Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 35

17. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn.

Phân tích vai trò của


thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người? Ý nghĩa phương pháp
luận?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về thực tiễn:
Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin: “Thực tiễn là những hoạt động vật
chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội”.
- Phân tích vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức của con người:
Trước hết, thực tiễn là cơ sở của nhận thức. Trong quá trình con người tác
động vào thế giới khách quan, thế giới “bộc lộ” thuộc tính, những thuộc tính
này từ đó được phản ánh vào não người hình thành nên tri thức của con người
về thế giới khách quan. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức còn ở chỗ trong hoạt
động thực tiễn, các giác quan của con người được rèn luyện, trở nên nhạy cảm
hơn, nhờ đó năng lực nhận thức của con người được nâng cao.
Thứ hai, thực tiễn là mục đích, động lực của nhận thức.
Ngoài ra, vai trò mang tính quyết định của thực tiễn đối với nhận thức còn ở
chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. C. Mác cho rằng, vấn đề nhận thức của
con người có phù hợp với thực tế hay không hoàn toàn không phải là một vấn
đề lý luận, mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn, con người mới có
thể kiểm nghiệm được chân lý. Để chứng minh ánh sáng có bản chất là lưỡng
tính sóng - hạt thì lập luận logic không đủ, còn cần phải kiểm tra bằng thực
nghiệm khoa học. Chỉ khi thực nghiệm khoa học chứng minh ánh sáng có bản
chất là lưỡng tính sóng - hạt thì tri thức này mới thực sự được coi là chân lý.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+Thực tiễn vừa là cơ sở, động lực vừa là mục đích của nhận thức. Không những
thế thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận thức, kiểm tra chân lý.
Bởi vì nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm các hình thức trực
tiếp và gián tiếp, điều đó không tránh khỏi tình trạng là kết quả nhận thức không
phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật.
+ Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn
quán triệt quan điểm mà V.I.Lênin đã đưa ra: “ quan điểm về đời sống, về thực
tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận thức”
18. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của nhận thức. Trình
bày quá trình nhận thức của con người? Phân tích mối quan hệ biện chứng
của quá trình nhận thức? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất của nhận thức:
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra quan niệm khoa học về bản chất của nhận
thức. Theo đó, nhận thức là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, chủ động hiện
thực khách quan vào trong bộ óc người dựa trên cơ sở thực tiễn.
- Quá trình nhận thức của con người:
Theo quan điểm tư duy biện chứng, hoạt động nhận thức của con người đi từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn. Con đường nhận thức đó được thực hiện qua các giai đoạn từ đơn giản đến
phức tạp, từ thấp đến cao, từ cụ thể đến trừu tượng, từ hình thức bên ngoài đến
bản chất bên trong
- Mối quan hệ biện chứng của quá trình nhận thức:
Nhận thức là quá trình tác động biện chứng giữa chủ thể và khách thể thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Chủ thể nhận thức chính là con người.
Nhưng đó là con người hiện thực, đang sống, đang hoạt động thực tiễn và đang
nhận thức trong những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể nhất định, tức là con
người đó phải thuộc về một giai cấp, một dân tộc nhất định, có ý thức, lợi ích,
nhu cầu, cá tính, tình cảm, v.v.. Con người là chủ thể nhận thức cũng bị giới hạn
bởi điều kiện lịch sử có tính chất lịch sử - xã hội. Chủ thể nhận thức trả lời câu
hỏi: Ai nhận thức? còn khách thể nhận thức trả lời câu hỏi: Cái gì được nhận
thức? Theo triết học Mác - Lênin, khách thể nhận thức không đồng nhất với
toàn bộ hiện thực khách quan mà chỉ là một bộ phận, một lĩnh vực của hiện thực
khách quan, nằm trong miền hoạt động nhận thức và trở thành đối tượng nhận
thức của chủ thể nhận thức. Vì vậy, khách thể nhận thức không chỉ là thế giới
vật chất mà có thể còn là tư duy, tâm lý, tư tưởng, tinh thần, tình cảm, v.v..
Khách thể nhận thức cũng có tính lịch sử - xã hội, cũng bị chế ước bởi điều kiện
lịch sử - xã hội cụ thể. Khách thể nhận thức luôn luôn thay đổi trong lịch sử
cùng với sự phát triển của hoạt động thực tiễn cũng như sự mở rộng năng lực
nhận thức của con người. Khách thể nhận thức cũng không đồng nhất với đối
tượng nhận thức. Khách thể nhận thức rộng hơn đối tượng nhận thức.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+ Nhận thức là một hoạt động - quá trình phản ánh hình thành nên tri thức về sự
vật nên quá trình nhận thức bao gồm nhiều giai đoạn, trình độ cụ thể khác nhau.
+ Trong quá trình vận động, phát triển không ngừng thì nhận thức là một quá
trình vô tận, từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ biết chưa đầy đủ
đến đầy đủ hơn.
20. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý. Phân tích các tính
chất của chân lý? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về Chân lý:
Chân lý là những tri thức phù hợp với hiện thực khách quan và được thực tiễn
kiểm nghiệm. Như vậy chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức về thế giới
của con người. Nó được hình thành, phát triển dần dần từng bước và phụ thuộc
vào điều kiện lịch sử cụ thể của nhận thức, vào hoạt động thực tiễn và hoạt động
nhận thức của con người.
- Các tính chất của chân lý:
Chân lý có những tính chất cơ bản là tính khách quan, tính cụ thể, tính tương
đối và tính tuyệt đối.
Tính khách quan: chân lý là tri thức phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan
và được thực tiễn kiểm nghiệm do đó chân lý khách quan là chân lý mà nội
dung của nó là khách quan, là phù hợp với khách thể nhận thức. Nghĩa là nó
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người và loài người, chỉ phụ
thuộc vào bản thân sự vật khách quan. Ví dụ: ánh sáng có bản chất lưỡng tính
sóng - hạt là chân lý vì nó phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan và được
thực tiễn kiểm nghiệm.
Tính cụ thể: theo triết học Mác - Lênin, không có chân lý chung chung trừu
tượng, chân lý luôn luôn là cụ thể vì nó phản ánh sự vật hiện tượng luôn phải
trong điều kiện lịch sử cụ thể, trong một không gian thời gian xác định. Thoát ly
những điều kiện ấy sẽ không phản ánh đúng đắn sự vật, hiện tượng. Vì vậy, khi
nhận thức sự vật hiện tượng phải có quan điểm lịch sử - cụ thể. Ví dụ như
thuyết vạn vật hấp dẫn của Niutơn đúng với thế giới các vật thể vĩ mô, nhưng
đối với thế giới các hạt cơ bản (vi mô) thì thuyết này không còn phù hợp, phải
thay thế bằng thuyết tương đối của Anhxtanh và cơ học lượng tử.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý. Chân lý là tri thức đúng đắn và
được thực tiễn kiểm nghiệm nhưng nó cũng không phải là bất biến, vĩnh viễn
không thay đổi. Bởi thực tiễn luôn biến đổi, vạn vật luôn biến đổi, phát triển, vì
vậy, quá trình nhận thức chân lý chính là quá trình giải quyết mâu thuẫn giữa
tinh tương đối và tính tuyệt đối của chân lý.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Việc nắm vững những nguyên tắc tính cụ thể của chân lý có ý nghĩa quan trọng
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Nó đòi hỏi khi xem xét, đánh
giá mỗi sự vật, hiện tượng, việc làm của con người phải dựa trên quan điểm lịch
sử cụ thể, phải xuất pháy từ điều kiện cụ thể mà vận dụng lý luận chung cho phù
hợp
21. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất vật chất. Phân tích
vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sản xuất vật chất: Sản xuất vật
chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, cải
biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của mình.
- Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
loài người:
Sản xuất vật chất là cơ sở quyết định sự hình thành, tồn tại và phát triển của
con người, xã hội.
Nhờ có lao động, thông qua lao động sản xuất mà hình thành nên con người.
Nói cách khác, sản xuất vật chất quyết định sự hình thành con người, do vậy Ph.
Ăngghen khẳng định: "Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người".
Hoạt động sản xuất tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người, nhờ đó con
người và xã hội mới có thể tồn tại, phát triển. Theo C. Mác: tiền đề đầu tiên của
mọi sự tồn tại của con người là người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có
thể làm ra lịch sử. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn,
thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy hành vi lịch sử đầu
tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản
xuất ra bản thân đời sống vật chất".
Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh, phát triển những mối
quan hệ xã hội. Bởi vì để tiến hành sản xuất, con người tất yếu phải thiết lập nên
những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là những quan hệ sản xuất và
trên cơ sở những quan hệ sản xuất này làm phát sinh những mối quan hệ xã hội
khác như chính trị, đạo đức, pháp luật,...
Sự phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển các mặt
của đời sống xã hội, quyết định phát triển xã hội từ thấp tới cao, từ xã hội này
sang xã hội khác cao hơn. Bởi vì khi sản xuất phát triển đến một trình độ mới,
tức là lực lượng sản xuất phát triển có sự thay đổi về chất sẽ đặt ra yêu cầu cần
phải thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp, khi quan hệ sản xuất thay đổi thì tất
yếu kiến trúc thượng tầng của xã hội cũng sẽ thay đổi theo, dẫn đến sự ra đời
của một hình thái kinh tế - xã hội mới, xã hội loài người bước sang một giai
đoạn phát triển mới tiến bộ hơn.
-Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
Để giải thích và giải quyết đúng đắn các vấn đề của đời sống xã hội thì cần
phải tìm nguyên nhân cuối cùng của nó từ tình trạng phát triển của nền sản xuất
vật chất xã hội. Do vậy, "ta không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thế
nào căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại phải giải thích ý thức ấy bằng
những mâu thuẫn của đời sống vật chất”.
22. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất. Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ này như thế
nào trong thực tiễn?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất”
Về lực lượng sản xuất:
“Lực lượng sản xuất”, mặt nội dung của phương thức sản xuất là mối quan hệ
giữa con người và giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, nói cách khác đó là sự
tác động của con người vào giới tự nhiên, cải biến giới tự nhiên nhằm tạo ra của
cải, vật chất phục vụ cho đời sống của con người.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và
tự liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, lao
động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất kết hợp
với nhau thành lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất
người lao động giữ vị trí quyết định nhất, Lênin nhận định “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Về quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất, mặt hình thức của phương thức sản xuất, chính là mối quan
hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất phản ánh quan hệ giữa người với người, nó được hình
thành khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt: Các quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, các quan
hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, các quan hệ trong phân phối sản phẩm lao
động. Ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống
mang tính tương đối ổn định so với sự vận động, phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là
quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản đặc trưng cho phương thức sản xuất.
-Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
vừa thống nhất, lại vừa đấu tranh với nhau. Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất tồn tại khách quan, tự nhiên ở mọi quá trình sản xuất vật
chất và trong sự hình thành, phát triển của xã hội loài người.
Thứ nhất, lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và biến đổi của
quan hệ sản xuất:
Lực lượng sản xuất là mặt nội dung của phương thức sản xuất, quan hệ sản
xuất là mặt hình thức của phương thức sản xuất, do vậy lực lượng sản xuất
quyết định sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất, hơn nữa lực lượng
sản xuất lại có yếu tố động là “công cụ lao động” do vậy nó không ngừng biến
đổi, sao cho quá trình sản xuất vật chất, của cải vật chất, ngày càng nhiều hơn.
Tương ứng với lực lượng sản xuất nào, ta sẽ có quan hệ sản xuất ấy, Mác viết
“Cái cối xay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay bằng hơi nước
đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”. Chẳng hạn thời kỳ Cộng xã nguyên
thủy, với trình độ của con người là thấp, công cụ lao động rất thô sơ (gậy, gộc,
đá, hái lượm…) ta có quan hệ sản xuất tương ứng trong các thị tộc, bộ tộc, bộ
lạc (không có tư hữu về tư liệu sản xuất, phân công lao động đơn giản, phân
phối sản phẩm làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu, ăn chung, ở chung…),
đến chế độ chiếm hữu nô lệ ta có quan hệ sản xuất là chủ nô - nô lệ. Đến chế độ
Phong kiến với lực lượng sản xuất chủ yếu là người nông dân thì quan hệ sản
xuất chi phối là mối quan hệ giữa địa chủ phong kiến và người nông dân mà đặc
trưng là địa tô, đến chế độ Tư bản chủ nghĩa, công cụ lao động là máy móc hiện
đại, robot…. thì quan hệ sản xuất tương ứng sẽ là nền sản xuất đại công nghiệp
tư bản chủ nghĩa với kỷ luật, phân công lao động, phân phối sản phẩm đều ở
mức cao.
Đồng thời, sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ
làm cho quan hệ sản xuất trở nên không còn phù hợp nữa. Khi ấy, sẽ xuất hiện
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời với lực lượng sản xuất mới tiến
bộ với trình độ phát triển cao. Về mặt chính trị của nội dung này chính là sự đấu
tranh giai cấp giữa giai cấp thống trị (lực lượng nắm tư liệu sản xuất chủ yếu) và
giai cấp bị trị (lực lượng đại diện cho phương thức sản xuất tiến bộ), đỉnh điểm
của cuộc đấu tranh là cách mạng xã hội sẽ nổ ra nhằm “cởi trói” lớp vỏ quan hệ
sản xuất lỗi thời cho lực lượng sản xuất, từ đó quan hệ sản xuất mới ra đời để
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, quan hệ sản xuất tác động ngược trở lại với lực lượng sản xuất:
Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại lên lực
lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo hai
chiều hướng: Một là, chiều hướng phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển; Hai là, nếu không phù
hợp (quá cao hoặc quá thấp) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, khi đó sẽ gây ra hiện tượng khủng
hoảng xã hội, trong một số trường hợp còn có thể gây ra sự sụp đổ.
- Đảng ta đã nhận thức vận dụng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong thực tiễn như sau:
Vận dụng đúng mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất và
quy luật khách quan của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất Đảng ta đã từng bước xóa bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa,
tập trung, bao cấp, từng bước thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng Việt
Nam một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như hiện nay. Tiếp
nữa là Đảng ta đã xóa bỏ cái cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp.
Chính từ chỗ Đảng ta đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất, từng bước cải tạo
quan hệ sản xuất như vậy dẫn tới quan hệ sản xuất dần dần phù hợp với sự phát
triển về trình độ của lực lượng sản xuất khiến cho kinh tế Việt Nam ngày càng
phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, thu nhập và mức sống của nhân
dân ngày càng được cải thiện. Điều đó cho thấy rằng là khi nhận thức về cái quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
Đảng và Nhà nước phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để xây
dựng, phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho phù hợp. Còn nếu
làm sai quy luật, làm trái quy luật thì chắc chắn sẽ bị trả giá. Cho nên chúng ta
thấy cái quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trong những quy luật rất quan trọng và chính sự vận động nội tại
của quy luật này mà làm cho các hình thái kinh tế xã hội vận động thay thế nhau
từ thấp đến cao. Tiếp đó Đảng ta thừa nhận hóa, hợp pháp hóa sự phát triển của
kinh tế tư nhân và xem đó chính là “lực lượng bổ sung cho nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa”. Nhà nước cũng cải cách lĩnh vực ngân hàng, tách các ngân hàng
thương mại ra khỏi ngân hàng trung ương, xây dựng nên thị trường chứng
khoán và tạo điều kiện cho sự ra đời của các ngân hàng tư nhân. Ngoài ra, tốc
độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao, GDP ngày càng lớn, chúng ta đã thoát ra
khỏi nhóm các nước kém phát triển,... Không chỉ vậy, Đảng ta tiếp tục tái cơ
cấu nền kinh tế, thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà
nước; sắp xếp lại các tổ chức tín dụng, tiếp tục sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn ODA,…Việc tuân thủ quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất đã giúp Việt Nam có sự phát triển vượt bậc về kinh
tế- xã hội so với giai đoạn trước đây.
23. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã
hội.Phân tích quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế - xã hội? Ý
nghĩa phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ xã
hội cụ thể ở từng nấc thang lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng thiết lập trên trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiểu
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hê sản xuất
đó.
- Quá trình lịch sử tự nhiên của hình thái kinh tế - xã hội:
Quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội được hiểu trên các
nội dung chủ yếu:
Thứ nhất, con người làm ra lịch sử của mình, họ tạo ra xã hội, nhưng sự vận
động, phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người mà
tuân theo các quy luật khách quan, đó chính là những quy luật trong bản thân
mỗi hình thái kinh tế - xã hội, cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng
phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Thứ hai, nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội suy đến cùng
là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất đã kéo theo sự thay đổi của quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, khi quan hệ
sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và do đó mà
hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới
tiến bộ hơn.
Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội còn chịu sự tác động của nhân tố
chủ quan, tuy nhiên các quy luật khách quan có vai trò quyết định. Điều đó có
nghĩa là con người không thể tuỳ tiện lựa chọn cho mình một hình thái xã hội
theo ý muốn chủ quan của mình.
Thứ tư, quá trình lịch sử tự nhiên trong sự phát triển của các hình thái kinh tế -
xã hội vừa bao hàm sự phát triển tuần tự từ thấp đến cao (xét theo lịch sử toàn
nhân loại); vừa bao hàm sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế - xã hội trong
những điều kiện nhất định (xét theo lịch sử của một số quốc gia dân tộc nhất
định). Dưới sự tác động của các quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét
trong tính chất toàn bộ của nó là quá trình thay thế tuần tự của các hình thái
kinh tế - xã hội: nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tương lai nhất
định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp
đến cao, nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế -
xã hội nào đó. Tuy nhiên, sự bỏ qua đó không phải là tùy tiện, mà phải có
những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
- Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề nghiên cứu:
+ Để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, phải xuất phát từ thực
trạng phát triển của nền sản xuất vật chất, từ phương thức sản xuất với cốt lõi
của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Muốn lý giải, nhận thức đúng đời sống xã hội, phải phân tích một cách sâu
sắc các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt
là phân tích quan hệ sản xuất phải gắn liền với lực lượng sản xuất; phải xuất
phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương
diện khác nhau của đời sống xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
+Trong thực tiễn, quả trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến
hành đồng bộ tất cả các mặt của đời sống xã hội, từ lực lượng sản xuất đến quan
hệ sản xuất, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, trong đó lực lượng sản
xuất là yếu tố quyết định.
+ Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận
động phát triển của xã hội.
+ Để nhận thức đúng đắn con đường phát triển của mỗi dân tộc phải kết hợp
chặt chẽ giữa việc nghiên cứu các quy luật chung với việc nghiên cứu điều kiện
cụ thể của mỗi dân tộc. Trong thực tiễn, cần phải vận dụng một cách sáng tạo
những quy luật chung vào những điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc để
tìm ra con đường đi đúng đắn.
24. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản
ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản như điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh
địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất…
Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Tổn tại xã hội không chỉ quyết
định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả nội dung và hình
thức biểu hiện của nó.
+ Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội là mặt
tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những
tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
-Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
+Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội: tồn tại xã hội quyết định sự hình
thành, quyết định nội dung và hình thức biểu hiện của ý thức xã hội.
+Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng, ý thức xã hội và tồn tại xã hội
có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong ấy, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội, tuy nhiên ý thức xã hội mà cụ thể là các hình thái ý thức xã hội không hề
thụ động, cô lập mà trái lại mỗi hình thái ý thức xã hội đều có sự tác động
ngược trở lại với tồn tại xã hội, trước hết là tác động trở lại cơ sở kinh tế. Đồng
thời, các hình thái ý thức xã hội cũng tác động lẫn nhau theo những cách thức
khác nhau.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
(+)Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của
ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội, trong truyền thống,
thói quen và đặc biệt là tập quán xã hội… V.I Lênin đã từng nói rằng, “sức
mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê
gớm nhất”. Còn Ph.Ăngghen khi nói rẳng, “chúng ta đau khổ không những vì
những người đang sống mà còn vì những người đã chết nữa. Người chết nắm
lấy người sống” cũng là theo nghĩa ấy. Thực tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những ý thức xã hội của xã hội phong kiến và
thời kỳ thuộc địa như trọng nam kinh nữ, gia trưởng, tham nhũng, quan liêu…là
lạc hậu hơn so với xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân
sau:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là cái phản ánh tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa
sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ
rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.
(+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác - Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với
tồn tại xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai,
có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của
đời sống vật chất tạo ra.
Thực tế lịch sử cũng đã chỉ rõ, có những quan điểm, phát minh, sáng chế của
những nhà khoa học vượt trước thời đại, thậm chí là vượt trước rất xa. Chẳng
hạn như những phát minh của nhà Bác học Thomas Edison, những phát minh
của ông chủ yếu ở cuối thế kỷ XIX nhưng mãi đến đầu, giữa Thế kỷ XX mới
được ứng dụng rộng rãi, một ví dụ khác là những phát minh, sáng chế của
Nikola Tesla ở cuối Thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng đến hôm nay vẫn còn
nguyên giá trị và được ứng dụng một cách rộng rãi.
(+) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Thực tiễn đã chỉ rõ, không một tri thức nào sinh ra từ mảnh đất trống không.
Quy luật phủ định của phủ định của Triết học Mác – Lênin cũng chỉ rõ, hình
thức của sự phát triển sẽ đi theo con đường xoáy ốc, nghĩa là kế thừa những cái
tốt đẹp đồng thời xóa bỏ những cái cũ kỹ, lạc hậu. Ý thức xã hội cũng thỏa mãn
quy luật trên. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác – Lênin là sự kế thừa trực tiếp những
mặt đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp. Hay như, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa của Chủ nghĩa Mác, truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời
đại.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, ý thức
xã hội của thời kỳ quá độ với hệ tư tưởng chủ đạo là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhưng đồng thời là sự kế thừa có chắc lọc những điều tốt
đẹp từ hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng của xã hội tư bản phương Tây…
(+) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của
tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng
tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của
Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
(+) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen đã khẳng định “Sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…
đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần
phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ
đối với sự phát triển của xã hội.

- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:


+Ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định,
cho nên không thể tìm nguồn gốc tư tưởng, lý luận trong đầu óc con người, mà
phải tìm trong hiện thực vật chất đã sinh ra nó, tức là trong tồn tại xã hội.
+Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó có sự tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội cho nên trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải phát huy những
tư tưởng tiến bộ cách mạng, đồng thời cũng phải đẩy lùi những tư tưởng lạc
hậu, phản động. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải tránh hai khuynh
hướng:
+Chỉ thấy tồn tại xã hội quyết ý thức xã hội một cách máy móc, điều đó sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy vật tầm thường.
+Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội, sẽ rơi vào chũ nghĩa duy vật chủ quan.
Trong nhận thức:
+Một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải
căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó
+Nhưng mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương
diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng
25. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Tồn tại xã hội của con người là thực tại xã hội khách quan, là
một kiểu vật chất xã hội, là các quan hệ xã hội vật chất được ý thức xã hội phản
ánh. Trong các quan hệ xã hội vật chất ấy thì quan hệ giữa con người với giới tự
nhiên và quan hệ giữa con người với con người là những quan hệ cơ bản nhất.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản như điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh
địa lý, dân số và mật độ dân số, phương thức sản xuất vật chất…
Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Tổn tại xã hội không chỉ quyết
định sự hình thành của ý thức xã hội mà còn quyết định cả nội dung và hình
thức biểu hiện của nó.
+ Ý thức xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học trong lĩnh vực xã hội. Ý thức xã hội là mặt
tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng cùng những
tình cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Tính độc lập tương đối và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội:
Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, có vai trò to lớn tác động trở lại tồn tại
xã hội. Đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối đối với tồn tại xã hội.
Chỉ có thể hiểu sâu sác sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã
hội khi nắm được tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, được thể hiện ở những điểm cơ
bản sau:
(+)Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ mất đi, thậm chí mất đi rất lâu,
nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập của
ý thức xã hội thể hiện rõ nhất trong lĩnh vực tâm lý xã hội, trong truyền thống,
thói quen và đặc biệt là tập quán xã hội… V.I Lênin đã từng nói rằng, “sức
mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu người là một sức mạnh ghê
gớm nhất”. Còn Ph.Ăngghen khi nói rẳng, “chúng ta đau khổ không những vì
những người đang sống mà còn vì những người đã chết nữa. Người chết nắm
lấy người sống” cũng là theo nghĩa ấy. Thực tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, những ý thức xã hội của xã hội phong kiến và
thời kỳ thuộc địa như trọng nam kinh nữ, gia trưởng, tham nhũng, quan liêu…là
lạc hậu hơn so với xã hội mà chúng ta đang xây dựng.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội từ những nguyên nhân
sau:
Một là, theo nguyên lý phản ánh của Lênin: ý thức xã hội là cái phản ánh tồn
tại xã hội nên nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hơn nữa
sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động thường xuyên mạnh mẽ và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người, nên nó thường diễn ra với tốc độ
rất nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính
lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn
người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ lạc hậu
thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá chống lại
các lực lượng xã hội tiến bộ.
(+) Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Triết học Mác - Lênin khi khẳng định tính lạc hậu của ý thức xã hội so với
tồn tại xã hội thì đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người, đặc biệt là những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt
trước sự phát triển của tồn tại xã hội. Tư tưởng đó có thể dự báo được tương lai,
có tác dụng chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt
động của con người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự chín muồi của
đời sống vật chất tạo ra.
Thực tế lịch sử cũng đã chỉ rõ, có những quan điểm, phát minh, sáng chế của
những nhà khoa học vượt trước thời đại, thậm chí là vượt trước rất xa. Chẳng
hạn như những phát minh của nhà Bác học Thomas Edison, những phát minh
của ông chủ yếu ở cuối thế kỷ XIX nhưng mãi đến đầu, giữa Thế kỷ XX mới
được ứng dụng rộng rãi, một ví dụ khác là những phát minh, sáng chế của
Nikola Tesla ở cuối Thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX nhưng đến hôm nay vẫn còn
nguyên giá trị và được ứng dụng một cách rộng rãi.
(+) Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Thực tiễn đã chỉ rõ, không một tri thức nào sinh ra từ mảnh đất trống không.
Quy luật phủ định của phủ định của Triết học Mác – Lênin cũng chỉ rõ, hình
thức của sự phát triển sẽ đi theo con đường xoáy ốc, nghĩa là kế thừa những cái
tốt đẹp đồng thời xóa bỏ những cái cũ kỹ, lạc hậu. Ý thức xã hội cũng thỏa mãn
quy luật trên. Chẳng hạn, chủ nghĩa Mác – Lênin là sự kế thừa trực tiếp những
mặt đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và
chủ nghĩa xã hội không tưởng ở Pháp. Hay như, Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa của Chủ nghĩa Mác, truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa thời
đại.
Như vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, ý thức
xã hội của thời kỳ quá độ với hệ tư tưởng chủ đạo là Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nhưng đồng thời là sự kế thừa có chắc lọc những điều tốt
đẹp từ hệ tư tưởng phong kiến, hay hệ tư tưởng của xã hội tư bản phương Tây…
(+) Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội cũng là một biểu hiện của
tính độc lập tương đối của ý thức. Đây là qui luật phát triển của ý thức xã hội.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho mỗi hình thái có
những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng
tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.
Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị
có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định
hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học,
văn học, nghệ thuật… mà tách rời đường lối chính trị đổi mới đúng đắn của
Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm, không thể đóng góp
tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
(+) Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Đây là biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chủ
nghĩa Mác - Lênin không những chống lại quan điểm tuyệt đối hoá vai trò của ý
thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường phủ nhận vai trò tích
cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội. Ph.Ăngghen đã khẳng định “Sự
phát triển về mặt chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật…
đều dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn
nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất các mối quan hệ kinh tế mà
trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư
tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ thâm nhập của tư tưởng đó vào quần chúng. Vì vậy cần
phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức của tư tưởng phản tiến bộ
đối với sự phát triển của xã hội.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
+Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối, nó có sự tác động trở lại đối với tồn
tại xã hội cho nên trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải phát huy những
tư tưởng tiến bộ cách mạng, đồng thời cũng phải đẩy lùi những tư tưởng lạc
hậu, phản động. Trong hoạt động thực tiễn, chúng ta cần phải tránh hai khuynh
hướng:
+Chỉ thấy tồn tại xã hội quyết ý thức xã hội một cách máy móc, điều đó sẽ rơi
vào chủ nghĩa duy vật tầm thường.
+Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội, không thấy vai trò quyết định của tồn
tại xã hội đối với ý thức xã hội, sẽ rơi vào chũ nghĩa duy vật chủ quan.
Trong nhận thức:
+Một mặt, việc nhận thức các hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội cần phải
căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra nó
+Nhưng mặt khác, cũng cần phải giải thích các hiện tượng đó từ những phương
diện khác nhau thuộc nội dung tính độc lập tương đối của chúng

26. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng. Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay?
Trả lời:
- Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
“Cơ sở hạ tầng” là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách quan
trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.
“Kiến trúc thượng tầng” là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những thiết chế tương ứng
của nó như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể…được hình thành trên
một cơ sở hạ tầng nhất định.
-Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng(CSHT) và kiến trúc thượng
tầng(KTTT):
CSHT và KTTT là hai mặt thống nhất biện chứng trong một hình thái
kinh tế - xã hội. Trong mối quan hệ giữa CSHT và KTTT thì CSHT quyết định
KTTT, đồng thời KTTT cũng có những tác động ngược trở lại với CSHT.
Thứ nhất, CSHT quyết định KTTT:
CSHT quyết định KTTT ở chỗ, CSHT là tổng hợp những QHSX hợp
thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định, có nghĩa là CSHT quy định cơ
cầu kinh tế, nội dung về kinh tế của xã hội đó. Trên nền của cơ cầu kinh tế ấy,
KTTT được xây dựng nên.
CSHT quyết định KTTT còn thể hiện ở sự biến đổi căn bản trong CSHT
sớm hay muộn cũng dẫn đến sự biến đổi căn bản của KTTT. CSHT quy định
nội dung kinh tế của xã hội đó, do vậy những bộ phận phận của KTTT được xây
nên trên nền của cơ cấu kinh tế này, sớm hay muộn cũng sẽ bị biến đổi để phù
hợp với cơ cấu kinh tế đó, tức là sự biến đổi căn bản trong CSHT sẽ dẫn đến sự
biến đổi căn bản trong KTTT.
Thứ hai, sự tác động ngược trở lại của KTTT với CSHT:
KTTT có tính độc lập tương đối của nó, tính độc lập này thể hiện ở sự
độc lập tương đối (có sự tác động qua lại) giữa những bộ phận trong kiến trúc
thượng tầng với nhau, và giữa những bộ phận ấy với cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn
sự tác động từ những chính sách của nhà nước lên nền kinh tế, giai quyết những
mâu thuẫn về lợi ích giữa các giai cấp…có tác dụng hoặc thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển của xã hội.
Trong các yếu tố của KTTT, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng vì
nhà nước không chỉ sở hữu cho mình về sức mạnh kinh tế mà còn có những
công cụ khác để bảo vệ quyền lực của mình như pháp luật, quân đội, tòa án…
Nhà nước (bộ phận giữ vai trò quan trọng nhất của KTTT) tác động lên CSHT
thông qua những chủ trương, chính sách của mình.
Sự tác động ngược trở lại của KTTT lên CSHT theo hai chiều hướng cơ
bản:
Một là, sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc
đẩy CSHT phát triển, chẳng hạn nhà nước có những chính sách phù hợp, đúng
đắn trong phát triển kinh tế sẽ giúp xã hội ổn định và phát triển.
Hai là, ngược lại sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển của CSHT, thậm chí gây ra sự khủng
hoảng. Nếu KTTT (chủ yếu từ các chính sách của nhà nước) kìm hãm sự phát
triển CSHT thì sớm hay muộn, KTTT ấy cũng sẽ bị thay thế bởi một KTTT mới
tiến bộ hơn.
- Sự vận dụng của Đảng ta hiện nay:
Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều
thành phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại
của một kết cấu kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế
cùng tồn như vậy là một tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất
của chúng còn thấp và chưa đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng
động, phong phú. Chính tính chất đan xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu
cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi
hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với nền kinh tế nhiều thành phần
và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa đảng và đa nguyên về
chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng theo hướng: đổi
mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người, đổi mới
phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân
chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm
tập trung sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ
nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực
hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng  nhằm từng bước xã hội hoá nền sản
xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh
được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới
hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các
hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia
đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ
sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà
còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT, Đảng ta
không ngừng đổi mới kinh tế bởi đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới
chính trị. Song, muốn đổi mới kinh tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện
thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là hai quá
trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính trị để đổi kinh tế một
cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.
27. Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin. Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
- Khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin:
+ Khái niệm giai cấp: “Được gọi là giai cấp, là những tập đoàn người to lớn,
khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong
lịch sử, về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất (thường thì những
quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận), về vai trò của họ trong tổ
chức lao động xã hội, và do đó khác nhau về cách thức hưởng thụ phần của cải
xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người, mà
một tập đoàn có thể chiếm đoạt lao động của các tập đoàn khác, do địa vị khác
nhau của họ trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định".
- Khái niệm đấu tranh giai cấp: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ
phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị
tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người làm thuê hay những người vô sản chống
người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
-Phân tích khái niệm giai cấp và đấu tranh giai cấp theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, giai cấp là một phạm
trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử, sự tồn tại của nó gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Sự xuất hiện và
tồn tại của giai cấp xét đến cùng là do nguyên nhân kinh tế. Tuy nhiên, không
được biến khái niệm giai cấp thành một phạm trù kinh tế đơn thuần. Chỉ có thể
xem xét các giai cấp trong hệ thống những mối quan hệ xã hội đa dạng, phức
tạp và không ngừng vận động, biến đổi mới có thể nhận thức một cách đầy đủ
và sâu sắc sự khác biệt của các giai cấp về kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý,
đạo đức, lối sống... Khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Leenin mang bản
chất cách mạng và khoa học, có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ
sở để nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, bản chất của các giai cấp trong lịch sử;
đồng thời trang bị cho giai cấp vô sản cơ sở lý luận khoa học để nhận thức được
vai trò lịch sử của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ giai cấp và xây
dựng xã hội mới.
Khái niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin cho thấy, đấu tranh
giai cấp là tất yếu, do sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hòa được giữa
các giai cấp. Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là quy luật tất yếu của
xã hội. Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp xuất phát từ tính tất yếu kinh tế,
nguyên nhân là do sự đối kháng về lợi ích cơ bản giữa giai cấp bị trị và giai cấp
thống trị.
Đấu tranh giai cấp là một hiện tượng lịch sử khách quan, không phải do một
lý thuyết xã hội nào tạo ra, cũng không phải do ý muốn chủ quan của một lực
lượng xã hội hay một cá nhân nào nghĩ ra. Ở đâu và khi nào còn áp bức, bóc lột,
thì ở đó và khi đó còn đấu tranh giai cấp chống lại áp bức, bóc lột. Thực tiễn
lịch sử của xã hội loài người đã và đang chứng minh điều đó. Đấu tranh giai cấp
là cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau
trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng lao động bị
áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm lật đổ ách thống trị của
chúng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, thực chất đấu tranh giai cấp là cuộc đấu
tranh của quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột chống lại giai cấp áp bức, bóc
lột do sự đối lập về lợi ích không thể dung hòa trong một chế độ kinh tế - xã hội
nhất định.
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Khái niệm giai cấp theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị cả về lý
luận và thực tiễn. Về mặt lý luận, khái niệm đã chỉ ra nguồn gốc phát sinh giai
cấp, khẳng định sự ra đời, tồn tại của mỗi giai cấp gắn với những hệ thống sản
xuất xã hội nhất định. Chẳng hạn như giai cấp chủ nô gắn với quan hệ sản xuất
thời chiếm hữu nô lệ, giai cấp phong kiến gắn với quan hệ sản xuất phong
kiến...

Về mặt thực tiễn, khái niệm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở để
xác định kết cấu giai cấp trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định, đó là phải
căn cứ vào tình hình sở hữu đối với tư liệu sản xuất, vai trò trong tổ chức, quản
lý sản xuất và tình trạng phân phối sản phẩm, thu nhập. Ngoài ra, căn cứ theo
khái niệm giai cấp ta còn xác định giai cấp nào là giai cấp cơ bản, giai cấp nào
không là giai cấp cơ bản và các tầng lớp trung gian khác trong xã hội.
+ Từ khái niệm đấu tranh giai cấp, ta thấy đấu tranh giai cấp chính là đấu tranh
giữa hai mặt đối lập cơ bản của xã hội có giai cấp, là biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Qua đấu tranh giai
cấp mới giải quyết được mâu thuẫn nói trên làm cho lực lượng sản xuất phát
triển, qua đó thúc đẩy xã hội có giai cấp phát triển. Góp phần xoá bỏ thế lực
phản động, lạc hậu đồng thời còn có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách
mạng và quần chúng cách mạng.
28. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc. Phân tích các đặc
trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về dân tộc: Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người,
trải qua các hình thức cộng đồng từ thấp đến cao, bao gồm thị tộc, bộ lạc, bộ
tộc, dân tộc. Sự biến đổi của phương thức sản xuất chính là nguyên nhân quyết
định sự biến đổi của cộng đồng dân tộc.
- Các đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam:
Thứ nhất, dân tộc là một cộng đồng về ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp xã hội, trước hết là công cụ giao tiếp trong
cộng đồng (thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Các thành viên của một dân tộc có
thể dùng nhiều ngôn ngữ trong giao tiếp với nhau. Có một số ngôn ngữ được
nhiều dân tộc sử dụng.
Điều quan trọng là mỗi dân tộc có một ngôn ngữ chung thông nhất mà các
thành viên của dân tộc coi đó là tiếng mẹ đẻ của họ. Tính thống nhất trong ngôn
ngữ dân tộc thể hiện trước hết ở sự thống nhất về cấu trúc ngữ pháp và kho từ
vựng cơ bản. Ngôn ngữ của một dân tộc thể hiện đặc trưng chủ yếu của dân tộc
đó.
Thứ hai, dân tộc là một cộng đồng về lãnh thổ.
Mỗi dân tộc có lãnh thổ riêng thống nhất, không bị chia cắt. Lãnh thổ dân tộc
bao gồm cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo thuộc chủ quyền của quốc
gia dân tộc. Trong trường hợp quốc gia có nhiều dân tộc, lãnh thổ quốc gia gồm
lãnh thổ của các dân tộc thuộc quốc gia ấy hợp thành.
Phạm vi lãnh thổ dân tộc hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Chủ
quyền quốc gia dân tộc về lãnh thổ là một khái niệm xác định, thường được thể
chế hóa thành luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế.
Cộng đồng lãnh thổ là đặc trưng quan trọng không thể thiếu được của dân
tộc. Lãnh thổ là địa bàn sinh tồn và phát triển của dân tộc, không có lãnh thổ thì
không có khái niệm tổ quốc, quốc gia.
Thứ ba, dân tộc là một cộng đồng về kinh tế.
Từ các cộng đồng người nguyên thủy chuyển sang bộ tộc, yếu tố liên kết
cộng đồng dựa trên quan hệ huyết thống dần dần bị suy giảm, vai trò của nhân
tố” kinh tế – xã hội ngày càng tăng. Đây là nhu cầu hoàn toàn khách quan trong
đời sống xã hội.
Những mối liên hệ kinh tế làm tăng tính thống nhất, ổn định, bền vững của
cộng đồng người sống trong một lãnh thổ rộng lớn. Những mối liên hệ kinh tế
thường xuyên và mạnh mẽ đặc biệt là mối liên hệ thị trường đã làm tăng tính
thông nhất, tính ổn định, bền vững của cộng đồng người đông đảo sống trong
lãnh thổ rộng lớn. Thiếu sự cộng đồng chặt chẽ, bền vững về kinh tế thì cộng
đồng người chưa phải là dân tộc.
Thứ tư, dân tộc là một cộng đồng về văn hóa, tâm lý, tính cách…
Văn hóa là yếu tố đặc biệt quan trọng của sự liên kết cộng đồng. Văn hóa dân
tộc mang nhiều sắc thái của các địa phương, các sắc tộc, các tập đoàn người
song nó vẫn là một nền văn hóa thông nhất không bị chia cắt.
Tính thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn hóa dân tộc. Văn hóa dân
tộc hình thành trong quá trình lâu dài của lịch sử, hơn bất cứ yếu tố’ nào khác,
tạo ra sắc thái riêng đa dạng, phong phú của từng dân tộc. Mỗi dân tộc có một
nền văn hóa riêng để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác
- Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Việc nghiên cứu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân tộc có ý nghĩa
vô cùng quan trọng trong việc giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ đất nước
(làm sao giữ cho được ổn định, hòa bình giữa các dân tộc, giai tầng trong xã hội với
nhau) và vấn đề dân tộc giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới với nhau (mối quan
hệ mở cửa, hợp tác giữa đất nước ta với các quốc gia trên thế giới”, từ đó tạo sự ổn
định, phát triển của dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
29. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước. Phân tích đặc
trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin?
Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
Trả lời:
-Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về Nhà nước: Theo quan điểm của
Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền
lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức
năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa
vị của giai cấp thống trị trong xã hội. 
- Phân tích đặc trưng, bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin:
+ Đặc trưng của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(1) Nhà nước quản lý dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định:
Khác với các tổ chức thị tộc, nhà nước phân chia dân cư không theo huyết
thống mà theo lãnh thổ quốc gia. Mỗi nhà nước được xác định bằng một biên
giới quốc gia nhất định. Quyền lực của nhà nước trực tiếp tác động đến dân cư
trong lãnh thổ quốc gia đó, bất kể người dân thuộc quan hệ huyết thống nào.
(2)Nhà nước có một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng
chế đối với mọi thành viên trong xã hội:
Nhà nước thiết lập một bộ máy quyền lực chuyên nghiệp bao gồm cơ quan
hành chính cai trị; các lực lượng vũ trang như quân đội, cảnh sát; các cơ quan
tình báo của nhà nước, nhà tủ, trại giam... để cưỡng chế mọi thành viên trong xã
hội, buộc những giai cấp khác phải phục tùng giai cấp thống trị. Nhà nước thực
hiện quyền lực của mình trên cơ sở sức mạnh cưỡng bức của pháp luật.
(3)Nhà nước hình thành hệ thống thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ
máy cai trị:
Nhà nước không thể tồn tại nếu không dựa vào thuế khoá, quốc trái. Để duy
trì, nuôi sống và tăng cường bộ máy quyền lực chuyên nghiệp từ trung ương đến
địa phương, nhà nước phải hình thành một hệ thống thuế khóa có tính chất bắt
buộc đối với các thành viên của xã hội.
+ Bản chất của Nhà nước theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
(+) Nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và đấu
tranh giai cấp.
(+)Giai cấp thống trị lập ra và sử dụng nhà nước như một công cụ quyền lực
để: trấn áp giai cấp bị trị, duy trì trật tự xã hội; bảo vệ địa vị và quyền lợi của
mình.
Về bản chất, nhà nước là một tổ chức chính trị của một giai cấp thống trị về
mặt kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai
cấp khác.
- Sự vận dụng của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay:
- Với nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mang những đặc
trưng riêng và bản chất riêng điển hình:
+ Nhà nước Việt Nam là nhà nước do dân vì dân tất cả vì nhân dân, thể hiện
quyền làm chủ của nhân –mọi hoạt động được dựa trên cơ sở Hiến pháp và pháp
luật.

(+)Nhà nước Việt Nam thực hiện duy trì và đảm bảo vị trí tối cao của pháp
luật trong đời sống xã hội, mọi hoạt động vận hành trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân đứng đầu là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
– Nhà nước là mang bàn chất công dân thể hiện tính nhân dân và tính dân tộc.
Đảng và Nhà nước ta ta đã đề cập ngày càng sâu sắc, toàn diện và có bước
phát triển mới về quan điểm, định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đối với
từng yếu tố trong mô hình nhà nước pháp quyền xét về đặc trưng phổ quát của
nhà nước pháp quyền nói chung và đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Tong quan điểm chỉ đạo, tiếp nối chủ trương từ
các kỳ đại hội trước, đặc biệt là từ văn kiện Đại hội XII và các hội nghị của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Đảng ta khẳng định “xây dựng Nhà nước tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết
định thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc. Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bản chất khác với nhà nước pháp quyền tư
sản là ở chỗ: pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ
bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ
XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm
và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà
nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực
hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân”. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự điều chỉnh tối thượng của Hiến pháp và hệ thống pháp luật bảo đảm công
khai, tính minh bạch, khả thi, hiệu quả, nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ quyền con
người, tính thượng tôn pháp chế XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc;
hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn.
30. Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của nó trong sự phát triển
của xã hội? Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Trả lời:
-Cách mạng xã hội là gì?
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và
căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là phương thức thay thế
hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn. Theo
nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời, thiết
lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn.
-Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội:
Các cuộc cách mạng xã hội có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Chỉ có
cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới tiến bộ hơn, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển từ đó dẫn đến thay thế
hình thái kinh tế - xã hội cũ bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn.
Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản
của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... được giải
quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Trong những thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân
được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi
thường: "một ngày bằng hai mươi năm".
Lịch sử nhân loại đã chứng minh đầy đủ và rõ nét vai trò của các cuộc cách
mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử mấy nghìn năm qua. Đó là: cuộc cách
mạng thực hiện bước chuyển từ hình thái kinh tế - xã hội nguyên thủy lên hình
thái kinh tế - xã hội chiếm hữu nô lệ; cuộc cách mạng xóa bỏ chế độ nô lệ và
thay thế nó bằng chế độ phong kiến; cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong
kiến, xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa; cuộc cách mạng vô sản thực hiện việc
xóa bỏ chế độ chuyên chính vô sản, xác lập chế độ xã hội chủ nghĩa - đây là
cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại, làm thay đổi
hoàn toàn bản chất chế độ chính trị xã hội cũ, xóa bỏ triệt để nguồn gốc chế độ
tư hữu sản sinh đối kháng giai cấp đã từng tồn lại hàng ngàn năm trong lịch sử
nhân loại.
-Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu:
Từ những lý luận về cách mạng xã hội giúp chúng ta tổng kết thực tiễn, nghiên
cứu lý luận từ đó chinh sửa, bổ sung lý luận, phát triển sáng tạo học thuyết cách
mạng xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin là một yêu cầu cấp bách.
Và giải quyết được mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa trình độ xã hội hóa cao
của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
31.Nêu khái niệm quần chúng nhân dân. Phân tích vai trò của quần chúng
nhân dân trong lịch sử? Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài
học “Lấy dân làm gốc”.
Trả lời:
- Khái niệm quần chúng nhân dân: Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng
chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những
giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, tổ chức hay
đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời
đại nhất định.
- Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, giữ vai trò
quyết định đối với tiến trình lịch sử. Bởi vì: một lý tưởng giải phóng xã hội, giải
phóng con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của
quần chúng nhân dân. Hơn nữa tư tưởng, tự bản thân nó không làm biến đổi xã
hội mà phải thông qua hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần
chúng nhân dân, để biến lý tưởng, ước mơ thành hiện thực trong đời sống xã
hội.
Vai trò sáng tạo chân chính ra lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu
hiện ở ba nội dung sau:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định trong sản xuất ra của
cải vật chất, đảm bảo cho xã hội tồn tại, phát triển.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã
hội. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách
mạng nào mà không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực
lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc
cách mạng.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hóa tinh
thần. Vì quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra đời sống vật chất thì cũng
quyết định đời sống tinh thần của xã hội. Triết học Mác không phủ nhận vai trò
của các danh nhân văn hóa, nhưng khẳng định vai trò quyết định của quần
chúng nhân dân. Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển
của khoa học nghệ thuật, văn học đồng thời áp dụng những thành tựu đó vào
thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự,
kinh tế, chính trị, đạo đức…của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để
thúc đẩy sự phát triển của nền văn hóa tinh thần của các dân tộc trong mọi thời
đại.
- Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “Lấy dân làm gốc”:
Quan điểm "Lấy dân làm gốc” là một trong những bài học quan trọng, góp
phần làm nên những thành tựu to lớn, xuyên suốt chiều dài lịch sử, nhằm phát
huy vai trò làm chủ, sức sáng tạo và nguồn lực của Nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ đất nước. Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và vận dụng
thành công quan điểm này. Từ khi được thành lập cho đến nay, Đảng luôn xác
định cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân.
Quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” trong đường lối lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, đòi hỏi mỗi chúng ta cần thực hiện tốt một số vấn đề sau:
Một là, phát huy dân chủ trong Đảng, trong Nhân dân nhằm phát huy trí tuệ
của Nhân dân trong xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam. Để có
dân chủ rộng rãi trong Đảng, điều cốt yếu là nhận thức đúng đắn và thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ.
Hai là, quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc” cần đưa phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” vào hoạt
động chủ đạo thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
 
Ba là, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh nhằm củng cố niềm tin của Nhân
dân đối với Đảng, đối với con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
  Bởi vậy, dựa trên những lý luận về quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác -
Lênin, giúp Đảng ta đề ra những chính sách phát huy tinh thần đoàn kết trong
quần chúng nhân dân, đảm bảo những yêu cầu, quyền lợi của quần chúng nhân
dân, phát huy những vai trò sáng tạo, năng động của quần chúng nhân dân trong
mọi lĩnh vực của đời sống – có như vậy mới quán triệt tốt quan điểm “ lấy dân
làm gốc”.

You might also like