khương Tăng Hội (gốc Trung Á) hay
Ma-ha-kì-vực (nhà sư Ấn Độ) đã đi sâu vào Trung Hoa truyền đạo.

Đường bộ con đường này nối liền Đông Tây, xuất phát từ vùng Đông Bắc Ấn Độ,
Asam hoặc phía Tây Trung Á, một nhánh của con đường tơ lụa đi từ châu Âu qua các
vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện lạc đà.
Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mê-Công,
sông Hồng và sông Đà để vào Việt Nam.

 * Sự ảnh hưởng của Phật giáo đến Việt Nam theo từng giai đoạn :

Trước thế kỷ V – Thời kỳ du nhập: Theo các nhà nghiên cứu, đạo Phật du nhập vào
nước ta từ những năm đầu công nguyên. Ngay từ thế kỷ II, Luy Lâu (Thuận Thành – Bắc
Ninh ngày nay) đã trở thành một trung tâm Phật giáo. Lịch sử Trung Quốc ghi nhận là
“Đầu công nguyên, trong khi ở Nam Trung Quốc chưa biết đến Phật giáo thì ở Luy Lâu
đã có một trung tâm Phật giáo và Phật học khá phồn thịnh; thời kỳ đầu Phật giáo Việt
Nam chủ yếu được truyền vào từ Ấn Độ bằng đường biển theo các thương nhân. Đến thế
kỷ IV, V, các nhà sư Trung Quốc tới truyền giáo ngày một nhiều hơn”.

 Thời kỳ hậu Lý Nam đế đến Tiền Lê (571 – 1009): Trong khoảng thời gian từ thế
kỷ VI đến thế kỷ IX, Phật giáo cũng được truyền bá rộng hơn, chùa chiền mọc lên ở
nhiều nơi, cư dân Việt theo đạo Phật ngày càng nhiều. Giai đoạn này ảnh hưởng của các
nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên. Các
phái thiền Trung Quốc du nhập vào Việt Nam: Phái Thiền Tỳ ni đa lưu chi Vinitaruci
(580-594). Thời kỳ hậu Lý Nam đế, tỳ ni đa lưu chi là học trò của Tăng – Xán, tổ thứ 3
của phái Thiền Trung Quốc, đã vào Việt Nam tu tại chùa Pháp Vân (Hà Bắc) và trở thành
PAGE \* MERGEFORMAT 1
sư tổ của phái Thiền Việt Nam. Phái này có 18 đời với 29 thiền sư, kể từ Thiền sư Pháp
Hiền (626) đến người cuối cùng là Y Sơn (1216). Phái thiền Vô ngôn thông là phái thiền
thứ hai từ Trung Quốc truyền vào nước ta sau phái thứ nhất 200 năm. Từ năm 820 đến
1287, có 15 đời với 40 vị thiền sư. Sang thế kỷ X, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc
lập, tự chủ đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển sang một bước mơi. Các nhà Đinh,
Tiền Lê đều có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Đinh Tiên Hoàng sau khi lên ngôi đã triệu
tập các vị cao tăng để định rõ phầm trật cho tăng gia. Vua Lê Hoàn đã cử những phái
đoàn sang Trung Quốc thỉnh kinh để về truyền bá Phật pháp. Các vị vua này đã trọng
thưởng cho những nhà sư có công giúp vua lo việc triều chính. Đó là Đinh Tiên Hoàng
đã phong cho sư Ngô Chân Lưu chức Tăng Thống và chức Khuông việt Thái sư ngang
hàng với tam công trong triều. Lê Đại Hành đã mời sư Đỗ Thuận giúp triều đình về đối
nội và đối ngoại.                    

Phật giáo thời Lý – Trần (1010 – 1400): Có thể nói, đây là thời kỳ Phật giáo Việt
Nam phát triển cực thịnh. Triều Lý được xem là triều đại Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam.
Lý Công Uẩn – người sáng lập triều Lý vốn là một sa di học trò của sư Lý Khánh Văn.
Nhiều vua Lý đã xuất gia theo đạo Phật, Lý Thánh Tôn là sư tổ thứ II của phái Thiền
Thảo Đường. Thời Trần các vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều là những nhà Phật
học nổi tiếng, sáng tác nhiều thơ văn mang tư tưởng Phật giáo. Trần Nhân Tông sau khi
nhường ngôi cho con đã xuất gia tu hành ở núi Yên Tử và trở thành sư tổ của Thiền phái
Trúc Lâm – một thiền phái thuần túy Việt Nam. Thời kỳ này, Phật giáo xuất hiện nhiều
nhà sư danh tiếng có công với đất nước và đạo pháp: sư Vạn Hạnh (Lý), Viên Chiếu,
Thông Biện... Đời Trần có các nhà sư thuộc phái Thiền Trúc Lâm như Trần Nhân Tông,
Pháp Loa, Huyền Quang..  

Đạo Phật trở thành trụ cột tinh thần chủ yếu của bộ phận phong kiến thống trị. Theo
nhận xét của nhà sử học Lê Văn Hưu: “Nhân dân quá nửa là sư sãi; trong nước chỗ nào
cũng có chùa”. Dưới thời Trần, nhà nho Trương Hán Siêu cũng cho rằng: “Thiên hạ trăm
phần thì sư tăng có một”. Dù ảnh hưởng của Phật giáo hết sức sâu đậm trong đời sống
của cư dân Đại Việt, nhưng người Việt không tiếp nhận Phật giáo một cách thụ động mà
đã gắn đạo Phật với quyền lợi dân tộc, đã soạn giáo lý đạo Phật của riêng mình, tạo cơ sở
cho sự ra đời của phái thiền Trúc Lâm, một phái thiền thuần túy Việt Nam

.Phật giáo thời Hậu Lê đến Nguyễn Sang thế kỷ XV: Nhà Lê lấy đạo Nho làm quốc
đạo và trở thành chỗ dựa về tư tưởng, chính trị đạo đức. Đạo Phật tuy không còn giữ
PAGE \* MERGEFORMAT 1
vững vị trí độc tôn như thời Lý – Trần, song vẫn giữ được gốc rễ sâu bền trong nhân dân.
Đồng thời với thái độ khoan dung, Phật giáo đã chung sống với Nho giáo, Lão giáo theo
kiểu “Tam giáo đồng nguyên”. Thời kỳ này Phật giáo xuất hiện 2 phái thiền từ Trung
Quốc truyền sang: gồm phái Tào Động (miền Bắc) và phái Lâm Tế (miền Nam).

Phật giáo từ thời cận đại đến nay: Từ thời nhà Nguyễn đến thời Pháp thuộc, Phật
giáo tiếp tục suy vi ở Việt Nam. Cho đến năm 1930, một số nhà sư cùng những nhân sĩ trí
thức có tinh thần dân tộc đứng ra vận động chấn hưng Phật giáo, Phật giáo từ đó bắt đầu
khởi sắc. Từ đây một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức. Một số tổ chức Phật
giáo và một số cơ sở đào tạo tăng ni lần lượt ra đời. Phong trào chấn hưng Phật giáo kéo
dài đến năm 1954. Mặc dù thực dân Pháp tìm nhiều cách để lôi kéo và thao túng một số
nhân vật và tổ chức Phật giáo để thực hiện âm mưu tập hợp lực lượng tôn giáo làm chỗ
dựa chính trị. Song chúng đã thất bại vì tuyệt đại tăng ni, Phật tử vẫn giữ nguyên truyền
thống yêu nước, gắn bó với dân tộc, giữ nếp tu hành theo sơn môn, tông phái, tích cực
tham gia đóng góp sức người, sức của cho thắng lợi của cách mạng tháng Tám và kháng
chiến chống Pháp lần thứ hai 1945-1954.

Phật giáo chia thành ba phái khi thâm nhập vào Việt Nam:

 Phái Thiền Tông (tự tu luyện, ngồi thiền suy tư – tĩnh tâm), quan niệm “Phật tại
tâm”. Tâm của mỗi người là cõi Niết Bàn, là Phật. Tầng lớp trí thức quý tộc theo giáo
phái này khá đông: vua Trần Nhân Tông đi tu ở núi Yên tử và lập ra phái Trúc Lâm Yên
Tử.

 Phái Tịnh Độ Tông: Hướng về cõi Niết Bàn, thường xuyên đi cầu nguyện ở chùa,
cách tu hành đơn giản nên thu hút phần lớn dân chúng.

Phái Mật Tông: tu hành bí mật, dùng ấn quyết, mật chú với hy vọng mau chóng
giác ngộ và giải thoát. Mật Tông hòa lẫn với tín ngưỡng dân gian Việt Nam thành các
nghi lễ, pháp thuật, yểm bùa, chữa bệnh.

 * Một số đặc điểm của Phật giáo Việt Nam :

Tính thích ứng

 Là một bộ phận của văn hóa nông nghiệp Việt Nam, Phật giáo Việt Nam không chỉ
có tính tổng hợp, tính hài hòa âm dương thiên về nữ tính, mà còn có tính thích ứng linh
hoạt, nhà Phật thường gọi là “Tùy duyên bất biến, bất biến mà vẫn thường tùy duyên”,

PAGE \* MERGEFORMAT 1
nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người ta có thể giải thích Phật giáo theo các
cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý của đạo Phật. Ngay từ đầu, người Việt
Nam đã ra một lịch sử Phật giáo riêng cho mình: Nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh,
một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo trở thành Phật tổ với ngày sinh là ngày Phật
đản Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung thực
hơn là đi chùa: thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Coi trọng truyền thống,
thờ ông bà, cha mẹ hơn là thờ Phật: tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân
tu. Muốn giữ cho Phật mãi ở bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật giáo. Có
nơi do muốn một sư ông gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ, dân làng đã tổ chức
cưới vợ cho sư, khiến cho ngôi chùa gần như trở thành một gia đình. Các vị Bồ tát, các vị
hòa thượng đều được gọi chung là Phật: Phật Bà Quan Âm (vốn là Bồ Tát), Phật Di Lặc
(vốn là hòa thượng)… Ngoài ra tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa, dân giã
với những tên gọi rất dân gian: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông nhịn ăn mà mặc
(Tuyết Sơn gầy ốm), ông nhịn mặc mà ăn (Di Lặc to béo)… Nhiều pho tượng Phật được
tạc theo lối ngồi không phải trên tòa sen mà là chân co duỗi rất thoải mái, giản dị. Ngôi
chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi chùa cổ truyền với hình thức mái
cong có ba gian hai chái, năm gian hai chái… Chùa Một Cột như một lễ vật dâng lên
Phật Bà với hình bông sen thanh thoát ở trên và trụ đá tròn ở dưới nhằm biểu hiện cho
ước vọng phồn thực (no đủ và đông đúc). Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công
trình quan trọng thứ hai ở mỗi làng

. Tính đơn giản

 Tính điều hòa và dung hợp

 Là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất của Phật
giáo Việt Nam. - Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống: Khi vào Việt
Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống dân tộc, và do vậy, đã
được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền
thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều
nhất là Tứ pháp: Mây – Mưa – Sấm – Chớp. Tuy nhiên, bốn vị thần này đã được “Phật
hóa”. Các pho tượng này thường được gọi là Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp
Lôi và Phật Pháp Điện. Trên thực tế các tượng Phật này hoàn toàn điêu khắc theo tiêu
chuẩn của một pho tượng Phật, nghĩa là đầy đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ
đẹp. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền Phật hậu thần” với việc đưa các
PAGE \* MERGEFORMAT 1
thần, thánh, các thần hoàng, thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Đa số các
chùa còn để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã khuất. - Tổng hợp giữa các tông phái
Phật giáo Ở Việt Nam không có tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Các tông phái Phật
giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu
Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị Thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không… đều giỏi pháp Phật và có tài thần thông biến hóa. Phật giáo Việt
nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực. Thiền tông còn kết hợp với
Tịnh độ tông trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ tát. Các điện thờ ở chùa miền Bắc
có vô cùng phong phú các loại tượng Phật Bồ tát, La Hán của các tông phái khác nhau.
Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang
hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích ca Mâu ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý
Đại thừa; bên cạnh đó còn có các tượng Phật nhỏ khác; có áo nâu, áo lam. - Tổng hợp
giữa Phật giáo với các tôn giáo khác Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo
ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo lại cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận
Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo làm nên “Tam giáo đồng nguyên” (cả ba
tôn giáo có cùng một gốc) và “Tam giáo đồng quy” (cả ba tôn giáo có cùng một mục
đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác con
người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh “Tam
giáo tổ sư” với Thích ca Mâu ni ở giữa, Lão Tử bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu
vào tâm thức mọi người dân Việt. Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất
cả các tôn giáo khác để hình thành đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm
“Thiên nhân hợp nhất” và “Vạn giáo nhất lý”.

4.2.3. Đạo giáo và "Tam giáo đồng nguyên"

 Đạo giáo cũng là một luồng tư tưởng và tín ngưỡng từ Trung Quốc truyền bá vào Việt
Nam muộn hơn Phật giáo và Nho giáo, song cũng có ảnh hưởng khá rõ nét trong các làng
xã. Từ cuối thế kỷ II, Đạo giáo thâm nhập vào nước ta. Lúc này, trong khi Nho giáo đang
cố thâm nhập vào Việt Nam vẫn chưa đạt được kết quả như mong muốn thì Đạo giáo
nhanh chóng được tiếp nhận. Đạo giáo phù hợp với nhiều tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Hơn nữa, người Việt vốn sẵn tính sùng bái tự nhiên, tin ma thuật. Các nhà sư tăng Phật
giáo Ấn Độ cũng phải học thêm ma thuật và trị bệnh để dễ truyền bá đạo Phật. Nếu Nho
giáo là đạo “nhập thế” thì Đạo giáo là đạo “xuất thế”, với chủ trương “vô vi” thoát tục,
cởi bỏ mọi ràng buộc xã hội, thuận theo tự nhiên, ưa thích thiên nhiên. Về sau, người ta
PAGE \* MERGEFORMAT 1
khai thác những khía cạnh thần bí và xuất thế của tư tưởng Lão Trang phát triển thành
một thứ “đạo thần tiên”, tôn Lão Tử làm “thái thượng lão quân” vào núi hái thuốc, luyện
đan, học phép tịch cốc (nhịn ăn) và cầu “trường sinh bất tử”. Đạo giáo có hai phái tu là
nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Chử Đồng Tử được coi là
ông tổ của Đạo giáo Việt Nam nên còn có tên Chử Tổ Đạo. Điều này thể hiện tính tổng
hợp của các tôn giáo khi vào Việt Nam vì Chử Đồng Tử còn được coi là người đầu tiên
tu thành Phật (xem thêm Phật giáo Việt Nam). Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là
Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của
người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng
sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa
được bệnh tật và trị được tà ma. Tương truyền Hùng Vương vì giỏi phù phép nên có uy
tín lớn và thu thập được 15 bộ để lập nên nước Văn Lang. Dưới thời Bắc thuộc, Đạo giáo
rất phát triển ở Việt Nam. Nhiều quan lại Trung Hoa sang Việt Nam cai trị đều thích
phương thuật, ví dụ Cao Biền đời Đường từng “cưỡi diều tìm long mạch” để triệt nguồn
nhân tài Việt Nam. Thế nên, nếu Nho giáo phải đến thời Lý mới được thừa nhận thì Đạo
giáo hòa trộn với tín ngưỡng ma thuật đến mức không còn ranh giới. Từ Trung Quốc vào
Việt Nam, Đạo giáo vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng thượng
đế, Thái thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh
đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của
người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho
thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Dưới các triều
Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần đều có chọn các đạo sĩ làm cố vấn bên cạnh các nhà sư, nên có
chức Đạo quan và Tăng quan. Tương truyền vua Đinh Tiên Hoàng từng lấy lễ thầy trò để
tiếp đãi pháp sư Văn Du Tường, nhờ ông chém chết yêu quái vốn là Mộc tinh ở cây chiên
đàn lâu năm.Dưới thời vua Lê Thần Tông, thế kỷ XVII, xuất hiện một trường phái Đạo
giáo Việt Nam có quy mô rất lớn gọi là Nội đạo, do Trần Toàn là một vị quan triều Lê,
không theo nhà Mạc, từ quan về tu Tiên, mở Đạo trường ở Hoằng Hóa (Thanh Hóa), có
10 vạn tín đồ, được tôn là Thượng sư. Phái Đạo này phát triển vào Nghệ An và ra Bắc,
đến tận thế kỷ XX hãy còn tồn tại nhiều trung tâm của đạo này ở Thanh Hóa, Nghệ An,
Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội. Phái Đạo giáo thần tiên đã đem sang Việt Nam phương
pháp cầu Tiên.  Kinh sách của Đạo giáo được truyền sang Việt Nam hiện vẫn còn truyền
tụng, ngoài 2 quyển đầu tiên là Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử và Nam Hoa Kinh của

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Trang Tử, còn có quyển Huỳnh Đình Kinh dạy cách luyện Đạo, Thanh Tịnh Kinh và
Cảm Ứng Kinh dạy về lẽ lành dữ trả vay cho người tu giải thoát. Đặc biệt, Đạo giáo khi
vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh
hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với
phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là
những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan
trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối
lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú, cuộc cờ chén rượu mà theo
dòng lịch sử,  chúng ta đã thấy rất nhiều như: Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ... Thời Bắc thuộc, Đạo giáo
chỉ phổ biến trong dân gian, đến thời phong kiến độc lập, các nhà Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần đều coi trọng các đạo sĩ không kém các tăng sư (bên cạnh Tăng quan còn có Đạo
quan). Ngày nay, Đạo giáo đã tàn lụi ở Việt Nam, chỉ còn lẻ tẻ một số ít nghi lễ mang
tính tín ngưỡng dân gian như đồng bóng, đội bát nhang, xin bùa chú... Vì thế, Đạo giáo
vẫn còn ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của một bộ phận dân cư làng xã, mà
ngày nay tàn dư của nó cần được khắc phục.

* Đặc điểm của Đạo giáo Việt Nam

Tính tổng hợp: tổng hợp là một đặc điểm quan trọng của tín ngưỡng truyền thống
nên giống như các tôn giáo khác khi du nhập vào Việt Nam, Đạo giáo bị hòa trộn với tín
ngưỡng truyền thống. Đối với Đạo giáo thì rất đặc biệt, Đạo giáo phù thủy rất tương đồng
với tín ngưỡng ma thuật nên sự hòa trộn diễn ra rất mãnh liệt, đến mức không thể phân
biệt đâu là Đạo giáo, đâu là tín ngưỡng. Rất nhiều nhà nghiên cứu quy hết cho mọi tín
ngưỡng Việt Nam là Đạo giáo, còn đối với người dân thích đồng bóng, bùa chú... thì lại
không biết Đạo giáo là gì.

 Tính linh hoạt và âm dương hòa hợp: Sau tính tổng hợp là tính linh hoạt và âm
dương hòa hợp – là những đặc tính đặc trưng của Đạo giáo Việt Nam. Đạo giáo thờ các
vị thần Ngọc Hoàng Thượng Đế (Ngọc Hoàng), Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), Quan
Thánh Đế (Quan Công), người Việt còn thờ các vị thánh của riêng mình. Câu tục ngữ
“tháng 8 giỗ cha, tháng 3 giỗ mẹ” là để chỉ Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo) và Bà
Chúa Liễu (Liễu Hạnh công chúa). Việc thờ Đức Thánh Trần với tam phủ (nữ thần trời –
đất – nước) và tứ phủ (nữ thần mây – mưa – sấm – chớp) đi liền với tín ngưỡng đồng
bóng. Người thờ Đức Thánh Trần được gọi là ông đồng; người thờ tam phủ, tứ phủ gọi là
PAGE \* MERGEFORMAT 1
bà đồng. Các ông đồng, bà đồng có thể cho người khác mượn thân xác của mình, trạng
thái này gọi là lên đồng. Ngoài ra, Đạo giáo Việt Nam còn thờ các vị thần khác như Tam
Bành, Độc Cước, Huyền Đàn, Ông Năm Dinh, Quan lớn Tuần Tranh... Đạo giáo chủ
trương không tham gia vào đời sống xã hội (xuất thế) nhưng khi vào Việt Nam thì Đạo
giáo còn được dùng làm vũ khí chống áp bức (nhập thế). Ví dụ, thời Hồ, có Trần Đức
Huy dùng pháp thuật để thu hút đông đảo người theo chống lại triều đình, nhưng sau đó
bị dẹp.

Tam giáo đồng nguyên – sự hình thành tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” ở Việt
Nam Nho – Phật – Lão hội nhập là hiện tượng tư tưởng chung của các nước như Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Triều... thời trung đại. Nhưng tại mỗi nước tình hình đã
diễn ra cụ thể như thế nào, đâu là chỗ giống nhau hoặc khác nhau giữa nước này với
nước khác... là những câu hỏi chưa có lời giải đáp. Hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên”
có thể xem như là hệ quả của quá trình vừa cạnh tranh, vừa tiếp nhận lẫn nhau, để cuối
cùng đi đến hội nhập trong đa dạng về phương diện tư tưởng. Ở Việt Nam, điều này đã
diễn ra từ thời Bắc thuộc (111 TCN – 905) và kéo dài trong suốt thời kỳ vương quốc độc
lập tự chủ (905 – 1885), theo một tiến trình gồm 3 bước:một là, tam giáo đỉnh lập; hai là,
tam giáo dung hợp; ba là, tam giáo đồng nguyên. Chính việc tam giáo “cầu đồng tồn dị”
để xích lại gần nhau trong tiến trình lịch sử của chúng đã kết thành một mạng lưới tạo
nên sức mạnh vì mục đích nhân văn, vì cuộc sống con người.

1) Tam giáo đỉnh lập có nghĩa là Nho, Phật, Lão cùng ở thế chân vạc, mối quan hệ
giữa chúng thường là phân lập, thỉnh thoảng có chỉ trích, phê phán lẫn nhau, cũng không
ngoài mục đích khẳng định bản thân. Nho giáo truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỷ I. Đến
thế kỷ II, ngoài Nho giá, ở đây còn có thêm Phật giáo. Sang thế kỷ III, Lão giáo và Đạo
giáo cũng có mặt ở Giao Châu, hình thành thế Nho – Phật – Lão “đỉnh lập”. Ở Việt Nam
từ thế kỷ XIV trở về trước, mối quan hệ Nho, Phật Lão chủ yếu là “đỉnh lập”, có sự
khích bác lẫn nhau, nhưng không ngoài mục đích tự khẳng định mình, giành cho mình
quyền tồn tại và tiếp tục phát triển.

2) Tam giáo dung hợp còn gọi là “Tam giáo hỗn dung” hay “Tam giáo nhất gia”,
chỉ hiện tượng tư tưởng Nho, Phật, Lão xâm nhập vào nhau, bổ trợ cho nhau, chung sống
cùng nhau. Trên một cột kinh bằng đá phát hiện tại Hoa Lư (Ninh Bình) năm 1987, có
ghi một người tên là Đỉnh (hoặc Lạng) Noa Tăng Noa bị giết vì tội “không trung hiếu
thờ cha và trưởng huynh, lại có ác tâm”. “Trung hiếu” là từ ngữ của Nho giáo, còn “ác
PAGE \* MERGEFORMAT 1
tâm” lại là từ ngữ của Phật giáo, nghĩa là vụ án được xét xử và hành quyết theo lập
trường Nho – Phật. Đó là sự việc xảy ra vào thời nhà Đinh, chứng tỏ sự hỗn dung giữa
Phật giáo và Nho giáo. Sang đời Lý, sự xâm nhập giữa tư tưởng Phật giáo và tư tưởng
Lão giáo càng rõ rệt.

3) Tam giáo đồng nguyên còn gọi là “Tam giáo nhất nguyên”, “Tam giáo hợp
lưu”, “Tam giáo đồng quy”... “Tam giáo đồng nguyên” hay “tam giáo nhất nguyên” là
nói về điểm xuất phát của Nho, Phật, Lão: chúng được coi như từ một cội nguồn mà ra.
“Tam giáo hợp lưu” hay “Tam giáo đồng quy” là nói về nơi gặp gỡ, chỗ hội tụ của Nho,
Phật, Lão: chúng được coi như cùng trở về một mối. “Tam giáo nhất trí” hay “Tam giáo
nhất thể” là nói về bản chất của Nho, Phật, Lão: chúng được coi là đồng nhất với nhau,
không phân biệt, không mâu thuẫn, không xung đột với  nhau. Vì sao vậy? Câu trả lời có
thể tìm thấy trong nhiều tác phẩm được biên soạn vào các thế kỷ XVIII, XIX. Ở thế kỷ
XVIII, với cuốn Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm (1756-1803) và một
số người cùng chí hướng với ông, như Phan Huy Ích, Nguyễn Hữu Đàn, Ngô Thì Hoành,
Vũ Trinh... ra sức chứng minh Nho và thiền vốn cùng một gốc, chúng chỉ khác nhau ở
chỗ công dụng: “nhập” thì dùng Nho, “xuất” thì dùng thiền

Đặc điểm tôn giáo người Việt là đồng thuận và dung hợp. Người Việt không theo
một tôn giáo duy nhất. Đến thế kỷ XIX, trên đất nước ta các loại thần (tổ tiên, Thành
hoàng, Nho, Phật, Đạo) đều tồn tại đồng thời trong từng làng xã, thậm chí trong từng gia
đình. Kết cấu dung hợp Nho, Phật, Đạo và tín ngưỡng dân gian tồn tại trong gia đình,
làng xã bổ sung cho nhau. Không có sự xung đột gay gắt giữa các tôn giáo, dẫn tới sự ra
đời của tư tưởng Tam giáo đồng nguyên.

4.2.4 Thiên Chúa giáo

 Quá trình du nhập: Từ thế kỷ XVI, đạo Thiên chúa (Ki tô) du nhập vào nước ta và
dần dần thu hút được một số người thuộc nhiều thành phần khác nhau theo đạo. Giáo lý
Kitô thuyết phục con người bằng tình thương, sự đồng cảm của chúa, sự bình đẳng của
mọi người trên thiên đường... đã đi được vào lòng người lao động bị áp bức. Tuy nhiên,
trong thời gian đầu từ 1533 đến 1614, các giáo sỹ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và
dòng Da-Minh thuộc Tây Ban Nha đi theo thuyền buôn vào nước ta do không quen thông
thổ, chưa thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo không được mấy kết quả. Từ 1614 đến
1645, các giáo sỹ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma Cao vào Việt Nam, hoạt động ở cả

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Nhiều giáo sỹ thông thạo tiếng Việt lại hoạt động khôn
khéo nên dã thu hút được khá nhiều người Theo đạo. Theo tài liệu của Giáo hội thì chỉ
trong vòng 20 năm truyền giáo ở miền Nam Trung Bộ, họ đã lôi kéo được 50.000 người
theo đọa và đào tạo được 40 tu sĩ người Việt để giúp việc truyền giáo.

Quá trình phát triển: Tình hình nước ta từ thế kỷ XVI-XIX có nhiều xáo trộn và
phức tạp, các tập đoàn phong kiến Lê Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong mãi
lo thôn tính lẫn nhau, sau đó nội chiến Nguyễn Ánh –Tây Sơn và sự phục hồi của nhà
Nguyễn làm cho kinh tế bị gián đoạn, chính trị hỗn loạn, nhân tâm giao động li tán đã tạo
tình thế thuận lợi cho việc truyền bá Đạo Thiên chúa được thuận lợi. Theo số liệu của
Giáo hội đến đầu thế kỷ XX, số người theo đạo Công giáo đã xấp xỉ 1 triệu người, cụ thể:

- Năm 1644 tại Đàng Trong có 100.000 người;

- Năm 1737 tại Đàng Ngoài có 250.000 người;

- Năm 1850 cả nước có 500.000 người;

- Năm 1910 cả nước có 900.000 người.

Do nhiều nguyên nhân khác nhau, bằng các con đường không giống nhau (giáo sĩ truyền
đạo, nhà thờ, nhà chung tổ chức cho những người nông dân lưu vong hoặc không có
ruộng đất đi khẩn hoang lập làng và theo đạo...) cho đến cuối thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ
XX đã có một bộ phận khá đông đảo nhân dân theo đạo Thiên chúa, có một số làng xã
Thiên chúa giáo toàn tòng (huyện Kim Sơn – Ninh Bình). Dưới thời Pháp thuộc, đạo
Thiên chúa phát triển khá mạnh. Trong các làng xã theo đạo Thiên chúa đều có các thánh
đường hoặc nhà thờ làm nơi thờ phụng, hành lễ và tín đồ cầu nguyện. Cùng với việc mở
mang nước Chúa, nhiều giáo sĩ đã có những hoạt động thiếu trong sáng phục vụ cho âm
mưu xâm lược của thực dân Pháp. Chính điều này khiến các triều đại phong kiến Việt
Nam nghi ngại phải thi hành chính sách cấm đạo, bức đạo quyết liệt. Năm 1980, Hội
đồng giám mục Việt Nam chung cho cả nước được thành lập. Ki tô giáo không thể đạt đa
số ở Việt Nam vì hai lí do: Thứ nhất, Ki tô giáo đã dính líu đến các cuộc xâm lược của đế
quốc phương Tây ở nước ta, để lại ấn tượng xấu khó phai mờ. Thứ hai, Ki tô giáo mang
tính chất văn hóa du mục, mặc dù đã cố gắng cải biến hòa hợp với văn hóa nông nghiệp
nhưng vẫn trái với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Ngày nay, Ki tô giáo hòa minh trong văn
hóa dân tộc Việt Nam, kính chúa gắn với yêu nước, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”.

PAGE \* MERGEFORMAT 1
4.3 Tính tự trị

a) Khái niệm

Theo GS Bùi Xuân Đính, làng là đơn vị tụ cư truyền thống của người nông dân Việt,
có địa vực riêng, cơ sở hạ tầng cùng cơ cấu tổ chức riêng, tục lệ riêng... nhưng chặt chẽ
và hoàn chỉnh nhất. Còn xã chỉ là đơn vị hành chính cơ sở của nhà nước phong kiến ở
vùng nông thôn.

Mỗi làng xã từ khi mới thành lập đều có một sự độc lập nhất định hay còn gọi là tính
tự trị. Nói tính tự trị của làng xã là so với làng khác và so với nhà nước phong kiến TW
tập quyền.

b) Nguồn gốc, bản chất

Mỗi làng xã có cách tổ chức quản lý các thành viên của riêng nó theo một quy chế
thống nhất.

Nhà nước ra đời trên cơ sở tập hợp của nhiều làng xã. Làng xã ra đời trước, có thể
xem như “nhà nước con”. Nó có các thành viên, bộ máy quản lý, quy ước, bộ phận an
ninh…riêng. Bên trong nó cũng tồn tại các phe phái, mâu thuẫn nội bộ mà nhà nước
không thể can thiệp vào.

Nhà nước phải đi đến người dân thông qua làng xã. Làng xã là công cụ phục vụ cho
các mục đích của nhà nước như thu thuế, bắt lích, huy động lao dịch. Vì vậy, nhà nước
muốn làng xã làm lợi cho mình thì đương nhiên phải tôn trọng quyền tự trị - quyền “độc
lập tương đối” của làng xã.

c) Nền tảng và yếu tố nuôi dưỡng, củng cố tính tự trị làng xã

Nền tảng: sự cố kết chặt chẽ, không thể tách rời khỏi thực thể làng của các bộ phận,
tổ chức, cá nhân trong làng. Sự đan xen nghề nghiệp: nông, công, thương và mối quan hệ
đa dạng phường hội, họ hàng, xóm, giáp; sự dung hợp các hệ tư tưởng và tôn giáo... đã
tạo cho làng một cơ sở vững chắc. Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều tổ
chức, phe giáp, và là thành viên của cộng đồng làng, là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt
chẽ với tổ chức làng.

Yếu tố nuôi dưỡng, củng cố: chế độ quân điền. Ruộng đất của mỗi làng do làng ấy
tự phân chia và sử dụng. Việc phân chia này có lệ riêng của làng, có khi không theo đúng
thể lệ quân điền của nhà nước.
PAGE \* MERGEFORMAT 1
d) Biểu hiện

* Trong mối quan hệ giữa làng với làng:

Về địa vực: Mỗi làng có giới hạn phạm vi lãnh thổ rất rõ ràng và không cho bất cứ
cái gì thâm nhập, làm thay đổi. ĐIều này còn thể hiện ở sự phân biệt giữa “dân nội tích”
và “dân ngoại tích”: con người chỉ tồn tại hợp pháp với tư cách là thành viên chính thức,
dân ngoại tịch ngụ cư hoặc bị xóa tên trong sổ làng thì không được lệ làng đảm bảo, bị
sống ngoài lệ làng.

Về văn hóa tín ngưỡng: Đình là nơi sinh hoạt văn hóa của cả làng. Thường mỗi làng
có một ngôi đình, thờ một vị Thành hoàng. “Trống làng nào làng ấy đánh, thành làng nào
làng ấy thờ”. Cùng đó mỗi làng có một lễ hội khác nhau. Dân ở mỗi làng xã cũng có cá
tính khác nhau. “Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”, “Văn chương Xuân
Mỹ, lý sự Thủy Khê”.

Về lệ tục: Làng nào cũng có hương ước riêng với những quy định không giống
nhau.

* Trong mối quan hệ giữa làng với nước:

Mỗi làng có hai cơ quan quản lý: cơ quan quản lý của nhà nước là các xã quan và cơ
quan quản lý của làng xã là Hội đồng kì mục

Xã quan (sau được gọi là lý dịch): ra đời từ thế kỉ XI (Khúc Hạo) đến khoảng giữa
thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX nhưng nhìn chung là bị nhà nước coi nhẹ nên không chiếm
địa vị quan trọng. Các xã quan chỉ thực hiện một số công việc cụ thể liên quan với nhà
nước. Vai trò quản lý làng xã vẫn nằm chủ yếu trong bộ máy quản lý truyền thống của
làng.

Quan viên hàng xã: thường chia 3 nhóm kì lão, kì mục, kì dịch. Kì lão gồm những
người cao tuổi nhất trong làng. Kì mục (miền Bắc và Trung gọi là Hội đồng kì mục, do
Tiên chỉ và Thứ chỉ đứng đầu; miền Nam sau gọi là Hội tề, do Hương cả đứng đầu) có
trách nhiệm bàn bạc tập thể và quyết định các công việc của xã. Kì dịch do Hội đồng kì
mục cử ra, có trách nhiệm thi hành mọi quyết định của Hội đồng kì mục, trực tiếp làm
việc với dân.

Hương ước chỉ được nhà nước chấp nhận khi do các nho sĩ soạn ra, nghĩa là nhà
nước muốn “nho giáo hóa” đời sống làng xã. Tuy nhiên, nó vẫn có sự khác biệt nhất định
PAGE \* MERGEFORMAT 1
với pháp luật nhà nước vì hương ước được lập ra tùy thuộc vào tình hình thực tế của làng
xã và có tự điều chỉnh bổ sung qua các thời kỳ. Do đó, người nông dân sống khép kín
không biết nhiều về phép nước nhưng vẫn được quản lý chặt chẽ dưới lệ làng.

Nhận xét: Từ thế kỷ X đén XIV, làng vẫn giữ vững quyền tự trị tuyệt đối, nhà nước
phong kiến chưa đủ mạnh để vươn xuống quản lý lấy làng xã. Từ thời Lê Sơ trở về sau,
nhà nước phong kiến đã biến làng xã thành một đơn vị hành chính cơ sở để tham gia vào
việc quản lý làng xã. Tuy nhiên từ giữa thế kỉ XVIII, nhà nước phong kiến ngày càng suy
yếu, tính tự trị của làng xã lại chiếm ưu thế.

4.4 Tính cộng đồng

a) Khái niệm

Theo nghĩa rộng thông thường tiếng Việt, đó là ý thức và tình cảm gắn bó của tộc
người Việt với nhau (tức là tính cộng đồng dân tộc Việt), là hệ thống tư tưởng yêu nước
(Trần Văn Giàu).

Theo nghĩa hẹp của bộ môn Nhân học văn hóa (Cultural anthropology), tính cộng
đồng chỉ sự gắn bó với từng nhóm trong cộng đồng dân tộc lớn… (in-group: gia đình,
thân tộc, tôn giáo…) gần như tính tập thể.

b) Nguồn gốc

Tính cộng đồng bắt nguồn từ cuộc sống nông nghiệp, những nhu cầu của sản xuất và
đời sống buộc con người phải nương tựa vào nhau, ví dụ đào mương dẫn nước vào ruộng,
đắp đê chống lụt, chống cướp bóc thổ phỉ, chống ngoại xâm bảo vệ xóm làng...

c) Biểu hiện

Từ các hoạt động tập thể nói trên khiến mỗi thành viên của làng xã coi nhau như anh
em trong một nhà đã chuyển thành ý thức cộng đồng của làng xã và về sau phát triển
thành ý thức cộng đồng quốc gia, trở thành nghĩa vụ, thành phương châm sống và xử thế
của mỗi người dân làng xã Việt Nam

Các cư dân trong làng phải liên kết lại để cùng tiến hành, thậm chí phải liên kết giữa
các làng với nhau thành liên làng bộ lạc, thành liên minh bộ lạc và là cơ sở hình thành
nên quốc gia (nhà nước Văn Lang – Âu Lạc hình hành trên cơ sở liên minh các bộ lạc).

PAGE \* MERGEFORMAT 1
Tính cộng đồng làm cho các thành viên trong làng đều hướng tới nhau. Do đó người
Việt Nam có tính tập thể rất cao. Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của nếp sống
dân chủ - bình đặng.

4.5 Ý nghĩa tích cực và hạn chế của tính tự trị và tính cộng đồng trong làng xã cổ
truyền Việt Nam

* Tích cực:

Tính tự trị: tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng, nếp sống tự cấp tự túc; giúp làng xã
ổn định, quy củ nội bộ có sự cố kết chặt chẽ; từ đó hình thành nên nhiều sắc thái văn hóa
riêng biệt, làm nên tính đa dạng của văn hóa Việt Nam; bảo vệ được văn hóa dân tộc một
cách vững chắc và hiệu quả trước chính sách đồng hóa của các thế lực đô hộ ngoại bang,
trước sự tấn công của văn hóa lai căng, văn hóa độc hại từ bên ngoài truyền vào.

Tính cộng đồng: là cơ sở cho sự hình thành ý thức quốc gia dân tộc của người Việt;
làm nên tinh thần trọng tình, trọng nghĩa; là ngọn nguồn của nếp sống dân chủ - bình
đẳng; tạo nên nếp sống chan hòa, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, tinh thần tập
thể của người dân làng Việt trong lịch sử.

* Hạn chế:

Tính tự trị: tạo ra óc tư hữu, ích kỉ; óc bè phái, địa phương cục bộ; óc gia trưởng -
tôn ti và thói gia đình chủ nghĩa, dẫn đến tình trạng phân biệt đối xử khắt khe đối với dân
ngụ cư. Vì tính tự trị thường chiếm ưu thế (“phép vua thua lệ làng”) nên người dân ít biết
về pháp luật dẫn đến coi thường pháp luật.

Tính cộng đồng: hạn chế cái tôi, giảm ý thức khẳng định cá nhân; gây ra thói ỷ lại,
tư tưởng cầu an và cả nể dẫn đến sự thụ động, thiếu linh hoạt trong ứng xử; đồng thời là
thói xấu cào bằng, đố kị.

4.6 Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình - bến nước - cây đa

a) Cái đình: là tập trung nhất về mọi phương diện của mỗi làng. Nó là trung tâm hành
chính, nơi diễn ra những việc quan trọng, hội họp.... Đình còn là trung tâm văn hóa,
nơi biểu diễn chèo tuồng. Mặc khác, đình cũng là trung tâm về mặt tôn giáo, thờ thần
Thành Hoàng bảo trợ cho dân làng. Cuối cùng, đình chính là trung tâm về mặt tình
cảm, là những gì thân thương gần gũi nhất : Qua đình ngả nón trông đình, Đình bao
nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
PAGE \* MERGEFORMAT 1
b) Bến nước: Do ảnh hưởng của Trung Hoa nên từ nơi tụ họp của mọi người dần chỉ
có đàn ông lui tới. Nơi phụ nữ quần tụ chính là bến nước - chỗ hàng ngày chị em gặp
nhau vo gạo, giặt giũ, trò chuyện.

c) Cây đa: là cây cổ thụ mọc ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ luôn khói hương nghi
ngút là nơi hội tụ của thánh thần như Thần cây đa, ma cây gạo...Gốc cây đa trở thành
cửa sổ liên thông làng với thế giới bên ngoài nhờ có quán nước là nơi nghỉ chân của
khách qua đường hay người đi làm đồng.

d) Lũy tre: là biểu tượng truyền thống của tính tự trị, trở thành một thành lũy kiên cố
bất khả xâm phạm do rặng tre bao kín quanh làng: đốt hay trèo đều không được, đào
đường hầm cũng không thể qua nên rặng tre được gọi là “lũy”, thành lũy).

Lũy tre là đặc điểm quan trọng tạo nên sự khác biệt giữa làng xóm phương Nam
và ấp lí Trung Hoa.

4.7 Một số tác phẩm nghệ thuật xoay quanh chủ đề làng xã hay nông thôn Việt
Nam

a) Văn học

Thu điếu (Nguyễn Khuyến): điển hình nhất cho mùa thu Việt Nam là “Thu điếu” với
“ngõ trúc quanh co” rất đặc trưng của làng quê.

Chí Phèo (Nam Cao): Phong Lê trong bài “Nam Cao - nhìn từ cuối thế kỉ” nhận
định “Vũ Đại không chỉ gói gọn một đơn vị làng với những ao chuôm, những lũy tre
xanh, những vườn chuối, giàn trầu quen thuộc mà còn là sự biểu hiện chung cho sự
phong bế, trì trệ, nhếch nhác của bất cứ một quần thể cư dân nào cả nông thôn và thành
thị”.Truyện ngắn viết về làng quê của nhà văn có sức khái quát rất cao. Làng quê xơ xác
tiêu điều, số phận bất hạnh, cùng cực ấy không chỉ bó hẹp trong làng Vũ Đại mà đã trở
thành điển hình cho làng quê Việt Nam trong đêm trường nô lệ trước Cách mạng tháng
Tám năm 1945.

Tắt đèn viết về làng quê Việt Nam đầu TK 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp.

b) Hội họa

Nắng quê nhà (Trần Nguyên)

PAGE \* MERGEFORMAT 1
“Và tình yêu ấy của tôi với quê hương từ thời thơ ấu đến khi trưởng thành làm tôi
luôn thúc đẩy để tôi lựa chọn đề tài này. Đặc biệt những hình ảnh này hiện nay hầu như
không còn nhiều, vậy nên tôi muốn tái hiện lại để thế hệ trẻ thời nay thấy được nét đẹp
văn hóa xưa, còn những người đã trải qua nhìn tranh có thể tìm về bầu trời tuổi thơ của
mình”.

c) Bài hát:

Làng Tôi (Văn Cao)

Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh

Có sông sâu lơ lững vờn quanh êm xuôi về Nam

Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau

Bóng tre ru bên mấy hàng cau

Đồng quê mơ màng

Nhưng than ôi có một chiều thu lá thu rơi

Có một chiều thu lá thu rơi

Ôm súng chiều quê tôi thầm mơ bóng ngày về

Mơ trong bóng ngày về


PAGE \* MERGEFORMAT 1
Quê tôi chìm chân trời mờ sương

Quê tôi là bao nguồn yêu thương

Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn

Là bao vấn vương tâm hồn người bốn phương

PAGE \* MERGEFORMAT 1
CHƯƠNG 5: LÀNG NAM BỘ

Việc khai phá đồng bằng Nam Bộ vào thời Nguyễn đã đem đến một khuôn mặt
mới cho làng xã. Nét đặc trưng của thôn ấp Nam Bộ là tính mở khác với làng xã Bắc
Bộ cổ truyền tự trị khép kín. Làng Nam Bộ không có lũy tre dày đặc bao quanh với
cái cổng làng như làng Bắc Bộ. Bờ tre chỉ là biểu tượng đánh dấu ranh giới ấp thôn ở
miệt giồng còn ở miệt sông thôn ấp trải dài dọc các kênh rạch. Thành phần dân cư ở
đây hay biến động và không gắn chặt với quê hương do người dân có thể rời làng tìm
vùng đất khác thuận lợi cho việc làm ăn để sinh sống.Việc tổ chức thôn ấp theo các
dòng kênh, các trục giao thông thuận tiện chính là sản phẩm của thời đại khi kinh tế
hàng hóa bắt đầu phát triển. Tính cách người nông dân Nam Bộ phóng khoáng là vì
do thiên nhiên ưu đãi và ít gặp thiên tai bất thường. Vì làng có cấu trúc mở nên dễ tiếp
nhận những ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa phương Tây. Dù hay biến động là
thế nhưng người Nam Bộ vẫn sống với nhau dưới bóng tre, các làng vẫn có ngôi đình
thờ thần Thành Hoàng và hàng năm mọi người vẫn tụ họp ớ các lễ hội.Người Nam Bộ
vẫn giữ nếp cần cù. Họ vẫn coi trọng tính cộng đồng, yếu tố hàng xóm đứng thứ hai
trong thang bậc ưu tiên khi chọn nơi cư trú : Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang,
tứ cận lộ, ngũ cận điền=>Bức tranh của làng Nam Bộ đã góp phần làm nên tính thống
nhất của dân tộc và văn hóa Việt Nam

PAGE \* MERGEFORMAT 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, 1999.

2.Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam,
1998.

3.Phan Ngọc, Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa - Thông tin, 1998.

4.Phan Đại Doãn, Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội, NXB
Khoa học xã hội, 1992.

5.Viện Hàn lâm Khoa học xã hội - Viện sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử
tập 1,2, NXB Khoa học xã hội, 1978.

6.Lê Minh Thông, Luật nước và hương ước, lệ làng trong đời sống pháp lý của các
cộng đồng làng xã Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 - Tiểu ban
Pháp luật Việt Nam, 2009.

7.Trần Từ, Cơ cấu tổ chức của làng Việt ở Bắc Bộ, NXB Khoa học xã hội, 1984.

8.Văn Tạo, Từ văn hóa làng đến xây dựng làng văn hóa, Báo Nhân dân cuối tuần,
16/12/1997.

9.Nguyễn Yến Thơ, Làng quê Việt Nam trong truyện ngắn của Nam Cao trước Cách
mạng Tháng 8, ĐH Cần Thơ, 2012.

PAGE \* MERGEFORMAT 1

You might also like