Professional Documents
Culture Documents
15-c U-Tri T-C N-L I-1 2
15-c U-Tri T-C N-L I-1 2
26. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay?
Trả lời:
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
“Cơ sở hạ tầng” là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan
trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
“Kiến trúc thượng tầng” là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế tương ứng
của nó như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…được hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
-Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng(CSHT) và kiến trúc thượng
tầng(KTTT):
CSHT và KTTT là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái
kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ giữa CSHT và KTTT thì CSHT quyết định
KTTT, đồng thời KTTT cũng có những tác động ngược trở lại với CSHT.
Thứ nhất, CSHT quyết định KTTT:
CSHT quyết định KTTT ở chỗ, CSHT là tổng hợp những QHSX hợp
thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định, có nghĩa là CSHT quy định cơ
cầu kinh tế, nội dung về kinh tế của xã hội đó. Trên nền của cơ cầu kinh tế ấy,
KTTT được xây dựng nên.
CSHT quyết định KTTT còn thể hiện ở sự biến đổi căn bản trong CSHT
sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi căn bản của KTTT. CSHT quy định
nội dung kinh tế của xã hội đó, do vậy những bộ phận phận của KTTT được xây
nên trên nền của cơ cấu kinh tế này, sớm hay muộn cũng sẽ bị biến đổi để phù
hợp với cơ cấu kinh tế đó, tức là sự biến đổi căn bản trong CSHT sẽ dẫn đến sự
biến đổi căn bản trong KTTT.
Thứ hai, sự tác động ngược trở lại của KTTT với CSHT:
KTTT có tính độc lập tương đối của nó, tính độc lập này thể hiện ở sự
độc lập tương đối (có sự tác động qua lại) giữa những bộ phận trong kiến trúc
thượng tầng với nhau, và giữa những bộ phận ấy với cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn
sự tác động từ những chính sách của nhà nước lên nền kinh tế, giai quyết những
mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp…có tác dụng hoặc thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
Trong các yếu tố của KTTT, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì
nhà nước không chỉ sở hữu cho mình về sức mạnh kinh tế mà còn có những
công cụ khác để bảo vệ quyền lực của mình như pháp luật, quân đội, tòa án…
Nhà nước (bộ phận giữ vai trò quan trọng nhất của KTTT) tác động lên CSHT
thông qua những chủ trương, chính sách của mình.
Sự tác động ngược trở lại của KTTT lên CSHT theo hai chiều hướng cơ
bản:
Một là, sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc
đẩy CSHT phát triển, chẳng hạn nhà nước có những chính sách phù hợp, đúng
đắn trong phát triển kinh tế sẽ giúp xã hội ổn định và phát triển.
Hai là, ngược lại sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT, thậm chí gây ra sự khủng
hoảng. Nếu KTTT (chủ yếu từ các chính sách của nhà nước) kìm hãm sự phát
triển CSHT thì sớm hay muộn, KTTT ấy cũng sẽ bị thay thế bởi một KTTT mới
tiến bộ hơn.
- Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay:
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều
thành phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại
của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất
của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng
động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu
cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần
và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về
chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi
mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới
phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân
chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm
tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ
nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực
hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản
xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các
hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà
còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT, Đảng ta
không ngừng đổi mới kinh tế bởi đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới
chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện
thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá
trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế một
cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
27. Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Khái niệm giai cấp: “Được gọi là giai cấp, là những tập đoàn người to lớn,
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất (thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ phần của cải
xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
một tập đoàn có thể chiếm đoạt lao động của các tập đoàn khác, do địa vị khác
nhau của họ trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định".
- Khái niệm đấu tranh giai cấp: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người làm thuê hay những người vô sản chống
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
-Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm
trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện và
tồn tại của giai cấp xét đến cùng là do nguyên nhân kinh tế. Tuy nhiên, không
được biến khái niệm giai cấp thành một phạm trù kinh tế đơn thuần. Chỉ có thể
xem xét các giai cấp trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đa dạng, phức
tạp và không ngừng vận động, biến đổi mới có thể nhận thức một cách đầy đủ
và sâu sắc sự khác biệt của các giai cấp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý,
đạo đức, lối sống... Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Leenin mang bản
chất cách mạng và khoa học, có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ
sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử;
đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được
vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây
dựng xã hội mới.
Khái niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, đấu tranh
giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được giữa
các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là quy luật tất yếu của
xã hội. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế,
nguyên nhân là do sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị.
Đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử khách quan, không phải do một
lý thuyết xã hội nào tạo ra, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một lực
lượng xã hội hay một cá nhân nào nghĩ ra. Ở đâu và khi nào còn áp bức, bóc lột,
thì ở đó và khi đó còn đấu tranh giai cấp chống lại áp bức, bóc lột. Thực tiễn
lịch sử của xã hội loài người đã và đang chứng minh điều đó. Đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau
trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị
áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thực chất đấu tranh giai cấp là cuộc đấu
tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc
lột do sự đối lập về lợi ích không thể dung hòa trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị cả về lý
luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, khái niệm đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh giai
cấp, khẳng định sự ra đời, tồn tại của mỗi giai cấp gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội nhất định. Chẳng hạn như giai cấp chủ nô gắn với quan hệ sản xuất
thời chiếm hữu nô lệ, giai cấp phong kiến gắn với quan hệ sản xuất phong
kiến...
Về mặt thực tiễn, khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở để
xác định kết cấu giai cấp trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, đó là phải
căn cứ vào tình hình sở hữu đối với tư liệu sản xuất, vai trò trong tổ chức, quản
lý sản xuất và tình trạng phân phối sản phẩm, thu nhập. Ngoài ra, căn cứ theo
khái niệm giai cấp ta còn xác định giai cấp nào là giai cấp cơ bản, giai cấp nào
không là giai cấp cơ bản và các tầng lớp trung gian khác trong xã hội.
+ Từ khái niệm đấu tranh giai cấp, ta thấy đấu tranh giai cấp chính là đấu tranh
giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp, là biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Qua đấu tranh giai
cấp mới giải quyết được mâu thuẫn nói trên làm cho lực lượng sản xuất phát
triển, qua đó thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Góp phần xoá bỏ thế lực
phản động, lạc hậu đồng thời còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách
mạng và quần chúng cách mạng.
28. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc. Phân tích các đặc
trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc: Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người,
trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết
định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong
cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có
thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau. Có một số ngôn ngữ được
nhiều dân tộc sử dụng.
Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các
thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ
vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc
đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc
bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc
gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm
lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành.
Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ
quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định, thường được thể
chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân
tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì
không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết
cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân
tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu hoàn toàn khách quan trong
đời sống xã hội.
Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của
cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế
thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính
thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong
lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng
đồng người chưa phải là dân tộc.
Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân
tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người
song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất không bị chia cắt.
Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân
tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác,
tạo ra sắc thái riêng đa dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một
nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ đất nước
(làm sao giữ cho được ổn định, hòa bình giữa các dân tộc, giai tầng trong xã hội với
nhau) và vấn đề dân tộc giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới với nhau (mối quan
hệ mở cửa, hợp tác giữa đất nước ta với các quốc gia trên thế giới”, từ đó tạo sự ổn
định, phát triển của dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
29. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Phân tích đặc
trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước: Theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền
lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa
vị của giai cấp thống trị trong xã hội.
- Phân tích đặc trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
+ Đặc trưng của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(1) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Khác với các tổ chức thị tộc, nhà nước phân chia dân cư không theo huyết
thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên
giới quốc gia nhất định. Quyền lực của nhà nước trực tiếp tác động đến dân cư
trong lãnh thổ quốc gia đó, bất kể người dân thuộc quan hệ huyết thống nào.
(2)Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội:
Nhà nước thiết lập một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm cơ quan
hành chính cai trị; các lực lượng vũ trang như quân đội, cảnh sát; các cơ quan
tình báo của nhà nước, nhà tủ, trại giam... để cưỡng chế mọi thành viên trong xã
hội, buộc những giai cấp khác phải phục tùng giai cấp thống trị. Nhà nước thực
hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật.
(3)Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị:
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái. Để duy
trì, nuôi sống và tăng cường bộ máy quyền lực chuyên nghiệp từ trung ương đến
địa phương, nhà nước phải hình thành một hệ thống thuế khóa có tính chất bắt
buộc đối với các thành viên của xã hội.
+ Bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(+) Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
(+)Giai cấp thống trị lập ra và sử dụng nhà nước như một công cụ quyền lực
để: trấn áp giai cấp bị trị, duy trì trật tự xã hội; bảo vệ địa vị và quyền lợi của
mình.
Về bản chất, nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về
mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác.
- Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay:
- Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mang những đặc
trưng riêng và bản chất riêng điển hình:
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước do dân vì dân tất cả vì nhân dân, thể hiện
quyền làm chủ của nhân –mọi hoạt động được dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật.
(+)Nhà nước Việt Nam thực hiện duy trì và đảm bảo vị trí tối cao của pháp
luật trong đời sống xã hội, mọi hoạt động vận hành trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân đứng đầu là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
– Nhà nước là mang bàn chất công dân thể hiện tính nhân dân và tính dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta ta đã đề cập ngày càng sâu sắc, toàn diện và có bước
phát triển mới về quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với
từng yếu tố trong mô hình nhà nước pháp quyền xét về đặc trưng phổ quát của
nhà nước pháp quyền nói chung và đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Tong quan điểm chỉ đạo, tiếp nối chủ trương từ
các kỳ đại hội trước, đặc biệt là từ văn kiện Đại hội XII và các hội nghị của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta khẳng định “xây dựng Nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư
sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ
bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ
XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà
nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực
hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân”. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều chỉnh tối thượng của Hiến pháp và hệ thống pháp luật bảo đảm công
khai, tính minh bạch, khả thi, hiệu quả, nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ quyền con
người, tính thượng tôn pháp chế XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc;
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn.
30. Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của nó trong sự phát triển
của xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Cách mạng xã hội là gì?
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và
căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế
hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Theo
nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết
lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
-Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội:
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có
cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới tiến bộ hơn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển từ đó dẫn đến thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản
của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải
quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân
được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi
thường: "một ngày bằng hai mươi năm".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách
mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách
mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và
thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong
kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc
xóa bỏ chế độ chuyên chính vô sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là
cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi
hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ
tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử
nhân loại.
-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Từ những lý luận về cách mạng xã hội giúp chúng ta tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận từ đó chinh sửa, bổ sung lý luận, phát triển sáng tạo học thuyết cách
mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu cấp bách.
Và giải quyết được mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa trình độ xã hội hóa cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
31.Nêu khái niệm quần chúng nhân dân. Phân tích vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài
học “Lấy dân làm gốc”.
Trả lời:
- Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng
chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những
giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay
đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.
- Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò
quyết định đối với tiến trình lịch sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải
phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của
quần chúng nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm biến đổi xã
hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã
hội.
Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu
hiện ở ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách
mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai trò
của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự,
kinh tế, chính trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời
đại.
- Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”:
Quan điểm "Lấy dân làm gốc” là một trong những bài học quan trọng, góp
phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhằm phát
huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của Nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng
thành công quan điểm này. Từ khi được thành lập cho đến nay, Đảng luôn xác
định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân.
Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đòi hỏi mỗi chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, phát huy dân chủ trong Đảng, trong Nhân dân nhằm phát huy trí tuệ
của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Để có
dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hai là, quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” cần đưa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt
động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Ba là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh nhằm củng cố niềm tin của Nhân
dân đối với Đảng, đối với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
Bởi vậy, dựa trên những lý luận về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác -
Lênin, giúp Đảng ta đề ra những chính sách phát huy tinh thần đoàn kết trong
quần chúng nhân dân, đảm bảo những yêu cầu, quyền lợi của quần chúng nhân
dân, phát huy những vai trò sáng tạo, năng động của quần chúng nhân dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống – có như vậy mới quán triệt tốt quan điểm “ lấy dân
làm gốc”.