Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

I/ TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP

 Về quan hệ vợ chồng:
Ngày 26/03/1999, bà Nguyễn Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết
hôn tại UBND xã Thượng Đạt, Tp. Hải Dương. Hai người đã có với nhau 02 người
con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày 04/01/2000) và cháu Nguyễn Đức Anh
(sinh ngày 13/06/2007). Hai vợ chồng sinh sống với nhau được khoảng 02 năm thì
phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn được khiến tình cảm
vợ chồng không còn. Vì thế, về quan hệ vợ chồng, bà Hảo xin được ly hôn ông Nguyệt
và ông Nguyệt đồng ý theo Biên bản lời khai tại Tòa ngày 18/01/2016 cùng với 03
Biên bản hòa giải vào các ngày 19/05/2016, 17/06/2016 và 12/07/2016 tại trụ sở Tòa
án nhân dân thành phố Hải Dương.
 Về con chung:
Trong thời kì hôn nhân, ông Nguyệt và bà Hảo có với nhau 02 người con chung
là cháu Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày 04/01/2000) và cháu Nguyễn Đức Anh (sinh
ngày 13/06/2007).
Ông Nguyệt đề nghị được nuôi cả hai cháu. Riêng cháu Nguyễn Đức Anh xin
được ở với ông Nguyệt, không yêu cầu bà Hảo phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung
vì bà Hảo không đủ điều kiện để nuôi con, không cho cháu Nhi đi học cấp 3.
Bà Hảo đề nghị xin được nuôi cả 2 cháu và không yêu cầu anh Nguyệt cấp
dưỡng tiền nuôi con chung.
 Về tài sản chung:
Một là, một thửa đất số: 496, tờ bản đồ số: 01 với diện tích là 216 m 2 tọa lạc tại
xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương đã được cấp chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên bà Hảo và ông Nguyệt từ năm 2005. Bà Hảo đề nghị được chia ½
diện tích đất trên và tự nguyện nhận phần đất không có tài sản. Không yêu cầu ông
Nguyệt trả chênh lệch về tài sản nếu có. Còn ông Nguyệt thì không đồng ý chia cho bà
Hảo quyền sử dụng đất vì cho rằng đất này là của bố mẹ anh em ông Nguyệt, không
phải của mình. Ông Nguyệt đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy giấy chứng nhận nêu
trên để cấp lại cho bố mẹ đẻ mình vì cho rằng việc cấp giấy này là sai.
Hai là, thửa đất ruộng ao khoán tọa lạc tại địa chỉ: Bãi Nam, Khu dân cư số 02
Thượng Trệt, xã Thượng Đạt, Tp. Hải Dương với diện tích là 1965 m 2 để sử dụng vào
mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Bà Hảo có đề nghị được thuê khoán lại một nửa
diện tích đất trên, các tài sản trên đất thuộc về đất thuê khoán của bên nào thì bên đó
được sử dụng. Còn ông Nguyệt thì có đề nghị không đồng ý đề nghị chia đôi một nửa
diện tích đất này với bà Hảo.

1
Ba là, về tài sản trên đất có nhà và một số công trình phụ, chị Hảo không đề
nghị chia tài sản trên đất, xin được lấy phần không có tài sản trên đất. Còn anh Nguyệt
thống nhất giá trị về các tài sản trên đất với cô Hảo và xin được chia đôi tài sản này.
 Về các khoản nợ chung:
Anh Nguyệt và chị Hảo trong thời kì hôn nhân đã thực hiện việc vay có tài sản
đảm bào là Giấy chứng nhận QSDĐ số AC382971 tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Việt Nam, chi nhánh Thành phố Hải Dương là 03 (ba) lần, cụ thể như
sau:
 Vay lần 1 vào ngày 18/02/2011 với số tiền vay là 30.000.000 đồng. Số tiền vay
này đã được ông Nguyệt bà Hảo thanh toán cả gốc lẫn lãi.
 Vay lần 2 vào ngày 20/03/2013 với số tiền vay là 20.000.000 đồng. Số tiền vay
nay đã được ông Nguyệt bà Hảo thanh toán.
 Vay lần 3 vào ngày 13/11/2014 với số tiền vay là 30.000.000 đồng. Ông
Nguyệt đã trả được 10.000.000 đồng tiền gốc.
Như vậy, tổng số tiền nợ ông Nguyệt và bà Hảo còn nợ là 20.000.000 đồng bao
gồm tiền gốc và tiền lãi phát sinh.
II. PHẦN TRÌNH BÀY CỦA NGUYÊN ĐƠN:
Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
 Yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn Nguyệt;
 Yêu cầu được nuôi 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh 04/01/2000) và
Nguyễn Đức Anh (sinh 13/6/2007), không yêu cầu ông Nguyệt cấp dưỡng.
 Yêu cầu chia đôi tài sản chung là nhà, đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện
tích 216 m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
Các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có
căn cứ và hợp pháp:
- Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/3/1999;
- Giấy khai sinh của cháu Nguyễn Đức Anh 13/6/2007;
- Giấy khai sinh của cháu Nguyễn Thị Nhi 04/01/2000;
- Bản sao sổ hộ khẩu;
- 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H497 cấp ngày
31/12/2005;
III. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN:
1. Quan hệ pháp luật tranh chấp:

2
Đây là tranh chấp trong lĩnh vực về hôn nhân và gia đình, cụ thể là “Tranh chấp
về ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn” căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28
BLTTDS.
2. Đương sự trong vụ án:
 Nguyên đơn:
Người khởi kiện: Nguyễn Thị Hảo.
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 68 BLTTDS.
 Bị đơn:
Người bị khởi kiện: Nguyễn Văn Nguyệt.
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 68 BLTTDS.
 Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
 PGD Tiền Trung thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thông
Việt nam, chi nhánh Tp. Hải Dương tọa lạc tại địa chỉ: Khu Tiền Trung,
phường Ái Quốc, Tp. Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
 Bà Nguyễn Thị Thoa.
 Anh Nguyễn Văn Quyết.
 Anh Nguyễn Văn Chuyển.
Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 68 BLTTDS.
3. Thời hiệu khởi kiện:
Không áp dụng thời hiệu khởi kiện vì đây là tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình. Chỉ áp dụng thời hiệu khởi kiện theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một
bên hoặc các bên được quy định tại khoản 2 Điều 184 BLTTDS 2015.
4. Thẩm quyền Tòa án:
 Thẩm quyền chung:
 Đây là tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS.
 Thẩm quyền theo cấp xét xử:
 Cấp sơ thẩm:
 Trong trường hợp thông thường: do Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm
quyền xét xử căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS.
 Trong trường hợp cần thiết mà Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thể tự mình
lấy lên hoặc theo đề nghị của Tòa án nhân dân cấp huyện thì thẩm quyền
xét xử thuộc thẩm quyền Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
 Cấp phúc thẩm:

3
 Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị bản án dân sự sơ thẩm thì Tòa án cấp
trên trực tiếp của cấp sơ thẩm sẽ có thẩm quyền xét xử căn cứ theo quy
định tại Điều 270 BLTTDS.
 Thẩm quyền theo lãnh thổ:
 Căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì thẩm quyền
theo lãnh thổ của Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. Trong vụ án này, bị
đơn có nơi cư trú ở thành phố Hải Dương.
Vì vậy, Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương có thẩm quyền thụ lý vụ
án.
5. Thủ tục “tiền Tố tụng”:
Đây là vụ án dân sự tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Vì thế, bắt
buộc phải tiến hành hòa giải cơ sở trước khi vụ án được đưa ra xét xử căn cứ theo quy
định tại Điều 205 BLTTDS và Điều 52 Luật Hôn nhân gia đình 2014.
6. Văn bản pháp luật áp dụng:
 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
 Luật Hôn nhân gia đình 2014
 Nghị định 126/2014 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân gia đình 2014
 Luật đất đai 2003
IV. CÂU HỎI DỰ KIẾN TẠI PHIÊN TÒA:
1. Hỏi bị đơn ông Nguyễn Văn Nguyệt:
1.1. Ông cho biết hiện tại ông làm gì và thu nhập như thế nào?
1.2. Ông cho biết cuộc sống hôn nhân của ông và bà Hảo như thế nào? Hai người
sống ly thân từ lúc nào?
1.3. Ông và bà Hảo phát sinh mâu thuẫn vợ chồng từ thời điểm nào? Mâu thuẫn đó
là gì?
1.4. Ông thường làm gì để giải quyết mâu thuẫn giữa hai người? Ông có chửi, hay
đánh đập bà Hảo không?
1.5. Gia đình ông có biết về việc mâu thuẫn của hai người không?
1.6. Ông có thường xuyên sử dụng rượu cùng bạn bè hay không?
1.7. Ông có đóng góp cho gia đình và chăm sóc nuôi dạy các con ông hay không?
1.8. Ông có biết lý do tại sao dẫn đến hôn nhân tan vỡ như hôm là do ai gây ra
không?
1.9. Ông đang sống chung với cháu Nguyễn Đức Anh đúng không? Ông kể cho
cháu Anh nghe việc mẹ cháu không cho cháu Nhi đi học đúng không?

4
1.10 Ông với bà Hảo có nợ chung không? Có yêu cầu tòa án giải quyết không?
1.11. Thửa số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m 2 là do cha mẹ ruột của ông tặng
cho sau khi ông cưới bà Hảo đúng không? Ông và bà Hảo có xây dựng nhà và cải
tạo lại đối với phần đất này không?
1.12. Khi Ủy ban nhân dân huyện Nam Sách cấp GCN quyền sử dụng đối với thửa
đất 496 cho vợ chồng ông thì mọi người trong gia đình ông có phản đối gì không?
2. Hỏi nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hảo
2.1. Bà cho biết hiện tại bà làm nghề gì và thu nhập như thế nào?
2.2. Mâu thuẫn giữa hai người bắt đầu từ khi nào? Nguyên nhân mâu thuẫn là gì?
Gia đình bà có biết về mâu thuẫn của hai ông bà không?
2.3. Khi xảy ra mâu thuẫn ông Nguyệt có chửi, đánh đập bà và các con không?
Có ai chứng kiến biết việc này không?
2.4. Những lúc ông Nguyệt chửi và đánh đập bà thì bà có báo chính quyền địa
phương giúp đỡ không?
2.5. Ông Nguyệt có đóng góp gì phụ bà để chăm lo gia đình và các cháu hay
không?
2.6. Từ lúc sinh cháu Đức Anh thì ai là người trực tiếp chăm sóc cháu?
2.7. Theo như trong lời khai của bà thì hai vợ chồng thực tế đã sống li thân khoảng
01 năm nay đúng không?
2.8. Bà có lường trước những khó khăn nếu sau khi được ly hôn một mình phải
gánh vác nuôi 2 con nhỏ, nuôi dạy chăm lo cho con ăn học trở thành người có ích
cho xã hội?
2.9. Bà có ý kiến gì thêm trong phiên tòa hôm nay không?
3. Hỏi cháu Nguyễn Thị Nhi
3.1. Hiện nay cháu có đi học không? Học lớp mấy?
3.2. Giữa ba và mẹ cháu thì ai quan tâm tới cháu nhiều hơn?
3.3. Khi ở cùng mẹ ba cháu có thường xuyên sang thăm cháu không?
3.4. Ba, mẹ ly hôn cháu muốn về sống với ai?
4. Hỏi cháu Nguyễn Đức Anh
IV.1.Năm nay cháu Đức Anh mấy tuổi? Cháu đang học lớp mấy? Cháu học
ở trường nào?
IV.2.Khi sống cùng ba Nguyệt, ba có cho cháu gặp mẹ Hảo và chị Nhi
không?
IV.3.Khi cháu gặp mẹ Hảo ba cháu có thái độ gì không?

5
IV.4.Nếu ba, mẹ ly hôn cháu muốn về sống với ai?

V. BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUYÊN ĐƠN:


Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện viện kiểm sát,
Thưa các vị luật sư đồng nghiệp, cùng toàn bộ quý vị đã có mặt trong
phiên tòa sơ thẩm ngày hôm nay,
Tôi là Luật sư Trần Kim T thuộc Văn phòng luật sư Kim T và cộng sự - Đoàn
Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hảo và được
sự chấp thuận của Quý Tòa, tôi tham gia phiên toà hôm nay với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hảo trong vụ án
dân sự “tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” với bị đơn là ông Nguyễn Văn
Nguyệt.
Qua quá trình thu thập hồ sơ và nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ và lời khai
của các bên cung cấp trong vụ án này, tôi xin phép được đưa ra các quan điểm
và luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tôi như sau:
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 02/01/2016 gửi Tòa án nhân dân thành phố Hải
Dương thì nội dung vụ kiện như sau:
Nguyên đơn bà Hoàng Thị Hảo (địa chỉ Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành
phố Hải Dương) khởi kiện ly hôn với chồng là ông Nguyễn Văn Nguyệt (địa chỉ
Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương).
Nội dung khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
 Vấn đề thứ nhất: Về quan hệ hôn nhân
Bà và ông Nguyệt kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban
nhân dân xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách, nay là thành phố Hải Dương ngày
26/3/1999. Sau khi kết hôn bà và ông Nguyệt sống hạnh phúc được khoảng 02 năm
thì phát sinh mâu thuẫn. Bà Hảo và ông Nguyệt sống ly thân hơn 01 năm nay. Mâu
thuẫn vợ chồng giữa ông bà ngày càng trầm trọng, không thể tồn tại được vì vậy bà
yêu cầu được ly hôn với ông Nguyệt.
 Vì vậy: Yêu cầu xin ly hôn của bà Hảo là có căn cứ pháp luật cụ thể tại Điều 51,
Điều 54, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. . Qua các bằng chứng, lời khai
của các đương sự cho thấy tình trạng của vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không

6
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cụ thể tại các bút lục số 17, 18, 19,
20, 24, 61, 64, 81, 83, 84, 92, 104, 108, 115 thì sau khi cưới được khoảng thời gian 02
năm thì ông Nguyệt và bà Hảo phát sinh mâu thuẫn do anh Nguyệt thường xuyên tụ
tập ăn chơi, và đánh, chửi mẹ con chị Hảo, vợ chồng tính tình không hợp nhau, không
hợp cả về lối sống và sinh hoạt. Khi xảy ra mâu thuẫn thì ông Nguyệt thường đánh,
chửi và đuổi chị Hảo ra khỏi nhà. Gia đình ông Nguyệt cũng biết chuyện mâu thuẫn
giữa hai người. Đồng thời, theo như lời khai của chị Hảo và có sự chứng kiến của
những người trong xóm đều chứng kiến việc anh Nguyệt đánh, chửi mẹ con chị. Vợ
chồng ông bà hiện nay đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2014, không còn quan tâm
giúp đỡ gì đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn.
Kính thưa HĐXX qua những bằng chứng xác thực nêu trên đủ để chứng minh
rằng tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà Hảo thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân
không đạt được và không thể kéo dài, họ đã không còn sống với nhau từ năm 2014 đến
nay chính vì vậy đề nghị HĐXX xét cho thân chủ tôi được ly hôn theo như mong
muốn.
 Vấn đề thứ hai: Về con chung
Bà Hảo và ông Nguyệt có với nhau 02 đứa con chung:
- 01 cháu gái tên Nguyễn Thị Nhi (sinh ngày 04/01/2001);
- 01 cháu trai tên Nguyễn Đức Anh (sinh ngày 13/6/2007).
Bà Hảo yêu cầu được nuôi 02 con chung và không yêu cầu ông Nguyệt cấp
dưỡng.
 Vì vậy: Bà Hảo yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai đứa con sau khi được ly hôn
là phù hợp với pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành, cụ thể tại khoản 2 Điều 81 quy
định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con
từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.
Hai cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn Đức Anh đều có nguyện vọng muốn được
ở chung với mẹ ghi nhận tại Bút lục số 30, 166. Hiện tại bà Hảo và cháu Nhi đang sinh
sống tại nhà của mẹ ruột mình và đi làm công nhân cho công ty Trấn An với mức thu
nhập ổn định 6.000.000 đồng mỗi tháng. Chính vì những lẽ trên nên sau khi ly hôn
bà Hảo được trực tiếp nuôi dạy hai con là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp với
nguyện vọng của con và vì lợi ích của các con của bà Hảo và ông Nguyệt.
 Vấn đề thứ ba: Về tài sản
Ông bà có tài sản chung là nhà đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương,
thửa số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m 2. Bà Hảo yêu cầu chia đôi nhà, đất, tài
sản trên đất không yêu cầu chia.

7
 Vì vậy: Về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân do hai người cùng đứng tên là
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H497 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương, thửa số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m 2. Căn cứ vào các chứng cứ tại
bút lục số 75, 81, 83, 84, 92, 96, 97, 99, 112, 113, 121, 137, 138, 175 thì nguồn gốc đất
là do gia đình ông Nguyệt mua từ năm 1991, sau này vợ chồng ông Nguyệt sinh sống
trên phần đất này. Năm 2001 ông Nguyệt bà Hảo có đơn xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đến năm 2005 Ủy ban nhân dân huyện Nam Sách cấp giấy chứng
nhận cho vợ chồng ông Nguyệt, bà Hảo. Thời điểm này phía gia đình ông Nguyệt biết
rõ tuy nhiên không ai có ý kiến phản đối, tranh chấp đối với việc xin cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đối với phần đất trên. Vì vậy, phần đất trên thuộc quyền sở hữu
hợp pháp của vợ chồng ông Nguyệt bà Hảo, là tài sản chung của vợ chồng tạo lập hợp
pháp trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 38, khoản 2 Điều 59 Luật hôn gia và gia
đình năm 2014 thì tài sản chung của vợ và chồng được chia đôi. Tuy nhiên, cần cân
nhắc xem xét công sức đóng góp giữ gìn tài sản của bà Hảo cũng như xét đến lợi ích
của các con chưa thành niên mà cân nhắn phán quyết hợp tình, hợp lý. Tại buổi hòa
giải ngày 19/5/2016 và trong phần xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bà Thoa nêu rằng đã
biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSD đất từ năm 2006 đến nay là hơn
10 năm nhưng bà Thoa không có ý kiến phản đối hay thắc mắc gì, không tranh chấp
gì. Đồng thời các thành viên trong gia đình bà Thoa cũng không có tranh chấp hay ý
kiến phản đối gì. Căn cứ biên bản xác minh ngày 23/6/2016 và tại phiên tòa ngày hôm
nay ông Bích cán bộ địa chính xã Thượng Đạt xác nhận kể từ khi được cấp
GCNQSDĐ đến nay anh Nguyệt và chị Hảo sử dụng đất ổn định không có tranh chấp
với các hộ giáp danh cũng như với ông Cang, bà Thoa và các thành viên khác trong
gia đình anh Nguyệt. 
        Theo Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và theo Quyết định số 220/QĐ-CA ngày 06
tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Khái quát nội dung của án lệ:
“Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng người
con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người
con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình không có ý kiến
phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và
đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải
xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất”.
Các tình tiết về yêu cầu chia tài sản giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này cùng với các tài liệu và chứng cứ nêu trên cho
thấy từ khi vợ chồng chị Hảo, anh Nguyệt sinh sống trên diện tích đất 216m 2 đã tôn
tạo, xây dựng và đến khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến khi có
việc ly hôn của anh Nguyệt, chị Hảo vợ chồng anh chị đã sử dụng nhà, đất liên tục,
công khai, ổn định. Khi ra ở trên mảnh đất này, vợ chồng ông Nguyệt bà Hảo cũng
phải thuê người đổ thêm đất vào nền nhà, nền bếp thì mới được như hiện nay. Bà Hảo

8
không nhớ số tiền đã đổ đất thêm vào là bao nhiêu. Sau khi ra ở trên nhà đất, vợ chồng
ông Nguyệt bà Hảo còn tiếp tục đổ thêm đất, cát tôn tạo đất cho cao lên. Mỗi năm làm
một ít nên bà Hảo không nhớ được đã đổ bao nhiêu khối lượng đất cát. Khi nhà hàng
xóm là ông Tạo đào ao, đã hút bùn đổ vào đất nhà bà Hảo một lượng rất nhiều nên có
được mặt đất tương đối cao như hiện nay.
Vợ chồng bà Thoa và các thành viên trong gia đình khi biết về việc giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất 216m2 đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo từ năm 2006 ( năm 2006
anh Chuyển- em trai anh Nguyệt nhờ vợ chồng anh Nguyệt Chị Hảo thế chấp nhà đất
để vay số tiến 10 triệu đồng) nhưng không ai có ý kiến phản đối; không có đơn khiếu
nại về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều đó đã thể hiện ý
chí của các thành viên trong gia đình bà Thoa là đã công nhận việc cho vợ chồng anh
Nguyệt - chị Hảo diện tích đất nêu trên.
Nay bà Hảo đề nghị được chia ½ diện tích trên và tự nguyện nhận phần đất
không có tài sản, không yêu cầu ông Nguyệt trả chênh lệch về tài sản nếu có là hợp
tình hợp lý. Do thửa đất này đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đứng tên của ông
Nguyệt và bà Hảo sau khi kết hôn. Vì thế, đây được xem là tài sản chung của vợ chồng
có được trong thời kì hôn nhân căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hôn
nhân gia đình.
Do đó, việc bà Hảo xin đề nghị chia đôi phần diện tích thửa đất là tài sản chung
của vợ chồng nêu trên, lấy phần diện tích đất trống để thực hiện việc xây dựng cải tạo
lại từ đầu là đề nghị hợp pháp căn cứ theo quy định tại Điều 38 và Điều 59 Luật hôn
nhân gia đình.
 Về khoản nợ chung, bà Hảo và ông Nguyệt đã thống nhất với nhau, ông Nguyệt và
bà Hảo mỗi người trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
5.000.000 tiền gốc và tiền lãi phát sinh theo Biên bản hòa giải ngày 17/06/2016 tại trụ sở
Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương đề nghị Tòa án ghi nhận thỏa thuận này giữa hai
bên.
Với tư các là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ tôi – người
khởi kiện trong vụ án. Tôi kính đề nghị HĐXX chấp thuận các yêu cầu nêu trên nhằm
bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ tôi được bảo vệ một cách thỏa
đáng cũng như bảo vệ công lý, đảm bảo sự, khách quan, tôn trọng sự thật, công bằng,
công chính và đúng pháp luật. Tôi xin kết thúc phần trình bày bản luận cứ của mình.

Trân trọng đề nghị và cảm ơn HĐXX!

….Ngày tháng năm 2021


Luật sư

9
Trần Kim T

.              TÓM TẮT NỘI DUNG TRANH CHẤP

Bà Hoàng Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt kết hôn trên cơ sở tự
nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Thượng Đạt, huyện Nam Sách nay là
thành phố Hải Dương vào ngày 26/03/1999. Ngày 02/01/2016 do nhận thấy bà
Hảo nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương để yêu cầu
được ly hôn với ông Nguyệt; yêu cầu được nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn
Thị Nhi (sinh ngày 04/01/2001) và cháu Nguyễn Đức Anh (sinh ngày
13/06/2007) và không yêu cầu cấp dưỡng, yêu cầu chia đôi tài sản chung là
nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216 m 2 đất tại xã Thượng
Đạt, thành phố Hải Dương.
Sau quá trình làm việc tại giai đoạn chuẩn bị xét xử bà Hảo có trình bày và
yêu cầu như sau:
Về ly hôn bà Hảo trình bày do tình cảm vợ chồng không còn, không thể
chung sống được nên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyệt.
Về việc nuôi con phía bà Hảo trình bày bà và ông Nguyệt có 02 con
chung là cháu Nguyễn Thị Nhi (04/1/2001) và cháu Nguyễn Đức Anh
(13/06/2007) và có yêu cầu được nuôi cả hai cháu mà không yêu cầu ông
Nguyệt cấp dưỡng.
Về việc chia tài sản chung phía bà Hảo trình bày bà và ông Nguyệt có
tài sản chung là nhà đất tại thôn Thượng Trệt I, xã Thượng Đạt. Đất có số
thửa 496 tờ bản đồ số 01 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đứng tên bà và ông Nguyệt từ năm 2005. Trên đất có các tài sản là nhà, công
trình phụ, tường bao, bể nước, giếng đào, chuồng lợn, chuối và một số cây ăn
quả khác. Đối với phần tài sản trên đất bà không có có yêu chia  và chỉ yêu
cầu được chia một nửa diện tích đất trên và xin được lấy phần không có tài
sản.
Sau quá trình làm việc tại giai đoạn chuẩn bị xét xử ông Nguyệt có trình bày
và yêu cầu như sau:
Về ly hôn ông Nguyệt nhất trí ly hôn với bà Hảo
Về nuôi con ông Nguyệt không đồng ý cho bà Hảo nuôi 02 con chung,
đề nghị giao cháu Anh cho ông trực tiếp nuôi dưỡng và hiện nay ông đang
trực tiếp nuôi cháu Anh, bà Hảo nuôi cháu Nhi, không ai phải cấp dưỡng nuôi
con cho ai.

10
Về tài sản chung đối với phần tài sản trên đất ông thống nhất chia đôi và
xin được nhận bằng hiện vật, trả tiền lại cho bà Hảo.
Còn phần đất ông trình bày phần đất đó là của bố mẹ anh em ông, không
phải là của chung giữa ông và bà Hảo, đề nghị không chia đất cho bà Hảo. Bà
Hảo không có một chút công sức nào trong việc tôn tạo, bồi đắp thửa đất mặc
dù bà Hảo sống từ năm 1999 đến năm 2014 khi bà Hảo bỏ đi. Và yêu cầu huỷ
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông và bà Hảo vì cho rằng đây
là tài sản của cha mẹ anh em ông Nguyệt Hảo và cấp lại cho hộ gia đình bà
Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang.
Vào khoảng năm 2014 bà Hảo và ông Nguyệt đã thế chấp tài sản chung
của vợ chồng là quyền sử dụng đất nêu trên để vay 30.000.000 đồng tại Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn – chi nhánh Nam sách. Hiện nay
ông Nguyệt đã trả được 10.000.000 đồng, số tiền nợ còn lại là 20.000.000
đồng. Trong quá trình giải quyết vụ việc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh khu
Tiền Trung, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương cũng đưa ra ý kiến là yêu
cầu ông Nguyệt và bà Hảo thanh toán số tiền còn nợ của Ngân hàng là:
20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) và số tiền lãi phát sinh cho tới khi tất
toán hợp đồng.

II.            PHẦN TRÌNH BÀY CỦA ĐƯƠNG SỰ (NGUYÊN ĐƠN)

1.  Nội dung vụ án.

Bà Hoàng Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt sống chung và có đăng ký
kết hôn ngày 26/03/1999. Sau khi cưới ông bà chung sống được khoảng thời
gian là 2 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai ông bà không
hợp nhau, ông Nguyệt hay đi chơi về chửi bới, đánh đập vợ con. Chính vì vậy
bà Hảo và ông Nguyệt đã sống ly thân được một thời gian từ này 14/12/2014
đến nay. Nay nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không thể hoà giải,
cuộc sống chung của vợ chồng không thể kéo dài nên bà Hảo đã nộp đơn yêu
cầu Toà án giải quyết những vấn đề sau:
-   Về quan hệ hôn nhân: Bà Hảo yêu cầu được toà án nhân dân thành
phố Hải Dương giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyệt.
-   Về con chung bà Hảo và ông Nguyệt có hai con chung là cháu
Nguyễn Thị Nhi và cháu Nguyễn Đức Anh. Sau khi ly hôn bà Nguyệt yêu cầu
được nuôi cả hai cháu mà không yêu cầu ông Nguyệt thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng nuôi con.
-   Về tài sản chung bà Hảo và ông Nguyệt có khối tài sản chung hình
thành trong thời kỳ hôn nhân là đất và tài sản trên đất có số thửa 496 tờ bản
đồ số 01 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà và

11
ông Nguyệt từ năm 2005. Bà Hảo không yêu cầu chia tài sản trên đất mà chỉ
yêu cầu chia một nửa diện tích đất trên bằng hiện vật và xin được lấy phần
không có tài sản và không đồng ý với yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông Nguyệt.

2.  Các chứng cứ chứng minh.

-   Về quan hệ hôn nhân: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 09,
Quyển số: 01/1999 do UBND xã Thượng Dật, Huyện Nam Sách, tỉnh Hải
Dương cấp ngày 26/03/1999; Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
-   Về con chung: Giấy khai sinh của hai cháu Nguyễn Thị Nhi và
Nguyễn Đức Anh; Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
-   Về tài sản chung: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
Nguyễn Văn Nguyệt và Hoàng Thị Hảo; Án lệ số 03/2016/AL về vụ án ly hôn
được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng
4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4
năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014.

3.  Những vấn đề pháp lý cơ bản.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp về ly hôn, nuôi con và chia tài
sản chung trong thời kỳ hôn nhân;

- Thẩm quyền giải quyết: Toà án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương (Căn cứ theo các quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ Luật TTDS
2015).

- Các đương sự trong vụ án:

  Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Hảo, sinh năm 1978, địa chỉ: Thôn Nam Giang, xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương;

  Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Nguyệt, sinh năm: 1976; địa chỉ: Thôn Thượng Triệt,
xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương;

  Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm: Cháu Nguyễn Thị Nhi; Cháu
Nguyễn Đức Anh; Bà Nguyễn Thị Thoa; ông Nguyễn Văn Cang; Ông Nguyễn
Văn Giới; Anh Nguyễn Văn Quyết; Anh Nguyễn Văn Chuyển; Ngân hàng NN
và PTNTVN Chi nhánh khu Tiền Trung, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương

III.         KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT SƯ CỦA
NGUYÊN ĐƠN

12
1. Câu hỏi chuẩn bị để hỏi bị đơn

1/ Ông và bà Hảo kết hôn năm nào? Sau khi ông bà kết hôn thì ông bà ở
tại đâu?
2/ Vợ chồng ông bà bắt đầu sinh sống tại thửa đất 496 tờ bản đồ số 01
vào thời gian nào?
3/ Hiện ông và bà Hảo có còn sống chung với nhau không?
4/ Ông cho biết ai là người đăng ký kê khai quyền sử dụng đất đối với
thửa đất 496 tờ bản đồ số 01?
5/ Ai là người đóng tiền thuế sử dụng đất hàng năm đối với thửa đất
trên?
6/ Ông cho rằng UBND thành phố Hải Dương cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông và bà Hảo là sai, vậy tại sao thời điểm nhận được
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông không khiếu nại hay yêu cầu cấp
lại?
7/ Khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông và bà
Hảo gia đình ông có ai phản đối về việc này không?
8/ Công việc hiện nay của ông là gì? Thu nhập bình quân hàng tháng của
ông là bao nhiêu? Có điều gì thể hiện việc này không?

9/ Theo lời khai của chị Hảo và cháu Đức Anh thì ông không cho cháu
Đức Anh gặp mẹ, điều này có đúng sự thật hay không?

2. Câu hỏi chuẩn bị hỏi nguyên đơn

1/ Hiện bà và ông Nguyệt đang sống ly thân đúng hay không?


2/ Tại sao ông bà lại sống ly thân?
3/ Trong thời gian sống ly thân cháu Anh ở với ông Nguyệt đúng hay
không?
4/ Ông Nguyệt có cho bà gặp cháu thường xuyên hay không? Mỗi lần bà
gặp cháu ông Nguyệt có biết không?
5/ Bà cho biết hiện tại bà làm nghề gì? Thời gian làm việc của bà như thế
nào? Thu nhập như thế nào?
6/ Ông Nguyệt có giúp bà chăm sóc, nuôi dạy con cái không?
7/ Ông Nguyệt có khi nào đánh đập con cái không?
8/ Bà có thực hiện việc kê khai và nộp thuế quyền sử dụng đất đối với
thửa đất 496, tờ bản đồ số 01 hay không?

9/ Khi vợ chồng bà được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bên
gia đình chồng bà có biết hay không? Có ai có ý kiến phản đối hay gì không?

3. Câu hỏi để hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

13
1/ Bà có biết thời điểm đo đạc, kê khai cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Nguyệt bà Hảo không?
2/ Bà cho biết vào thời điểm ông Nguyệt bà Hảo được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất gia đình bà có biết việc này không?
3/ Tại sao về sau bà biết được ông Nguyệt, bà Hảo được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất này bà không có ý kiến gì mà tới nay bà mới
phản đối?

IV.          LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN

Kính thưa Hội đồng xét xử!

Thưa vị đại diện Viện kiểm sát!

Thưa Quý luật sư đồng nghiệp!

Tôi là Luật sư ……………………. thuộc Văn phòng luật sư


………………………, Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh. Hôm nay, tôi
được mời tới tham gia phiên tòa hôm nay với tư cách người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn bà Hoàng Thị Hảo trong vụ án “tranh chấp
về ly hôn, nuôi con, chia tài sản” với bị đơn là ông Nguyễn Văn Nguyệt. Hôm
nay, trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ vụ án và qua phần xét hỏi công khai tại tòa
hôm nay, tôi xin phép Hội Đồng xét xử được trình bày luận cứ bảo vệ cho
nguyên đơn như sau:

Thứ nhất, về yêu cầu ly hôn của nguyên đơn bà Hoàng Thị Hảo là
hoàn toàn có căn cứ theo quy định của pháp luật cụ thể là các quy định tại
Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình 2014. Qua các bằng chứng, lời khai
của các đương sự cho thấy tình trạng của vợ chồng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cụ thể:
-   Tình trạng của vợ chồng bà Hảo, ông Nguyệt rất trầm trọng. Sau khi
kết hôn ông Nguyệt và chị Hảo sống hạnh phúc được khoảng 02 năm thì phát
sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp ông Nguyệt không lo
làm ăn, hay đi chơi về rồi lại hay chửi bới, đánh đập vợ con. Điều này được
thể hiện qua các lời khai của bà Hảo, của cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt
trong biên bản xác minh ngày 09/03/2016.
-   Đời sống chung không thể kéo dài. Khi tình trạng của vợ chồng đã
phát sinh trầm trọng, ông Nguyệt không những không nhận ra lỗi lầm của
mình mà vẫn tiếp tục chứng nào tật đấy. Chính vì vậy mà ông Nguyệt và bà

14
Hảo đã sống ly thân từ ngày 14/12/2014 cho đến nay. Việc ông Nguyệt và bà
Hảo sống ly thân đã được cả ông Nguyệt, bà Hảo cũng như những người có
liên quan thừa nhận trong các bản tự khai, biên bản lấy lời khai.
-   Mục đích hôn nhân không đạt được. Theo các lời khai của anh, em
ông Nguyệt thì bà Hảo là người phụ nữ ngoan hiền, chịu thương, chịu khó,
chăm chỉ làm ăn, vun vén hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên, cuộc sống hôn nhân
không thể hạnh phúc nếu chỉ một chỉ một người vun vén. Hơn nữa, việc ông
Nguyệt chơi bời, không lo làm ăn, đánh đập, chửi bới vợ con làm cho bà Hảo
không thể sống chung với ông Nguyệt nữa do đó mà dẫn đến việc ly thân.

Từ những căn cứ trên có thể thấy cuộc sống hôn nhân của ông Nguyệt
và bà Hảo đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó tôi kính  đề nghị
hội đồng xét xử xem xét chấp nhận cho thân chủ tôi được ly hôn với ông
Nguyễn Văn Nguyệt.

Thứ hai về yêu cầu nuôi con của bà Hảo:

Bà Hảo và ông Nguyệt có hai con chung là cháu Nguyễn Thị Nhi và cháu
Nguyễn Đức Anh. Khi ly hôn bà Hảo yêu cầu được nuôi cả hai con mà không
yêu cầu ông Nguyệt thực hiện cấp dưỡng nuôi con. Hiện cả cháu Nhi và cháu
Anh đều trên 07 tuổi. Do đó căn cứ theo khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và
gia đình 2014 thì nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét được nguyện
vọng của các con.

Căn cứ theo nguyện vọng của cháu Nhi trong đơn đề nghị ngày
20/01/2016 thì nguyện vọng của cháu là được ở cùng với mẹ là bà Hoàng Thị
Hảo nếu bà Hảo và ông Nguyệt không sống chung với nhau nữa và nguyện
vọng của cháu Anh trong đơn đề nghị ngày 22/01/2016 và biên bản lấy lời
khai ngày 05/07/2016 thì nguyện vọng của cháu Anh là được ở với mẹ là bà
Hoàng Thị Hảo nếu bố mẹ cháu ly hôn.

Hơn nữa yêu cầu được nuôi cả hai con sau khi ly hôn của bà Hảo là
hoàn toàn phù hợp. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con thì bà Hảo sẽ
chăm sóc và dạy dỗ các con tốt hơn. Bà Hảo hiện đang làm công nhân do đó
thu nhập của bà tương đối ổn định để đảm bảo cho cuộc sống của ba mẹ con.
Đồng thời đối với công việc trên bà Hảo làm 8 tiếng/ngày, làm giờ hành chính.
Chính vì vậy bà Hảo sẽ có thời gian chăm sóc cho con tốt hơn nhất là khi các
cháu đang trong giai đoạn phát triển tâm sinh lý thì việc quan tâm, chia sẻ của
người mẹ với con là một trong tác nhân giúp các cháu có thể phát triển một

15
cách toàn diện. Trên thực tế cho thấy thì người mẹ luôn là người gần gũi, tâm
sự, sẻ chia với các con hơn người cha.

Hơn thế nữa qua các lời khai của cháu Anh, lời khai của bà Hảo cũng
như lời khai của cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt thì khi ly thân với bà Hảo ông
Nguyệt không cho cháu Anh được gặp mẹ. Hai mẹ con muốn gặp nhau thì
phải nén gặp, nếu ông Nguyệt biết được ông Nguyệt lại đánh đập, hành hạ
cháu. Đối với một đứa trẻ đang tuổi phát triển thì hành vi của ông Nguyệt sẽ
gây ra những ảnh hưởng tới sự phát triển của cháu Anh. Mặt khác, hiện dù
chỉ mới ly thân nhưng ông Hảo còn không cho cháu Anh gặp mẹ thì thử hỏi
nếu giao cả cháu Nhi và cháu Anh cho ông Nguyệt nuôi thì ông Nguyệt có cho
các con của mình gặp mẹ hay không. Chính vì những lẽ trên có thể thấy việc
giao cả hai cháu cho bà Hảo trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc sẽ giúp các cháu
phát triển một cách toàn diện và đầy đủ hơn, đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho
cả hai cháu.

Chính vì những lẽ trên tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc chấp
nhận yêu cầu của bà Hảo được trực tiếp nuôi dạy 2 con phù hợp với nguyện
vọng của con và vì lợi ích của các cháu.

Thứ ba, về yêu cầu chia tài sản chung được hình thành trong thời
kỳ hôn nhân của bà Hảo và ông Nguyệt:

Căn cứ vào tất cả các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cũng như qua lời khai
của các bên trong quá trình tố tụng, tôi xin khẳng định đối với yêu cầu chia tài
sản chung là đất và tài sản trên đất có số thửa 496 tờ bản đồ số 01 được hình
thành trong thời kỳ hôn nhân giữa ông Nguyệt và bà Hảo là hoàn toàn có căn
cứ. Bởi:

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp trong thời kỳ hôn nhân
của ông Nguyệt và bà Hảo cụ thể là vào ngày 31/12/2005 đứng tên chủ sử
dụng đất là bà Hoàng Thị Hảo và ông Nguyễn Văn Nguyệt.

Cả ông Nguyệt và bà Hảo đều công nhận nguồn gốc thửa đất này là của
gia đình ông Nguyệt mua của UBND xã Thượng Đạt. Năm 1999 gia đình ông
Nguyệt cho vợ chồng ông bà ra xây dựng nhà và ở trên thửa đất này từ đó tới
nay. Theo bà Hảo trình bày thì gia đình ông Nguyệt trước đây đã tuyên bố cho
vợ chồng ông bà  nhưng không làm giấy tờ.

Đồng thời, ông Nguyệt, bố mẹ ông Nguyệt cũng như tất cả các anh chị
em trong gia đình ông Nguyệt đều thừa nhận vào năm 1999 gia đình ông
Nguyệt cho ông Nguyệt, bà Hảo làm nhà và sinh sống trên thửa đất này.

16
Thêm vào đó, bà Hảo và ông Nguyệt được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nêu trên vào ngày 31/12/2005 và tất cả mọi người đều biết và không
có bất kỳ ai có ý kiến gì hay phản đối gì về việc ông Nguyệt, bà Hảo được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên.

Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vợ chồng bà Hảo,
ông Nguyệt xây dựng nhà và sinh sống ổng định từ đó đến nay, không xảy ra
bất kỳ tranh chấp cũng như không có bất kỳ ai khiếu kiện, khiếu nại về việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 496 tờ bản đồ số 01.
Việc này đã được ông ông Nguyễn Văn Bích – cán bộ địa chính xá Thượng
Đạt xác nhận tại Biên bản xác minh  ngày 09/03/2016 và biên bản xác minh
ngày 06/05/2016.

Về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông bà
cũng hoàn toàn hợp pháp (thể hiện trong Biên bản xác minh ngày 06/05/2016
và  ngày 23/06/2016 tại UBND xã Thượng Đạt). Hơn nữa khi thực hiện các
thủ tục kê khai để chuẩn bị hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
ông Nguyệt hoàn toàn đồng ý cho bà Hảo được đứng ra kê khai, nộp thuế và
đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Điều này được thể hiện ở
trong các hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì cả ông Nguyệt,
bà Hảo đều ký vào các hồ sơ đó. Thêm nữa sau khi được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Hảo và ông Nguyệt thì phía gia đình ông
Nguyệt đều biết về việc này. Tuy nhiên không có bất kỳ ai phản đối hay khiếu
nại gì về việc cấp này. Từ đó có thể thấy về mặt ý chí phía gia đình ông
Nguyệt đã đồng ý để cho ông Nguyệt và bà Hảo thửa đất này.

Căn cứ theo nội dung án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công
bố theo Quyết định 220/QĐ-CA ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao thì “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một
diện tích đất và vợ chồng người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích
đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và
những người khác trong gia đình không có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người
con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê
khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định vợ
chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất”.

Từ những căn cứ nêu trên có thể khẳng định quyền sử dụng đất tại thửa
đất 496, tờ bản đồ số 01 đã được bố mẹ ông Nguyệt đồng ý tặng cho vợ
chồng ông Nguyệt, bà Hảo. Do đó căn cứ theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn

17
nhân và gia đình năm 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng thì quyền
sử dụng đất này là phần tài sản chung của vợ chồng  bà Hảo và ông Nguyệt.

Diện tích đất của thửa đất trên khá lớn có thể chia được bằng hiện vật.
Do đó căn cứ theo quy định tại Điều 59 và quy định tại Điều 62 Luật hôn nhân
và gia đình 2014. Đồng thời căn cứ vào nhu cầu sử dụng của hai bên thì có
thể thấy một mình ông Nguyệt thì không thể sử dụng hết phần diện tích đất
này trong khi bà Hảo và các con lại không có một ít đất nào để xây dựng nhà
ở. Chính vì vậy để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hảo cũng như
của các con tôi kính đề nghị hội đồng xét xử xem xét chấp nhận cho bà Hảo
được nhận ½ giá trị quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ số
01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương
bằng hiện vật (quyền sử dụng đất).

Đối với phần nợ chung tại Ngân hàng NN và PTNTVN Chi nhánh khu


Tiền Trung, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương ông Nguyệt, bà Hảo đã
thống nhất với nhau về vấn đề trên, nên không yêu cầu toà án giải quyết.

Trên đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
bà Hoàng Thị Hảo, kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp thuận.

Chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe !!

18

You might also like