Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

1

Câu 1: VÌ SAO NÓI ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN DUY NHẤT, ĐÚNG ĐẮN
CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC TA?

Do nhu cầu khách quan giải phóng dân tộc và tìm ra đường hướng mới trong xây dựng và phát triển đất
nước, với sự góp sức đặc biệt to lớn của Nguyễn Ái Quốc, đi lên chủ nghĩa xã hội là lựa chọn duy nhất,
đúng đắn của Đảng và dân tộc ta minh chứng rõ nét là những thành tựu từ khi đi lên chủ nghĩa xã hội có
được. Vì vậy cần đề cao cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc rằng: “con đường đó là không hợp
thời”, tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong toàn xã hội tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng theo
định hướng xã hội chủ nghĩa là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
      1. Đặc điểm tình hình gắn với quá trình lựa chọn đi lên con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta
      Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Với truyền thống yêu nước, từ cuối thế kỷ XIX
– đầu thế kỷ XX, ở nước ta đã xuất hiện những phong trào yêu nước chống thực dân Pháp, theo những
khuynh hướng khác nhau: phong trào Cần Vương (1885 – 1896), Yên Thế; phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản,.. Tất cả những phong trào yêu nước đó đều bị thất bại, nguyên nhân chủ
yếu là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn. Yêu cầu lịch sử đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng
tiên phong, có đường lối cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc.
       Năm 1917, cuộc Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đã mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người
– thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm
đường cứu nước, tháng 7 năm 1920, Người đọc Sơ thảo Lần thứ nhất Luận cương về các vấn đề dân tộc
và thuộc địa của Lênin và đi đến kết luận quan trọng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản.
      Vào những năm 1929 – 1930, phong trào công nhân ở nước ta phát triển mạnh mẽ đưa đến sự ra đời
các tổ chức cộng sản như: Đông Dương Cộng sản Đảng (6/1929); An Nam Cộng sản Đảng (11/1929);
Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (01/1930). Việc các tổ chức cộng sản liên tiếp xuất hiện chứng tỏ phong
trào công nhân của Việt Nam phát triển mạnh mẽ, nhưng nhiều tổ chức cộng sản ra đời đã tranh giành
quần chúng, ảnh hưởng không tốt đến phong trào. Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh về
Hương Cảng, Trung Quốc tổ chức hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản ở nước ta thành Đảng Cộng sản
Việt Nam (từ ngày 06 đến ngày 07 tháng 2 năm 1930). Hội nghị đã thông qua các văn kiện quan trọng,
trong đó có Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng, xác định Việt Nam “Làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Kể từ đây, Đảng và dân tộc ta dứt khoát lựa
chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
      Thực hiện Cương lĩnh của Đảng, cách mạng nước ta đã giành những thắng lợi vĩ đại: Thắng lợi của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm
1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ Quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
      Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo tiến hành xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Do chủ quan nóng vội, muốn nhanh chóng xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội dẫn đến sai lầm đường lối ở một số lĩnh vực, từ đó dẫn đến sự khủng khoảng kinh tế - xã hội
ở nước ta (1979 -1986), nước ta rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, lạm phát phi mã, đời sống nhân dân
cơ cực, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội không ổn định, yêu cầu khách quan đặt ra là cần phải đổi
mới đất nước.Ngày 15/12/1986 tại Đại hội VI với tinh thần nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật, Đại hội
đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện gồm: Đổi mới cơ cấu kinh tế, “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành
2

phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” [1]; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong đó đổi mới kế hoạch
hóa, kết hợp kế hoạch hóa với thị trường, từng bước đưa nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý kinh tế của nhà nước; đổi mới và tăng cường vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước về kinh tế,
“Phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của các cơ quan nhà nước trung ương và THPT
Bình Chánh với chức năng quản lý sản xuất – kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở” [2]; đổi mới hoạt
động kinh tế đối ngoại, trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, tạo điều kiện cho
người nước ngoài và Việt kiều về nước đầu tư, hợp tác kinh doanh; Đổi mới tư duy lý luận và phong cách
lãnh đạp của Đảng, trên cơ sở nâng cao nhận thức lý luận, vận dụng đúng quy luật khách quan, khắc phục
bệnh chủ quan, duy ý chí hoặc bảo thủ trì trệ.
      Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu bước ngoặt
trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đã tìm lối thoát cho cuộc khủng hoảng
kinh tế - xã hội bằng việc đề ra đường lối đổi mới, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội. Các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời
sống nhân dân dần được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của
nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên...
      2. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa
      Nhờ thực hiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế bắt đầu phát triển và
phát triển liên tục với tốc độ tăng trưởng cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình
khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD),
trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên
mức 2.779 USD/người/năm (năm 2020); Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm
2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an
ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế
giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm
khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020.
Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020...
      Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi
mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận
về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được
hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta
vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn
đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn
Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam”.
      Nói về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất,
hoàn toàn không hề đơn giản, dễ dàng. Đây là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn,
3

một sự nghiệp tự giác, liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội. Vì vậy, bên cạnh việc xác định
chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo,
sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện
đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình.
Câu 2: Theo anh chị chủ đề 2022 học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
mỗi cá nhân, Chi bộ cần làm gì?
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên cần
làm tốt các mặt sau đây:
Một là, thực hiện "trung với nước, hiếu với dân", mỗi cán bộ, đảng viên phải trung thành vô hạn với mục
tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn, mong muốn
tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hưởng tự do, "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn,
áo mặc, ai cũng được học hành". Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chúng ta cần:
- Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc.
- Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, giải
quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị của dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ
chức, động viên cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, "làm giàu cho mình, cho đất nước".
- Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, phấn đấu đến năm ............ nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh không
khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân tộc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ Đảng với
nhân dân của các thế lực thù địch, cơ hội.
- Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề nghiệp trong sáng; ham học hỏi,
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân - gia đình - tập thể - xã hội; quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền
lợi theo lời dạy của Bác: "Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh".
Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", nêu cao phẩm giá con người Việt
Nam trong thời kỳ mới.
- Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả.
- Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân; không xa hoa, lãng phí, không phô
trương, hình thức.
- Kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống
thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành giật lợi ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt
của công; cục bộ THPT Bình Chánh, thu vén cho gia đình, cá nhân.
- Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ chân lý, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng, bảo vệ người tốt; chân
thành, khiêm tốn; không chạy theo chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm...
- Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ, vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói
nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ rõ ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực,
loại trừ mọi biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội.
Ba là nâng cao ý thức dân chủ và kỷ luật, gắn bó với nhân dân, vì nhân dân phục vụ
4

- Mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,
pháp luật, kỷ cương.
- Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó
khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân dân.
- Coi trọng tự phê bình và phê bình, "phải nghiêm khắc với chính mình". Phê bình có mục đích trong
sáng, có lý, có tình. Khắc phục bệnh chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí xu nịnh), tâng bốc
nhau, không dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần phê phán những biểu
hiện xuất phát từ những động cơ cá nhân, vụ lợi mà "đấu đá"; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia
rẽ, làm rối nội bộ.
Bốn là học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần phát huy chủ nghĩa yêu nước gắn chặt
với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam là bạn, là
đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Tôn trọng độc lập, chủ quyền của các nước khác, mở rộng hợp tác cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì
hoà bình, phát triển, hợp tác, chống chiến tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ
quốc tế. Với những vấn đề của quá khứ, lịch sử cần xoá bỏ mặc cảm, hận thù, nhìn về tương lai, xây dựng
tình hữu nghị giữa các dân tộc.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn
lực bên trong với nguồn lực bên ngoài để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
phấn đấu đến năm ............ nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
- Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào, tự tôn dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của
dân tộc hẹp hòi, tự ti; đồng thời phê phán tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại, ảo tưởng
trước chủ nghĩa tư bản.
Câu 3: Chủ nghĩa xã hội là gì? Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của Nhân dân ta, là sự lựa chọn
đúng đắn của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của
lịch sử? 
“ Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã
hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ... Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã
hội khoa học dựa trên học thuyết Mắc- Lê nin trong thời đại ngày nay”.
 
“Thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế
giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, “tự do”,
“dân chủ” dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; “đằng sau hệ
thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”. Tuy nhiên, Tổng Bí thư không
phủ nhận những thành tựu to lớn mà chủ nghĩa tư bản đã đạt được, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và
phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều
kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động, đã có những biện
pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Bên cạnh
những thành tựu đó, thì Tổng Bí thư cũng đã khẳng định rằng chủ nghĩa tư bản dù vẫn còn tiềm năng phát
triển nhưng vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó, những bất công xã hội
và đời sống của đa số dân cư lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa bị giảm sút nghiêm trọng, thất
nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột
giữa các sắc tộc. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối
thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá
5

nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu
dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững
cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Tổng Bí thư đã phân tích thực tiễn của xã hội hiện đại
ở các quốc gia tư bản phát triển, qua đó khẳng định mặc dù chủ nghĩa tư bản có những bước tiến, đóng
góp to lớn cho lịch sử nhân loại nhưng đó không phải là mục tiêu mà nhân loại hướng tới bởi chính CNTB
đã chứa trong đó những khuyết tật mà bản thân nó, dù có điều chỉnh, tìm cách hạn chế cũng không thể nào
khắc phục được. Đó là do bản chất của chế độ TBCN dựa trên sự bóc lột, sự tước đoạt tự nhiên, sự duy trì
bất bình đẳng xã hội với khoảng cách ngày càng rộng.
 
    Ta cần phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về vai trò, vị trí, những giá trị mà CNTB đã
đóng góp cho nhân loại mà chúng ta có thể kế thừa, tiếp thu một cách có chọn lọc, đồng thời chỉ ra những
hạn chế, nhược điểm, thuộc tích tiêu cực, cố hữu của CNTB và chúng ta phải “bỏ qua”. Bài viết cũng đã
chỉ ra những kết quả, thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong quá trình đổi mới, những khuyết
điểm, hạn chế, khó khăn, thách thức mới mà chúng ta phải bình tĩnh đối mặt trong giai đoạn quá độ đi lên
CNXH. Bài viết chỉ rõ, việc bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên CNXH ở Việt Nam là bỏ qua những
thói hư, tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ XHCN chứ không phải bỏ
qua những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đạt được trong thời kỳ phát triển.
 
Nguyên tắc đầu tiên: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng
VIệt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng sự trải nghiệm
thực tiễn phong phú và sáng tạo, với tầm nhìn chiến lược của vị lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có kết luận hết sức quan trọng: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới”. Sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa và
khẳng định chắc chắn rằng: Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người,
chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về
kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất
bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giái trị
tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá
nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để đảm bảo môi
trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài
nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ
cho một thiểu số giàu có...” Đây chính là những mong ước tốt đẹp, những giá trị đích thực của CNXH và
cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và
đang kiên định, kiên trì theo đuổi.
 
Trong suốt hành trình lịch sử hơn 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên trì chủ nghĩa xã hội là
mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con
đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Vì thế, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh
cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự xâm lược của thực dân,
đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của
nhân dân với tinh thần “ Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là
đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta khẳng định: “ Đi lên CNXH
6

là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.
Câu 4: Xây dựng không gian văn hoá HCM tại chi bộ?
 - Việc xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh là vinh dự của người dân TP được mang tên Bác, nơi
chứa đựng nhiều dấu ấn của Bác trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, và là nơi Bác luôn hằng mong
trở về, “miền Nam trong trái tim tôi”. Song cũng là trách nhiệm của mỗi người dân TPHCM, phải luôn
chú trọng nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó
đội ngũ cán bộ, đảng viên, trí thức giữ vai trò quan trọng, người dân TP là trọng tâm; và thấm nhuần sự
giản dị, thanh tao của Bác là cả một nét đẹp văn hóa. Xây dựng Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh phải
thể hiện ở mỗi người dân với những phẩm chất cao quý nhất, bình dị nhất và được mọi người tin yêu, quý
trọng.
Xây dựng Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh cần được tổ chức thực hiện đồng bộ trong các loại hình tổ
chức cơ sở đảng và cả hệ thống chính trị từ TP đến cơ sở, nhất là tại địa bàn dân cư nhằm nâng cao hiệu
quả công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người TP. Theo đó, từng giai đoạn thực hiện sẽ có đánh
giá, rút kinh nghiệm. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là một yếu tố đặc
biệt quan trọng trong xây dựng Không gian Văn hóa Hồ Chí Minh vì tạo được nhiều điểm tích cực trong
đời sống nhân dân, trong xã hội.
Từ góc nhìn thực tiễn, THPT Bình Chánh là một trong những đơn vị đã chủ động thí điểm triển khai việc
xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện của THPT Bình Chánh. Ngay trong
cao điểm phòng chống dịch Covid-19, THPT Bình Chánh đã xây dựng mô hình “Đưa thư viện điện tử vào
trong cuộc sống, phục vụ bạn đọc tại khu cách ly, khu phong tỏa” hướng dẫn người dân truy cập vào
đường link để đọc sách điện tử tại các khu cách ly tập trung, khu phong tỏa. Mô hình đã giới thiệu các
video clip, sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh, về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, về xây dựng Không
gian văn hóa Hồ Chí Minh. Hàng tuần có 2.100 lượt truy cập vào đường link của Thư viện trường để đọc
sách điện tử. Trong đợt cao điểm dịch Covid-19 từ tháng 7 đến tháng 9 năm 2021, lượt truy cập tăng lên
rất cao, với sự phản hồi tích cực từ bạn đọc ở THPT Bình Chánh và các tỉnh thành khác trong cả nước.
Bên cạnh đó, THPT Bình Chánh thiết lập trang facebook, fanpage “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh”,
đăng tải trên không gian mạng về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh, thu hút gần 2.000 thành viên tham gia;
tổ chức triển lãm trực tuyến với hình 3D thực tế ảo và tổ chức trưng bày triển lãm tranh, hình ảnh về cuộc
đời sự nghiệp Hồ Chí Minh. Phát hành tập san “Âm vang lời dạy của Người” với tuyển tập các “Câu
chuyện nhỏ - bài học lớn” và giới thiệu các gương điển hình thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị
giai đoạn 2016 - 2021.
Đầu năm 2022, THPT Bình Chánh tổ chức lễ ra mắt Không gian văn hóa Hồ Chí Minh, thí điểm tại phòng
truyền thống, trưng bày những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các tác phẩm viết về Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Trên 1.000 bản tài liệu được trưng bày, triển lãm qua các mô hình Lăng Bác, Bến Nhà Rồng,
và các hình ảnh về Bác với chủ đề “Còn mãi với thời gian”. Bên cạnh đó, triển lãm đã trưng bày những
7

tác phẩm đạt giải thưởng sáng tác và quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Các tác phẩm diễn tả chân thật, sống động
cuộc sống của người dân thành phố; những nghĩa cử đẹp, việc làm hay, nỗ lực lao động, sáng tạo của
những cư dân bình dị vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc và sự bình yên của Tổ quốc. Tất cả các tác phẩm
trưng bày đều có giá trị nghệ thuật, đảm bảo nhu cầu thưởng thức cho người dân.
Nhân dịp kỷ niệm 132 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2022), Chi bộ THPT
Bình Chánh đã phát động Hội thi sáng tác, quảng bá tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về chủ đề
“Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” đợt 1, giai đoạn 2021 - 2025. Qua đó
giúp cho CB, GV, CNV thấm nhuần hơn nữa tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người, giáo dục truyền
thống yêu nước cho các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ.
Xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại THPT Bình Chánh để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức luôn gương mẫu, tiên phong trong thực hiện chức trách nhiệm vụ, đặt lợi ích của Nhân dân lên
trên hết, như câu nói của Bác “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
tránh”. Mỗi một đơn vị cơ quan, tổ chức cơ sở đảng, là một Không gian văn hóa Hồ Chí Minh thu nhỏ mà
nơi đó thể hiện thông qua các quy chế, quy định làm việc đến những hoạt động của cơ quan, đơn vị, phản
ảnh những giá trị tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí
Minh làm cho những giá trị của tư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh lan tỏa đến từng cán bộ,
đảng viên, đoàn viên, hội viên và từng người dân đang sinh sống và làm việc tại quận nhà. 
Cả Chi bộ và giáo viên THPT Bình Chánh quyết tâm thực hiện mục tiêu hình thành Không gian văn hóa
Hồ Chí Minh, góp phần cùng xây dựng TP mang tên Bác phát triển hài hòa, đạt tầm vóc to lớn trong
tương lai; đưa nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa của TP và quận lên tầm cao hơn hướng tới mục tiêu
xây dựng TP văn minh, đô thị thông minh trong từng nếp sống, giao tiếp, học tập, lao động, vui chơi, giải
trí; sống tươi vui, hạnh phúc, an hòa với gia đình, cộng đồng xã hội và với thiên nhiên.
Câu 5: NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA TÌNH HÌNH
MỚI?
Trên cơ sở đánh giá khách quan, toàn diện cả những ưu điểm và hạn chế trong trong công tác phát triển
đảng viên ở Việt Nam thời gian qua, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII đã đưa ra những quan điểm, giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới.
Về quan điểm, Đảng ta chỉ rõ: “Đội ngũ đảng viên là nhân tố quyết định năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng”(9). Đội ngũ đảng viên chính là chủ thể tạo nên các cơ sở, tổ chức đảng nên sức
mạnh của mỗi tổ chức đảng phụ thuộc trước hết vào đội ngũ đảng viên. Do đó, tại Hội nghị Trung ương 5
khóa XIII, đã đưa ra quan điểm chỉ đạo cụ thể về nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Đó là một mặt,
các tổ chức đảng cần tạo môi trường để đảng viên rèn luyện, phấn đấu; song mặt khác, mỗi đảng viên phải
tự ý thức học tập, rèn luyện nhân cách, đạo đức, phong cách, không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị,
tiên phong, gương mẫu, thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng và lời thề khi vào Đảng. Đây là mối
quan hệ hai chiều giữa tổ chức đảng và đảng viên, đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
8

Với mục tiêu: Nâng cao chất lượng phát triển đảng viên đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới,
Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới.
Một là, đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị
cho đảng viên.
Trước những hạn chế về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, việc đổi
mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng là rất cần thiết, giúp cho mỗi đảng viên hiểu rõ hơn
về trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân, có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân. Để gắn
trách nhiệm của đảng viên trước những nhiệm vụ chính trị quan trọng của đất nước, khắc phục triệt để
tình trạng bang quan, thờ ơ về chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng, Đảng ta chỉ rõ cần phải: “Chủ
động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh;
tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác
quan điểm sai trái, thù địch”.
Đặc biệt, trước những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, Đảng ta cũng chỉ rõ cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn
thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân
tộc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Mỗi đảng viên cũng cần nêu cao ý thức
“tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Điều này sẽ giúp cho mỗi đảng viên tránh
xa được những cám dỗ vật chất, danh vọng, quyền lực để giữ gìn đạo đức trong sạch, liêm chính.
Hai là, tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng
viên không đủ tư cách.
Một trong những điểm mới của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII là Đảng đã nhấn mạnh đến công tác
quản lý đảng viên vì thực tiễn thời gian qua cho thấy, do sự buông lỏng quản lý của các tổ chức đảng mà
không ít đảng viên có biểu hiện coi thường kỷ luật đảng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, vi phạm pháp
luật, thậm chí bị truy tố, khai trừ ra khỏi Đảng. Do đó, việc tăng cường quản lý đảng viên, phát huy vai trò
kiểm tra, giám sát của mỗi cơ sở đảng là rất cần thiết. Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại
chất lượng đảng viên; phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu
trên các lĩnh vực; kịp thời nhắc nhở, giáo dục, giúp đỡ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc khi có
khuyết điểm, vi phạm”.
Một điểm nhấn cũng đáng lưu ý là trong Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, Đảng ta nhấn mạnh đến việc
tăng cường kỷ luật Đảng, kiên quyết xử lý kỷ luật những đảng viên vi phạm như: “kiên quyết đưa đảng
viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng; kịp thời chấn chỉnh đối với đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ,
đảng viên không thực hiện đúng quy định về chuyển sinh hoạt đảng; đảng viên vi phạm kỷ luật đảng,
pháp luật nhà nước; đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp”. Điều này thể hiện tinh thần nhất quán trong
chỉ đạo của Đảng về tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, góp phần xây dựng Đảng thật sự trong sạch,
vững mạnh.
Ba là, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên.
Nâng cao công tác kết nạp đảng viên cũng là một điểm nhấn quan trọng được đưa ra tại Hội nghị Trung
ương 5 khóa XIII nhằm khắc phục tình trạng tỉ lệ đảng viên ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nước
ngoài còn thấp, thậm chí có một số nơi  còn tình trạng “trắng” đảng viên. Với phương châm: Ở đâu có
dân thì ở đó có đảng viên, Hội nghị chỉ rõ: “Tiếp tục tăng số lượng, đồng thời chú trọng nâng cao chất
lượng phát triển đảng viên; đẩy mạnh bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú,
trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên trong công
nhân, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước, nông dân, trí thức, thanh niên, sinh
viên, người có tôn giáo, ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số theo nhằm tạo
nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài”.
9

Một trong những nội dung được Hội nghị đưa ra trong việc nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng
viên là đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết
thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện,
nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào
Đảng. Đây là giải pháp rất cần thiết nhằm khắc phục những điểm lạc hậu, bất hợp lý trong chương trình
bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới; đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn; đồng thời góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người cán bộ khi đứng trong hàng ngũ của
Đảng.
Có thể nhận thấy, Nghị quyết số 21-NQ/TW “về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” có ý nghĩa rất quan trọng trong tăng cường
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị hiện nay. Nghị quyết không chỉ đặt ra yêu cầu cho mỗi tổ
chức cơ sở đảng trong việc giáo dục, rèn luyện nâng cao chất lượng đảng viên mà còn giúp cho mỗi đảng
viên nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc “tự soi”, “tự sửa”, không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống để luôn xứng đáng là “người lãnh đạo, người đầy tớ trung
thành của nhân dân”.
Câu 6: Trong các nhiệm vụ giải pháp trên, anh chị thấy nhiệm vụ nào đặc biệt chú trọng đảng
viên trong ngành giáo dục?
Phát huy vai trò, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ góp phần nâng
cao hiệu quả và chất lượng công việc
Một trong những nhiệm vụ của người đảng viên được quy định trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam là không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao là một tiêu chí cơ bản, đầu tiên để đánh giá chất lượng đảng viên hàng năm của các
Chi bộ, Đảng bộ. Để hoàn thành tốt mọi công việc, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần và ý
thức trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn một cách hiệu quả và chất lượng nhất.
Về ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, đó là khi được giao bất cứ một  công việc gì, dù
to hay nhỏ, khó hay dễ, người được giao việc phải đem hết tinh thần trách nhiệm để thực hiện công việc một
cách tự giác, làm đến nơi đến chốn để đạt kết quả tốt nhất. Nếu không có tinh thần, ý thức trách nhiệm, sẽ
triển khai công việc một cách đại khái, qua loa, làm cho xong, cho có, hoặc dễ thì làm, khó thì bỏ và dẫn
đến kết quả chất lượng công việc không cao, không đạt theo đúng yêu cầu đề ra. Ý thức trách nhiệm của
mỗi người được thể hiện qua việc nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thực hiện đúng và sáng tạo đường lối đó. Ý thức trách nhiệm sẽ quyết định đến chất lượng, hiệu quả
công việc và để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao đòi hỏi cán bộ, đảng viên cần phải nâng cao tinh
thần, ý thức trách nhiệm. 
Đối với Đảng bộ, các Chi bộ luôn chú trọng đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo cán bộ, đảng viên nâng
cao ý thức trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, của Chi bộ. Cán bộ, đảng viên kịp thời
nắm bắt các diễn biến tình hình của đất nước, tình hình trong tỉnh, bám sát sự chỉ đạo của Tỉnh ủy để triển
khai và hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao một cách hiệu quả.
Để góp phần nâng cao vai trò của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ, xin nêu lên một số
giải pháp như sau:
Một là: Cán bộ, đảng viên cần nâng cao tính chủ động trong công việc, vận dụng một cách cụ thể,
phù hợp vào lĩnh vực công việc chuyên môn được phân công, phụ trách. Từ đó nâng cao ý thức trách
nhiệm của mình trong từng công việc cụ thể khi được lãnh đạo phân công để thực hiện.
10

Hai là: Cán bộ, đảng viên phải xây dựng cho mình một phương pháp làm việc khoa học, xây dựng
kế hoạch cụ thể cho công việc của mình, có lịch làm việc cụ thể cho tuần, tháng, quý một cách phù hợp để
khi triển khai công việc sẽ đảm bảo đúng tiến độ theo kế hoạch và đạt chất lượng cao. Khi có công việc
được giao, phải tranh thủ thời gian, dồn tâm sức để thực hiện và giải quyết một cách dứt khoát, việc nào
xong việc nấy, chủ động sắp xếp để triển khai, không để việc khác chi phối khi đã có kế hoạch làm một
việc gì.
Ba là: Cán bộ, đảng viên phải có tính chủ động nghiên cứu, đề xuất và sáng kiến trong triển khai
thực hiện công việc chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ được giao với tinh thần trách nhiệm cao, tạo
sự đổi mới thực sự trong tư duy, phương pháp làm việc nhằm nâng cao hiệu quả công tác tham mưu.
Ngoài ra, cán bộ, đảng viên phải tự giác nghiên cứu, cập nhật thông tin, nắm vững nội dung công việc
chuyên môn trên lĩnh vực được giao, tham mưu cho lãnh đạo "đúng và trúng" vấn đề, từ đó công tác tham
mưu mới hiệu quả cao.
Kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta hết sức chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, đã có những
quyết sách nhằm phát huy mọi tiềm năng của con người, trong đó có đội ngũ thầy, cô giáo và những
người làm công tác quản lý giáo dục. Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định vị trí, vai trò to lớn của
GD&ĐT trong sự nghiệp cách mạng. Gần đây, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (Nghị quyết
số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã tiếp tục khẳng định quan điểm “Giáo
dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân” và đề ra 9 nhiệm
vụ; trong đó có nhiệm vụ về “Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và đào tạo” nhằm chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo, đồng thời có cơ
chế kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ, khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ...
Cùng với đó bản thân ngành giáo dục cần đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng đội ngũ giáo viên và đề
ra nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp như:
thực hiện chương trình bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới phương pháp giảng dạy; mở nhiều lớp bồi
dưỡng phương pháp dạy học tích cực cho cán bộ, giáo viên ở các cấp học; các trường học thường xuyên
tổ chức thao giảng, dự giờ để đánh giá rút kinh nghiệm, nhắc nhở tinh thần trách nhiệm của giáo viên
nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực vào
công tác giảng dạy đã kích thích tính năng động, sáng tạo của học sinh trong chiếm lĩnh tri thức…
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa tiến tới toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nghiệp GD&ĐT phải đi trước một bước nhằm chuẩn bị nhân tài, lực
lượng lao động đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Trước những đòi hỏi đó, hơn ai hết mỗi giáo viên,
cán bộ quản lý giáo dục cần thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Bác Hồ kính yêu về nghề dạy học; từ đó vận
dụng sáng tạo và tổ chức tốt việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Người
11
12

You might also like