Professional Documents
Culture Documents
Triết-83-Phí Thị Hằng Nga
Triết-83-Phí Thị Hằng Nga
⸎⸎⸎⸎⸎
BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN
Đề bài: “Trình bày mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả?
Từ việc nghiên cứu mối quan hệ biện chứng đó có thể rút ra ý nghĩa
phương pháp luận gì? Nếu một số ví dụ minh họa.
Mã đề: 83
0
MỤC LỤC
PHẦN 1 MỞ ĐẦU..............................................................................................2
PHẦN 2 NỘI DUNG..........................................................................................3
I. Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả..............................3
1.1 Khái niên nguyên nhân kết quả......................................................................3
1.2 Mối quan hệ giữa nguyên nhân kết quả ........................................................3
1.3 Nguyên nhân kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau.........................................3
1.4 Phân loại nguyên nhân...................................................................................4
II. Ý nghĩa phương pháp luận...........................................................................4
III. Ví dụ minh họa.............................................................................................5
PHẦN 3 KẾT LUẬN .........................................................................................6
Tài liệu tham khảo................................................................................................7
1
PHẦN 1- MỞ ĐẦU
*****
Voltaire đã từng nói rằng "Tình cờ là một từ vô nghĩa, không gì có thể tồn
tại mà không có nguyên nhân”. Tương lai được mua bằng hiện tại, quá khứ
chính là nguyên nhân của hôm nay. Nhân quả là một trong những mối quan hệ
tự nhiên đầu tiên được phản ánh trong bộ óc con người và là duy nhất đối với
thế giới vật chất, hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn của chủ sở hữu. Giống
như định luật bảo toàn và chuyển hóa cơ năng của Lomonosov. (Nga) cũng
được chiếu nhưng mọi tác động đều xuất phát từ nguyên nhân nào đó. Vấn đề là
ý thức của chúng ta đã không tiếp nhận chúng. Hơn nữa, trong các vận động của
thực tế xã hội, quan hệ nhân quả là sự lặp đi lặp lại nhiều nhất và phổ biến nhất.
Từ đó qua bài tập, hãy cùng nhau tìm hiểu về mối quan hệ giữa nguyên
nhân và kết quả .
2
PHẦN 2 – NỘI DUNG
1.3 Nguyên nhân kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau
Trong quá trình vận động và phát triển, nguyên nhân có thể chuyển
hóa thành kết quả. Tại một thời điểm của mối quan hệ là nguyên nhân thì
ở một thời điểm khác của mối quan hệ lại là kết quả. Và ngược lại: một
hiện tượng nào đó là kết quả do một nguyên nhân nào đó gây ra. Đến lượt
3
nó sẽ trở thành nguyên nhân của hiện tượng thứ ba. Và quá trình này
không bao giờ kết thúc, tạo ra một chuỗi kết quả vô hạn.
4
Trong lao động con người phải chế tạo và sử dụng các công cụ lao
động, tiến hành các thao tác và hành động lao động (cách để làm ra cái)
tác động vào đối tượng lao động để làm ra sản phẩm. ý thức của con
người được hình thành và thể hiện trong quá trình lao động.
nhờ có lao động con người biết phát triển công cụ, cải thiện đời
sống. Con người ý thức được nguồn nuôi sống bản thân đến từ thiên
nhiên để khai thác thiên nhiên thông qua quá trình cải tiến công cụ lao
động. Việc sử dụng đồ đá để làm công cụ dần tìm tới việc tạo ra lửa trở
thành bước ngoặt to lớn trong qua trình tiến hóa mấy triệu năm và giúp
con người tồn tại. Hoặc có lao động con người bắt đầu hòa đồng với
nhau, sống với nhau thành từng nhóm, biết được vai trò của mình trong
nhóm và thông qua quá trình lao động đã dẫn tới quá trình phân cấp và
phân hóa xã hội. Tất cả đều thuộc vào ý thức của con người.
VD2: Vứt rác bừa bãi, sử lí các chất hóa học không đúng cách như
thuốc diệt cỏ v.v.. là nguyên nhân làm ô nhiễm đất.
Ô nhiễm đất là kết quả của việc các chất thải không được sử lí
đúng cách nó không chỉ từ nguyên nhân vứt rác bừa bãi mà còn từ nhiều
nguyên nhân khác.
VD3: Sự biến đổi mầm mống trong hạt lúa( nguyên nhân ) => cây
lúa ( kết quả ). Sự biến đổi mầm muống trong hạt lúa bao giờ cùng xảy ra
trước còn cây lúa là kết quả.
VD4: thành công của công cuộc đổi mới ở trên đất nước ta bắt
nguồn từ rất nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là sự lãnh đạo đúng đắn, tài
tình của Đảng. Khi thực tiễn đã nảy sinh những hiện tượng mới, khi cảm
thấy nền kinh tế quốc dân đang bị trì trệ, không còn lối thoát, chúng ta đã
nghiên cứu lý luận, đúc kết thực tiễn và đề ra chính sách đổi mới. Đồng
thời, ngày đó chúng ta cũng thực hiện một công việc ở tầm vĩ mô rất sai
lầm, đó là liên tiếp thực hiện những cuộc đổi tiền. Điều này đã làm cho
nền tài chính quốc gia bị đảo lộn, càng ngày cảng mất cân bằng thu - chỉ,
làm cho đồng tiền Việt Nam ngày càng mất giá và sức sống của toàn bộ
nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tất cả những cái đó đã dồn ép
chúng ta và bắt buộc chúng ta phải thay đổi một cách cơ bản đường lối
kinh tế của đất nước. Và kết quả là sự ra đời của đường lối đổi mới.
Thành công của công cuộc đổi mới còn bắt nguồn trực tiếp từ sự chỉ đạo
5
tầm vĩ mô của Đảng và Chính phủ rất đúng đắn và kịp thời. Đặc biệt là
còn bắt nguồn từ những hoạt động kinh tế của một cộng đồng cư dân sáu,
bảy chục triệu người, quyết tâm ra khỏi tình trạng khủng hoảng, quyết
tâm thoát nghèo, thoát đói, thoát nghèo nàn, lạc hậu. Rõ ràng là một kết
quả có thể do rất nhiều nguyên nhân sinh ra. Trong quá trình hoạt động
thực tiễn chúng ta càng phải chăm chủ nghiên cứu những tác động này để
phối hợp tạo nên sức mạnh tổng hợp và những thắng lợi mới trong công
cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
VD 5: Ngày là sự nối tiếp của đêm nhưng không phải là nguyên
nhân của đêm. Ở đây sự phân biệt không phải là thời gian mà là mối liên
hệ hiện thực giữa nguyên nhân và kết quả. Hai hiện tượng, hiện tượng
trước không phải là nguyên nhân của hiện tượng sau chỉ là ở chỗ sự tác
động của nó không có liên quan gì đến sự xuất hiện của hiện tượng sau.
Còn trong quan hệ nhân quả, thì bao giờ sự tác động của nguyên nhân là
cái sinh ra kết quả. Sự kế tục giữa các mùa ở trong năm cũng như vậy. Đó
là hậu quả của những vị trí khác nhau của trái đất so với mặt trời trong
vòng quay của trái đất xung quanh mặt trời, chứ không phải mùa xuân
sinh ra mùa hè, mùa hè sinh ra mùa thu ...
Một sự vật, hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra.
Những nguyên nhân này có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết
quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại nguyên
nhân (bên trong hay bên ngoài, chủ yếu hay thứ yếu, trực tiếp hay gián
tiếp, chủ quan hay khách quan v.v.) để đánh giá đúng vai trò, vị trí của
từng nguyên nhân với việc hình thành kết quả. Đồng thời phải nắm được
các nguyên nhân tác động cùng chiều hoặc tác động ngựơc chiều nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân nghịch chiều.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng kết quả không tồn tại thụ động
mà có tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy trong hoạt động
thực tiễn chúng ta phải biết khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được
để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự vật phát triển.
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2021), Giáo trình Triết học Mác-Lenin ( dành cho
bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Sự thật, Hà Nội.
2- Thoa Pham, Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, Trường
đại học Tài chính- Marketing.