Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 11

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HỒ CHÍ MINH
Khoa Luật Dân Sự
Lớp Luật Dân Sự 44A.1

BUỔI THẢO LUẬN THỨ BA


CÁC TỘI XÂM PHẠM CON NGƯỜI

Bộ môn: Luật Hình sự - Phần Tội phạm

Giảng viên: ThS. Nguyễn Thị Thùy Dung

Nhóm:

Thành viên:

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 9 năm 2021


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS Bộ luật Hình sự

CTTP Cấu thành tội phạm

TNHS Trách nhiệm hình sự


MỤC LỤC
I. Nhận định Đúng – Sai. Giải thích?
30. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới
đẻ (Điều 124 BLHS).........................................................................................1
31. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định
là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123
BLHS................................................................................................................1
33. Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157
BLHS) chỉ là người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc
giam người.......................................................................................................1
36. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc
sa thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức,
viên chức hoặc người lao động của các cơ quan Nhà nước.........................2
40. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều
cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS).........2
42. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi
chỉ quy định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184
BLHS................................................................................................................3
II. Bài Tập
Bài tập 15..........................................................................................................3
Bài tập 16..........................................................................................................5
Bài tập 19..........................................................................................................6
I. Nhận định Đúng – Sai. Giải thích?
30. Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới đẻ
(Điều 124 BLHS).
Nhận định Sai.
CSPL: Khoản 2 Điều 124 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung 2017.
Giải thích: Vì để hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con
mới đẻ thì cần phải đáp ứng thêm điều kiện nạn nhân là con đẻ của người phạm
tội (người mẹ) và không quá 7 ngày tuổi. Như vậy, vẫn có trường hợp nếu hậu
quả nạn nhân chết là con đẻ của người phạm tội (người mẹ) nhưng đã quá 7
ngày tuổi thì sẽ không được xem là dấu hiệu định tội của Tội vứt bỏ con mới
đẻ.
31. Hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định
là tình tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123
BLHS.
Nhận định Sai.
CSPL: Điều 154 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung 2017.
Giải thích :
Vì ngoài hành vi chiếm đoạt bộ phận cơ thể của người khác chỉ được quy định
là tinh tiết định khung của Tội giết người tại điểm h khoản 1 Điều 123 BLHS.
Thì BLHS 2015 đã quy định thêm tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ
thể người tại Điều 154.
Theo đó, giết người để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân là trường hợp mục đích
tước đoạt tính mạng của người khác để nhằm lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân
bị giết như: tim, gan, thận… còn tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ
thể người là các hành vi dùng tiền hoặc các lợi ích vật chất để trao đổi, mua bán
mô, bộ phận cơ thể người như một loại hàng hóa, hoặc có hành vi chiếm đoạt
mô, bộ phận cơ thể người mà không có mục đích tước đoạt tính mạng để lấy bộ
phận cơ thể của nạn nhân.
33. Chủ thể của Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157
BLHS) chỉ là người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt, giữ hoặc
giam người.
Nhận định Sai.
CSPL: Điều 157 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Giải thích : Theo quy định tại Điều 157 BLHS 2015 thì có thể hiểu Tội bắt, giữ
hoặc giam người trái phái luật được thể hiện ở hành vi khống chế người khác
để tạm giữ hoặc tạm giam họ. Hành vi bắt, giữ hoặc giam người nêu trên phải
trái với pháp luật. Dấu hiệu trái pháp luật được thể hiện qua các đặc điểm sau:
Người không có thẩm quyền nhưng lại thực hiện việc bắt, giữ, giam người
khác. Người có thẩm quyền trong việc bắt, giữ hoặc giam người nhưng thực
1
hiện việc bắt, giữ, giam người không đúng quy định của pháp luật như: Không
có lệnh bắt, hoặc khi có lệnh bắt nhưng lai không lập biên bản theo đúng quy
định không có người chứng kiến, tạm giam quá thời hạn hoặc bắt sai đối
tượng… Do đó chủ thể của tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều
157 BLHS) không chỉ là người không có thẩm quyền mà thực hiện việc bắt,
giữ hoặc giam người mà chủ thể còn có thể là người có thẩm quyền nhưng thực
hiện việc bắt, giữ, giam người không đúng với quy định của pháp luật.
36. Đối tượng tác động của Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa
thải người lao động trái pháp luật (Điều 162 BLHS) chỉ là công chức, viên
chức hoặc người lao động của các cơ quan Nhà nước.
Nhận định Sai.
CSPL: Điều 162 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung 2017.
Giải thích: Đối tượng tác động của tội phạm trên không chỉ bao gồm công
chức, viên chức, người lao động của các cơ quan Nhà nước mà có cả người lao
động nói chung. Tức là người lao động làm việc trong các tổ chức tư nhân (như
trong các trường học, bệnh viện, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, công ty…) cũng
có thể là đối tượng tác động của tội phạm này.
40. Mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác đều
cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182 BLHS).
Nhận định Sai.
CSPL: Điều 182 BLHS 2015, sửa đổi và bổ sung 2017
Giải thích:
Theo cách giải thích tại Thông tư liên tịch số 01/2001/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 25/9/2001 hướng dẫn áp dụng các quy định tại Chương XV
“Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình” của BLHS năm 1999 thì
chung sống như vợ chồng là: “việc người đang có vợ, có chồng chung sống với
người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà
mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai
nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng
thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội
xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan,
đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…”.
Tuy nhiên, hành vi chung sống như vợ chồng sẽ chỉ cấu thành tội phạm khi
thuộc một trong hai trường hợp sau đây:
+ Trường hợp thứ nhất là làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn
đến ly hôn.
+ Trường hợp thứ hai là người vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng đã
bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Việc đã bị xử phạt hành
chính về hành vi này mà còn vi phạm thể hiện thái độ ngang nhiên chống đối,

2
coi thường pháp luật, tính chất nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với các trường
hợp thông thường khác.
Như vậy, không phải mọi trường hợp đang có vợ, có chồng mà kết hôn với
người khác đều cấu thành Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng (Điều 182
BLHS).
42. Giao cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi
chỉ quy định trong cấu thành Tội loạn luân được quy định tại Điều 184
BLHS.
Nhận định Sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 145, Điều 184 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 và
Điều 6 TTLT số 01/2001 ngày 25/09/2001.
Giải thích: Loạn luân là hành vi giao cấu thuận tình, không có có những hành
vi dùng vũ lực hoặc cưỡng ép với người có cùng dòng máu về trực hệ với
người từ đủ 16 tuổi trở lên. Tuy nhiên, nếu hành vi trên thực hiện với các đối
tượng ở những độ tuổi khác nhau thì hành vi đó có thể bị cấu thành vào các tội
khác nhau. Cụ thể, nếu hành vi giao cấu thuận tình với người cùng dòng máu
về trực hệ mà người này từ đủ 13 tuổi đến 16 tuổi thì hành vi đó không phải
cấu thành tội loạn luân mà được cấu thành tội giao cấu với người từ đủ 13 tuổi
đến 16 tuổi được quy định tại khoản 1 Điều 145 BLHS 2015. Vậy hành vi giao
cấu thuận tình với người có cùng dòng máu về trực hệ là hành vi không chỉ quy
định trong Tội loạn luân tại Điều 184 BLHS 2015 mà có thể là Tội giao cấu với
người từ đủ 13 tuổi đến 16 tuổi tại Điều 145 Bộ luật này.
II. Bài Tập
Bài tập 15
A và B cùng đi săn. A nhìn thấy một con gà rừng liền giơ súng lên ngắm
bắn. B thấy gần đó có một người đang bẻ măng nên ngăn đừng bắn và nói
rằng: “Thôi đừng bắn nữa, nhỡ trúng người ta thì chết”. A tiếp tục rê súng
theo con gà rừng và đáp lại: “Mày chưa biết tài bắn của tao à! Chưa bao
giờ tao bắn trượt cả”. Nói xong, A bóp cò, không ngờ đạn trúng vào người
bẻ măng.
Hãy xác định A phạm tội gì nếu:
a. Nạn nhân chết;
b. Nạn nhân bị thương nặng;
c. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%.
Bài Làm
a. Nạn nhân chết
A phạm tội vô ý làm chết người theo khoản 1 Điều 128 BLHS 2015 sửa đổi, bổ
sung 2017.
Khách thể:

3
- Khách thể mà hành vi phạm tội của A xâm phạm đến là tính mạng của con
người.
- Đối tượng tác động là con người, cụ thể là người bẻ măng.
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: A ngắm bắn mặc cho B khuyên nhủ, A vẫn tiếp tục rê
súng theo để bắn con gà rừng nhưng không may A lại bắn trúng người bẻ
măng. Hành vi của A là hành vi vi phạm quy tắc chung trong việc đảm bảo an
toàn tính mạng cho con người trong đời sống xã hội.
- Hậu quả: nạn nhân chết
- Mối quan hệ nhân quả: hành vi A ngắm bắn, mặc cho lời can ngăn của B, A
vẫn tiếp rê súng, bóp cò và bắn trúng người bẻ măng là nguyên nhân khiến nạn
nhân chết.
Mặt chủ quan:
- Căn cứ vào tình tiết được đề cập, có thể thấy đây là lỗi vô ý vì quá tự tin. Vì
khi được B can ngăn, A cũng đã thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội do
hành vi của mình có thể xảy ra nhưng đã đáp lại rằng: “Mày chưa biết tài bắn
của tao à! Chưa bao giờ tao bắn trượt cả”, thể hiện sự tự tin vào tài bắn súng
của mình và A đã tự loại bỏ đi hậu quả nguy hại cho xã hội này vì cho rằng nó
không xảy ra.
Chủ thể:
- A là chủ thể thường, chỉ cần đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đủ năng lực
trách nhiệm hình sự.
b. Nạn nhân bị thương nặng
A phạm tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
theo khoản 1 Điều 138 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
Khách thể:
- Khách thể mà hành vi phạm tội của A xâm phạm đến là sức khoẻ của con
người.
- Đối tượng tác động là con người, cụ thể là người bẻ măng.
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: A ngắm bắn mặc cho B khuyên nhủ, A vẫn tiếp tục rê
súng theo để bắn con gà rừng nhưng không may A lại bắn trúng người bẻ
măng. Hành vi của A là hành vi vi phạm quy tắc chung trong việc đảm bảo an
toàn đối với sức khỏe của người khác.
- Hậu quả: nạn nhân bị thương nặng (tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%)
- Mối quan hệ nhân quả: hành vi A ngắm bắn, mặc cho lời can ngăn của B, A
vẫn tiếp rê súng, bóp cò và bắn trúng người bẻ măng là nguyên nhân khiến nạn
nhân bị thương nặng.
Mặt chủ quan:

4
- Căn cứ vào tình tiết được đề cập, có thể thấy đây là lỗi vô ý vì quá tự tin. Vì
khi được B can ngăn, A cũng đã thấy trước hậu quả nguy hại cho xã hội do
hành vi của mình có thể xảy ra nhưng đã đáp lại rằng: “Mày chưa biết tài bắn
của tao à! Chưa bao giờ tao bắn trượt cả”, thể hiện sự tự tin vào tài bắn súng
của mình và A đã tự loại bỏ đi hậu quả nguy hại cho xã hội này vì cho rằng nó
không xảy ra.
Chủ thể:
- A là chủ thể thường, chỉ cần đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và đủ năng lực
trách nhiệm hình sự.
c. Nạn nhân bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21%
Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có cấu
thành tội phạm vật chất mô hình 2, nghĩa là dấu hiệu hậu quả là cơ sở để xác
định tội phạm. Theo đó, khoản 1 Điều 138 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017
có quy định hậu quả là nạn nhân có tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.
Nhưng vì nạn nhân chỉ bị thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể 21% nên A không
phạm tội nào trong trường hợp này.
Bài tập 16
Ông M và bà H lấy nhau đã được 30 năm nhưng hai người không có con
chung. Ông M thường xuyên vắng nhà, có khi nhiều ngày không hề về
nhà. Quan hệ của M và H cứ như thế đã nhiều năm. Cuộc sống tẻ nhạt của
bà H thật sự trở thành địa ngục khi bà biết ông M lừa dối bà: ông M đang
có vợ bé và đang có một con chung với người vợ này.
Đúng vào ngày sinh nhật thứ 53 của bà H, ông M trở về nhà chìa vào mặt
bà H tờ đơn xin ly hôn. Bà H buồn rầu nói qua hai hàng nước mắt: “Ông
thật tàn ác, hôm nay là sinh nhật tôi cơ mà! Tôi hận ông đã lừa dối tôi suốt
bấy nhiêu năm. Không cần đơn chi hết. Tôi sẽ chết cho ông rảnh nợ
mà đi lấy người ta. Ông đừng có cản tôi, tôi đã quyết vậy rồi”.
Ông M buông lời lạnh lùng: “Bà làm gì mặc xác bà. Tôi cần một chữ ký
của bà vô tờ đơn gửi tòa thôi”.
Nghe vậy bà H leo lên thành cửa sổ (đang mở sẵn), ông M vẫn ngồi yên ở
ghế salon mà không nói gì thêm. Khoảng cách giữa chỗ ông M ngồi và
thành cửa sổ là 5m. Bà H nhảy xuống, đầu đập xuống nền xi măng, vỡ hộp
sọ và chết (Nhà ông M và bà H ở tầng 5 chung cư T). Theo tin báo của
nhân dân, công an đã tạm giữ ông M để làm rõ cái chết của bà H.
Hãy xác định ông M có tội không? Nếu có là tội gì?
Bài Làm
Trong tình huống trên, ông M có tội mà cụ thể là tội vi phạm chế độ một vợ,
một chồng được quy định tại Điều 182 BLHS 2015 vì:
+ Về dấu hiệu chủ thể: Ông M có đủ độ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự
quy định tại Điều 12, 21 BLHS 2015 và ông M đang có vợ là bà H

5
+ Về khách thể: Chế độ một vợ, một chồng
+ Về dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm:
 Hành vi: Khi đang trong thời kỳ hôn nhân với bà H thì ông M có vợ bé
và con chung với người phụ nữ khác.
 Hậu quả: Dẫn đến việc ông M đòi ly hôn với bà H, đồng thời khiến bà H
tự sát bằng cách nhảy xuống từ tầng 5 chung cư T vỡ hộp sọ và chết
chết.
+ Về mặt chủ quan của tội phạm: Ông M nhận thức rõ việc chung sống với
người khác là hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng, thấy trước được hậu
quả nghiêm trọng nhất định xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng vẫn mong muốn
hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra mà cụ thể trong tình huống trên ông M đã bỏ
mặc bà H và không ngăn cản bà tự sát.
Bài tập 19
A và B là vợ chồng có một đứa con chung là C (8 tháng tuổi). Cuộc sống
gia đình khó khăn, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn. A thường nhậu
nhẹt say xỉn về đánh đập mẹ con chị B. Đêm 29/7, sau khi đi nhậu về, A
tiếp tục đánh đập, chửi bới chị B rồi vứt quần áo đuổi hai mẹ con ra khỏi
nhà mặc dù ngoài trời đang mưa bão. Chị B khóc van xin A mở cửa nhưng
A kiên quyết không chịu. Quá tuyệt vọng, chị B bế con ra bờ sông gần nhà
nhảy xuống sông tự sát. Lúc này, ông X đi ngang qua thấy vậy nhảy xuống
sông cứu hai mẹ con nhưng chỉ cứu được chị B, cháu C chết do ngạt nước.
Trong tình huống trên, ai phạm tội? Nếu có phạm tội gì? Tại sao?
Trong tình huống trên, A và B là người phạm tội.
Bài Làm
Tội danh mà A phạm phải là Tội bức tử (Điều 130 BLHS 2015);
Vì hành vi của A đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội bức tử. Cụ thể:
Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của chị
Khách B.
thể - Đối tượng tác động: Chị B và cháu C (8 tháng
tuổi).
Mặt - Hành vi: A thường nhậu nhẹt say xỉn về đánh
khách đập mẹ con chị B. Đêm 29/7, sau khi đi nhậu về,
quan A tiếp tục đánh đập, chửi bới chị B rồi vứt quần
áo đuổi hai mẹ con ra khỏi nhà mặc dù ngoài trời
đang mưa bão. Như vậy, A đã có hành vi đối xử
tàn ác, thường xuyên đánh đập, ức hiếp, ngược
đãi người lệ thuộc vào mình là mẹ con chị B.
- Hậu quả: Chị B bế con ra bờ sông gần nhà, nhảy

6
xuống sông tự sát, khiến cháu C tử vong.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi:
Hành vi đánh đập, đuổi mẹ con chị B ra khỏi nhà
trong thời tiết mưa bão là nguyên nhân trực tiếp
khiến chị B mang con ra sông tự sát và khiến
cháu C tử vong.
A thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. A hoàn
Mặt
toàn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm
chủ
cho mẹ con chị B, thấy được hậu quả sẽ xảy ra nhưng
quan
vẫn mong muốn thực hiện.
A thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này –
Chủ
chủ thể thường (Có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
thể
luật định).

Tội danh mà B phạm phải là Tội giết người (Điều 123 BLHS 2015).
Vì hành vi của B đã đủ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của Tội giết người. Cụ
thể:
Dấu hiệu pháp lý
- Khách thể: Tính mạng, quyền được sống của cháu
C.
Khách - Đối tượng tác động: Cháu C – con người đang
thể sống (lúc này cháu C đã được 8 tháng tuổi nên
trường hợp này chị B không phạm phải Tội giết
con mới đẻ theo Điều 124 BLHS 2015).
- Hành vi: Chị B đem con ra bờ sông, nhảy xuống
sông tự sát.
Mặt
- Hậu quả: Cháu C tử vong do ngạt nước.
khách
- Mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả và hành vi:
quan
Hành vi bế con ra bờ sông tự tử của chị B là
nguyên nhân trực tiếp khiến cháu c tử vong.
Chị B thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Chị B
Mặt
hoàn toàn nhận thức được hành vi của mình là nguy
chủ
hiểm cho cháu C và thấy được hậu quả là cháu C sẽ
quan
chết nhưng vẫn mong muốn thực hiện.
Chị B thỏa mãn điều kiện về chủ thể của tội danh này
Chủ
– chủ thể thường (Có năng lực TNHS và đạt độ tuổi
thể
luật định).

7
8

You might also like