Thảo luận hình sự 1

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 86

CỤM 1

Những nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao?
1. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là những quan hệ xã
hội được luật hình sự bảo vệ.
T.Quyên: Nhận định trên là sai
Bởi vì đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là QHXH phát sinh
giữa Nhà Nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội
phạm. Còn QHXH được luật hình sự bảo vệ là các QHXH được
quốc gia tuyên bố bảo vệ trước sự xâm hại của tội phạm. Các quan
hệ này khi bị xâm phạm sẽ trở thành khách thể của tội phạm
2. Đối tượng điều chỉnh của luật hình sự là tất cả các quan hệ
xã hội phát sinh khi có một tội phạm được thực hiện.
PHÁT: Nhận định trên là sai.
Vì khi có một tội phạm được thực hiện thì sẽ phát sinh nhiều quan
hệ xã hội (quan hệ dân sự, quan hệ hành chính,…). Trong khi đó
luật hình sự chỉ điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà
nước và người phạm tội khi người này thực hiện tội phạm, hay
còn gọi là quan hệ pháp luật hình sự.
● Ví dụ: A giết B, B để lại một khối tài sản và không có người
thân để thừa kế. Vậy khối tài sản đó sẽ liên quan đến quan hệ
dân sự.
3. Việc thực hiện hành vi phạm tội là sự kiện pháp lý làm phát
sinh quan hệ pháp luật hình sự.
T.Quyên: Nhận định này đúng.
Vì sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự là
hành vi phạm tội đã thực hiện trên thực tế. Hành vi phạm tội có
thể do nhiều ngành luật điều chỉnh khác nhau.
4. Người phạm tội và người bị hại có quyền thỏa thuận với
nhau về mức độ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
T.Quyên: Nhận định này sai.
Vì Chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự giữa 1 bên là Nhà
nước và 1 bên là người phạm tội.
Phương pháp điều chỉnh là phương pháp quyền uy: Nhà nước
có quyền buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về
hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện trên cơ sở quy định của
pháp luật mà không bị cản trở hoặc hạn chế bởi bất kỳ thế lực
của tổ chức hay cá nhân nào.
Mức độ trách nhiệm hình sự không phụ thuộc vào sự thỏa thuận
của người phạm tội và người bị hại.
5. Bãi nại của người bị hại là căn cứ pháp lý có giá trị bắt buộc
làm chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự.
T.Quyên: Nhận định này sai.
Quan hệ pháp luật hình sự chấm dứt khi người phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành xong các nghĩa vụ của
mình đối với nhà nước. Còn bãi nại của người bị hại chỉ có giá trị
dân sự nên không là căn cứ pháp lý có giá trị bắt buộc làm chấm
dứt quan hệ pháp luật hình sự.
6.Quan hệ pháp luật hình sự chỉ là quan hệ xã hội giữa nhà
nước và người phạm tội khi có một tội phạm được thực hiện.
B.Quyên: Nhận định trên là sai.
Vì Quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ xã hội không chỉ là giữa
nhà nước và người phạm tội, mà còn là giữa nhà nước với pháp
nhân thương mại phạm tội.
7. Trong Phần thứ hai (Các tội phạm) của Bộ luật hình sự năm
2015, mỗi điều luật chỉ quy định một quy phạm pháp luật
hình sự.
T.Quyên: Nhận định này sai.
Vì trong Phần thứ hai (Các tội phạm) của BLHS 2015, mỗi điều
luật thường quy định 1 tội phạm cụ thể. Nhưng bên cạnh đó
cũng có trường hợp 1 điều luật quy định 2 hoặc nhiều tội phạm
cụ thể.
8. Phần quy định trong quy phạm pháp luật tại khoản 1 Điều
259 BLHS là loại quy định viện dẫn.
T.Quyên: Nhận định này đúng.
Quy định viện dẫn là quy định nêu ra tội phạm nhưng muốn xác
định các dấu hiệu của nó thì phải xem xét thêm các quy định
khác của Pháp luật.
Như vậy, quy định tại khoản 1 Điều 259 BỘ LUẬT HÌNH SỰ
2015 về tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây
nghiện hoặc các chất ma túy khác. Và quy định của PL xem xét
thêm là: văn bản quy định về việc quản lý, sử dụng thuốc gây
nghiện hoặc các chất ma túy khác.
9. Phần quy định trong quy phạm pháp luật hình sự tại khoản
1 Điều 108 BLHS là loại quy định mô tả.
T.Quyên: Nhận định này đúng.
Vì Quy định mô tả là quy định không những nêu tên tội phạm mà
còn mô tả dấu hiệu pháp lý của tội phạm.
Quy định tại khoản 1 Điều 108 BLHS 2015 có nêu tên tội phạm:
“Công dân Việt Nam nào”, có mô tả dấu hiệu pháp lý của tội
phạm: “câu kết với nước ngoài”.
10. Chế tài được quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS là loại chế
tài tương đối dứt khoát.
T.Quyên: Nhận định này đúng.
Chế tài tương đối dứt khoát là loại chế tài nêu mức tối thiểu và
mức tối đa hoặc mức tối đa của hình phạt.
Chế tài quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS 2015 có nêu mức tối
thiểu (1 năm tù) và mức tối đa (5 năm tù).
11. Chế tài được quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS là loại chế
tài lựa chọn.
T.Quyên: Nhận định này sai.
Vì Chế tài lựa chọn là loại chế tài nêu nhiều loại hình phạt khác
nhau mà Tòa án có thể lựa chọn 1 trong những hình phạt đó
để áp dụng đối với trường hợp phạm tội được nêu trong phần
quy định.Chế tài quy định tại khoản 1 Điều 168 BLHS 2015 có
nêu mức tối thiểu (3 năm tù) và mức tối đa (10 năm tù).
12. BLHS Việt Nam chỉ có hiệu lực áp dụng đối với hành vi
phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
T.Quyên: Nhận định này sai.
BLHS Việt Nam không những có hiệu lực áp dụng đối với hành vi
phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có hiệu lực
đối với hành vi phạm tội thực hiện ngoài lãnh thổ Việt Nam
được quy định tại Điều 6 BLHS 2015.
13. Một tội phạm chỉ được coi là thực hiện tại Việt Nam nếu tội
phạm đó bắt đầu và kết thúc trên lãnh thổ Việt Nam.
QUỲNH:
Nhận định: Sai
Trả lời:
Tội phạm được xem là thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam khi tội
phạm ấy có một giai đoạn được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Nghĩa là tội phạm đó có thể được thực hiện trọn vẹn trên lãnh thổ
Việt Nam, hoặc bắt đầu hoặc diễn ra hoặc kết thúc trên lãnh thổ
Việt Nam.

Theo K1 Điều 5 BLHS 2015 quy định về hiệu lực của BLHS đối
với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ VN. Theo đó, BLHS áp
dụng mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ VN kể cả trên
tàu bay, tàu biển mang quốc tịch VN hoặc tại vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa của VN.

M. SÁNG:

Sai.

Hành vi được coi là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam có các trường
hợp:
Hành vi phạm tội thực hiện trọn vẹn trên lãnh thổ Việt Nam.
Tội phạm được bắt đầu, hoặc diễn ra, hoặc kết thúc trên lãnh thổ
Việt Nam.

Như vậy nếu hành vi phạm tội được thực hiện trọn vẹn hoặc có 1
trong những giai đoạn thực hiện phạm tội sau: bắt đầu, diễn ra, kết
thúc trên lãnh thổ Việt Nam thì là tội phạm được coi là thực hiện
tại Việt Nam

14. Một số điều luật của BLHS năm 2015 được áp dụng đối với
hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực
thi hành.
Sương:
-Nhận định: Đúng
-Giải thích: Căn cứ theo Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự 2015 quy
định:
“Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng
nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới
hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự,
loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù
trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi
cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã
thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.”
Do đó, đối với những hành vi phạm tội trước khi điều luật 2015 có
hiệu lực thi hành vẫn có thể áp dụng điều luật mới được xem là
khoan hồng hơn so với điều luật cũ (cụ thể là điều luật xóa bỏ một
tội phạm). Điều luật quy định hình phạt nhẹ hơn nếu luật mới xóa
đi một hình phạt nghiêm khắc, hoặc nếu luật mới và luật cũ quy
định cùng một loại hình phạt thì luật mới quy định mức tối đa của
khung hình phạt nặng nhất thấp hơn so với luật cũ; nếu mức độ tối
đa của khung hình phạt nặng nhất của cả hai luật bằng nhau thì
được coi là luật mới quy định hình phạt nhẹ hơn nếu mức tối thiểu
của khung hình phạt nhẹ nhất của luật mới thấp hơn luật cũ.
15. BLHS năm 2015 không được áp dụng đối với hành vi phạm
tội do người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài
phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. (Tiên-Thụy)
Nhận định: Sai
Trả lời:
Theo khoản 2, 3 Điều 6 BLHS 2015 quy định:
"2. Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội
ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật
này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của
điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên.
3. Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy
ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở
tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm tội có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này
trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định”.

=> Như vậy, câu nhận định trên sai vì theo quy định trên thì hành vi
phạm tội do người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước
ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam có thể bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật nếu xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại
đến nước Việt Nam hoặc vi phạm những điều ước quốc tế mà
nước Việt Nam là thành viên có quy định.

16. BLHS năm 2015 có thể được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy
ra trên tàu bay, tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại
biển cả hoặc giới hạn vùng trời nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam.
T.Quyên: Nhận định này đúng.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 BLHS năm 2015 có hiệu lực tuyệt đối.
Điều này có nghĩa là: Bất cứ hành vi phạm tội là do công dân Việt Nam,
người nước ngoài hay người không có quốc tịch thực hiện trong phạm vi
lãnh thổ Việt Nam thì đều phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định
của BLHS Việt Nam. Như vậy.BLHS năm 2015 có thể được áp dụng
đối với hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển không mang
quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc giới hạn vùng trời nằm
ngoài lãnh thổ Việt Nam.

I. BÀI TẬP

Bài tập 1

A là học viên của một trường dạy nghề. Vì có xích mích cá nhân với
B là bạn cùng lớp nên đã đánh B bị thương tích với tỷ lệ thương tật 30%.
Vì thế, B phải điều trị tại bệnh viện 15 ngày và chi phí điều trị tại bệnh
viện là 15.300.000 đồng. Việc A cố ý gây thương tích cho B đã làm phát
sinh các quan hệ pháp luật sau:
- A bị Tòa án tuyên phạt 1 năm tù về việc gây thương tích cho B
(Theo quy định tại Điều 134 BLHS);
- A phải bồi thường cho B toàn bộ số tiền chi phí điều trị tại bệnh
viện;
- A bị trường dạy nghề buộc thôi học vì có vi phạm nghiêm trọng quy
chế của nhà trường.

Anh (chị) hãy xác định:


1. Quan hệ nào là quan hệ pháp luật hình sự? Tại sao?
PHÁT: Quan hệ giữa A và Tòa án là quan hệ pháp luật hình sự. Bởi
quan hệ pháp luật hình sự là quan hệ giữa Nhà nước và người
phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội khi có một tội phạm
được thực hiện. Và trong vụ án trên A chính là người phạm tội
(cố ý gây thương tích) và cơ quan đại diện cho Nhà nước chính
là Tòa án.
B.Quyên: bổ sung ý kiến của Phát: Căn cứ theo khoản 1 Điều 134
BLHS 2015 thì việc gây thương tật 30% được quy định là phạm
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác. Còn các trường hợp khác chỉ là xử phạt hành chính.
2. Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự trong vụ
án này là gì?
PHÁT: Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự
trong vụ án trên là việc A đánh B bị thương tích với tỷ lệ thương
tật 30%.
3. A có thể nhờ người khác tham gia quan hệ pháp luật hình sự
thay mình được không? Tại sao?
PHÁT: A không thể nhờ người khác tham gia quan hệ pháp luật
hình sự thay mình được. Bởi phương pháp điều chỉnh của Luật
hình sự là phương pháp quyền uy, cơ quan nhà nước có quyền
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội mà không
bị cản trở bởi bất cứ thế lực của cá nhân, tổ chức nào; đồng thời
người phạm tội phải chịu trách nhiệm cá nhân trước nhà nước
mà không được ủy thác cho người khác. Người phạm tội phải
phục tùng những biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng với họ.
Trách nhiệm của người phạm tội về tội phạm mà họ đã gây ra là
trách nhiệm đối với Nhà nước chứ không phải trách nhiệm đối
với người bị hại hay trách nhiệm đối với các cơ quan tiến hành
tố tụng.
4. Quyền và nghĩa vụ pháp lý của A trong quan hệ pháp luật hình
sự?
PHÁT:
Quyền của A trong quan hệ pháp luật hình sự: Yêu cầu nhà nước
(Ly: cụ thể là Tòa án) áp dụng các biện pháp xử lý hình sự trong
giới hạn luật định.
Yêu cầu cơ quan nhà nước đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Nghĩa vụ của A trong qua hệ pháp luật hình sự: Phải chấp hành các
quyết định của nhà nước (Ly: cụ thể là nhà nước) về việc xử lý
đối với hành vi phạm tội.
B.Quyên:
Quyền của A trong quan hệ pháp luật hình sự: Yêu cầu nhà nước áp
dụng các biện pháp xử lý HS trong giới hạn luật định; Yêu cầu
các cơ quan nhà nước đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của
mình.
Nghĩa vụ của A trong quan hệ pháp luật hình sự: Phải chấp hành
các quyết định của nhà nước về việc xử lý đối với hành vi phạm
tội cụ thể là chịu án phạt 1 năm tù vì tội cố ý gây thương tích.

Bài tập 3

Pháp nhân thương mại A phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
theo quy định tại Điều 190 BLHS. Tòa án tuyên phạt pháp nhân thương
mại A 1 tỷ đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 190 BLHS. Ông X
không thực hiện hành vi phạm tội mà chỉ là người đại diện theo pháp luật
cho pháp nhân thương mại A thực hiện các thủ tục trong quá trình tiến
hành tố tụng.

Anh (chị) hãy xác định:


1. Quan hệ xã hội nào sau đây là quan hệ pháp luật hình sự? Tại sao?
QUỲNH:
Quan hệ pháp luật hình sự phát sinh khi Tòa án tuyên phạt pháp nhân
thương mại A 1 tỷ đồng theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 190
BLHS 2015.
Vì quan hệ pháp luật hình sự là QHXH phát sinh khi có một tội phạm
xảy ra giữa Nhà nước và người phạm tội, pháp nhân thương mại
phạm tội. Cụ thể ở đây là phát sinh quan hệ pháp luật hình sự giữa
Tòa án với pháp nhân thương mại A khi pháp nhân thương mại A
thực hiện hành vi buôn bán hàng cấm.
a. Quan hệ giữa Nhà nước với ông X? Chọn đáp án B
QUỲNH: Quan hệ giữa Nhà nước với ông X là quan hệ giữa Nhà
nước với pháp nhân thương mại A phạm tội. Vì quan hệ pháp luật hình
sự là QHXH phát sinh khi có một tội phạm xảy ra giữa Nhà nước và
người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội. Ở đây, ông X đại
diện theo pháp luật cho pháp nhân thương mại A cũng chỉ là để bảo vệ
cho pháp nhân thương mại A chứ không chịu trách nhiệm trách nhiệm
cho pháp nhân thương mại A.
b. Quan hệ giữa Nhà nước với pháp nhân thương mại A?
QUỲNH: Quan hệ giữa Nhà nước với pháp nhân thương mại A là
quan hệ pháp luật hình sự phát sinh giữa Nhà nước với pháp nhân
thương mại A phạm tội. Vì quan hệ pháp luật hình sự là QHXH phát
sinh khi có một tội phạm xảy ra giữa Nhà nước và người phạm tội,
pháp nhân thương mại phạm tội.

c. Quan hệ giữa pháp nhân thương mại A với ông X?


QUỲNH: Quan hệ giữa pháp nhân thương mại A với ông X là quan hệ
đại diện theo pháp luật, là quan hệ giữa người đại diện (X) và người
được đại diện (pháp nhân thương mại A). Ông X đại diện theo pháp
luật cho pháp nhân thương mại A trong quá trình tố tụng hình sự và
không chịu trách nhiệm cho pháp nhân thương mại A.
M. SÁNG:
Đáp án: b
Quan hệ xã hội là quan hệ pháp luật hình sự: Quan hệ giữa Nhà nước
với pháp nhân thương mại A.

Đối tượng điều chỉnh của Luật hình sự là quan hệ pháp luật hình sự, là
quan hệ xã hội phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội khi thực
hiện tội phạm hoặc pháp nhân thương mại phạm tội. Theo định nghĩa
này thì quan hệ xã hội là quan hệ pháp luật hình sự trong vụ án là quan
hệ giữa Nhà nước với pháp nhân thương mại A, cụ thể hành vi của
pháp nhân thương mại A là phạm tội sản xuất, buôn bán hàng cấm
theo quy định tại Điều 190 BLHS.

2. Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự trong vụ án
này là gì?
QUỲNH: Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự
trong vụ án này là pháp nhân thương mại A phạm tội sản xuất, buôn
bán hàng cấm. Vì sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật
hình sự là khi có hành vi phạm tội được thực hiện. Thì hành vi phạm
tội được thực hiện của pháp nhân thương mại A là phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm theo quy định tại Điều 190 BLHS 2015.
M. SÁNG: Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự
trong vụ này là hành vi phạm tội được thực hiện của pháp nhân
thương mại A, cụ thể pháp nhân thương mại A phạm tội sản xuất,
buôn bán hàng cấm theo quy định tại Điều 190 BLHS.

Bài tập 7

A là công dân Việt Nam thường xuyên sang Trung Quốc móc nối với
B và C (đều là công dân Trung Quốc) để thực hiện việc buôn bán người. A
về Việt Nam dụ dỗ, hứa hẹn một số phụ nữ Việt Nam qua Trung Quốc
kiếm việc làm với thu nhập cao. A đã đưa một số cô gái Việt Nam qua
Trung Quốc và bán họ cho B và C. Tại Trung Quốc, A cùng B và C đã
hiếp dâm các cô gái này rồi sau đó bán họ cho những người Trung Quốc
lấy về làm vợ. Trong vụ án này, có hai hành vi được thực hiện: hành vi
hiếp dâm và hành vi mua bán người.
Anh (chị) hãy xác định:
1. BLHS Việt Nam có hiệu lực áp dụng đối với hành vi mua bán người
không? Tại sao? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.

2. BLHS Việt Nam có hiệu lực áp dụng đối với hành vi hiếp dâm không?
Tại sao? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.

Thắm: 1. Điều 150, Điều 151 BLHS năm 2015 quy định hành vi mua
bán người là tội phạm:

- Theo nguyên tắc quốc tịch chủ động, công dân Việt Nam được nhà
nước CHXHCN Việt Nam bảo hộ về pháp lý thì cũng có nghĩa vụ
tuân theo pháp luật Việt Nam dù là đang ở đâu. A là công dân Việt
Nam thực hiện hành vi mua bán người ngoài lãnh thổ Việt Nam
(Trung Quốc) nên BLHS Việt Nam có hiệu lực đối với hành vi mua
bán người của A. Căn cứ pháp lý: khoản 1 Điều 6 BLHS năm 2015.
- Theo nguyên tắc quốc tịch thụ động, luật hình sự Việt Nam có hiệu
lực đối với hành vi phạm tội do người nước ngoài, pháp nhân
thương mại nước ngoài thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam trong
trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước CHXHCN Việt
Nam. B và C là người nước ngoài (công dân Trung Quốc) đã thực
hiện hành vi mua bán người Việt Nam ngoài lãnh thổ Việt Nam
(Trung Quốc) nên BLHS Việt Nam có hiệu lực đối với hành vi mua
bán người của B và C. Căn cứ pháp lý: khoản 2 Điều 6 BLHS năm
2015.

2. Điều 141, Điều 142 BLHS năm 2015 quy định hành vi hiếp dâm
là tội phạm:

- Theo nguyên tắc quốc tịch chủ động (như đã nêu ở trên) thì A
là công dân Việt Nam thực hiện hành vi hiếp dâm ngoài lãnh
thổ Việt Nam (Trung Quốc) nên BLHS Việt Nam có hiệu lực
với hành vi hiếp dâm của A. Căn cứ pháp lý: khoản 1 Điều 6
BLHS năm 2015.
- Theo nguyên tắc quốc tịch bị động (như đã nêu ở trên) thì B
và C là người nước ngoài (công dân Trung Quốc) đã thực
hiện hành vi hiếp dâm người Việt Nam ngoài lãnh thổ Việt
Nam (Trung Quốc) nên BLHS Việt Nam có hiệu lực đối với
hành vi mua bán người của B và C. Căn cứ pháp lý: khoản 2
Điều 6 BLHS năm 2015.

Tiết Tiên:

1. Điều 150 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội
buôn bán người là tội phạm.

Vì theo Khoản 1 Điều 6 BLHS năm 2015:

“1. Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi
phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà
Bộ luật này quy định là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự tại Việt Nam theo quy định của Bộ luật này”.

=> Theo như dữ liệu đã cho, A là công dân Việt Nam, mang quốc tịch Việt
Nam và có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Vậy nên, BLHS
Việt Nam có hiệu lực đối với hành vi mua bán người của A.

Tiếp đó, căn cứ vào Khoản 2 Điều 6 BLHS 2015:

“2. Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở
ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp
hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam
hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc
theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên”.

=> Có thể thấy, B và C đều là người nước ngoài, không mang quốc tịch
Việt Nam, nhưng đã có hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân Việt Nam và xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Vậy nên, BLHS Việt Nam có hiệu lực đối với hành vi
mua bán người của B và C.
2. Khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy
định hành vi hiếp dâm là tội phạm:

“1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì
bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

=> Vì A là công dân Việt Nam đã thực hiện hành vi hiếp dâm ngoài lãnh
thổ Việt Nam, cụ thể là Trung Quốc. Vậy nên, căn cứ vào Khoản 1 Điều 6
BLHS 2015 thì BLHS Việt Nam có thể áp dụng đối với hành vi hiếp dâm
của A.

=> Vì B và C là người nước ngoài (Trung Quốc) nhưng đã thực hiện hành
vi hiếp dâm công dân Việt Nam ngoài lãnh thổ Việt Nam, B và C đã trực
tiếp xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Vậy nên,
căn cứ vào Khoản 2 Điều 6 BLHS 2015 thì BLHS Việt Nam có thể áp
dụng đối với hành vi hiếp dâm của B và C.

Sương:
1. Bộ luật Hình sự Việt Nam có hiệu lực áp dụng đối với hành vi mua
bán người. Vì:
-Theo Điều 150 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy
định về “Tội mua bán người” và quy định về “Tội mua bán người
dưới 16 tuổi” tại Điều 151 của bộ luật này thì buôn bán người là
một hành vi phạm tội. Tội mua bán người, người thực hiện phạm tội
thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm trực tiếp đến con người. Như vậy,
tại Khoản 2 Điều 150, 151 đã quy định cụ thể về các hành vi phạm
tội và cách xử lý về “Tội mua bán người” và “Tội mua bán người
dưới 16 tuổi”.

-Đồng thời, đối với A là một công dân Việt Nam và có hành vi móc
nối buôn bán người từ Việt Nam sang Trung Quốc. Theo “nguyên
tắc quốc tịch chủ động”, ta biết được Việt Nam hoàn toàn có thẩm
quyền xét xử hình sự đối với cá nhân thực hiện hành vi phạm tội
hoặc tình nghi thực hiện tội phạm, cho dù hành vi phạm tội được
thực hiện ở bất kỳ nơi nào. Song song đó, căn cứ theo Khoản 1 Điều
6 BLHS năm 2015: “Công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương
mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định là tội phạm, thì
có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định
của Bộ luật này.”

-Ngoài ra, đối với B và C là công dân người Trung Quốc, không có
quốc tịch thường trú tại Việt Nam cũng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo BLHS Việt Nam. Bởi áp dụng “nguyên tắc quốc tịch thụ
động”: “Quốc gia có thẩm quyền xét xử hình sự là quốc gia mà nạn
nhân bị các hành vi tội phạm xâm hại là công dân. Nguyên tắc này
có mục đích bảo vệ quyền lợi và lợi ích của công dân mỗi quốc gia,
đồng thời đảm bảo sự trừng phạt thích đáng của pháp luật đối với cá
nhân phạm tội.” Và căn cứ theo Khoản 2 Điều 6 BLHS 2015:
“Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở
ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong
trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”

2. Bộ luật Hình sự Việt Nam có hiệu lực áp dụng đối với hành vi hiếp
dâm. Vì:

-Theo Điều 141 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Mọi
công dân đều có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Trong đó,
hành vi hiếp dâm là một trong những hành vi xâm hại đến quyền bất
khả xâm phạm về tình dục bị coi là tội phạm và bị xử lý theo quy
định của Bộ luật Hình sự.

-Đồng thời, đối với A là một công dân Việt Nam và có hành vi hiếp
dâm ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Tuy vậy, nhưng áp dụng
“nguyên tắc quốc tịch chủ động” và Khoản 1 Điều 6 BLHS 2015
(đã trình bày như trên) thì đối tượng A hoàn toàn bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo BLHS 2015.

-Ngoài ra, đối với B và C là công dân người Trung Quốc, không có
quốc tịch thường trú tại Việt Nam cũng bị truy cứu trách nhiệm hình
sự theo BLHS Việt Nam. Bởi áp dụng “nguyên tắc quốc tịch thụ
động” và Khoản 2 Điều 6 BLHS 2015 (đã trình bày như trên) thì cả
hai đối tượng B và C đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của công dân Việt Nam nên phải hoàn toàn bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo BLHS 2015.

Bài tập 9

Dựa vào quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999 và Điều 168
BLHS năm 2015 về tội “cướp tài sản”.

Anh (chị) hãy xác định:


1. Điều luật nào quy định “hình phạt nặng hơn”? Tại sao?
Trả lời (Tiên-Thụy):
Điều luật quy định “hình phạt nặng hơn” là Điều 133 BLHS 1999.
Vì:

Điều 133 BLHS 1999 quy định về tội cướp tài sản có hình phạt nặng
hơn vì mức hình phạt cao nhất là tử hình. Còn tại Khoản 4 Điều 168
BLHS 2015 quy định về mức hình phạt cao nhất chỉ là chung thân.
Tuy nhiên BLHS 2015 đã thêm vào những tình tiết định khung tăng
nặng chi tiết, rõ ràng hơn và loại bỏ những tình tiết định khung tăng
nặng không rõ ràng, thiếu tính minh bạch của BLHS 1999 (như Điểm
g Khoản 2, Điểm c Khoản 3,...). Ngoài ra BLHS 2015 còn quy định
việc xử phạt với những người chuẩn bị phạm tội. Như vậy, điều luật
quy định hình phạt nặng hơn là Điều 133 BLHS 1999.

2. Điều luật nào được áp dụng đối với hành vi phạm tội xảy ra
trước ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực nhưng sau thời điểm đó
mới đem ra xét xử? Tại sao?
Biết rằng:

Khoản 1 Điều 133 BLHS 1999 là khoản có khung hình phạt nhẹ nhất
của điều luật, quy định: “Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay
tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình
trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ
ba năm đến mười năm”.
Khoản 4 Điều 133 BLHS năm 1999 là khoản có khung hình phạt nặng
nhất của điều luật, quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân
hoặc tử hình”.

Trả lời:

Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 có quy định:

“Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng,
quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng
phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều
kiện, xóa án tích và quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp
dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu
lực thi hành.”

Theo đó, ta sẽ áp dụng luật mới có khung hình phạt nhẹ hơn cho người
phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật có hiệu
lực thi hành. Khoản 4 Điều 168 BLHS 2015 quy định có lợi cho người
phạm tội so với Điều 133 BLHS 1999 nên hành vi phạm tội xảy ra trước
ngày BLHS năm 2015 có hiệu lực nhưng sau thời điểm đó mới đem ra xét
xử
THẢO LUẬN LẦN 2

Deadline: 9h sáng 11/9

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly BT 1, tổng hợp bài

2 Lê Tấn Phát NĐ 6, BT 1

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 6, BT 1

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 5, BT 6

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 5, BT 6

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 4, BT 6

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 4, BT 6

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 2, BT 7


9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 2, BT 7

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 1, BT 7

11 Tiết Như Tiên NĐ 1, BT 7

I. Trắc nghiệm tự luận: Nhận định sau đây đúng hay sai? Tại
sao?

1. Căn cứ để phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS năm 2015 là mức
hình phạt do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội.

Tiên: Nhận định sai

Căn cứ vào Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì phân loại tội
phạm dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được
quy định trong Bộ luật này. Nói cách khác, căn cứ phân loại tội phạm phải
dựa trên mức cao nhất của khung hình phạt (do Điều luật quy định), còn
mức hình phạt do Tòa án áp dụng là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa
án, không phải căn cứ phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS.

2. Những tội phạm mà người thực hiện bị Toà án tuyên phạt từ 3 năm tù
trở xuống đều là tội phạm ít nghiêm trọng.
Trả lời: Nhận định sai.
Việc phân loại tội phạm theo Điều 9 BLHS 2015 dựa vào mức cao nhất
của khung hình phạt chứ không dựa vào hình phạt mà Tòa án đã tuyên. Ví
dụ tội của A là tội nghiêm trọng nhưng Tòa án tuyên phạt A 2 năm tù vì
trong vụ án có tình tiết giảm nhẹ theo Điều 51 và Điều 54 theo BLHS
2015.
4. Trong một tội danh luôn có cả ba loại cấu thành tội phạm: cấu thành cơ
bản, cấu thành tăng nặng và cấu thành giảm nhẹ.
M. SÁNG + SƯƠNG:
SAI
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong LUẬT HÌNH SỰ.
Phân loại theo mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
cấu hình tội phạm phản ánh gồm: cấu hình tội phạm cơ bản, cấu hình tội
phạm tăng nặng và cấu hình tội phạm giảm nhẹ.
Mỗi tội phạm đều có cấu hình tội phạm cơ bản, có thể có một hoặc nhiều
cấu hình tội phạm tăng nặng hoặc cấu hình tội phạm giảm nhẹ.
VD: Điều 108 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội phản bội
Tổ quốc. Khoản 1 Điều 108 BLHS là cấu hình tội phạm cơ bản. Khoản 2
Điều 108 BLHS là cấu hình tội phạm giảm nhẹ.
Điều 141 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội hiếp dâm chỉ
có cấu hình tội phạm cơ bản và cấu hình tội phạm tăng nặng, không có cấu
hình tội phạm giảm nhẹ.

5. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ không có dấu hiệu định tội.
QUỲNH: SAI. Trong cấu thành tội phạm giảm nhẹ sẽ có dấu hiệu định tội
cùng với dấu hiệu định khung giảm nhẹ. Dấu hiệu định tội là dấu hiệu mô
tả tội phạm và cho phép phân biệt tội này với tội khác. Dấu hiệu định
khung giảm nhẹ là những dấu hiệu phản ánh mức độ nguy hiểm cho xã hội
của tội phạm giảm xuống 1 cách đáng kể.

Ví dụ Đ108 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về “tội phản bội
Tổ quốc”. Thì K1 Đ108 nó mô tả các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội
phạm phản quốc cho nên nó sẽ là cấu thành tội phạm cơ bản. Còn sang K2
Đ108, khi xuất hiện thêm các tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt nó sẽ
thấp hơn. Vậy K2 Đ108 đã xuất hiện thêm các dấu hiệu định khung giảm
nhẹ. Cho nên K2 Đ108 sẽ là cấu thành tội phạm giảm nhẹ
Quyên (bổ sung): Cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cấu thành tội phạm mà
ngoài dấu hiệu định tội còn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ
của tính nguy hiểm cho xã hội giảm xuống một cách đáng kể (so với trường
hợp bình thường).

6. Một tội phạm mà trên thực tế chưa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội là
tội phạm có cấu thành hình thức.
PHÁT + B.QUYÊN: Nhận định trên là sai. Vì để xác định tội phạm có
cấu thành hình thức cần dựa trên các yếu tố: khách thể, mặt khách quan,
mặt chủ quan và chủ thể; mà trong đó yếu tố mặt khách quan chỉ có duy
nhất một điều kiện đó là hành vi nguy hiểm xã hội chứ không có điều kiện
gây ra hậu quả gì cho xã hội. Vậy nên không thể dựa vào hậu quả gây
nguy hiểm cho xã hội để xác định đó là tội phạm cấu thành hình thức.
Vd: Điều 169 BLHS 2015 quy định Tội bắt cóc chiếm đoạt tài sản, có
nghĩa người phạm tội chỉ cần thực hiện hành vi về mặt khách quan bao
gồm bắt cóc con tin và đe dọa chiếm đoạt tài sản là đủ cấu thành nên tội
phạm, không cần hậu quả xảy ra

II. BÀI TẬP

Bài tập 1

PHÁT + LY + B.QUYÊN:

A trộm cắp tài sản của B trị giá 70 triệu đồng. Hành vi của A cấu thành tội
trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 173 BLHS và bị Tòa án tuyên phạt 2
năm tù giam.

Anh (chị) hãy xác định:

1. Căn cứ vào Điều 9 BLHS thì loại tội phạm mà A thực hiện là loại
tội gì? Tại sao?
2. Tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu thành tội phạm (CTTP)
vật chất hay CTTP hình thức? Tại sao?
3. Hành vi phạm tội của A thuộc trường hợp CTTP cơ bản, CTTP
tăng nặng hay CTTP giảm nhẹ? Tại sao?
Trả lời:
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS:
“Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ
luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam
giữ hoặc phạt tù đến 03 năm”
Xét thấy hành vi trộm cắp 70 triệu đồng của A có tính chất và mức độ
nguy hiểm không lớn và Tòa án đã tuyên phạt 2 năm tù giam cho A, chiếu
sang loại tội phạm ít nghiêm trọng trong bộ luật này thì khung phạt tù cao
nhất là 03 năm vậy nên đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng.
2. Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một
yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Hành vi nguy hiểm cho xã hội được hiểu là hành vi gây
thiệt hại cho xã hội hoặc tạo ra khả năng gây thiệt hại cho các quan hệ
xã hội được Luật hình sự bảo vệ và được thể hiện dưới dạng hành
động hoặc không hành động. Đối với tội trộm cắp tài sản chưa cần
phải gây ra hậu quả mà chỉ cần có hành vi là đã đủ để cấu thành tội
phạm. Khác với cấu thành tội phạm hình thức, cấu thành tội phạm vật
chất cần dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm, bao
gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.
Do đó ở trong trường hợp này, tội trộm cắp tài sản là tội phạm có cấu
thành tội phạm hình thức.
3. Căn cứ vào Điều 51, 52 của BLHS năm 2015 quy định về các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Có thể thấy, hành vi của A bị truy cứu
trách nhiệm hình sự theo khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 tức là
tội trộm cắp tài sản (tài sản trị giá 70 triệu đồng), không có bất cứ
tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ nào nên hành vi phạm tội của A
thuộc trường hợp cấu thành tội phạm cơ bản.
Bài tập 6
A 15 tuổi 6 tháng đã thực hiện hành vi được quy định tại khoản 3
Điều 260 BLHS. Hãy xác định A có phải chịu TNHS về hành vi của mình
hay không.
(Biết rằng tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
(Điều 260 BLHS) được thực hiện với lỗi vô ý).
MINH SÁNG + SƯƠNG
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 260 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm
2017, người phạm tội thuộc trường hợp này bị phạt tù từ 07 năm đến 15
năm. Như vậy, mức tối đa của khung hình phạt là 15 năm tù, đây thuộc
vào nhóm tội phạm rất nghiêm trọng theo Khoản 3 Điều 9 BLHS 2015
được sửa đổi bổ sung năm 2017. Nhưng căn cứ theo Khoản 2 Điều 12
BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 ta biết được: Người từ đủ 14
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 (A 15 tuổi 6 tháng) chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16
tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản,
tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều sau đây: Điều
143, Điều 150, Điều 151, Điều 170, Điều 171, Điều 173, Điều 178, Điều
248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252, Điều 265, Điều 266, Điều
285, Điều 286, Điều 287, Điều 289, Điều 290, Điều 299, Điều 303, Điều
304. Vì vậy, A chưa đủ 16 tuổi phạm tội do vô ý chỉ chịu trách nhiệm hình
sự về tội đặc biệt nghiêm trọng, mà phạm tội tại Khoản 3 Điều 260 được
sửa đổi bổ sung năm 2017 không nằm trong nhóm các tội đặc biệt nghiêm
trọng được nêu trong Khoản 2 Điều 12 BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung
năm 2017 nên A không phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp
này.

QUỲNH: A không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của


mình. Theo Đ11, K2 Đ12, điểm c khoản 1 Điều 9, K3 Đ 260 BLHS 2015
sửa đổi bổ sung 2017. Theo đó thì A nằm trong độ tuổi từ 14 đến 16 tuổi
sẽ phải chịu trách nhiệm về tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng
do mình gây ra trong các điều được quy định tại K2 Đ12. Nhưng K3 Đ260
cũng thuộc diện là tội rất nghiêm trọng nhưng lại không được quy định
trong các điều của K2 Đ12. Cho nên từ đó thì A cũng không phải chịu
trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Bài tập 7
A là bác sĩ đa khoa có mở phòng mạch riêng. Trong lúc khám bệnh A
đã kê toa thuốc cho bé Hoài Trung (3 tuổi) theo toa của người lớn. Do sơ
suất, A không kiểm tra toa thuốc trước khi trao cho người nhà của bé
Trung. Người nhà của bé Trung đến tiệm thuốc do H đứng bán. H bán
thuốc theo toa của A mặc dù trên toa thuốc có ghi tuổi của bệnh nhân là 3
tuổi. Bé Trung do uống thuốc quá liều nên bị tử vong.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là gì?
2. Hành vi của A đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong vụ án này thuộc
loại nào? Tại sao?
4. Lỗi của A là loại lỗi gì? Tại sao?
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung không? Nếu có là
lỗi gì? Tại sao?
Trả lời:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của A là con người,
cụ thể là bé Hoài Trung (3 tuổi).
2. Hành vi của A đã xâm phạm khách thể trực tiếp là quan hệ
nhân thân.
3. Quan hệ nhân quả kép trực tiếp. Vì dạng quan hệ nhân quả
trong đó có hai hành vi trái pháp luật của A (kê thuốc cho bé
Trung 3 tuổi với toa của người lớn) và của H (bán thuốc theo
toa của người lớn cho bé Trung 3 tuổi) cùng đóng vai trò là
nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội
(gây ra cái chết cho bé Trung).
4. Lỗi của A là loại lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả vì A là người
phạm tội gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng do cẩu
thả nên không thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà
mình gây ra (do sơ suất nên đã kê sai toa cho bé Trung dẫn
đến cái chết của bé Trung). Người phạm tội là A phải thấy
trước và có thể thấy trước hậu quả đó (việc kê sai đơn có thể
dẫn đến chết người, yêu cầu A phải thận trọng nhằm tránh
gây ra những thiệt hại cho xã hội trong hoạt động chuyên
môn, nghề nghiệp của một bác sĩ).
5. H có lỗi trong việc gây ra cái chết của bé Trung.
Trường hợp 1: H đã đọc kỹ đơn thuốc và biết tuổi của bé
Trung nhưng vẫn bán toa kê đơn cho người lớn. Đây là lỗi vô
ý vì quá tự tin. H tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu
quả nguy hại cho xã hội (cái chết của bé Trung), nhưng vì cho
rằng hành vi bán thuốc của người lớn cho trẻ em sẽ không
gây ra hậu quả gì hoặc có thể phòng tránh được nên vẫn thực
hiện và gây ra hậu quả nguy hại đó.
Trường hợp 2: H đã không đọc kỹ đơn thuốc nên không biết
tuổi của bé Trung và bán thuốc theo toa của người lớn cho trẻ
em. Đây là lỗi vô ý phạm tội vì cẩu thả. Như vậy, H đã không
thấy trước hành vi bán thuốc theo toa của người lớn cho trẻ
em là có thể gây ra hậu quả dẫn đến cái chết của bé Trung,
mặc dù H phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả này.

THẢO LUẬN LẦN 3


Deadline: 18/9

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 9, BT 9


2 Lê Tấn Phát NĐ 9, BT 9

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 16, BT 10

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 16, BT10

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 15, BT 10

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 15, BT 10

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 10, BT 11

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 10, BT 11

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 8, BT 11

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 8, BT 11

11 Tiết Như Tiên BT 11, tổng hợp bài

8. Mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp.


Trả lời: Nhận định sai.
Tất cả các tội phạm trong BLHS đều có khách thể trực tiếp. Thông
thường, mỗi tội phạm chỉ có một khách thể trực tiếp. Tuy nhiên, trong
BLHS, một số tội phạm có nhiều khách thể trực tiếp - đó là trường hợp
hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại đến nhiều quan hệ xã hội khác nhau
được Luật Hình sự bảo vệ mà mỗi quan hệ xã hội chỉ thể hiện một phần
bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, phải kết hợp tất cả các quan hệ
xã hội bị tội phạm trực tiếp xâm hại mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ấy.
Ví dụ: hành vi cướp tài sản trực tiếp xâm hại hai đến quan hệ xã hội là
quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Kết hợp cả hai quan hệ xã hội này
mới thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm của Tội cướp tài sản.

9. Mọi tội phạm suy cho cùng đều xâm hại đến khách thể chung.
Trả lời: Nhận định đúng.
Vì khách thể chung của tội phạm là thống nhất đối với tất cả các tội phạm.
Mỗi tội phạm khi xâm hại đến một quan hệ xã hội được luật hình sự bảo
vệ đều xâm hại đến hệ thống quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Do
đó luôn có sự tác động lẫn nhau, vậy nên mỗi hành vi phạm tội, khi xâm
phạm đến bất kỳ quan hệ xã hội cụ thể nào đều trực tiếp hoặc gián tiếp
xâm phạm đến khách thể chung. Bất kể tội phạm nào khi được thực hiện
đều đã xâm phạm đến các mối quan hệ đó. Tất cả các tội phạm có khách
thể chung giống nhau, quy định tại điều 1 và điều 8 bộ luật hình sự 2015,
sửa đổi bổ sung 2017. Vì vậy, suy cho cùng đều xâm phạm đến một khách
thể chung là các quan hệ xã hội được pháp luật Hình sự bảo vệ.

10. Một tội phạm nếu trên thực tế đã làm cho đối tượng tác động của
tội phạm tốt hơn so với tình trạng ban đầu thì không bị coi là gây
thiệt hại cho xã hội.
Trả lời: Nhận định sai.
Mọi hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng
tác động đều gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể của tội
phạm nhưng không phải mọi hành vi phạm tội đều gây thiệt hại cho đối
tượng tác động của tội phạm. Trong nhiều trường hợp hành vi phạm tội
gây thiệt hại cho khách thể của tội phạm nhưng không làm xấu đi tình
trạng của đối tượng tác động so với trước khi bị tác động.
Ví dụ: A lấy trộm xe máy của B. Hành vi này gây thiệt hại cho quyền sở
hữu của của B; làm biến đổi tình trạng bình thường của chiếc xe (đang
trong sự chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của B thì nay nằm trong sự quản
lý của A); nhưng A mang xe về, cất đi và không làm cho xe bị hư hỏng,
còn đem xe đi bảo trì, lúc này tình trạng xe tốt hơn trước, tức là làm cho
đối tượng tác động của tội phạm tốt hơn tình trạng ban đầu.

15. Đối tượng tác động của Tội đua xe trái phép (Điều 266 BLHS) là xe
ôtô, xe máy hoặc các loại xe khác có gắn động cơ.
QUỲNH + M. SÁNG

Đúng

Đối tượng tác động của tội phạm là một bộ phận của khách thể, khi hành
vi phạm tội tác động đến sẽ gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các
quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Như vậy ở Tội đua xe trái phép
khi mà hành vi phạm tội tác động gây thiệt hại thuộc các trường hợp được
quy định tại Điều 266 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì có đối tượng
tác động thuộc loại đối tượng vật chất là xe ô tô, xe máy hoặc các loại xe
khác có gắn động cơ.

16. Mọi xử sự của con người gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã
hội đều được coi là hành vi khách quan của tội phạm.
Trả lời: Nhận định trên sai.
Bởi vì để một hành vi được xem là hành vi khách quan của tội phạm thì
cần phải có đầy đủ các đặc điểm sau:
- Hành vi khách quan của tội phạm phải có tính nguy hiểm cho xã hội
tức là gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội
- Hành vi khách quan của tội phạm phải là hành vi trái pháp luật hình
sự
- Hành vi khách quan của tội phạm là hoạt động có ý thức và có ý chí
Ví dụ: K bị mộng du đã gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 15%,
mặc dù hành vi này có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng lại được thực
hiện trong lúc K không có ý thức (bị mộng du).
Bài tập 9
Chị Y vừa được công ty thương mại X tuyển vào làm thủ quỹ. Biết rõ
việc này, ba tên A, B, C (đã thành niên và đều là thành phần thất nghiệp,
nghiện ngập) đã chặn đường chị Y đòi Y phải giao nộp cho chúng 5 triệu
đồng, nếu không chúng sẽ tố cáo hành vi tham ô mà chị Y đã thực hiện
trước đây ở một cơ quan nhà nước. Lo sợ bị mất việc làm, chị Y đã tự ý
lấy số tiền 5 triệu trong công quỹ của công ty X và giao cho bọn chúng.
Vụ việc bị phát hiện.
Anh (chị) hãy xác định: chị Y có được coi là bị cưỡng bức không?
Nếu có thì là loại cưỡng bức gì và có ảnh hưởng như thế nào đến trách
nhiệm hình sự của Y?
Trả lời:
Chị Y không được coi là bị cưỡng bức và vẫn phải chịu trách nhiệm hình
sự với những hành vi vi phạm pháp luật của mình.
Cưỡng bức gồm cưỡng bức tinh thần và cưỡng bức vật chất. Và hiểu theo
khái niệm thì cưỡng bức về mặt tinh thần là trường hợp một người bị đe
dọa uy hiếp gây thiệt hại đến tính mạng sức khỏe, tài sản hoặc những lợi
ích khác. Người bị cưỡng bức vì sợ thiệt hại nên đã hành động hoặc không
hành động gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Nếu người bị cưỡng bức
hoàn toàn bị tê liệt về ý chí, không còn cách nào khác, buộc phải hành
động theo ý muốn của kẻ cưỡng bức thì không phải chịu trách nhiệm hình
sự.
Ta thấy ở vụ việc trên, ba tên A, B, C đã chặn đường chị Y và đe dọa tố
cáo hành vi tham ô trước đây mà chị đã thực hiện ở cơ quan nhà nước và
điều này đã uy hiếp về mặt tâm lý, tinh thần của chị Y, mặc dù chị bị uy
hiếp, đe dọa về mặt tinh thần nhưng chị chưa hoàn toàn bị tê liệt về mặt
nhận thức cụ thể là chị Y đã lợi dụng chức vụ của mình để tự ý lấy 5 triệu
đồng của công ty X giao cho A, B, C. Vậy chị đã thực hiện hành vi của
mình bằng cách hợp pháp hóa giấy tờ nhằm che giấu đi hành vi tham ô
trước đó của bản thân nên trường hợp của chị Y không thỏa điều kiện của
tình trạng cưỡng bức về tinh thần. Vì vậy, chị Y vẫn phải chịu trách nhiệm
hình sự đối vì hành vi tham ô và tự ý lấy số tiền 5 triệu trong công quỹ của
công ty X.
Bài tập 10
A có nhiệm vụ quản lý và bảo vệ khu rừng của nông trường X. B đã
nhiều lần vào khu rừng trên để chặt trộm cây bạch đàn. Một buổi A bắt
quả tang B đang chặt trộm bạch đàn. A buộc B phải về trụ sở của nông
trường để xử lý theo quy định. B xin tha nhưng A không chấp nhận. Trên
đường trở về trụ sở nông trường, lợi dụng trời tối và đoạn đường khó đi, B
đã dùng rìu chặt cây chém hai nhát vào đầu A làm A té quỵ, B tiếp tục
chém nhiều nhát vào vùng ngực và mặt của A. Khi thấy A nằm bất động B
xách rìu đi về phía rừng. Một lúc sau có người phát hiện và A đã được cứu
sống. Giấy chứng thương ghi nhận A bị thương tật với tỷ lệ 65%. Biết
rằng hành vi của B cấu thành 2 tội: tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội
trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định: B. QUYÊN + T. QUYÊN + QUỲNH + M.
SÁNG
1. Đối tượng tác động và khách thể của tội phạm do B thực hiện.
- Đối tượng tác động do B thực hiện là rừng bạch đàn và A
- Đối với hành vi của B cấu thành hai hai tội : tội giết người (Điều
123 BLHS) và tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS), do đó B đã
trực tiếp xâm phạm đến hai loại quan hệ xã hội sau:
+ Quan hệ nhân thân: quan hệ về tính mạng, sức khoẻ con
người, quyền được bảo vệ tính mạng sức khỏe bởi Nhà nước
của con người. Cụ thể ở đây là B đã phạm phải tội giết người
nên đã xâm phạm đến quyền sống, đến tính mạng của A
+ Quan hệ tài sản: quan hệ về quyền sở hữu, quyền sở hữu tài
sản hợp pháp của công dân được Nhà nước bảo vệ. Cụ thể là
B đã chặt trộm cây bạch đàn ở nông trường X.
Vì vậy khách thể của tội phạm do B thực hiện là quan hệ nhân thân tức là
quyền sống của A và quan hệ tài sản tức là quyền sở hữu cây bạch đàn của
nông trường X.
2. Công cụ phạm tội trong vụ án này là gì? Dấu hiệu công cụ phạm
tội có phải là dấu hiệu định tội của các tội phạm trên hay không?
Tại sao?
Công cụ phạm tội trong vụ án là cái rìu.
Dấu hiệu công cụ phạm tội không là dấu hiệu định tội của các tội phạm
trên.
Trong một cấu thành tội phạm bắt buộc phải có “dấu hiệu bắt buộc”:
Những dấu hiệu sau đây là dấu hiệu bắt buộc:
Quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại (thuộc khách thể của tội
phạm).
Hành vi nguy hiểm cho xã hội (thuộc mặt khách quan của tội
phạm).
Lỗi (thuộc mặt chủ quan của tội phạm).
Năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự
(thuộc chủ thể của tội phạm).
Như vậy có thể thấy công cụ phạm tội không nằm trong nhóm những
dấu hiệu bắt buộc, cụ thể công cụ phạm tội nằm trong nhóm “dấu hiệu
không bắt buộc”. Tuy nhiên, nếu một dấu hiệu thuộc nhóm không bắt
buộc được quy định trong một cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ
thể thì chúng lại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm đó.
Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội. Trong
một số ít trường hợp, công cụ, phương tiện phạm tội là dấu hiệu đặc
trưng của tội phạm, nên được nhà làm luật quy định là dấu hiệu định
tội. Trong nhiều trường hợp, công cụ, phương tiện phạm tội được quy
định là dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng.
Trong vụ án này, công cụ phạm tội là cái rìu không được xem là dấu
hiệu đặc trưng của tội phạm được quy định trong luật, nên không là dấu
hiệu định tội, mà công cụ phạm tội ở đây là là dấu hiệu định khung
hình phạt tăng nặng. Cụ thể, sau khi bị A bắt quả tang, B không cam
chịu việc sẽ bị bắt để xử lý, B lợi dụng trời tối, đường khó đi rồi dùng
rìu chém A, khiến A nằm bất động. Hành vi của B theo điểm đ khoản 2
Điều 173 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 là hành hung để tẩu thoát,
là đây cũng được xem là tình tiết định khung tăng nặng của Tội trộm
cắp tài sản.
3. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của B gây ra?
Loại hậu quả do hành vi phạm tội của B gây ra đó là:
- Thứ nhất, thiệt hại về vật chất bởi vì B đã chặt cây bạch đàn,
làm thiệt hại tài sản của nông trường B
- Thứ hai, thiệt hại về thể chất bởi vì B đã dùng rìu chém vào
đầu A, gây thiệt hại tính mạng và sức khỏe của A.
4. Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A? Tại sao?
Lỗi của B trong việc gây thương tích cho A là lỗi cố ý trực tiếp. Bởi
vì căn cứ theo khoản 1 điều 10 của BLHS 2015 (có sửa đổi bổ sung
2017) quy định:
“ Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho
xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả
xảy ra;
…”
Trong tình huống này B có đủ nhận thức về hành vi nguy hiểm của mình
đó là dùng rìu chém vào đầu A, điều này có thể gây hậu quả nguy hiểm
hoặc có thể làm tổn thương A hoặc có thể gây ra cái chết cho A. Nhưng B
vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra thể hiện ở chỗ B đã dùng rìu chặt cây
chém hai nhát vào đầu A làm A té quỵ, B tiếp tục chém nhiều nhát vào
vùng ngực và mặt của A. Vậy nên lỗi của B là lỗi cố ý trực tiếp.
Bài tập 11
Do mâu thuẫn với mẹ ruột mình (bà Liêu), sau một hồi cãi vã với mẹ,
Trung liền mang can nhựa đi mua 3 lít xăng đem về nhà. Lúc này cháu
Thảo (con gái Trung) đang ngủ trên giường, chị Xuân (vợ Trung) đang bế
đứa con gái 2 tuổi là cháu Vy. Thấy Trung tay cầm can xăng với thái độ rất
hung hăng, chị Xuân liền can ngăn, nhưng Trung gạt chị Xuân ra, vừa
quát: “Tao đốt nhà rồi trả cho bà Liêu”, vừa tưới xăng lên nền nhà và vách
nhà bằng gỗ. Chị Xuân một tay bế con, một tay giật can xăng trên tay
Trung. Tức thì Trung bật quẹt, lửa bùng cháy. Sau đó hàng xóm đến can
ngăn và dập lửa.
Kết quả là cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó. Chị Xuân và
Trung cũng bị bỏng nhưng thoát chết (chị Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ
thương tật là 41%). Một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường,
tủ, bàn ghế) bị cháy, thiệt hại về tài sản là 10 triệu đồng.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung là gì?
- Là con người(cháu Vy, chị Xuân), các đối tượng vật chất( một
phần vách nhà và tài sản trong nhà)
Trả lời (Tiên):
Khái niệm:
- Đối tượng tác động: Khi xâm phạm khách thể bao giờ cũng tác
động đến đối tượng nhất định. Tuy gần gũi với khách thể nhưng
đối tượng tác động của tội phạm khác khách thể. Đối tượng tác
động của tội phạm là những phần trong khách thể của tội phạm
mà khi tác động đến nó người phạm tội gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho khách thể.

Đối tượng tác động của tội phạm bao gồm các dạng sau đây:

- Con người đối với tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự;

- Các vật thể như tài sản, phương tiện thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của con người;

- Sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

=>> Như vậy, ở tình huống trên, cháu Vy, chị Xuân, mọt phần vách
và tài sản trong nhà đều bị thiệt hại. Nên đối tượng tác động của
hành vi phạm tội của Trung là cả con người (cháu Vy, chị Xuân)
và các đối tượng vật chất (một phần vách nhà và tài sản trong
nhà).

2. Hành vi của Trung đã xâm phạm khách thể trực tiếp nào?
Quan hệ nhân thân, quan hệ sở hữu
Trả lời (Tiên):

=>> Ở tình huống trên, hành vi dùng xăng đốt nhà đã làm ảnh
hưởng đến tài sản (một phần vách nhà và tài sản trong nhà), ảnh
hưởng đến sức khỏe của chị Xuân, hơn nữa là làm cháu Vy chết.
Xét thấy, tài sản thiệt hại lên đến 10 triệu, chị Xuân với thương
tật là 41%, cháu Vy mất. Tất cả các thiệt hại này đều thể hiện
được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội. Vậy nên, khách thể
trực tiếp của hành vi phạm tội của Trung vừa là quan hệ nhân
thân (cháu Vy, chị Xuân) và vừa là quan hệ sở hữu (một phần
vách nhà và tài sản trong nhà).

3. Xét về hình thức thể hiện hành vi phạm tội của Trung thuộc
loại nào?
Hành vi phạm tội của Trung thuộc loại hành vi phạm tội hành động
Trả lời (Tiên):
Xét về hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc hoại hành
động phạm tội: hành vi của Trung đã làm biến đổi tình trạng bình thường
của đối tượng tác động (như đã trả lời ở câu 1), gây thiệt hại cho khách thể
qua việc Trung đã làm một việc mà pháp luật cấm. Hành động phạm tội
của Trung đã sử dụng công cụ, phương tiện là xăng và bật lửa.
4. Loại hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra là gì?
Mức độ thiệt hại của mỗi loại hậu quả là như thế nào?
- Thiệt hại về vật chất: tài sản bị mất mát, hư hỏng, hủy hoại
(Một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm giường, tủ, bàn
ghế) bị cháy). Mức độ thiệt hại là 10 triệu đồng.
- Thiệt hại về thể chất: là sự biến đổi tình trạng bình thường
của thực thể tự nhiên của con người (thân thể con người). Ở
đây, ta thấy thiệt hại về thể chất bao gồm:cháu Vy bị bỏng
nặng và chết ngay sau đó. Chị Xuân và Trung cũng bị bỏng
nhưng thoát chết (chị Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật
là 41%). Mức độ thiệt hại: 1 người chết và 1 người bị thương
với tỷ lệ thương tật là 41%.

5. Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội
phạm trong vụ án này. Tại sao?
Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án
này là dạng mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp: chỉ có hành vi trái pháp
luật của Trung (đốt nhà) đóng vai trò là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu
quả hậu quả nguy hiểm cho xã hội (1 người thiệt mạng và 1 người bị
thương ở tỷ lệ thương tật là 41%)

6. Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại trong vụ án trên?
Tại sao?
Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại:
- Thiệt hại về tài sản: Lỗi cố ý trực tiếp.
- Thiệt hại về thân thể: Lỗi vô ý vì quá tự tin.

Trả lời: Thắm


Đối tượng tác động của hành vi phạm tội của Trung:
- Con người (chị Xuân, cháu Vy)
- Đối tượng vật chất: tài sản (một phần vách nhà, tài sản trong
nhà, thiệt hại là 10 triệu đồng).
Hành vi của Trung đã xâm phạm khách thể trực tiếp: quan hệ
sở hữu (hủy hoại tài sản trị giá 10 triệu đồng) và quan hệ
nhân thân (xâm phạm tính mạng của cháu Vy và làm bị
thương chị Xuân)
Xét về hình thức thể hiện, hành vi phạm tội của Trung thuộc
hoại hành động phạm tội: hành vi của Trung đã làm biến đổi
tình trạng bình thường của đối tượng tác động (như đã trả lời
ở câu 1), gây thiệt hại cho khách thể qua việc Trung đã làm
một việc mà pháp luật cấm. Hành động phạm tội của Trung
đã sử dụng công cụ, phương tiện là xăng và bật lửa.
Hậu quả do hành vi phạm tội của Trung gây ra:
- Thiệt hại về vật chất: tài sản bị mất mát, hư hỏng, hủy
hoại (Một phần vách nhà và tài sản trong nhà (gồm
giường, tủ, bàn ghế) bị cháy). Mức độ thiệt hại về tài
sản là 10 triệu đồng.
- Thiệt hại về thể chất: là sự biến đổi tình trạng bình
thường của thực thể tự nhiên của con người (thân thể
con người). Ở đây, ta thấy thiệt hại về thể chất bao
gồm:cháu Vy bị bỏng nặng và chết ngay sau đó. Chị
Xuân và Trung cũng bị bỏng nhưng thoát chết (chị
Xuân bị bỏng nặng với tỷ lệ thương tật là 41%). Mức
độ thiệt hại: 1 người chết và 1 người bị thương với tỷ
lệ thương tật là 41%.
Dạng quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
trong vụ án này là dạng mối quan hệ nhân quả đơn trực tiếp:
chỉ có hành vi trái pháp luật của Trung (đốt nhà) đóng vai trò
là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả hậu quả nguy hiểm
cho xã hội (1 người thiệt mạng và 1 người bị thương ở tỷ lệ
thương tật là 41%)
Lỗi của Trung đối với từng loại thiệt hại:
- Thiệt hại về tài sản: Lỗi cố ý trực tiếp.
- Thiệt hại về thân thể: Lỗi vô ý vì quá tự tin.

THẢO LUẬN LẦN 4


Deadline: 25/9

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 28, BT 12

2 Lê Tấn Phát NĐ 28, BT 12

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 27, BT 12

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 27, BT 12

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 22, BT 14

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 22, BT 14

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 20, BT 14

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 20, BT 14

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 18, BT 16

10 Nguyễn Kim Thụy BT 16, tổng hợp bài

11 Tiết Như Tiên NĐ18, BT 16


18. Hậu quả của tội phạm là dấu hiệu luôn được quy định trong cấu
thành tội phạm cơ bản.
Trả lời: Nhận định sai
Dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm cơ bản gồm: Quan hệ xã hội
bị tội phạm xâm hại( thuộc khách thể của tội phạm), hành vi nguy hiểm
cho xã hội( thuộc mặt khách quan của tội phạm), lỗi( thuộc mặt chủ quan
của tội phạm), năng lực TNHS và tuổi chịu TNHS( thuộc chủ thể của tội
phạm).
Dấu hiệu không bắt buộc gồm: Đối tượng tác động của tội phạm và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả,
các dấu hiệu bên ngoài khác của tội phạm như thời gian, địa điểm, hoàn
cảnh phạm tội, công cụ, phương tiện phạm tội,.....Tuy nhiên, nếu một dấu
hiệu thuộc nhóm không bắt buộc được quy định trong một CTTP của một
tội phạm cụ thể thì chúng lại là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm đó. Ví dụ:
mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của mọi CTTP, nhưng
mục đích chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu được quy định trong tội
khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân( điều 113 BLHS) nên nó là
dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
20. Người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong BLHS thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trả lời: Nhận định sai
- Không phải mọi trường hợp người mắc bệnh tâm thần đều được coi là
không có năng lực TNHS. Chỉ những người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh
khác đến mức độ “làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình” (phải thỏa mãn cả 2 dấu hiệu là y học và tâm lý) thì
mới được coi là không có năng lực TNHS. Khi đó, họ không có đủ dấu
hiệu bắt buộc của chủ thể của tội phạm và không phải chịu TNHS.
- Nếu người bị mắc bệnh tâm thần nhưng vẫn có khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi của mình (ở mức độ hạn chế) thì họ vẫn có
năng lực TNHS. Họ được coi là chủ thể của tội phạm và phải chịu TNHS
về hành vi phạm tội của mình, nhưng ở mức độ TNHS của họ hạn chế hơn
so với những người bình thường khác. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy
định tại điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS: “người phạm tội là người có bệnh
bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình”.

22. Lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với người bị hại.

Sai

Lỗi là thái độ của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

VD: Tại Điều 123 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 về Tội giết
người: đây là lỗi cố ý. Và Điều 128 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung
2017 về Tội vô ý làm chết người: đây là lỗi vô ý.

27. Tuổi chịu TNHS là tiền đề để xác định lỗi của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trả lời: Nhận định trên là sai. Bởi vì ngoài xác định tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thì còn có xác định năng lực chịu trách nhiệm. Năng lực nhận thức
và điều khiển hành vi của con người không thể có ngay từ khi sinh ra mà
được hình thành từng bước, tích lũy theo thời gian. Do đó phải đạt độ tuổi
nhất định con người mới có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được
hành vi của mình, khi đó mới bị coi là có lỗi và chịu trách nhiệm hình sự.
Vì vậy năng lực chịu trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình
mới là tiền đề để xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội.
Ví dụ: Điều 21 BLHS quy định: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
XH trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu
TNHS”.
Ngoài ra, theo điều 12 Bộ luật hình sự 2015 (có sửa đổi bổ sung) quy định
tuổi chịu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại
một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170,
171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299,
303 và 304 của Bộ luật này.”
28. Trong mọi trường hợp sai lầm về pháp luật, người thực hiện hành
vi không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trả lời: Nhận định sai.
Theo Bộ luật hình sự 2015, sai lầm về pháp luật là sự hiểu lầm của chủ thể
về tính chất pháp lý và hành vi của mình gồm các khả năng sau:
- Thứ nhất, người có hành vi có tính gây thiệt hại hiểu lầm hành vi
của mình là hành vi phạm tội nhưng thực tế luật không quy định
hành vi đó là tội phạm. Trường hợp này là trường hợp không có
hành vi phạm tội và vấn đề trách nhiệm hình sự không được đặt ra.
- Thứ hai, người có hành vi có tính gây thiệt hại cho rằng hành vi của
mình không phải là hành vi phạm tội nhưng thực tế luật quy định
hành vi đó là tội phạm. Trong trường hợp này, người thực hiện hành
vi có tính gây thiệt hại vẫn có lỗi nếu họ nhận thức được hoặc có thể
nhận thức được tính gây thiệt hại cho xã hội của hành vi của mình
vì dấu hiệu có lỗi không đòi hỏi chủ thể phải nhận thức được tính
trái pháp luật hình sự của hành vi.

Bài tập 12
Ngày 14/2, khi đang đi xe máy trên đường thì A phát hiện chị X có
đeo sợi dây chuyền trên cổ nên A nảy sinh ý định chiếm đoạt. A chạy xe
đến gần chị X và nhanh tay giật sợi dây chuyền trên cổ chị X rồi bỏ chạy.
Do bị giật bất ngờ nên chị X bị mất thăng bằng, té đập đầu xuống đất dẫn
đến chấn thương sọ não và tử vong.
(Biết rằng: Hành vi cướp giật tài sản nêu trên thuộc trường hợp
được quy định tại Khoản 4 Điều 171 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện?
2. Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp nào?
3. Loại hậu quả của hành vi phạm tội do A thực hiện?
4. Thái độ tâm lý đối với hành vi cướp giật tài sản và gây ra cái
chết cho nạn nhân của A trong vụ án này có phải trường hợp
“hỗn hợp lỗi” hay không? Tại sao?
Trả lời:
1. Đối tượng tác động của hành vi phạm tội do A thực hiện là: sợi dây
chuyền và cơ thể của chị X.
2. Hành vi của A đã xâm phạm đến khách thể trực tiếp là tính mạng và
quyền sở hữu tài sản của chị X mà ở đây cụ thể là sợi dây chuyền.
3. Loại hậu quả của hành vi phạm tội do A thực hiện là thiệt hại về thể
chất và vật chất. Ở vụ án trên, chị X đã bị giật mất sợi dây chuyền
(thiệt hại về vật chất) và do bị giật bất ngờ nên chị đã té đập đầu
xuống đất dẫn đến chấn thương sọ não và tử vong (thiệt hại về thể
chất).
4. Thái độ tâm lý đối với hành vi cướp giật tài sản và gây ra cái chết
cho nạn nhân của A trong vụ án thuộc trường hợp “hỗn hợp lỗi”.
“Hỗn hợp lỗi” là trường hợp trong cấu thành tội phạm có hai loại lỗi
(cố ý và vô ý) được quy định đối với những tình tiết khách quan
khác nhau.
+ A có lỗi cố ý đối với những thiệt hại về mặt vật chất. Vì A
nhận thức rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm, thấy trước
được hậu quả là chị X bị xâm phạm đến quyền sở hữu, thiệt
hại về mặt vật chất là sợi dây chuyền nhưng A mong muốn
cho hậu quả đó xảy ra. Như vậy theo điều 10, Bộ luật hình sự
2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì lỗi của Trung đối với những
thiệt hại về mặt vật chất là lỗi cố ý.
+ Thái độ của A đối với việc làm cho chị X chết là lỗi vô ý. Bởi
A không lường trước được việc chị X bị mất thăng bằng, té
đập đầu xuống đất dẫn đến chấn thương sọ não và tử vong.
Như vậy theo Điều 11 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung
2017 thì lỗi của Trung đối với những thiệt hại về mặt thể chất
của chị X là lỗi vô ý.

Bài tập 14
Trong một lần đi chơi, A (học sinh lớp 9 Trường THCS T) nảy sinh
tình cảm với B, cô nữ sinh lớp 8 của một trường khác. Trong thời gian
quen nhau, nhiều lần nghe B kể X là người yêu cũ của B hay nhắn tin với
cô để mong nối lại tình cảm. Do ghen tuông, A quyết định tìm X đánh dằn
mặt. Trước khi đi, A chuẩn bị một con dao nhọn. Đến trước cổng trường
của bạn gái, do không biết mặt của X nên khi thấy một nam sinh lớp 10
cùng B đi ngang qua, A nghĩ là X nên xông vào đánh và rút dao đâm hai
nhát ngay tim làm nạn nhân chết tại chỗ. Tuy nhiên nạn nhân không phải
là X.
(Biết rằng hành vi của A cấu thành tội giết người tại Khoản 2 Điều
123 BLHS)
Anh (chị) hãy xác định:
1. Đối tượng tác động và khách thể bị xâm phạm trong vụ án trên;
- Đối tượng tác động: con người (nam sinh lớp 10 đi cùng B)
- Khách thể bị xâm phạm: quan hệ nhân thân (xâm phạm
quyền sống của nam sinh lớp 10 theo Điều 19 Hiến Pháp
2013)
2. Trong trường hợp trên có sai lầm thực tế hay không? Nếu có thì đó
là sai lầm nào? Tại sao?
- Trong trường hợp trên có sai lầm thực tế, đây là sai lầm về
đối tượng. A không có sai lầm về khách thể dự định xâm hại
ban đầu là tính mạng của X, mà tác động vào một đối tượng
khác với đối tượng dự định tác động. Cụ thể, A định giết X
nhưng đã giết nhầm nam sinh lớp 10 vì tưởng nam sinh lớp
10 là X. Người phạm tội trong trường hợp này không có sai
lầm về khách thể nhưng có sai lầm về đối tượng tác động (X
hay nam sinh lớp 10).
3. Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm trong vụ án
này thuộc dạng nào? Tại sao?
- Quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm
trong vụ án này thuộc dạng mối quan hệ nhân quả đơn trực
tiếp vì chỉ có một hành vi trái pháp luật của A (rút dao đâm
hai nhát vào tim nạn nhân) đóng vai trò là nguyên nhân trực
tiếp gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội (làm chết người).

Bài tập 16
Vì muốn giết người có bất đồng với mình A đã nghiên cứu lịch và nơi
sinh hoạt của B. A quan sát thấy trên giường B thường nằm có người đang
ngủ. A lẻn vào nhà dùng dao găm đâm nhiều nhát liên tiếp, nhưng không
thấy B phản ứng. Giám định pháp y xác định B đã chết trước đó vì một
cơn đau tim.
Anh (chị) hãy xác định:

1. A có phạm tội hay không?


Trả lời: A có phạm tội. Căn cứ vào khoản 1 Điều 10 BLHS 2015
sửa đổi bổ sung 2017. Dù biết trước được việc giết người là vi
phạm pháp luật nhưng A vẫn quyết tâm lên kế hoạch từ trước,
chuẩn bị dụng cụ gây án, đến nơi thực hiện hành vi giết người
nên A đã phạm tội chưa đạt theo Điều 15 BLHS 2015 sửa đổi bổ
sung 2017 và phải chịu trách nhiệm hình sự về phạm tội chưa
đạt.

2. Bạn dùng lý thuyết nào sau đây để xác định về trách nhiệm đối
với A:
- Lý thuyết về quan hệ nhân quả;
- Lý thuyết về sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến trách nhiệm hình
sự.
Trả lời:

Dùng Lý thuyết về sai lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến trách nhiệm
hình sự.

Lý thuyết để xác định về trách nhiệm đối với A là lý thuyết về sai


lầm và ảnh hưởng của sai lầm đến trách nhiệm Hình Sự. Ở đây, A đã
sai lầm về khách thể. Khách thể của hành vi của A là tính mạng của
B và đối tượng là B còn sống. Nhưng cuối cùng hành vi của A lại
không đạt được vì B đã chết trước đó dẫn đến việc A sai lầm khi tấn
công tử thi. Tuy nhiên, dù sai lầm nhưng A sẽ vẫn chịu trách nhiệm
Hình Sự về tội mà mình định phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Nếu B
không chết trước đó thì hành vi của A đã hoàn toàn trở thành tội giết
người.
LẦN 5

Deadline: 16/10

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 1, BT 6

2 Lê Tấn Phát NĐ 1, BT 6

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 2, BT 4

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 2, BT 4

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 4, BT 4

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 4, BT 2

7 Trương Thị Thu Sương BT 2, tổng hợp bài

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 3, BT 2

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 3, BT 2

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 5,BT 2

11 Tiết Như Tiên NĐ 5, BT 2


B. TRẮC NGHIỆM

Hãy xác định các các nhận định sau đúng hay sai? Tại sao?
1.Mọi trường hợp biểu lộ ý định phạm tội đều không bị xử lý theo pháp luật hình sự.
Trả lời: Nhận định sai.
Về nguyên tắc, biểu lộ ý định phạm tội không phải là 1 giai đoạn thực hiện tội phạm, cho nên
không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt tuy chỉ
mới là biểu lộ ý định phạm tội nhưng chúng đã mang tính nguy hiểm đáng kể cho xã hội nên
Luật hình sự quy định thành một tội độc lập và người biểu lộ ý định vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự như bình thường. Đây là những trường hợp biểu lộ ý định phạm tội được thể
hiện dưới hình thức “đe dọa” những khách thể rất quan trọng như an ninh quốc gia, tính mạng
con người.
Ví dụ: Điều 133 BLHS 2015, SĐBS 2017 quy định về tội đe dọa giết người.
2. Tội phạm có cấu thành tội phạm hình thức thì không có giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Trả lời: Nhận định sai.
Bởi vì căn cứ theo Điều 15 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định:
“Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những
nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.”
Theo đó, trong cấu thành tội phạm hình thức mà quy định nhiều hành vi khách quan thì chưa
thực hiện tội phạm đến cùng tức là chưa thực hiện hết hành vi được mô tả trong cấu thành tội
phạm vì những nguyên nhân ngoài ý muốn thì đó được coi là tội phạm chưa đạt.
Ví dụ: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS 2015) là tội phạm có CTTP hình
thức về mặt khách quan bao gồm: hành vi bắt cóc con tin, hành vi đe dọa chỉ tài sản nhằm
chiếm đoạt tài sản. Nếu người phạm tội chỉ mới thực hiện hành vi bắt cóc con tin mà đã bị bắt
giữ thì trường hợp này ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
3.Thời điểm tội phạm hoàn thành là thời điểm hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt
trên thực tế.
Trả lời: Nhận định sai.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả
trong cấu thành tội phạm, và khi đó nó đã phản ánh được đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã
hội của loại tội phạm đó.
Thời điểm tội phạm hoàn thành phụ thuộc vào cấu trúc pháp lý của cấu thành tội phạm được
nhà làm luật quy định trong Luật Hình Sự, vào việc mô tả các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm trong quy phạm cụ thể của phần các tội phạm chứ không phải là thời điểm hành vi
phạm tội đã thực sự chấm dứt trên thực tế.
- Đối với những tội có cấu thành tội phạm vật chất: tội phạm được coi là
hoàn thành khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu trong cấu thành
tội phạm xảy ra.
- Đối với những tội có cấu thành tội phạm hình thức: thời điểm tội phạm
hoàn thành của tội phạm được xác định là thời điểm người phạm tội thực
hiện hết các hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm.
Thời điểm mà hành vi phạm tội đã thực sự chấm dứt trên thực tế là thời điểm tội phạm kết
thúc. Thời điểm tội phạm hoàn thành và thời điểm tội phạm kết thúc có thể trùng nhau hoặc
không trùng nhau.

4.Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là trường hợp không bị coi là tội phạm.
Sai. Theo Điều 16 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 có quy định:
“Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy
không có gì ngăn cản.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định
phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của mỗi tội khác, thì người đó
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.”
Ví dụ: A định giết B nên A đã mua 1 khẩu súng để giết B, mua xong A cảm thấy hối hận nên
không muốn giết B nữa. Thì trong trường hợp này A được miễn trách nhiệm hình sự về tội
giết người nhưng A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép vũ khí quân dụng
(Điều 304 BLHS).
Với lại người được miễn trách nhiệm hình sự là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng
không phải chịu trách nhiệm pháp lý do hành vi đó gây ra khi có đủ những căn cứ và điều
kiện do Luật hình sự quy định. Như vậy thì người được miễn trách nhiệm hình sự vẫn là
người phạm tội nhưng do chính sách khoan hồng, nhằm khuyến khích những người đã thực
hiện tội phạm mà biết tự mình dừng lại ở những thời điểm có ý nghĩa tránh gây ra những thiệt
hại đáng tiếc cho xã hội của Nhà nước nên không phải chịu trách nhiệm pháp lý.

5. Mọi trường hợp có từ hai người bất kỳ trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm là
đồng phạm.
Nhận định sai:
Căn cứ theo Khoản 1 Điều 17 thì: “đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng
thực hiện một tội phạm”. “Hai người trở lên” ở đây phải là những người đủ điều là chủ thể
của tội phạm bao gồm người có năng lực chịu trách nhiệm hình và là người đạt đến độ tuổi do
luật định.
Ví dụ: Thuê em bé 12 tuổi để đưa thuốc phiện qua biên giới, ở đây em bé 12 tuổi chưa đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 BLHS 2015 sửa đổi 2017, nên không
được coi là đồng phạm.

Thêm nữa, nếu có nhiều người thực hiện tội phạm tại cùng một địa điểm, trong cùng một thời
điểm, những giữa họ không có sự liên kết với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau để cùng thực
hiện một tội phạm thì những người này không phải là đồng phạm mà chỉ là những trường hợp
phạm tội đơn lẻ.
C. BÀI TẬP
Bài tập 2
Trường, Hiếu, Ngọc là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp. Biết nhà ông Bằng có
nhiều tiền do trúng xổ số, bọn chúng bàn cách lấy trộm. Theo kế hoạch Hiếu và Ngọc đã tẩm
thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng.
Tối hôm đó, Trường, Hiếu, Ngọc mang theo dụng cụ đến phục kích ở sau vườn nhà ông
Bằng. Vì nhà đông người nên chúng rút lui. Tối hôm sau, theo hẹn Trường, Hiếu đến điểm
phục kích còn Ngọc thì không đến. Không thấy Ngọc đến, Hiếu đã đến nhà Khiêm rủ Khiêm
tham gia.
Đến nửa đêm khi gia đình ông Bằng ngủ say. Hiếu đứng ngoài canh gác, Trường và Khiêm
vào cạy tủ. Nghe tiếng động ông Bằng thức dậy. Bị lộ, cả bọn bỏ chạy, sau đó bị dân phòng
bắt được.

- Hiếu + Ngọc giết chó:


+ Gía trị chó dưới 2tr đồng và không thuộc các trường hợp quy định
khoản 1 Điều 178 BLHS: người giúp sức về vật chất
+ Giá trị chó trên 2tr đồng: người thực hành trong việc giết chó và
người giúp vật chất trong vụ trộm
- Hiếu rủ Khiêm: Hiếu là người xúi giục
- Ngọc không đến
- Hiếu canh: người giúp sức
- Trường + Khiêm cạy tủ: người thực hành

- Trường + Hiếu + Khiêm: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành (trộm)
- Hiếu: phạm tội hoàn thành (giết chó)
- Ngọc: tội phạm hoàn thành (giết chó, chó trên 2tr)
+ Trộm: nếu lo sợ phát hiện → giai đoạn chuẩn bị phạm tội/ nếu bệnh
→ phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong vụ án trên có đồng phạm không? Nếu có hãy xác định vai trò của mỗi người trong
đồng phạm.
Trả lời: Trong vụ án trên có đồng phạm (căn cứ theo khoản 1 Điều 17 BLHS 2015, sửa đổi,
bổ sung 2017). Căn cứ theo khoản 3 Điều 17 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 thì vai trò
của mỗi người trong đồng phạm:
- Đối với tội trộm cắp:
+ Hiếu là người giúp sức về vật chất: khắc phục trở ngại để người thực
hiện tội phạm thuận lợi, dễ dàng hơn bằng cách tẩm thuốc độc vào
thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng. Thêm vào đó, Hiếu còn
đứng ngoài canh gác để Trường và Khiêm vào cạy tủ. Bên cạnh đó,
Hiếu còn là người xúi giục (Hiếu xúi giục Khiêm tham gia vào vụ
trộm).
+ Ngọc là người giúp sức về vật chất: khắc phục trở ngại để người
thực hiện tội phạm thuận lợi, dễ dàng hơn bằng cách tẩm thuốc độc
vào thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng.
+ Trường và Khiêm là người thực hành: Trường và Khiêm vào cạy tủ
nhà ông Bằng.
- Đối với tội hủy hoại tài sản (nếu giá trị của hai con chó thỏa Điều 178
BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017): Hiếu và Ngọc là người thực hành (tẩm
thuốc độc vào thức ăn giết chết hai con chó nhà ông Bằng).
2. Xét về dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?
Xét về dấu hiệu chủ quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là đồng phạm có thông mưu
trước vì trước đó giữa những người đồng phạm đã có sự thỏa thuận, bàn bạc trước với nhau
về tội phạm cùng thực hiện. Cụ thể ở đây là Ngọc và Hiếu đã được phân công giết chó để
việc trộm cắp diễn ra thuận lợi hơn. Sau đó, khi thực hiện việc trộm cắp thì Hiếu được phân
công đứng ngoài canh gác để Trường và Khiêm vào cạy tủ.
3. Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại nào?
Xét về dấu hiệu khách quan, hình thức đồng phạm trong vụ án này là loại đồng phạm phức
tạp vì trong đó có một hoặc một số người tham gia giữ vai trò là người thực hành còn những
người đồng phạm khác giữ vai trò tổ chức, xúi giục hay giúp sức. Cụ thể người thực hành,
người xúi giục và người giúp sức đã được phân tích ở câu (1).
4. Những người trên phạm tội ở giai đoạn nào? Tại sao?

- Đối với tội trộm cắp:


+ Trường, Hiếu, Khiêm: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành vì nguyên nhân
khách quan là bị lộ do ông Bằng thức dậy nên mới không thực hiện được
hết các hành vi để gây ra hậu quả của tội phạm.
+ Ngọc: nếu Ngọc tự nguyện và dứt khoát chấm dứt việc phạm tội thì
Ngọc ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội. Nếu vì lý do khách quan mà không thể
tiếp tục hành vi phạm tội thì Ngọc ở giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành.
- Đối với tội giết chó (trong trường hợp giết chó bị cấu thành tội phạm Hủy
hoại tài sản theo Điều 178 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017)
+ Ngọc, Hiếu ở giai đoạn phạm tội hoàn thành vì hành vi phạm tội đã
thỏa mãn hết các các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm
Hủy hoại tài sản (đã giết chết hai con chó).
5. Ngọc có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không? Tại sao? Nếu:
a. Ngọc không đến vì lo sợ bị phát hiện;
Căn cứ theo Điều 16 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì Ngọc được coi là tự ý nửa chừng
chấm dứt việc phạm tội vì không có khách quan nào cản trở. Đối với tội trộm cắp tài sản thì
Ngọc đang ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, như đã phân tích ở câu (4); việc chấm dứt thực
hiện tội phạm là tự nguyện và dứt khoát.
b. Ngọc không đến vì bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện.
Căn cứ theo Điều 16 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì Ngọc trong trường hợp này không
được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì việc không đến của Ngọc nguyên nhân
do Ngọc bị bệnh phải đi cấp cứu ở bệnh viện, đây là lý do khách quan đã ngăn cản việc thực
hiện hành vi phạm tội đến cùng của Ngọc
6. Tình huống trên có phải là trường hợp phạm tội có tổ chức không? Tại sao?
Tình huống trên là trường hợp phạm tội có tổ chức căn cứ vào khoản 2 Điều 17 BLHS 2015
sửa đổi bổ sung 2017 vì ở đây có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm thông qua
việc phân công nhiệm vụ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (cụ thể ở đây là Ngọc và
Hiếu đã được phân công giết chó để việc trộm cắp diễn ra thuận lợi hơn. Sau đó, khi thực
hiện việc trộm cắp thì Hiếu được phân công đứng ngoài canh gác để Trường và Khiêm vào
cạy tủ), có sự tính toán, chuẩn bị kĩ càng chu đáo cho việc thực hiện tội phạm (tính toán trước
việc giết chó và canh gác để dễ dàng thực hiện tội phạm).

Bài tập 4
Vì mâu thuẫn cá nhân, A lên kế hoạch giết B sau khi nghiên cứu lịch sinh hoạt của B. Lựa
chọn địa điểm và thời gian thích hợp, A quyết định ra tay. B trên đường trở về nhà sau khi đi
chơi với bạn gái về vào lúc 22h thì A canh sẵn ở vị trí lựa chọn và bắn vào B. Do trời tối, ánh
sáng đèn phố không đủ sáng nên B không trúng đạn. Sau phát bắn không thành đó, A mang
súng về không muốn giết B nữa.
Anh (chị) hãy xác định:
1.Hành vi của A có đủ điều kiện về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội giết người không?
2. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người không? (biết rằng hành vi giết người
được quy định tại Điều 123 BLHS).
3. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng vũ khí trái phép không? (biết rằng hành
vi sử dụng trái phép vũ khí quân dụng được quy định tại Điều 304 BLHS)
Trả lời:
1. Việc xác định hành vi của A có phải là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
giết người thì cần có đủ các điều kiện:
- Về giai đoạn: ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt chưa hoàn
thành. Trong tình huống trên:
+ Thứ nhất, A đã lên kế hoạch giết B bằng việc nghiên cứu lịch trình sinh
hoạt của B, lựa chọn địa điểm thích hợp để ra tay và A dùng súng để bắn B
nên cũng đã chuẩn bị vũ khí là súng. Căn cứ theo Điều 14 Bộ luật hình sự
2015 (có sửa đổi bổ sung 2017) đã cho thấy đây là giai đoạn chuẩn bị
phạm tội
+ Thứ hai, phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành tức là người phạm tội vì
những nguyên nhân khách quan chưa thực hiện hết các hành vi cho là cần
thiết để gây ra hậu quả của tội phạm; còn chưa đạt đã hoàn thành tức là
người phạm tội đã thực hiện được hết các hành vi cho là cần thiết để gây
ra hậu quả nhưng do nguyên nhân ngoài ý muốn hậu quả vẫn không xảy
ra. Ở đây A đã canh sẵn vị trí lựa chọn và đã bắn vào B nhưng do trời tối,
ánh sáng không đủ nên B không trúng đạn, vậy có thể thấy A đã bắn B rồi,
đồng nghĩa với việc A đã thực hiện hết hành vi phạm tội nhưng vì lý do
khách quan đó là trời tối, ánh sáng không đủ dẫn đến B không trúng đạn.
Cho nên tình huống này thuộc loại phạm tội chưa đạt đã hoàn thành.
=> Hành vi của A không đạt điều kiện về giai đoạn .
- Tự nguyện: tức việc chấm dứt phạm tội là do động lực bên trong, không phải do
nguyên nhân bên ngoài chi phối. Trong trường hợp này A mang súng về không
muốn giết B là vì A bắn không trúng B chứ không phải động lực bên trong thúc
đẩy A không muốn giết B nữa cho nên hành vi của A không đạt điều kiện tự
nguyện.
- Dứt khoát là việc dừng việc phạm tội phải thể hiện sự từ bỏ hẳn ý định phạm
tội mà A cũng đã dừng hẳn ý định muốn giết B nên hành vi của A đạt điều kiện
dứt khoát.
Vậy trong tình huống trên hành vi của A đã không thỏa điều kiện là phạm tội chưa
đạt chưa hoàn thành (cụ thể A phạm tội chưa đạt đã hoàn thành) và điều kiện tự
nguyện. Vậy nên hành vi của A không có đủ điều kiện về tự ý chấm dứt nửa chừng
việc phạm tội giết người
2. A vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người. Bởi vì:
- Căn cứ theo Điều 15 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định:
“Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện phạm tội nhưng không thực hiện đến
cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về phạm tội chưa
đạt”
Đối với hành vi của A thì A đã cố ý muốn giết B nhưng vì nguyên nhân trời
tối, ánh sáng đèn phố không đủ sáng nên B không trúng đạn. Điều này cho
thấy A đã phạm tội chưa đạt
- Căn cứ theo Khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy
định:
“ Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có
quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng
hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”
Với hành vi cố ý giết người của A căn cứ theo Điều 123 thì bị phạt từ 12
đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình khi đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Nhưng vì hành vi của A là phạm tội chưa đạt nên mức hình phạt không quá
ba phần tư mức phạt tù đối với tội giết người. Vậy nên A vẫn phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người.

3. Theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015 (có sửa đổi bổ sung 2017) quy
định:

“Điều 304. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự
1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc
chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01
năm đến 07 năm.…”

Đối với hành vi của A thì A đã tàng trữ và sử dụng trái phép vũ khí quân dụng
đó là súng, vậy nên A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng và tàng trữ
vũ khí quân dụng trái phép.

Bài tập 6
A và B cùng thống nhất rủ nhau đi dọc phố tìm cơ hội để trộm cắp xe gắn máy. Nhân lúc ông
C để xe bên lề đường vào mua báo, A và B dùng khóa vạn năng nhanh chóng mở khóa để lấy
xe của ông C thì bị bắt giữ.
(Biết rằng hành vi này được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định:
1. Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn nào?
2. Nếu A (17 tuổi), B (15 tuổi) thì A và B có đồng phạm hay không? Tại sao?
Trả lời:
1. Hành vi phạm tội của A, B thực hiện ở giai đoạn phạm tội chưa đạt căn cứ tại
Điều 15 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Theo đó A, B cố ý thực hiện
hành vi mở khoá nhằm mục đích lấy xe của ông C nhưng không thực hiện được
đến cùng vì hành vi phạm tội đó bị ông C phát hiện và bắt giữ A và B.
2. A và B không là đồng phạm. Vì đồng phạm phải là những người đủ điều kiện là
chủ thể của tội phạm bao gồm người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự và là
người đạt đến độ tuổi luật định.
Và trong trường hợp trên nếu ta xét theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật
hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
Điều 173. Tội trộm cắp tài sản
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06
tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169,
170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi
phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

Đối với B do mới 15 tuổi và tội trộm cắp tài sản là tội phạm ít nghiêm trọng nên B
không phải chịu trách nhiệm hình sự vì không thỏa về mặt chủ thể (căn cứ vào
Điều 12, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017). Vì thế B không là đồng
phạm.

Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự


1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Còn A (17 tuổi) với vai trò là người tổ chức và trực tiếp thực hiện hành vi phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi trộm cắp tài sản của mình.
LẦN 6
Deadline: 13h ngày 18/11

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 29, BT 13

2 Lê Tấn Phát BT 13, Tổng hợp bài

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 29, BT 13

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 21, BT 10

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 21, BT 10

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 17, BT 10

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 17,BT 10

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 19, BT 12

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 19, BT 12

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 14,BT 12

11 Tiết Như Tiên NĐ 14 , BT 12

14. Bàn bạc thỏa thuận trước về việc cùng thực hiện tội phạm là dấu hiệu bắt buộc của
đồng phạm.
Nhân định sai
Vì phân loại theo dấu hiệu chủ quan thì đồng phạm được chia làm hai loại là: đồng phạm có
thông mưu trước và đồng phạm không có thông mưu trước.
Trong đó, đồng phạm không có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó không có
sự thoả thuận, bàn bạc trước với nhau về tội phạm mà họ cùng thực hiện. Việc đồng phạm có
thông mưu trước hay không thông mưu trước chỉ là dấu hiệu chủ quan để phân chia đồng
phạm. Như vậy, bàn bạc và thỏa thuận trước không phải là dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm.
Dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm gồm 3 điều kiện:
- Số lượng người tham gia phải gồm hai người trở lên, cùng tham gia thực hiện tội phạm.
- dấu hiệu hoạt động chung;
- dấu hiệu lỗi cố ý.

17. Người thực hành chỉ là người tự mình thực hiện hành vi phạm tội.
Sai.
Theo khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định: người thực hành
là người trực tiếp thực hiện tội phạm”. Trong khoa học cũng như thực tiễn, người trực tiếp
thực hiện tội phạm được hiểu ở hai dạng sau:
- Người thực hành là người tự mình trực tiếp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hành vi được
mô tả trong cấu thành tội phạm.
-Người thực hành là người không tự mình trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu
thành tội phạm mà có hành vi cố ý tác động đến người khác để người này thực hiện hành vi
được mô tả trong cấu thành tội phạm. Nhưng bản thân người bị tác động đã thực hiện hành vi
đó lại không phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với người đã tác động vì: họ là người không
có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự; họ không có lỗi
hoặc có lỗi vô ý do cẩu thả; họ được loại trừ trách nhiệm hình sự do bị cưỡng bức về thân thể
hoặc tinh thần.

19. Giúp sức để kết thúc tội phạm vào thời điểm sau khi tội phạm hoàn thành là đồng
phạm.
Nhận định đúng.
Hành vi giúp sức thường được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện
tội phạm. Cũng có khi hành vi giúp sức được tiến hành khi tội phạm đang được thực hiện
nhưng chưa kết thúc. Căn cứ vào khoản 3 Điều 17 BLHS 2015 thì: “Người giúp sức là người
tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm”. Giúp sức để kết thúc tội
phạm tức là được tiến hành trước khi tội phạm kết thúc. Đây là điều kiện để hành vi giúp sức
của người giúp sức trở thành đồng phạm.
21. Đồng phạm phức tạp là phạm tội có tổ chức.
Trả lời: Nhận định sai.
Đồng phạm phức tạp là 1 hình thức đồng phạm, trong đó có một hoặc một số người tham gia
giữ vai trò người thực hành, còn những người đồng phạm khác giữ vai trò tổ chức, xúi giục
hay giúp sức.
Còn phạm tội có tổ chức được quy định tại Khoản 2 Điều 17 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung
2017 quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa
những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vậy, phạm tội có tổ chức trước hết phải thỏa
mãn tất cả các dấu hiệu bắt buộc của đồng phạm và còn phải có “sự câu kết chặt chẽ” giữa
những người đồng phạm. Với đặc điểm trên thì phạm tội có tổ chức luôn là hình thức đồng
phạm có thông mưu trước.
Thông thường, phạm tội có tổ chức là đồng phạm phức tạp, những vẫn có trường hợp phạm
tội có tổ chức là đồng phạm giản đơn
29. Phạm tội do phòng vệ quá muộn là phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng.
Trả lời: Nhận định sai.
Bởi vì căn cứ theo khoản 2 Điều 22 Bộ luật hình sự 2015 (có sửa đổi bổ sung 2017) quy định
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Trong khi đó
phòng vệ quá muộn là khi sự tấn công đã thực sự chấm dứt mới có hành vi phòng vệ. Tức sự
tấn công không còn hiện hữu nên không thỏa mãn điều kiện thứ ba trong số ba điều kiện làm
phát sinh quyền phòng vệ, đó là sự tấn công đang hiện hữu: đang xảy ra hoặc đe dọa xảy ra
ngay tức khắc, trong trường hợp này quyền phòng vệ không khởi phát. Một khi quyền phòng
vệ không khởi phát thì không thể xem xét hành vi đó là phòng vệ chính đáng hay là vượt quá
giới hạn cho phép.
BÀI TẬP
Bài tập 10
A, B, C là một nhóm thanh niên có nhiều tiền án, tiền sự. Chúng đã thống nhất kế hoạch hành
động là đột nhập vào nhà của một người để lấy trộm chiếc xe máy trị giá 50 triệu đồng. Theo
sự phân công, A đứng ngoài cảnh giới, trong lúc gia đình chủ nhà ngủ say B và C lẻn vào lấy
chiếc xe máy. B và C bị phát giác, cả gia đình chủ nhà hô hoán đuổi bắt. Cả hai chạy ra cửa
thì bị con trai chủ nhà giữ C lại. Sẵn có dao trong người, C đâm chết anh thanh niên đó. A và
B thì chạy thoát.
Biết rằng trong vụ án này có hai tội phạm là tội giết người (Điều 123 BLHS) và tội trộm cắp
tài sản (Điều 173 BLHS); tội giết người quy định dấu hiệu hậu quả chết người là dấu hiệu bắt
buộc.
Anh (chị) hãy xác định:
1.Có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản không? Nếu có thì mỗi người thực hiện tội phạm
với vai trò nào, mức độ trách nhiệm ra sao?

Căn cứ theo Khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm
2017 có quy định về đồng phạm cụ thể như sau:

“1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội
phạm.”

-Có đồng phạm trong tội trộm cắp tài sản. Vì ở đây có 3 người A, B, C
đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Có dấu hiệu hành vi cùng thực hiện
1 tội phạm hay nói cách khác là có dấu hiệu hoạt động chung. Hành vi của mỗi
người đồng phạm được thực hiện trong sự liên kết với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho
nhau. Hành vi đồng phạm của người này tạo điều kiện thuận lợi cho hành vi của
người đồng phạm kia. Hành vi của mỗi người đồng phạm nó là 1 mắt xích trong
quá trình thực hiện tội phạm chung. Có dấu hiệu lỗi cố ý.

-Vai trò thực hiện tội phạm:

+B, C là người thực hành thông qua hành vi khách quan đó là hành vi lẻn
vào nhà lấy chiếc xe.

+A là người giúp sức thông qua hành vi đứng ngoài canh gác.

- Tất cả những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự chung về
toàn bộ tội phạm đã xảy ra. Việc xác định trách nhiệm hình sự cho mỗi người
đồng phạm vẫn phải dựa trên cơ sở hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ và nhân thân của mỗi người đồng phạm. Nhưng người thực hành
không thực hiện các hành vi vượt quá dự kiến ban đầu giữa họ và các đồng
phạm khác, cũng không có các tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ và nhân thân
nên giữa những người đồng phạm phải cùng chịu mức trách nhiệm hình sự
chung.

2.Hành vi trộm cắp tài sản trong tình huống trên được thực hiện ở giai đoạn nào?

Hành vi trộm cắp tài sản được quy định rõ tại Điều 173 – Luật hình sự năm
2015 sửa đổi bổ sung 2017. Ở tình huống trên ra thấy:
+Đặc điểm 1: những người này đã trực tiếp thực hiện tội phạm, họ đã trực tiếp
thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan đó là hành vi lẻn vào nhà lấy
chiếc xe

+Đặc điểm 2: những người này chưa thực hiện tội phạm đến cùng, tội trộm cắp
tài sản có cấu thành vật chất, những người này chưa lấy được xe có nghĩa là
chưa gây ra hậu quả luật định

+Đặc điểm 3: những người này không thực hiện được tội phạm đến cùng là do
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn do bị chủ nhà phát giác.

Do đó hành vi phạm tội trên đang ở giai đoạn là chưa đạt.

3.Có đồng phạm trong tội giết người không? Tại sao?

Để xác định có đồng phạm hay không ta phải dựa vào 3 dấu hiệu. Dấu hiệu thứ
nhất, có hai người trở lên cùng thực hiện một tội phạm. Thứ hai, dấu hiệu hoạt
động chung. Thứ 3 là dấu hiệu lỗi cố ý. Tuy nhiên trong trường hợp này, khi bị
phát giác, sẵn dao ở trong người C đã đâm chết anh thanh niên kia mà không có
sự trợ giúp của B – người cùng thực hiện hành vi trộm cắp trước đó. Đồng thời,
việc gây thiệt hại về tính mạng trong tình huống cũng không được bàn bạc trước
đó nên không thỏa mãn quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung
năm 2017 đưa ra. Vì vậy, không có đồng phạm tội giết người trong trường hợp
này.

4.Hành vi giết người trong tình huống trên được thực hiện ở giai đoạn

Hành vi giết người được quy định cụ thể tại điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015
sửa đổi bổ sung năm 2017.

Như vậy chúng ta có thể hiểu “Giết người” được hiểu là hành vi làm chết người
khác một cách cố ý và trái pháp luật. Tội giết người có cấu thành vật chất, tội
phạm được coi là hoàn thành khi có hậu quả nguy hiểm cho xã hội được nêu cấu
thành tội phạm xảy ra (hậu quả do luật định). Tại tình huống này thì tội giết
người đã ở giai đoạn hoàn thành vì C đã dùng dao thủ sẵn trong người và đâm
chết anh thanh niên đó. Hậu quả của tội phạm là chết người đã xảy ra, do đó
hành vi giết người ở tình huống này đã hoàn thành.
Bài tập 12
A đang đi đường thì gặp B - một thanh niên không quen biết, đã say xỉn đòi A cho điếu thuốc
lá. A không chịu và bỏ đi. B cho là A coi thường mình nên đã rút dao giắt ở thắt lưng ra đâm
A sượt qua bờ vai. A bỏ chạy nhưng B vẫn rượt đuổi cùng với con dao găm trên tay. Gặp hẻm
cụt, A hết đường chạy, nên đã quay mặt lại đối diện với B, giằng được dao đâm nhiều nhát
vào ngực của B. B chết tại chỗ.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong tình huống trên quyền phòng vệ có khởi phát không?
Trả lời:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 22 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 thì trong tình huống trên
quyền phòng vệ có khởi phát vì thỏa mãn ba điều kiện sau:
- Có sự tấn công nguy hiểm đáng kể và trái pháp luật: B có hành vi tấn công
nguy hiểm là rút dao đâm A sượt qua bờ vai và A bỏ chạy nhưng B vẫn
rượt đuổi A, đây là hành vi trái pháp luật.
- Sự tấn công xâm phạm quyền hoặc lợi ích chính đáng của người bị tấn
công, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức:
hành vi của B là hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân
thể của A.
- Sự tấn công phải đang hiện hữu nghĩa là hành vi tấn công phải đang xảy ra
hoặc đe dọa xảy ra ngay tức khắc: Hành vi của B vẫn đang xảy ra, tức là đã
bắt đầu và chưa kết thúc, thể hiện ở chỗ B rút dao đâm A sượt qua bờ vai
và A bỏ chạy nhưng B vẫn rượt đuổi A, chứng tỏ hành vi của B vẫn chưa
kết thúc.
2. A có phải chịu trách nhiệm hình sự về cái chết của B không? Tại sao?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 22 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 thì A phải chịu trách nhiệm hình
sự về cái chết của B. A đã có hành vi chống trả quá mức cần thiết để phòng vệ chính đáng, A
đã dùng dao đâm nhiều nhát vào ngực của B, khiến B tử vong. A có thể có nhiều cách phòng
vệ khác, không nhất thiết phải giết chết B mới phòng vệ được.

Bài tập 13
H là trạm trưởng một trạm kiểm lâm của Hạt kiểm lâm thuộc tỉnh Q, nơi mà một thời gian dài
rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Trong một lần đi tuần tra, trạm của H bắt được một bè gỗ khai
thác trái phép nhưng không biết chủ số gỗ là ai nên H lệnh cho anh em đưa về trạm. Trưa
hôm đó, S là chủ số gỗ trên vác dao vào trạm bảo với H là tại sao thu gỗ của S. Vừa nói S vừa
đập phá đồ đạc, dùng dao khống chế anh em kiểm lâm và bắt mọi người khuân gỗ trả lại bè.
H cản lại thì bị S chém 2 nhát vào tay bị thương. H vào trạm lấy khẩu súng AK lên đạn, bắn
một phát chỉ thiên và lệnh cho S dừng tay. S cầm dao đi về phía H. H chĩa súng vào người S
và bắn 3 phát ở khoảng cách 3m. Hậu quả là S trúng 3 viên đạn, viên đầu tiên từ trước ra sau
xuyên đầu gối trái, 2 viên sau từ lưng xuyên qua tim ra phía ngực và chết ngay sau đó một
thời gian ngắn.
Hành vi của H có được coi là phòng vệ chính đáng hay không? Tại sao?
Trả lời:
Theo Điều 22, Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
"1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của
mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một
cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết,
không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo
quy định của Bộ luật này."
Theo đó, phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả cần thiết khi bị người khác xâm phạm về
tính mạng sức khỏe. Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm gạt bỏ sự đe doạ, đẩy lùi sự tấn
công trái pháp luật mà nó còn thể hiện thái độ tích cực chống trả sự xâm phạm đến các lợi ích
của Nhà nước, của tổ chức, của mình hoặc của người khác.
Trong trường hợp này, hành vi của H đã là vượt quá phòng vệ chính đáng. Bởi khi H bắn một
viên đạn vào đùi của S đã là đủ ngăn cản hành vi của ông S rồi (S bị bắn vào đùi nên không
thể nào cầm dao để tiến lại phía H), nhưng ở đây H lại bắn thêm 2 viên đạn nữa, mà 2 viên
này lại trúng bộ vị trọng yếu trên cơ thể - tim của S việc đó dẫn đến S chết ngay sau đó. Căn
cứ vào những chi tiết trên ta xác định hành động này của H đã vượt quá hành vi phòng vệ
chính đáng.
LẦN 7
Deadline: 13h ngày 23/11

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 7, BT 1

2 Lê Tấn Phát NĐ 7, BT 1

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 12, BT 1

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 12, BT 9

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 13, BT 11

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 13, BT 11


7 Trương Thị Thu Sương NĐ 11, NĐ 16,BT 5

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 11, NĐ 16, BT 5

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 3, BT 5

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 3,BT 9

11 Tiết Như Tiên Tổng hợp bài, BT 9

B. TRẮC NGHIỆM

Các nhận định sau đúng hay sai? Tại sao?


3.Trách nhiệm hình sự chấm dứt khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt.
Trả lời: Nhận định sai.
Trách nhiệm hình sự chấm dứt khi không còn những tác động của hậu quả pháp lý bất lợi về
hình sự đối với người phạm tội. Hay nói cách khác trách nhiệm hình sự chấm dứt khi người
phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được xóa án tích.
7.Người phạm tội làm tiền giả theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLHS thì có thể bị áp
dụng hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
Trả lời: Nhận định sai. Cơ sở pháp lý: khoản 1, Điều 207 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017.
Theo đó, dựa vào các quy định pháp luật trên, chỉ cần có hành vi lưu hành tiền giả thì sẽ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự mà không phân biệt số lượng tiền giả là bao nhiêu. Và trong
trường hợp này, với hành vi làm tiền giả thì có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm.
11. Hình phạt quản chế được tuyên kèm với tất cả các loại hình phạt chính.
Trả lời: Nhận định sai. Cơ sở pháp lý: Điều 43 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Theo đó, quản chế là hình phạt bổ sung do Tòa án quyết định đối với người bị kết án phạt tù
phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một địa phương nhất định dưới sự kiểm soát của
chính quyền và nhân dân địa phương. Quản chế là một hình phạt bổ sung nghiêm khắc nên
chỉ được áp dụng đối với người phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy
hiểm và một số trường hợp khác do BLHS quy định như Tội giết người, Tội cướp tài sản, Tội
bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản…
12. Biện pháp “tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” (Điều 47 BLHS) chỉ
có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Trả lời: Nhận định sai
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 (có sửa đổi bổ sung 2017) quy định:
“ Vật, tiền là tài sản của người khác, nếu người này có lỗi trong việc để cho người phạm tội
sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, thì có thể bị tịch thu”
Vậy nên trong trường hợp nếu vật, tiền thuộc tài sản của người khác, tức là người không
phạm tội, nhưng nếu người này có lỗi trong việc để cho người khác sử dụng vào việc thực
hiện tội phạm thì có thể bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước
Ví dụ: A biết B mượn xe máy để đi cướp giật tài sản, nhưng A vẫn đồng ý cho B mượn để
thực hiện hành vi phạm tội. Trong quá trình thực hiện thì B bị công an phát hiện và bắt giữ,
trường hợp này xe máy của B cũng sẽ bị tịch thu.
13.Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng thay thế cho hình phạt.

Trả lời: Nhận định đúng

Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được quy định trong BLHS, do các cơ quan tư
pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay
thế cho hình phạt.

Việc quy định biện pháp tư pháp hình sự trong BLHS và việc áp dụng các biện pháp đó
trong thực tiễn có khả năng tác động hỗ trợ hình phạt trong việc giáo dục người phạm tội
hoặc trong nhiều trường hợp còn có thể thay thế cho hình phạt, rút ngắn được thủ tục tố
tụng, giải quyết nhanh chóng các vụ án.

Trong những trường hợp nhất định, biện pháp tư pháp có thể thay thế cho hình phạt như
biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được
áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội nhằm đạt được mục đích răn đe, giáo dục, cải
tạo người phạm tội.

16.Phạm tội nhiều lần là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Trả lời: Nhận định sai. Vì căn cứ Tại Mục 5.1 Điều 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày
12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
một số quy định của Bộ luật Hình sự có hướng dẫn về tình tiết “Phạm tội có tính chất chuyên
nghiệp” như sau:
Chỉ áp dụng tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp khi có đầy đủ các điều kiện sau
đây: “Cố ý phạm tội từ 5 lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm
tội là nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.”
Như vậy, không phải phạm tội nhiều lần là được coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.

Bài tập 1
A là tiếp viên hàng không - phạm tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS. Hãy xác
định quyết định về hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với A đúng hay sai trong các tình huống
sau:
1.A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 1 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức án 3
năm tù và tịch thu một phần tài sản.
Trả lời: Tòa án xử phạt đối với A là đúng.
Vì A phạm tội theo khoản 1, Điều 188 BLHS thì sẽ bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
300.000.000 đồng hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (trong tình huống trên A bị xử phạt
với mức án 3 năm tù). Theo khoản 5, Điều 188 BLHS thì A bị xử thêm hình phạt bổ sung là
tịch thu một phần tài sản.
2.A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 2 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức án là 7
năm tù, phạt tiền 20 triệu đồng và cấm hành nghề tiếp viên hàng không 2 năm.
Trả lời: Tòa án xử phạt đối với A là đúng.
Vì A phạm tội theo khoản 2, Điều 188 BLHS thì sẽ bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến
1.500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm (ở trong tình huống trên A bị xử phạt
với mức án là 7 năm tù và phạt tiền 20 triệu đồng). Vì A là tiếp viên, nên sẽ có hình phạt bổ
sung là cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm theo khoản 5,
Điều 188 BLHS (A bị cấm hành nghề tiếp viên hàng không là 2 năm).
3.A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 4 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức án là
chung thân và tịch thu toàn bộ tài sản.
Trả lời: Tòa xử phạt đối với A là sai.
A phạm tội theo khoản 4, Điều 188 BLHS theo đó mức án phạt tù tối đa của A chỉ là 15 năm.
Ở đây Tòa phán A với mức án tù chung thân là không phù hợp.
Bài tập 5
H là một thanh niên độc thân, đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong một thời
gian dài. H bị bắt quả tang cùng với 2kg heroin được giấu trong cốp xe ô tô hiệu BMW do
chính H đứng tên. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định tài sản của H gồm có:
-Một chiếc xe ô tô hiệu BMW trị giá 50.000 USD;
-Một căn nhà có trị giá 300 triệu là tài sản thừa kế từ cha mẹ;
-Một nhà hàng trị giá 5 tỷ VND do H đầu tư từ lợi nhuận thu được do buôn bán ma túy.
Biết rằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy của H thuộc trường hợp được quy định tại
khoản 4 Điều 251 BLHS.
Câu hỏi:
1.Dựa vào quy định của BLHS Tòa án phải áp dụng biện pháp nào để xử lý 2kg heroin?
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Phòng chống ma túy 2021 thì ma túy là vật thuộc loại nhà nước
cấm lưu hành, cấm tàng trữ. Theo điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung
2017) thì 2kg heroin này sẽ bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy.
2.Dựa vào quy định của BLHS Tòa án phải áp dụng biện pháp nào liên quan đến tài sản
của H.
Đối với tài sản của H thì:
- Một chiếc xe ô tô hiệu BMW trị giá 50.000 USD: là công cụ phương tiện dùng vào việc
phạm tội nên bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước (Theo điểm a khoản 1 điều 47
BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017).
- Một căn nhà có trị giá 300 triệu là tài sản thừa kế từ cha mẹ: đây là tài sản thừa kế của H,
tài sản này không thuộc Điều 47 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 nên sẽ không bị Tòa
án áp dụng biện pháp xử lý liên quan đến tài sản.
- Một nhà hàng trị giá 5 tỷ VND do H đầu tư từ lợi nhuận thu được do buôn bán ma túy: đây
là vật có được do phạm tội hoặc do mua bán đổi chát ma túy mà có nên theo điểm b khoản
1 Điều 47 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì nhà hàng này sẽ bị tịch thu sung vào ngân
sách nhà nước.
Bài tập 9
A 18 tuổi đã cướp giật tài sản của người khác và bị truy tố theo Điều 171 BLHS. Áp dụng
trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo
Điều 54 BLHS thì có bao nhiêu phương án quyết định hình phạt nhẹ hơn và hãy xác định
mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong mỗi phương án nếu:
1. A bị xét xử theo khoản 1 Điều 171 BLHS;
Thứ nhất, theo khoản 1 Điều 171 BLHS thì A có khung hình phạt từ 1 đến 5 năm tù, là tội
phạm nghiêm trọng theo điểm b khoản 1 Điều 9 BLHS
Thứ hai, trong trường hợp này A thuộc vào khoản 3 Điều 54 BLHS vì có khung hình phạt nhẹ
nhất nên Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.
Th1: Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt tức dưới 1 năm
nhưng phải trên 3 tháng theo khoản 1 Điều 38 BLHS. Vậy nên mức hình phạt thấp nhất là 3
tháng
Th2: Tòa án chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, ta thấy hình phạt thuộc loại
nhẹ hơn được quy định trong Điều 35 BLHS là phạt tiền và Điều 36 BLHS là cải tạo không
giam giữ
2. A bị xét xử theo khoản 2 Điều 171 BLHS
Thứ nhất, theo khoản 2 Điều 171 BLHS thì A có khung hình phạt từ 3 đến 10 năm
Thứ hai, trong trường hợp này A thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS nên sẽ có hai trường
hợp xảy ra
Th1: khoản 1 Điều 54 BLHS, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, tức khung
hình phạt lúc này sẽ là 1 đến 3 năm
Th2: khoản 2 Điều 54 BLHS, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nên
khung hình phạt sẽ từ 1 đến 3 năm
3. A bị xét xử theo khoản 4 Điều 171 BLHS
Thứ nhất, theo khoản 2 Điều 171 BLHS thì A có khung hình phạt từ 12 đến 20 năm
Thứ hai, trong trường hợp này A thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 54 BLHS nên sẽ có hai trường
hợp xảy ra
Th1: khoản 1 Điều 54 BLHS, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, tức khung
hình phạt lúc này sẽ là 7 đến 12 năm
Th2: khoản 2 Điều 54 BLHS, quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình
phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, nên
khung hình phạt lúc này sẽ có 3 trường hợp nhỏ:
+ 1 đến 12 năm
+ 3 đến 12 năm
+ 7 đến 12 năm

Bài tập 11
A phạm tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173 và Điều 65 BLHS xử
phạt một năm tù và cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 2 năm. Sau 6 tháng kể từ
ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A phạm tội vô ý làm chết người theo Điều 128
BLHS.
Hãy cho biết A có tái phạm không? Tại sao? Nếu:
1.Hành vi của A thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 128 BLHS;
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 53 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định “Tái phạm là trường hợp
đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện
hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.
Điểm a khoản 2 Điều 70 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về đương nhiên được
xóa án tích
“Điều 70. Đương nhiên được xóa án tích
2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính
hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các
quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù
nhưng được hưởng án treo;”
Như vậy A là người chưa được xóa án tích theo khoản 2 Điều 70 BLHS 2015, sửa đổi bổ
sung 2017.
Theo điểm b Khoản 1 Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì khoản 1 Điều 128 là
thuộc tội phạm nghiêm trọng. Cho nên không thỏa điều kiện của khoản 1 Điều 53 quy định về
tái phạm đó là phải thuộc trường hợp “thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Như vậy, hành vi của A không tái phạm.

2.Hành vi của A thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 128 BLHS.
Trả lời: Theo điểm c Khoản 1 Điều 9 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì khoản 2 Điều 128
là thuộc tội phạm rất nghiêm trọng. Cho nên thỏa điều kiện của khoản 1 Điều 53 quy định về
tái phạm đó là phải thuộc trường hợp “thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Như vậy, hành vi của A là tái phạm.
LẦN 8
Deadline: 9h ngày 28/11

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly BT 12, Tổng hợp bài

2 Lê Tấn Phát NĐ 20, BT 12

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 20, BT 12

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 22, BT 17

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 22, BT 17

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 39, BT 19

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 37,BT 18

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 37, BT 18

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 39, BT 19

10 Nguyễn Kim Thụy NĐ 43, BT 19

11 Tiết Như Tiên NĐ 43, BT 19


20.Trong trường hợp có nhiều bản án, thời gian thực tế mà người bị kết án phải chấp
hành hình phạt tù có thời hạn có thể trên 30 năm.
Trả lời: Nhận định đúng.
Căn cứ theo Điều 56 Bộ luật hình sự 2015, có hai trường hợp xảy ra khi có nhiều bản án:
- Trường hợp 1: Đang chấp hành 1 bản án, bị đưa ra xét xử về tội đã phạm trước khi có bản
án này, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự 2015 Tòa án quyết định hình
phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều
55 của Bộ luật này
- Trường hợp 2: Đang chấp hành 1 bản án, bị đưa ra xét xử về tội phạm mới, thì theo quy
định tại khoản 2 Điều 56 Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp
với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo
quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Đối với trường hợp 2, ví dụ một người đang ngồi tù với một bản án phạm nhiều tội bị
tuyên 30 năm, người đó đã chấp hành hình phạt được 29 năm rồi mà người đó lại bị Tòa án
đưa ra xét xử về một tội phạm mới cũng là phạm nhiều tội với mức phạt cũng là 30 năm.
Về nguyên tắc thì người phạm tội ở đây sẽ phải ngồi tù 59 năm.
Vậy nên trong trường hợp có nhiều bản án, thời gian thực tế mà người bị kết án phải chấp
hành hình phạt tù có thời hạn có thể vượt quá 30 năm.

22.Có thể quyết định mức hình phạt 12 năm tù cho người phạm tội giết người chưa
đạt thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS.
Trả lời: Nhận định sai.
Theo khoản 3 Điều 57 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về quyết định hình phạt
trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt theo đó “ Đối với trường hợp phạm
tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân
hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình
phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định” và khoản 2 Điều 123 BLHS
quy định “ Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 15 năm.” Như vậy mức hình phạt tối đa ở đây là 11 năm 3 tháng không thể
quy định mức hình phạt lên đến 12 năm tù cho người phạm tội giết người chưa đạt thuộc
trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS được.

37. Chấp hành bản án là chấp hành hình phạt.


Trả lời:
Chấp hành bản án là việc người bị kết án phải chấp hành theo quyết định của bản án của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật.
Chấp hành hình phạt là (Người bị kết án) thực hiện các nghĩa vụ thuộc nội dung của hình phạt
được áp dụng đối với họ theo bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Như vậy, việc chấp hành bản án có nội dung rộng hơn việc chấp hành hình phạt. Ví dụ chấp
hành án treo là chấp hành án do Tòa án quyết định, đây không phải là hình phạt mà là một
biện pháp miễn trách nhiệm hình sự có điều kiện; chấp hành bản án dân sự… Còn chấp hành
hình phạt thì chỉ chấp hành những nội dung của hình phạt (gồm hình phạt chính và hình phạt
bổ sung).
39. Án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Nhận định sai.Theo Điều 1 Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,
được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân
thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành
hình phạt tù.”
Với quy định này có thể thấy, án treo không phải là một loại hình phạt mà là biện pháp miễn
chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Điều kiện ở đây là điều kiện của án treo, tức là Nhà nước
“treo” thi hành hình phạt tù với điều kiện là buộc người phạm tội phải chịu thử thách. Nội
dung thử thách quy định những điều kiện ràng buộc nhất định.

43. Án treo chỉ áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng.
Trả lời: Nhận định sai.
Căn cứ vào Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 65 BLHS
2015 về án treo quy định điều kiện để cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo. Trong
đó, có quy định:
“Có nhân thân tốt. Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm
tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công
dân ở nơi cư trú, nơi làm việc. Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi
là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm
hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính
chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người
phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì
cũng có thể cho hưởng án treo”.
Như vậy, người phạm hai tội (đều là tội ít nghiêm trọng) và đã bị tạm giam thì vẫn có thể
được hưởng án treo nếu có đủ điều kiện được quy định tại Điều 2 Nghị quyết 02.
Bài tập 12
A 17 tuổi phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 BLHS.
Anh (chị) hãy xác định:
1.Mức hình phạt tối đa có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu? Căn cứ pháp lý.
Trả lời:
Bởi vì A 17 tuổi là người chưa thành niên nên căn cứ vào khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự
2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
"1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không
quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định"
Theo đó, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với người chưa
thành niên là không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Và theo khoản 1 Điều
168 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì mức phạt tối đa đối với người phạm tội
theo khoản này là 10 năm nhưng A (17 tuổi) là người chưa thành niên nên A mức hình phạt
tối đa A có thể nhận là 7 năm 6 tháng tù.
2.Xác định thời hạn xóa án tích đối với A là bao lâu và tính từ thời điểm nào nếu A bị
Tòa án tuyên phạt bốn năm tù.
Trả lời: Căn cứ vào khoản 2, Điều 107 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định
về việc xóa án tích đối với người chưa thành niên:
"2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng đương nhiên được xóa án tích nếu từ khi chấp hành xong
hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản
án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
a) 06 tháng trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc
phạt tù nhưng được hưởng án treo;
b) 01 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;
c) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;
d) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù trên 15 năm."
Theo đó, do A mới 17 tuổi là người chưa thành niên và bị Tòa án tuyên phạt bốn năm tù, nên
thời hạn xóa án tích của A là 01 năm được tính từ lúc A chấp hành xong hình phạt bốn năm tù
mà không có hành vi phạm tội mới.
3.Tòa án có thể phạt tiền theo khoản 6 Điều 168 BLHS đối với A được không? Tại sao?
Trả lời: Căn cứ theo khoản 2 Điều 32 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì hình
phạt tiền tại khoản 6 Điều 168 Bộ luật hình sự là hình phạt bổ sung. Tòa án không thể phạt
tiền theo khoản 6 Điều 168 BLHS đối với A được. Vì trong trường hợp này A chỉ mới 17 tuổi
và theo quy định tại khoản 6 Điều 91 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định:
"...Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội".
4.A có bị xem là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm không nếu trong khi đang chấp
hành hình phạt tù về tội cướp tài sản nêu trên A lại phạm tội cố ý gây thương tích theo
khoản 5 Điều 134 BLHS.
Trả lời: Căn cứ vào khoản 7 Điều 91 và Điều 53 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017
quy định:
Điều 91
"7. Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm
hoặc tái phạm nguy hiểm" .

Điều 53
"1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng do vô ý.
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý"
Theo đó, A (17 tuổi) là đối tượng không thuộc vào trường hợp không tính để xác định tái
phạm hoặc tái phạm nguy hiểm đối với người chưa thành niên. Và theo khoản 5 Điều 134 Bộ
luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì A thuộc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì quy
định hình phạt đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù. Cho nên khi đang chấp hành
hình phạt tù về tội cướp tài sản nêu trên A lại phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 5
Điều 134 Bộ luật hình sự thì A sẽ bị coi là tái phạm nguy hiểm.
Bài tập 17
A phạm hai tội: giết người (khoản 1 Điều 123 BLHS) và trộm cắp tài sản (khoản 2 Điều 173
BLHS). Nay đưa ra xét xử cả hai tội trong một vụ án hình sự.
1.Hãy xác định mức tối đa của hình phạt chung của hai tội trên có thể áp dụng với A nếu:
-A phạm tội giết người khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 15 năm tù và phạm tội trộm cắp tài
sản khi 19 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 4 năm tù;
-A phạm tội trộm cắp tài sản khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù và giết người khi 19
tuổi bị Tòa án tuyên phạt 18 năm tù.
2.Trường hợp của A có phải là trường hợp có nhiều bản án không? Tại sao?
Trả lời:
1.
- A phạm tội giết người khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 15 năm tù và phạm tội trộm cắp tài
sản khi 19 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 4 năm tù;
Theo điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 theo đó:
“Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng
tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
1. Đối với hình phạt chính:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì
các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá
03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;”
Như vậy mức tối đa của hình phạt chung = 15 năm + 4 năm = 19 năm
- A phạm tội trộm cắp tài sản khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù và giết người khi 19
tuổi bị Tòa án tuyên phạt 18 năm tù.
Theo điểm a khoản 1 Điều 55 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 theo đó:
“Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng
tội và tổng hợp hình phạt theo quy định sau đây:
1. Đối với hình phạt chính:
a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì
các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá
03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;”
Như vậy mức tối đa của hình phạt chung = 3 năm + 18 năm = 21 năm

2. Trường hợp của A không phải là trường hợp có nhiều bản án mà là trường hợp phạm nhiều
tội được quy định tại Điều 55 BLHS BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Quyết định hình
phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là trường hợp 01 người/pháp nhân thương mại phạm
nhiều tội khác nhau (trong cùng thời gian hoặc trong nhiều thời gian khác nhau) nhưng chưa
bị Tòa án đưa ra xét xử hay kết án bất cứ lần nào, nay Tòa án đưa người phạm tội, pháp nhân
thương mại phạm tội ra xét xử cùng 01 lần về nhiều tội đó.

Bài tập 18
Theo quy định của pháp luật, hành khách khi qua cửa khẩu biên giới không phải khai báo hải
quan nếu chỉ mang số ngoại tệ tiền mặt trong giới hạn 5.000 USD. X (25 tuổi) đã mang
20.000 USD qua cửa khẩu mà không khai báo theo quy định của thủ tục hải quan và bị bắt
quả tang. Do vậy, X bị truy tố và xét xử về “tội vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”
theo khoản 1 Điều 189 BLHS.
Anh (chị) hãy xác định:
1.Nếu áp dụng Điều 54 BLHS thì có bao nhiêu phương án lựa chọn hình phạt nhẹ hơn và
mức hình phạt tối thiểu có thể áp dụng trong mỗi phương án?
2.Những hình phạt bổ sung nào có thể áp dụng đối với X?
3. Số tiền được coi là mang trái phép qua biên giới là bao nhiêu? Chỉ rõ căn cứ pháp lý và
hướng xử lý đối với số tiền mà X mang trái phép qua biên giới.
Trả lời:
1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 189 và điểm a khoản 1 Điều 9 BLHS 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017 thì đây là loại tội phạm ít nguy hiểm.
Theo khoản 3 Điều 54 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì Tòa án có thể quyết định
hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang 1 loại hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn, cụ thể:
- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, mức thấp nhất của
khung hình phạt này là phạt tiền 20.000.000 đồng, vậy Tòa án có thể quyết định
hình phạt là phạt tiền dưới 20.000.000 đồng nhưng không thấp hơn 1.000.000 đồng
theo khoản 3 Điều 35 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
- Chuyển sang 1 loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, bao gồm: Nếu bị phạt tiền thì
có thể chuyển sang hình phạt Cảnh cáo (Điều 34 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung
2017). Nếu bị phạt cải tạo không giam giữ thì có thể chuyển sang hình phạt tiền
(Điều 35 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017) nhưng không thấp hơn 1.000.000 đồng
hoặc Cảnh cáo. Nếu bị phạt tù thì có thể chuyển sang hình phạt Cảnh cáo, Phạt tiền
hoặc Cải tạo không giam giữ nhưng không dưới 06 tháng.
2. Những hình phạt bổ sung có thể áp dụng với X: theo khoản 4 Điều 189 BLHS 2015 sửa
đổi, bổ sung 2017 thì X có thể bị áp dụng những hình phạt bổ sung như phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng (khi phạt tiền là hình phạt chính thì không áp
dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền), cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm
công việc nhất định từ 01 đến 05 năm.
3. Số tiền được coi là mang trái phép qua biên giới là 15.000 USD. Theo điểm b khoản 1
Điều 47 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì đây là tiền do phạm tội nên sẽ bị tịch thu
sung vào ngân sách nhà nước hoặc bị tịch thu tiêu hủy.

Bài tập 19
A bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 174 BLHS và bị xử phạt
15 năm tù. Đang thụ hình trong trại giam được 3 năm thì A lại phạm tội cố ý gây
thương tích cho bạn tù. Sự việc xảy ra là do có sự khiêu khích của người bị hại trong vụ
án này. Về tội phạm mới, A bị xét xử theo khoản 5 Điều 134 BLHS và bị xử phạt 12 năm
tù. Chi phí điều trị cho người bị hại là 50 triệu đồng. Gia đình của A đã gửi cho gia đình
người bị hại 30 triệu đồng dùng để điều trị cho người bị hại.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong lần phạm tội mới A có bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm không? Nếu
là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thì tình tiết đó có ý nghĩa là tình tiết tăng nặng
TNHS theo Điều 52 BLHS hay là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm mới.
Trả lời:
Theo khoản 1 Điều 53 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết
án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi
phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”.Và căn cứ
theo điểm a khoản 2 Điều 53 BLHS 2015 thì A bị coi là tái phạm nguy hiểm do A đã bị kết
án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 174 BLHS và bị xử phạt 15 năm tù và
thuộc tội rất nghiêm trọng và đồng thời chưa được xóa án tích, cụ thể A chỉ mới thụ hình
được 3 năm trong khi hình phạt là 15 năm mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây
thương tích cho bạn tù và bị xử phạt 12 năm, thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng (điểm c
khoản 1 Điều 9 BLHS 2015). Như vậy, A bị coi là tái phạm nguy hiểm.

Theo điểm b khoản 5 Điều 134 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 không có quy định tình tiết
tái phạm nguy hiểm, vì vậy không thể nói đây là tình tiết định khung tăng nặng của tội phạm
này. Căn cứ theo điểm h điều 52 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì tình tiết tái phạm nguy
hiểm thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

2. Trong việc thực hiện tội phạm mới có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS nào
không? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời:
A thực hiện phạm tội mới ở khoản 5 Điều 134 BLHS. Trong việc thực hiện tội phạm mới (A
cố ý gây thương tích cho bạn tù) xảy ra là do có sự khiêu khích của người bị hại trong vụ án
này. Căn cứ theo điểm e khoản 1 Điều 51, nếu người bị hại dùng hành vi trái pháp luật để
khiêu khích A thì có tình tiết giảm nhẹ TNHS theo BLHS, ngược lại, nếu hành vi khiêu khích
của người bị hại là không trái pháp luật thì trong việc thực hiện tội phạm mới không có tình
tiết giảm nhẹ TNHS
3. Hãy tổng hợp hình phạt của hai bản án trên? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời:
Ở tình huống trên A đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới
nên Toà án sẽ quyết định đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành
của bản án trước căn cứ theo khoản 2 Điều 56 BLHS 2015 cụ thể là tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản rồi quyết định hình phạt chung theo điểm a khoản 1 Điều 55 của Luật này.
Như vậy, hình phạt mà A phải chịu cho hai bản án trên là 27 năm. Đối với bản án cũ, A đã
thụ án được 3 năm, còn 12 năm, đối với bản án mới A phải chịu 12 năm tù. Vì vậy, hình phạt
mà A còn cho hai bản án trên là 24 năm.
4. Trong thời gian chấp hành hình phạt chung của 2 bản án, A phải chấp hành hình
phạt bao lâu mới được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu? Chỉ rõ căn cứ
pháp lý.
Trả lời:
Trường hợp của A thuộc khoản 1 Điều 63 BLHS 2015 thì đối với người bị kết án cải tạo
không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt
được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân
sự, thì theo đề nghị của Tòa án thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định
giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Thời gian chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu
là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12
năm đối với tù chung thân.
Ở tình huống trên, hình phạt của A là 27 năm chia cho ⅓ là 9 năm. Mà A đã thụ hình được 3
năm thì cần A chấp hành hình phạt thêm 6 năm thì sẽ được xét giảm thời hạn chấp hành hình
phạt lần đầu.
5. Cần áp dụng biện pháp tư pháp nào đối với A? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời:
Căn cứ theo khoản 1 Điều 48 BLHS 2015 thì A phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở
hữu hoặc người quản lý hợp pháp, sửa chữa và bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định
do hành vi phạm tội của mình gây ra đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Còn đối với tội cố ý gây thương tích thì căn cứ theo khoản 2 Điều 48 BLHS 2015 thì A phải
bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.
6. Thời hạn xóa án tích về các tội mà A đã thực hiện là bao lâu và tính từ thời điểm nào?
Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời:
Tội của A không nằm trong chương XIII và chương XXVI nên dựa vào khoản 1 Điều 70
BLHS 2015 thì khi A đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết
thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm d khoản 2 Điều này thì
sau 5 năm, A sẽ được xóa án tích.
LẦN 9
Deadline: 9h ngày 4/12

STT Họ và tên Nhiệm vụ

1 Đoàn Thị Hương Ly NĐ 47, BT 20

2 Lê Tấn Phát NĐ 65, BT 20

3 Phạm Bảo Quyên NĐ 65, BT 20

4 Phan Trần Trúc Quyên NĐ 64, BT 20

5 Nguyễn Trúc Quỳnh NĐ 64, BT 20

6 Trần Tạ Minh Sáng NĐ 60, BT 22

7 Trương Thị Thu Sương NĐ 60 ,BT 22

8 Lê Nguyễn Hồng Thắm NĐ 45, BT 21

9 Nguyễn Ngọc Anh Thư NĐ 45, BT 21

10 Nguyễn Kim Thụy BT 24, tổng hợp bài

11 Tiết Như Tiên NĐ47, BT 24


45. Thời gian thử thách của án treo được tính từ ngày bản án treo có hiệu lực pháp luật.
Trả lời: Nhận định sai. Cơ sở pháp lý: Điều 5 Nghị Quyết số 02/HĐTP ngày 15/05/2018 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
“Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách được xác định như sau:
1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng
cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử
thách là ngày tuyên án sơ thẩm.
2. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm
cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày
tuyên án sơ thẩm.
3. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc
thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày
tuyên án phúc thẩm.
4. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm
không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc
thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì
thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
5. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo,
nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm để điều
tra hoặc xét xử lại và sau khi xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Tòa án
cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử
thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần đầu.
6. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, bản án không bị
kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm
sửa bản án sơ thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết
định giám đốc thẩm có hiệu lực.
7. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án
treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án phúc thẩm cho hưởng án treo
thì thời gian thử thách tính từ ngày quyết định giám đốc thẩm có hiệu lực.
8. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm
không cho hưởng án treo, nhưng Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án phúc
thẩm, giữ nguyên bản án sơ thẩm hoặc Hội đồng giám đốc thẩm sửa bản án
phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ
thẩm.”
Theo đó, thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án hoặc ngày quyết định giám đốc
thẩm có hiệu lực chứ không phải là ngày bản án treo có hiệu lực.
47. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo bị đưa ra xét xử về một tội
phạm khác thì phải chấp hành hình phạt tù đã được cho hưởng án treo.
Trả lời: Nhận định sai. Cơ sở pháp lý: khoản 5 Điều 65 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017
quy định rằng trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ
theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án mới có thể quyết định
buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Còn trường hợp
người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc người đó
phải chấp hành hình phạt của bản án mà tòa án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình
phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 55, 56 của Bộ Luật này.
Trường hợp người đang chấp hành án treo bị Tòa án đưa ra xét xử về tội phạm được thực
hiện trước khi có bản án treo thì không bị xem là vi phạm điều kiện của án treo, cho nên Tòa
án quyết định hình phạt với tội phạm đó và không tổng hợp hình phạt với bản án cho hưởng
án treo. Trong trường hợp này, người phạm tội phải đồng thời chấp hành 02 bản án.

60. Các biện pháp giám sát, giáo dục chỉ được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội trong trường hợp người này được miễn trách nhiệm hình sự.

Trả lời: Nhận định sai.

Các biện pháp giám sát, giáo dục bao gồm: khiển trách, hòa giải tại cộng đồng và giáo dục
tại xã, phường, thị trấn. Đây là những biện pháp đặc thù, áp dụng đối với người dưới 18
tuổi được miễn trách nhiệm hình sự khi có căn cứ nêu tại khoản 2 Điều 91 BLHS 2015 sửa
đổi, bổ sung 2017. Nói cách khác, nếu người phạm tội dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm
hình sự theo những căn cứ áp dụng chung đối với người phạm tội, bao gồm người đã thành
niên (Điều 29 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017), thì họ không bị áp dụng các biện pháp
giám sát, giáo dục.

Ngoài ra, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm
hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục
tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của
họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này. (Điều 92 BLHS 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017)
64. Mọi hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại thì pháp
nhân đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trả lời: Nhận định sai
Theo khoản 1 Điều 75 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại theo đó:
“1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;
b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;
c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân
thương mại;
d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27
của Bộ luật này.”

65. Pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tất cả các tội phạm.
Trả lời: Nhận định sai.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định:
“Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này
mới phải chịu trách nhiệm hình sự.”
Vậy nên theo Điều 76 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) pháp nhân thương mại
phạm những tội tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210,
211, 213, 216, 217, 225, 226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300
và 324 thì mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
C. BÀI TẬP

Bài tập 20
A sinh ngày 15/11/2000 phạm hai tội: Tội cố ý gây thương tích theo khoản 5 Điều 134 BLHS
vào ngày 01/7/2018 và tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 318 BLHS vào ngày
15/08/2018. A bị đưa ra xét xử về cả 2 tội vào ngày 5/3/2019.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Tình huống trên có phải là trường hợp phạm nhiều tội không? Tại sao?
Trả lời: Tình huống trên là trường hợp phạm nhiều tội. Vì theo khái niệm phạm nhiều tội:
người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi này cấu thành một tội
riêng. Những hành vi phạm tội này có thể có mối liên quan với nhau hoặc không. Ở trong
trường hợp trên A phạm 2 tội là tội cố ý gây thương tích (khoản 5 Điều 134) và tội gây rối
trật tự công cộng (khoản 1 Điều 318).
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội mà A đã thực hiện là bao lâu và
tính từ thời điểm nào?
Trả lời: Căn cứ Điều 27 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
"1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết
thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
a) 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
b) 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
c) 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
d) 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu
trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội
mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù,
thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có
quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ".
Theo đó, A là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điểm d khoản 1 Điều 9 Bộ luật Hình sự 2015,
sửa đổi bổ sung 2017) vì theo khung hình phạt của khoản 5 Điều 134 là phạt tù từ 12 - 20
năm tù cho nên thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với A là 20 năm, bắt đầu từ
01/7/2018 khi A phạm tội cố ý gây thương tích. Tuy nhiên, đang trong thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự tội cũ, thì vào ngày 15/8/2018 A lại phạm tội gây rối trật tự công cộng
theo khoản 1 Điều 318 BLHS (theo đó đối với tội này người phạm tội có thể bị phạt tù từ 3
tháng đến 2 năm) thì ta sẽ tính lại thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự của A là 20 năm tính
từ ngày mà A phạm tội mới tức là ngày 15/8/2018 căn cứ theo quy định tại khoản 3, Điều 27
Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
3. Về tội gây rối trật tự công cộng (Điều 318 BLHS), Tòa án có thể xử phạt 1 năm quản chế
đối với A không? Tại sao?
Trả lời: Ta căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 32 và khoản 6 Điều 91 BLHS 2015, sửa đổi bổ
sung 2017. Theo đó, quản chế là hình phạt bổ sung, Tòa án không thể phạt 1 năm quản chế
đối với A được vì trong trường hợp này A chỉ mới 17 tuổi và theo quy định tại khoản 6 Điều
91 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định: "...Không áp dụng hình phạt bổ
sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội". 

4. Mức hình phạt cao nhất mà Tòa án có thể áp dụng đối với A về tội cố ý gây thương tích
(Điều 134 BLHS)? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời: Bởi vì A 17 tuổi là người chưa thành niên nên căn cứ vào khoản 1 Điều 101 Bộ luật
hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định: 

"1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng
quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không
quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định" 

Theo đó, nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với người chưa
thành niên là không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định. Và theo khoản 5 Điều
134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 thì mức phạt tối đa đối với người phạm tội
theo khoản này là tù chung thân nhưng A (17 tuổi) là người chưa thành niên nên A mức hình
phạt tối đa A có thể nhận là 18 năm tù.

5. Mức tối đa của hình phạt chung của hai tội trên có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu?
Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Trả lời: Khoản 1 Điều 103 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
"1. Khi xét xử cùng một lần người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội thì Tòa án quyết định hình
phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.
Nếu hình phạt chung là cải tạo không giam giữ thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng
không quá 03 năm. Nếu hình phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được
áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm
tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội."
Theo đó, trong trường hợp này ta sẽ tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại Điều 55.
Theo đó, đối với tội cố ý gây thương tích theo khoản 5 Điều 134 BLHS thì mức tối đa của
hình phạt này là tù chung thân và đối với tội gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 Điều 318
BLHS thì mức tối đa của hình phạt này là 2 năm tù. Tuy nhiên, vì A mới 17 tuổi: "Nếu hình
phạt chung là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá
18 năm đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội" thì mức tối đa hình phạt
chung của A là 18 năm.
6. Mức hình phạt thấp nhất mà Tòa án có thể quyết định đối với A về tội cố ý gây thương
tích nếu áp dụng Điều 54 BLHS đối với tội này.
Trả lời:
A phạm tội cố ý gây thương tích, theo Điều 134 quy định có 6 khung hình phạt:
- Vi phạm tại khoản 1 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm
- Vi phạm tại khoản 2 thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm
- Vi phạm tại khoản 3 thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm
- Vi phạm tại khoản 4 thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm
- Vi phạm tại khoản 5 thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân
- Vi phạm tại khoản 6 thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng
đến 02 năm
Trong trường hợp của A thì A đã phạm phải tội tại Khoản 5 Điều 134, nếu áp dụng Điều 54
Bộ luật hình sự 2015 để quyết định mức hình phạt thấp nhất đối với A, sẽ có các trường hợp:
- Trường hợp 1: Nếu A có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ
luật hình sự 2015 thì theo Khoản 1 Điều 54 Bộ luật này Tòa án sẽ quyết định mức hình phạt
cho A là tại Khoản 4 Điều 134 Bộ luật này từ 07 năm tù đến 14 năm tù.
- Trường hợp 2: Theo Khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự 2015, nếu A phạm tội lần đầu là
người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể, thì lần này không
cần bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn, mà Tòa án có thể quyết định khung
hình phạt tại Khoản 1 là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm hoặc Khoản 2 bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm hoặc Khoản 3 bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm hoặc Khoản 4 bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm của Điều 134 Bộ luật hình
sự 2015 đối với A.
- Trường hợp 3: Được quy định tại Khoản 3 Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung
2017): “ Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này
nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ
nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc
chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi
rõ trong bản án”
Bài tập 21
A (17 tuổi) phạm tội cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 171 BLHS và bị Tòa án
tuyên phạt 1 năm tù, phải bồi thường cho người bị hại 3 triệu đồng và nộp án phí.
Anh (chị) hãy xác định:
1.Thời hiệu thi hành bản án về tội cướp giật tài sản nêu trên là mấy năm? Chỉ rõ căn cứ pháp
lý.
2.Thời điểm xóa án tích về tội cướp giật tài sản, nếu ngày 1/7/2019, A chấp hành xong hình
phạt tù, ngày 30/7/2019 A thực hiện xong bồi thường cho người bị hại và ngày 1/8/2019 A đã
đóng án phí.
3.Tòa án có thể phạt tiền theo khoản 5 Điều 171 BLHS đối với A được không? Tại sao?
Trả lời:
1. Theo điểm a khoản 2 Điều 60 thì A bị tuyên phạt 1 năm tù thì thời hiệu thi
hành bản án về tội cướp giật tài sản là 05 năm.
2. A 17 tuổi phạm tội tại khoản 1 Điều 171 BLHS. Căn cứ theo điểm a khoản
1 Điều 9 BLHS 2015 thì đây là tội nghiêm trọng. A chưa đủ 18 tuổi nên căn
cứ theo điểm b Khoản 1 Điều 107 BLHS 2015 quy định về xóa án tích thì
người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm nghiêm trọng
hoặc thì được coi là không có án tích.
3. Theo khoản 5 Điều 171 BLHS thì phạt tiền là hình phạt bổ sung của tội
cướp giật tài sản. Theo khoản 6 Điều 91 BLHS thì không áp dụng hình phạt
bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, kể cả phạt tiền. Vì vậy, Tòa án
không thể phạt tiền theo khoản 5 Điều 171 BLHS đối với A.

Bài tập 22
A phạm tội (tội X) và bị Tòa án tuyên phạt 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian
thử thách là 4 năm. Chấp hành được 2 năm thử thách thì A bị đưa ra xét xử về một tội phạm
khác (tội Y).
Hãy tổng hợp hình phạt đối với A trong trường hợp nếu tội phạm Y Tòa án tuyên:
1.Phạt tù 3 năm.
Theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP: “Trường hợp người được hưởng án
treo phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội phạm
mới và tổng hợp với hình phạt tù của bản án trước theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 của
Bộ luật Hình sự…” và khoản 5 Điều 65 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 nên hình phạt
chung mà A phải nhận là: 2 năm tù (tội X) + 3 năm tù (Tội Y) = 5 năm tù (theo điểm a khoản
1 Điều 55 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017).
2.Phạt cải tạo không giam giữ 2 năm.
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 55 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì hình phạt cải tạo
không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam
giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù, tương đương 2 năm cải tạo không giam giữ (24 tháng)
chuyển đổi thành 8 tháng phạt tù. Do đó, theo khoản 1 Điều 7 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP
và khoản 5 Điều 65 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì hình phạt chung mà A phải nhận
là: 2 năm tù (tội X) + 8 tháng tù (tội Y) = 2 năm 8 tháng tù.
3.Phạt tiền 5 triệu đồng.
Căn cứ theo điểm đ khoản 1 Điều 55 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì hình phạt tiền
không tổng hợp với các loại hình phạt khác cùng với khoản 1 Điều 7 Nghị quyết
02/2018/NQ-HĐTP và khoản 5 Điều 65 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017, thì hình phạt mà
A phải chấp nhận trong trường hợp này là: 2 năm tù (tội X) và tiền phạt 5 triệu đồng (tội Y).
Bài tập 24
Pháp nhân thương mại A bị Tòa án tuyên phạt 500 triệu đồng về hành vi buôn lậu (khoản 1
và điểm a khoản 6 Điều 188 BLHS).
Anh (chị) hãy xác định:
1. Có thể áp dụng các hình phạt bổ sung nào đối với pháp nhân thương mại A? Tại sao?
Theo khoản 2 Điều 33 Luật hình sự 2015 quy định thì pháp nhân thương mại A có thể áp
dụng các hình phạt bổ sung sau:
+ Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 80).
+ Cấm huy động vốn (Điều 81)
Vì phạt tiền là hình phạt chính của pháp nhân thương mại A nên không thể áp dụng hình phạt
tiền là hình phạt bổ sung căn cứ theo khoản 3 và điểm c khoản 2 Điều 33 Luật hình sự 2015.
2. Thời hiệu thi hành bản án đối với pháp nhân thương mại A là bao lâu và tính từ khi
nào? Tại sao?
Trả lời: Theo khoản 3, khoản 4 Điều 60 BLHS thì thời hiệu thi hành bản án đối với pháp nhân
thương mại A là 5 năm và được tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Nếu trong thời hiệu
thi hành bản án mà pháp nhân thương mại bị kết án lại thực hiện hành vi phạm tội mới thì
thời hiệu tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

You might also like