Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 79

Câu hỏi ôn cuối kỳ triết

Dạng 1: Xác định đúng sai và giải thích ngắn gọn


Câu 1: (trang 16) Triết học Mác – Lênin là sự lồng ghép giữa phép biện chứng của
Hêghen và quan điểm duy vật của Phoiơbắc
Sai. Vì: Triết học cổ điển Đức, đặc biệt là các học thuyết của hai đại biểu tiêu biểu là
Hêghen (1770-1831) và Phoiơbắc (1804-1872), là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết
học Mác. Đó là những hạt nhân hợp lý của tư tưởng biện chứng Hêghen và các tư
tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học Phoiơbắc. Tuy nhiên, chủ nghĩa
Mác không giữ nguyên cái vốn có của 2 chủ nghĩa trên mà đã tiến hành cải tạo chủ
nghĩa duy vật L.Phoiơbắc, phép biện chứng duy tâm của Hêghen để khắc phục những
hạn chế còn tồn đọng sau đó mới hình thành nên chủ nghĩa Mác

Câu 2: Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Đúng. Vì: Sự phát triển của nền đại công nghiệp đã sản sinh ra một giai cấp mới, đó
là giai cấp công nhân. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đã xuất hiện hai giai cấp cơ bản,
đối lập nhau về lợi ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Phong trào đấu tranh của
giai cấp công nhân ngày càng lan rộng, phát triển tự phát tới tự giác, từ đấu tranh kinh
tế tới đấu tranh chính trị, cần có lý luận khoa học và cách mạng dẫn dắt, soi đường. Từ
đó chủ nghĩa Mác – Lênin ra đời

Câu 3: (Trang 16) Chủ nghĩa Mác – Lênin là vũ khí lý luận, là hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân

Đúng. Vì: Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
công nhân, sinh ra và phát triển trong mối quan hệ đấu tranh giai cấp giữa thời đại
Chủ nghĩa đế quốc và các cuộc cách mạng của giai cấp vô sản nhằm bảo vệ giai cấp
vô sản ( công nhân)

Câu 4: Chủ nghĩa mác Lênin vừa mang tính khoa học vừa mang tính cách mạng

Đúng: Theo khái niệm Triết học Mac leenin (Bài tập trang 13) Tính khoa học thể hiện
ở học thuyết là sự kế thừa của các thành tựu khoa học; bản thân học thuyết cũng đã
thể hiện đó là một hệ thống lý luận mang tính logic, khoa học và nội dung chứa đầy
những dự báo khoa học về tương lai. Tính cách mạng thể hiện trong việc học thuyết
đã chỉ ra con đường đấu tranh, chống lại bảo thủ lạc hậu, chống lại chế độ áp bức
bóc lột để hướng đến một xã hội tốt đẹp hơn

Câu 5: Chủ nghĩa Mác – Lênin mang tính nhân văn, nhân đạo

Đúng. Vì: Một trong những giá trị đặc trưng tạo nên sức sống của học thuyết Mác
chính là ở tính nhân văn, nhân đạo của nó. Chủ nghĩa Mác có sự thống nhất giữa tính
nhân văn, nhân đạo với tính khoa học và tính cách mạng, gắn với sự nghiệp giải
phóng giai cấp vô sản nói riêng, giải phóng con người nói chung khỏi mọi ách áp bức,
bóc lột, bảo vệ những quyền cơ bản của con người, đặc biệt là của đa số người lao
động trong xã hội. Chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo của C. Mác chính là yếu tố làm nên
sức sống mới cho chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay.
________________________

Câu 1: (trang 53) Vật chất là thực tại khách quan và con người không thể nhận thức
được.
Sai. Vì theo định nghĩa vật chất (sách bài tập trang 21)
-> COn người có khả năng nhận thức được thế giới khách qua bằng cách chụp lại chép
lại phản ánh lại

Câu 2: Trong định nghĩa vật chất, Lênin chỉ ra thuộc tính quan trọng nhất phân biệt
vật chất với ý thức là tồn tại khách quan. ( sách bài tập trang 21)

Đúng. Vì bằng việc chỉ ra thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất là thuộc tính tồn tại
khách quan, đã giúp chúng ta phân biệt được sự khác nhau căn bản giữa phạm trù vật
chất với tư cách là phạm trù triết học, khoa học chuyên ngành, từ đó khắc phục được
hạn chế trong các quan niệm của các nhà triết học trước đó, cung cấp căn cứ khoa học
để xác định những gì thuộc và không thuộc về vật chất.

Câu 3: Ngôn ngữ là “cái vỏ vật chất” của ý thức của tư duy

Đúng. Vì: Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì ngôn ngữ là phương tiện để
con người giao tiếp trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất của tư
duy, là hình thức biểu đạt của tư tưởng ra bên ngoài. Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để
phát triển tâm lý, tư duy của con người và xã hội loài người.

Câu 4: Óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật

Sai. Vì đây là quan điểm của phép biện chứng siêu hình. ( sách giáo trình trang 76)

Câu 5: Bản chất của ý thức là sự hồi tưởng của ý niệm tuyệt đối. Sự phản ánh thế giới
khách quan vào trong đầu óc con người là quá trình tự nhận thức của con người.

Sai. b. Bản chất cuả ý thức (Sách bài tập trang 24)
YT là sự phản ánh năng động, sáng tạo TGKQ vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ
quan của TGKQ. YT thức là sự phản ánh sáng tạo, nội dung của YT do TGKQ quyết
định. YT phản ánh tương đối đúng đắn TGKQ và YT mang bản chất xã hội.

+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách: Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài
“di chuyển” vào trong đầu của con người và được cải biến ở trong đó.

+ YT có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.

+ Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất trong việc trao đổi thông tin giữa chủ
thể và đối tượng phản ánh cùng với mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình ảnh tinh

thần và chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoại động
thực tiễn để biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực.
+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

Câu 6: Theo phép biện chứng duy vật, phát triển là sự thay đổi thuần túy vế chất của
sự vật.

Sai. Vì nó phát triển cả về chất và lượng. SÁch bài tập trang 37

Câu 7: Đứng im là trạng thái không vận động của một sự vật ở một giai đoạn nhất
định trong sự phát triển.

Sai. (Sách bài tập trang 22)

Câu 8: Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau.

Đúng. Sách bài tập trang 30

Câu 9: Thế giới này được tạo thành bởi một chuỗi các quan hệ nhân quả.

Đúng. Sách bài tập trang 30 31

Câu 10: Hiện tượng nào, bản chất ấy.

Sai. Sách bài tập trang 33

Câu 11: Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, chúng ta phải dựa vào cái ngẫu
nhiên chứ không dựa vào cái tất nhiên để cải tạo sự vật.

Sai sách bài tập trang 32

Câu 12: Một mảnh vải thành áo khác về chất so với mảnh vải cùng loại để nguyên.

Sai. Vì chỉ khác nhau về lượng chứ chưa thay đổi về chất

Câu 13: Sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất của sự vật có tính độc lập tương
đối, không có mối quan hệ với nhau.

Sai. Sách bài tập trang 36

Câu 14: Mâu thuẫn biện chứng là sự xung đột không thể dung hòa của các mặt đối
lập.

Sai. Sách bài tập trang 38

Câu 15: Theo phép biện chứng duy vật, cách giải quyết mâu thuẫn đứng đắn nhất là
xóa bỏ các mặt đối lập.

Sai. Vì các mặt đối lập tồn tại khách qua trong sự vật
Câu 16: Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra rằng sự phát triển của mọi sự vật, hiện
tượng đều phải trải qua 2 lần phủ định.
Sai.
Phải trải qua 2 lần phủ định biện chứng.

Câu 17: Thực tiễn và thực tế là một

Sai. Định nghĩa thực tiễn: sách bài tập trang 41


Định nghĩa thực tế:

Câu 18: Hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất quan
trọng nhất.

Sai. Hoạt động thực tiễn có 3 hoạt động. Họa động cơ bản nhất là: hoạt động sản xuât
vật chất. (Sách bài tập trang 41)
Câu 19: Nhận thức lý tính quan trọng hơn nhận thức cảm tính.
Sai. Sách bài tập trang 43

Câu 20: Chân lý có tính tương đối, tính tuyệt đối, tính cụ thể.

Sai. Vì: Sách bài tập trang 44


________________________

Câu 1: (Trang 93) Sản xuất vật chất là hoạt động phân biệt giữa con người và các con
vật khác.

Đúng. Sách giáo trình trang 141

Câu 2: Điều kiện tự nhiên là yếu tố quyết định sự phát triển của sản xuất vật chất và
do đó là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người.

Sai. Sách bài tập trang 65.

Câu 3: Trình độ lực lượng sản xuất nói lên trình độ chinh phục tự nhiên của con
người.

Đúng. Sách bài tập trang 67.

Câu 4: Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người và con người trong lĩnh vực
sản xuất, do đó nó phụ thuộc vào con người và mang tính chủ quan.

Sai. Vì quan hệ sản xuất mang tính khách quan. Sách bài tập trang 67 or sách giáo
trình trang 148

Câu 5: Sự phát triển của lực lượng sản xuất chỉ bị kìm hãm khi quan hệ sản xuất lạc
hậu hơn so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đúng. Sách bài tập trang 68


Câu 6: Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì ngay lập tức, mọi bộ phận của kiến trúc thượng
tầng sẽ phải thay đổi theo.
Sai. vì kiến trúc thượng tầng sẽ thay đổi phức tạp. Sách bài tập trang 70 71

Câu 7: Chủ nghĩa cộng sản là một tất yếu của lịch sử.

Đúng. Sách giáo trình trang 173

Câu 8: Mọi xã hội trong lịch sử đều phát triển tuần tự theo năm hình thái kinh tế-xã
hội từ thấp đến cao.

Sai. Có những dân tộc tuần tự có những dân tộc bỏ qua. Sách bài tập trang 73.

Câu 9: Quá trình phát triển các hình thái kinh tế xã hội là quá trình ngẫu nhiên.

Sai. Sách bài tập trang 73. LÀ quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải ngẫu nhiên.

Câu 10: Nhà nước là bộ máy hành chính đứng trên mọi giai cấp bảo vệ quyền lợi của
mọi cá nhân.

Sai. Bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị Sách bài tập trang 78

Câu 11: Nhà nước của giai cấp vô sản về bản chất cũng chỉ là bộ máy chính quyền để
thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp này.

Sai. Cho tầng lớp nhân dân lao động

Câu 12: Sự khác nhau về giai cấp là do sự khác nhau về tiếng nói.

Sai. Sách bài tập trang 74 hoặc sách giáo trình trang 162

Câu 13: Chủ nghĩa dân tộc và đấu tranh giai cấp không có liên quan gì với nhau.

Sai. Có liên quan đến nhau


Câu 14: Ở các thị tộc, bộ lạc thời nguyên thủy chưa có sự phân hóa giai cấp.
Đúng. Đến bộ tộc mới có sự phân chia giai cấp

Câu 15: Trí thức là một giai cấp quan trọng trong xã hội hiện đại.

Sai. Trí thức chỉ là một tầng lớp không phải giai cấp (sách giáo trình trang 168)

Câu 16: Suy cho cùng, ý thức xã hội bao giờ cũng chịu sự quy định tồn tại xã hội.

Đúng. Sách giáo trình trang 208.

Câu 17: Tâm lý xã hội thường là sự phản ánh tự giác đời sống xã hội của một cộng
đồng người.

Đúng. Sách giáo trình trang 210


Câu 18: Con người vừa có bản chất tự nhiên, vừa có bản chất xã hội.
Đúng. Sách bài tập trang 87

Câu 19: Con người là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh.

Sai. Sách bài tập trang 87

Câu 20: Lịch sử của nhân loại là lịch sử của các vị anh hùng, hào kiệt, các cá nhân
kiệt xuất.

Sai. Sách bài tập trang 90

Dạng 2: TỰ LUẬN

Câu 1: (trang 56) Phân tích luận điểm: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác”

2. Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin.

Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, cho đến thời điểm ngày nay, vẫn được
cho là một định nghĩa hoàn chỉnh nhất về phạm trù vật chất, được các nhà khoa
học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển.
Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin bao hàm những nội dung sau đây:
Một là, vật chất với tư cách là phạm trù triết học chỉ thực tại khách quan.
Vật chất là kết quả của sự trừu tượng hoá, nó khái quát những thuộc tính cơ bản
và phổ biến nhất của các dạng biểu hiện vật chất. Vật chất tồn tại khách quan
trong hiện thực, tức là sự tồn tại của nó không lệ thuộc vào ý thức và quan niệm
con người. Trong vật chất không tồn tại cảm tính. V.I.Lênin khẳng định rằng,
phạm trù triết học vật chất chỉ cái đặc tính chung nhất, bản chất nhất của mọi sự
vật, hiện tượng, gắn liền với cái “đặc tính duy nhất của vật chất – là cái đặc tính
tồn tại với tư cách là hiện thực khách quan, tồn tại ngoài ý thức của chúng ta”2.
Đặc tính này tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật
chất. Có thể thấy, trong định nghĩa vật chất của Lênin tồn tại hai khía cạnh đối
lập nhưng lại gắn bó chặt chẽ với nhau: tính trừu tượng và tính cụ thể của vật
chất. Nếu chỉ tuyệt đối hoá tính trừu tượng của phạm trù thì rất dễ sa vào chủ
nghĩa duy tâm, nhưng nếu chỉ nhìn thấy tính cụ thể thì sẽ đồng nhất vật chất với
vật thể. Vì vậy, mọi sự vật, hiện tượng tồn tại trong tự nhiên hay trong xã hội thì
đều là tồn tại khách quan, tồn tại hiện thực bên ngoài ý thức con người, đều
thuộc phạm trù vật chất và là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Nội dung này có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi nó đã chỉ ra và khắc phục
được triệt để những sai lầm cơ bản mà chủ nghĩa duy vật trước Mác là đồng nhất
vật chất với một hay một số dạng cụ thể của nó; đưa chủ nghĩa duy vật lên một ầm cao
mới; đáp ứng được những đòi hỏi mới của bối cảnh và thời kì mới; thúc
đẩy các nhà khoa học không ngừng tìm hiểu, khám phá và làm giàu đẹp tri thức
của con người.
Hai là, vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác” và “tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. V.I.Lênin đã khẳng
định, vật chất với tư cách là thực tại khách quan là cái có trước ý thức, không
phụ thuộc vào ý thức; còn ý thức (tức cảm giác) là cái có sau vật chất, do vật
chất mà ra, phụ thuộc vào vật chất. Khi tác động vào các giác quan của con
người, vật chất đem lại cho con người cảm giác. Như vậy, vật chất là tính thứ
nhất, ý thức là tính thứ hai. Do tính trước – sau nên vật chất không phụ thuộc
vào ý thức, nhưng ý thức lại lệ thuộc vào vật chất. Vật chất là nội dung, là nguồn
gốc khách quan, là nguyên nhân phát sinh ra ý thức; không có cái bị phản ánh là
vật chất sẽ không có cái phản ánh là ý thức. Ví dụ, trước khi có sự xuất hiện của
con người trên trái đất, vật chất đã tồn tại từ rất lâu nhưng vì chưa có sự tồn tại
của con người, ý thức cũng chưa xuất hiện và hình thành. Điều này đã chứng tỏ
rằng vật chất tồn tại khách quan và không lệ thuộc vào ý thức.
Nội dung này đã bác bỏ những sai lầm của chủ nghĩa duy tâm lí giải cho
việc ý thức là cái sinh ra mọi sự vật, hiện tượng, dưới mọi hình thức như duy
tâm chủ quan, duy tâm khách quan, nhị nguyên luận,…
Ba là, vật chất là thực tại khách quan được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại.
Vật chất là cái mà ý thức chính là sự phản ánh của nó. Vì vậy, khi nói đến bản
chất của ý thức, V.I.Lênin cũng đã khẳng định: “Ý thức chẳng qua chỉ là cái vật
chất được di chuyển vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi ở trong
đó”. Với tư cách là một phạm trù triết học, vật chất tuy rộng đến cùng cực nhưng
được biểu hiện qua các dạng cụ thể như nước, đất, không khí, cái bàn, quả táo,
quyển sách,… mà qua đó, các giác quan của con người như mắt, tai, mũi,… có ri thức
của nhân loại.
3. Ý nghĩa phương pháp luận định nghĩa vật chất của V.I.Lênin.
Sự ra đời định nghĩa vật chất của V.I.Lênin là một bước phát triển vượt bậc.
Từ đó, có thể rút ra một số kết luận mang ý nghĩa phương pháp luận trong nhận
thức và thực tiễn như sau:
Thứ nhất, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã bao quát và giải quyết cả hai
mặt của vấn đề cơ bản của Triết học. V.I.Lênin đã giải đáp toàn bộ vấn đề cơ bản
của triết học đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bằng việc
Đảng ta đã kết luận: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng
phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan.” Nếu không vận dụng
đúng và quán triệt nguyên tắc khách quan, sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí
và rơi vào sai lầm này đến sai lầm khác.
Thứ ba, trong các hoạt động nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã
hội, định nghĩa vật chất của Lênin đã giúp ta xác định được vật chất trong lĩnh
vực xã hội - điều mà các nhà duy vật trước Mác chưa chạm tới. Ta có thể tìm
thấy vật chất trong lĩnh vực xã hội ở các hoạt động thực tiễn của con người như
điều kiện sinh hoạt vật chất, hoạt động vật chất mà tiêu biểu là hoạt động sản
xuất vật chất để nuôi sống con người và phát triển xã hội.
Thứ tư, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin còn giúp định hướng các nhà
khoa học trong việc tìm kiếm các dạng mới, các hình thức mới của vật chất.
Lênin đã cổ vũ các nhà khoa học kiên trì đào sâu, nghiên cứu thế giới vật chất để
tìm ra những kết cấu mới, những dạng thức mới, những quy luật vận động mới
của vật chất, từ đó làm phong phú, sâu sắc hơn kho tàng tri thức của nhân loại.
Câu 2: Hãy chứng minh rằng “nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra
đời và phát triển của ý thức là lao động, ngôn ngữ”
Câu 3: Tại sao nói ý thức là sự phản ánh tích cực sáng tạo thế giới khách quan vào
trong đầu óc của con người?
Câu 4: Hãy chứng minh rằng ý thức mang bản chất xã hội.

Nguồn gốc xã hội của ý thức nói lên một hiện tượng mang bản chất xã hội thể hiện ở
vai trò của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

Lao động là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra những sản
phẩm

phục vụ cho các nhu cầu của mình, là một quá trình trong đó bản thân con người đóng
góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa người và tự
nhiên. Lao động là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung
cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo
ra cả bản thân con người. Nhờ có lao động, con người tách ra khỏi giới động vật. Một
trong những sự khác nhau căn bản giữa con người với động vật là ở chỗ động vật sử
dụng các sản phẩm có sẵn trong giới tự nhiên, còn con người thì nhờ lao động mà bắt
giới tự nhiên phục vụ mục đích của mình, thay đổi nó, bắt nó phục tùng những nhu
cầu của mình. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan
mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế
giới đó.

Sự hình thành ý thức không phải là quá trình thu nhận thụ động, mà đó là kết quả hoạt

động chủ động của con người. Nhờ có lao động, con người tác động vào thế giới
khách quan, bắt thế giới khách quan bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những
quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định, và các hiện tượng ấy
tác động vào bộ óc người, hình thành dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Như
vậy, ý thức được hình thành chủ yếu do hoạt động cải tạo thế giới khách quan của con
người, làm biến đổi thế giới đó. ý thức với tư cách là hoạt động phản ánh sáng tạo
không thể có được ở bên ngoài quá trình con người lao động làm biến đổi thế giới
xung quanh. Vì thế có thể nói khái quát rằng lao động tạo ra ý thức tư tưởng, hoặc
nguồn gốc cơ bản của ý thức tư tưởng là sự phản ánh thế giới khách quan vào đầu óc
con người trong quá trình lao động của con người.

Lao động không xuất hiện ở trạng thái đơn nhất, ngay từ đầu nó đã mang tính tập thể

hội. Vì vậy, nhu cầu trao đổi kinh nghiệm và nhu cầu trao đổi tư tưởng cho nhau xuất
hiện. Chính nhu cầu đó đòi hỏi xuất hiện ngôn ngữ.

Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Ngôn ngữ là hệ
thống

tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ thì ý thức không thể tồn
tại và thể hiện được.
Ngôn ngữ vừa là phương tiện giao tiếp trong xã hội, đồng thời là công cụ của tư duy
nhằm khái quát hóa, trừu tượng hóa hiện thực. Nhờ ngôn ngữ mà con người tổng kết
được thực tiễn, trao đổi thông tin, trao đổi tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. ý
thức không phải thuần túy là hiện tượng cá nhân mà là một hiện tượng xã hội, do đó
không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành
và phát triển được. Vậy, nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và
phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. ý thức phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc con người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. ý thức
là sản phẩm xã hội, là một hiện tượng xã hội

Câu 5: Hãy phân tích để thấy rằng các sự vật hiện tượng vận động phát triển theo cách
thức: Sự thay đổi dần dần về lượng sẽ dẫn đến sự chuyển hóa về chất.
Câu 6: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận của Quy luật lượng - chất trong
nhận thức hoạt động thực tiễn, đặc biệt đối với sinh viên.
a, Chất
Thế giới có vô vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những
chất đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự vật, hiện
tượng nàyvới sự vật, hiện tượng khác.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác.
Ví dụ:.Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng
chảy là 1083C, nhiệt độ sôi là 2880C…những thuộc tính này nói lên những
chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác.
.Hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn phân
biệt với hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau .
* Đặc điểm của chất:
-Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm
bên trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở
bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của
con người mà có thể áp đặt được nó.
-Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật.
.Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những
thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của
sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của
lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay
tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước.
.Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản.
Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn
tại vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì
sự vật mới thay đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối
quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc
tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong
mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện sự chất của
sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc.
Ví dụ:Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế
tạo, sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các
thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với
nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về dấu vân tay lại
trở thành thuộc tính cơ bản
.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai
đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng
không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất.
Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ ->
mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một
chất.
.Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành
mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi
kết cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các
yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau.
Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các
nguyên tố cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử
cacbon là khác nhau vì thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim
cương rất cứng còn than chì mềm.
-Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay
đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về
lượng của nhiệt độ từ 40-50C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi.
b, Lượng:
Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật,
biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển
của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
* Biểu hiện của lượng
Các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở
đại lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít
hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc
đậm hay nhạt...
Ví dụ như đối với phân tử nước(H2O). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó,
tức hai nguyên tử hidro (H) và một nguyên tử oxi (O) hay Quốc gia Việt Nam
có Dân số: >90 triệu người và Diện tích :331698km²
* Đặc điểm của lượng
-Lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất,
chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định.
Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố
quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện
tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp
theo.
- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể
nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.Trong thực tế lượng
của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc
của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm hai
nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những
lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận
thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,...
trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự
vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá.
- Lượng thường xuyên biến đổi:Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu
bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số
lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố
quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự
vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng
không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi
của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật.
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật,
hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai
phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và
lượng của sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định
trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng.
Chẳng hạn , số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất
lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy
định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự
vật, hiện tượng.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
* Sự thống nhất giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và
mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định
lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất
tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên
kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình
thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không
màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,…
“Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau,
tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở
trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.Bất cứ sự thay đổi nào về lượng
cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng.
Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:
Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định,
còn lượng là mặt biến đổi hơn nên sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ
cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo
xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về
chất của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay
đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một
thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ,
thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa
chuyển sang trạng thái lỏng.
Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất
định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là
độ. Độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản
chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng
vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Chỉ khi nào
lượng thay đổi đến giới hạn nhất định( đến độ )mới dẫn đến sự thay đổi về chất
như vậy sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả là sự
vật hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới ra đời.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự
thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là thời điểm mà tại
đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy
đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất
mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật
đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển
chừng nào nó còn tồn tại.
Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy.
Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật
do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi
đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và
là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận
động, phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong thế giới luôn diễn ra
quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một
đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp
đến cao.
Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ:
Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể
lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ).
Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó
(điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái
lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy)
Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ
về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất.
Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do
tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng hạn,
thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác
nhau.Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có
những nước chỉ mất 15 năm.
Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào
điều kiện , trong đó sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình
thức bước nhảy.
*Các hình thức cơ bản của bước nhảy.
Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia
thành bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần:
-Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn
làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.
Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn
thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát.
-Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách
tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần
dần mất đi.
Ví dụ như ,Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần
dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước
nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy.

Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và
bước nhảy cục bộ:
-Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các
yếu tố cấu thành sự vật.
-Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố
riêng lẻ của sự vật.
Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên
muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để
thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy
cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh
thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội
trên đất nước ta.
*Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:
Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay
đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác
động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới
thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong
một độ mới.
Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác
động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng
mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động
ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp
điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là
thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá
của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy
mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn.
Cũng giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc
của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn
thể tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng tính chất hoà tan một
số chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v v
Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về
chất mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ
những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự
thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn
của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy;
chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động
đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu
về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật hiện
tượng.
- Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật,
đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của
sự vật. Ví dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người
ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó
mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các
nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các
chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng.
- Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh(không chịu tích lũy về mặt
lượng mà lại muốn biến đổi về chất) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh(lượng đã
tích lũy đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy) trong công tác thực
tiễn. Ví dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy đủ kiến
thức về lượng thì khả năng thất bại sẽ rất cao
- Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với
từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.
- Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ
thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện tượng do
đó phải biết chọn phương pháp phù hợp với tác động và phương thức liên kết đó
trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng
3. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên
Đại Học
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng
thành những sự thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có
ý nghĩa phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên trong
môi trường Đại Học như sau:
*Sự khác nhau cơ bản giữa việc học tập ở phổ thông và Đại Học
So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ Đại học tăng lên
một cách đáng kể. Một ví dụ đơn giản, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ
kéo dài trong một năm, trong khi ở Đại học một môn chỉ kéo dài khoảng từ 1
đến 2 tháng. Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến tân
sinh viên gặp những khó khăn. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức,
học đại học và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Khác
với phương pháp học thụ động như THPT, sinh viên Đại học sẽ phải tham gia
rất nhiều hoạt động nhóm, thuyết trình, ngoại khoá,.. các môn học tại bậc Đại
học rất đa dạng và mới mẻ, ngoài việc đọc sách giáo trình, sinh viên còn phải
tìm thêm nhiều nguồn thông tin từ trong sách báo, tài liệu liên quan. Chính sự
thay đổi về khối lượng kiến thức, thời gian và phương pháp học sẽ khiến nhiều
tân sinh viên gặp khó khăn trong quá trình thích nghi với môi trường học tập,
giáo dục mới.
Sự khác nhau lớn nhất giữa bậc THPT và Đại học có lẽ là nhiệm vụ trong
học tập, đối với bậc THPT thì việc lên lớp và hoàn thành các mục tiêu mà giáo
viên đề ra chính là nhiệm vụ lớn nhất nhưng đối với sinh viên Đại học, điều họ
đang đối mặt không chỉ là những nhiệm vụ đơn thuần trên lớp mà họ còn phải
thực hiện các kì thực tập, phải bắt đầu đặt ra mục tiêu cho tương lai của chính
bản thân họ. Ngoài ra, khi lên Đại học, ý thức của bản thân là yếu tố quan trọng
nhất, không còn sổ liên lạc hay họp phụ huynh, tinh thần tự học sẽ được phát
huy rõ rệt.
Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình
thức, bởi vậy có thể nới sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống
như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà người sinh viên
cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp để đạt được những thành tích
cao trong quá rình học tập và nghiên cứu của mình.
* Từng bước tích lũy kiến thức một cách chính xác, đầy đủ.
Như chúng ta đã biết, sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng
diến ra bằng cách tích lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực
hiện bước nhảy để chuyển về chất và việc học tập của sinh viên cũng không
nằm ngoài điều đó. Để có một tầm bằng Đại học chúng ta cần phải tích lũy đủ
số lượng các tín chỉ của các môn học. Như vậy có thể coi học tập là quá trình
tích lũy về lượng mà điểm nút là các kỳ thi, thi cử là bước nhảy. Do đó, trong
hoạt động nhận thức, học tập của sinh viên phải biết từng bước tích lũy về
lượng ( tri thức) làm biến đổi về chất (kết quả học tập) theo quy luật..
Sinh viên cần học tập đều đặn hạng ngày để chất được thấm sâu vào mỗi
sinh viên. Tránh gặp gấp rút mỗi khi sắp đến kỳ thi, tránh tư tưởng chủ quan,
nóng vội trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hàng ngày.
Hàng ngày mỗi tân sinh viên vẫn đến trường để học tập, tiếp thu những kiến
thức mới và lượng kiến thức ngày một nhiều, nhưng chưa thể ra trường để làm
việc ngay được vì kiến thức mỗi sinh viên chưa tích lũy đầy đủ, chưa đảm bảo
để ta làm việc. Nhưng nếu qua 4 năm mỗi sinh viên học tập và rèn luyện chăm
chỉ để tích lũy kiến thức, tích lũy kinh nghiệm qua thầy cô, qua những lần đi thực
tập...(lượng) và tốt nghiệp Đại học đạt kết quả cao, đảm bảo về chuyên
môn cho mỗi sinh viên ra trường làm việc. Nói cách khác chất đã thay đổi và
biến đổi sang chất mới.
* Sinh viên phải tự học tập và rèn luyện tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc,
trung thực
Cuộc sống luôn vận động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng
với đó, con người cũng phải vận động chạy theo nó để không bị bỏ lại phía sau.
Là một sinh viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất nhiều, chúng ta
không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân mình. Chúng ta sinh ra ai
cũng có điểm chung là phải sống và làm việc, còn thành công đến như nào là
do sự nỗ lực, cố gắng, do sự rèn luyện mà nên. Bởi thế, việc phải tự học tập,
tìm kiếm, rèn luyện tích cực, trau dồi bản thân khi còn là 1 sinh viên trên giảng
đường Đại học là điều quan trọng và cần thiết. Khi sinh viên biết tự giác học
tập, tìm hiểu, nghiên cứu và họ trở nên tích cực, chủ động hơn trong công việc
của mình.
Trong thực tiễn đời sống của con người, muốn có sự thay đổi về chất, cần
có sự tích lũy về lượng, sự tích lũy ấy là do tự bản thân mỗi chúng ta phấn đấu,
đánh đổi bằng sức lao động mà có được, chứ không nhờ vào một sự giúp đỡ
nào khác. Đối với việc học tập và rèn luyện của sinh viên. Trong một kỳ thi,
nếu có sinh viên gian lận để một kết quả tốt .Bằng gian lận, ta có thể qua được
kỳ thi, nhưng về bản chất thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất
* Trong học tập và nghiên cứu cần tiến hành từ dễ đến khó, tránh nóng
vội đốt cháy giai đoạn
Từ quy luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa phương pháp
luận trong việc học tập và rèn luyện của sinh viên như sau: để có thể tốt
nghiệp, chúng ta phải tích luỹ đủ số lượng các tín chỉ môn học; để môn học có
kết quả tốt, sinh viên phải tích luỹ đủ số lượng tiết của các môn học. Có thể coi
thời gian học là độ, các bài kiểm tra là các điểm nút và điểm số đạt yêu cầu là
bước nhảy, bởi kết quả thi (bước nhảy) tốt là sự kết thúc môt giai đoạn tích luỹ
kiến thức trong quá trình học tập rèn luyện của sinh viên. Vì vậy, trong việc
học tập và các hoạt động học thuật khác, sinh viên phải từng bước tích luỹ kiến
thức (lượng) để làm thay đổi kết quả học tập (chất) theo quy luật. Trong quá
trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học
những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có
thể tiếp tục nghiên cứu những kiến thức khó hơn. Ví dụ như trước khi lên Đại
học thì phải hoàn thành việc học ở 3 cấp bậc trước, nếu không, tình trạng mất
gốc sẽ xảy ra.Việc tiếp thu kiến thức từ cơ bản đến nâng cao là phương pháp
học tập khoa học mọi người đều biết nhưng không phải ai cũng thực hiện đúng
quy trình. Một số trường hợp sinh viên không tập trung học, bị xao nhãng bởi
những chuyện ngoài lề, làm ảnh hưởng đến tốc độ học. Nhiều sinh viên khi đến
gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ đầu, nhưng thời gian ôn thi là để sinh
viên ôn lại kiến thức họ đã học chứ không phải tiếp thu thêm cái mới, vì vậy
cho dù sinh viên chăm học trong thời gian đó thì cũng không thể đảm bảo được
lượng kiến thức để vượt qua được kì thi. Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức
học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn học trong cùng một năm hay
một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến không có
môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại.
Tóm lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi,
sinh viên phải học dần mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự
biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất theo hướng tích cực
*Liên tục phấn đấu học tập và rèn luyện, tránh tư tưởng chủ quan
Để có thể bước ra ngoài xã hội khắc nghiệt, những sinh viên cần trang bị
cho mình từ những điều đơn giản nhất như kĩ năng giao tiếp, ngôn ngữ,… cho
đến những kiến thức to lớn, thành tựu trong cuộc sống về các lĩnh vực khoa
học – nghệ thuật. Việc trải qua hơn 12 năm học tập là khoảng thời gian bước
đệm cho hành trình tích luỹ ấy. Không những thế, chúng ta vẫn phải tiếp thu
những kỹ năng mềm cho cuộc sống mai sau. Trong quá trình liên tục phấn đấu
học tập ấy,quá trình chuyển hoá từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về
chất và ngược lại được thể hiện ở việc sinh viên tích luỹ kiến thức. Áp dụng
quy luật lượng chất, sinh viên liên tục phấn đấu học tập, tìm kiếm những thông
tin, mang về những “lượng” tốt, có cơ sở và đầy đủ. Từ đó, làm biến đổi “chất”
tốt hơn, tạo nên các thành tích, thành tựu tương ứng cho sự nỗ lực ấy.
Trên quan niệm triết học, chất thay đổi sẽ thay đổi cả sự vật. Điều đó được
minh chứng khi sinh viên nỗ lực phấn đấu và trở thành các thầy giáo, giảng
viên, lượng sẽ được đổi mới theo nhịp điệu của chất đã được tạo ra bởi thế hệ
trước và truyền lại cho thế hệ sau.
Ở trường Đại học, ngoài các bài giảng trên lớp, sinh viên còn tự tìm tòi,
nghiên cứu ở thư viện, tích luỹ và học hỏi những kĩ năng mềm thiết yếu cho
mai sau. Được tự do sáng tạo và trau dồi những “lượng” ở mức tối ưu nhất,
sinh viên luôn đạt được những thứ “chất” lượng nhất: tấm bằng cử nhân, những
học bổng,… và tự tin bước ra đời. Cứ như vậy, quá trình chuyển đổi giữa chất-
lượng liên tục diễn ra không ngừng nghỉ trong sự phát triển, liên tục phấn đấu
không ngừng ở mỗi sinh viên, giúp họ tự tin vững bước trong hành trang cuộc
đời mình. Khi ấy, nhiệm vụ của sinh viên là khai phá hết tiềm năng tri thức,
kho dữ liệu và ứng dụng vào thực tiễn và tiếp tục mở rộng con đường khoa học
– nghệ thuật, tránh bị tư tưởng bảo thủ và chủ quan nghĩ rằng mình đã làm hết
sức có thể.

*Rèn luyện ý thức học tập của sinh viên


Đầu tiên, trong sự vận động và phát triển phải biết tích luỹ về lượng dẫn
đến sự thay đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ.
Quá trình học tập phải được tích luỹ từ từ, đầy đủ kiến thức, hoàn thiện kỹ
năng; không được bỏ qua kiến thức cơ bản. Việc bỏ bước trong tích luỹ sẽ dẫn
đến sự không hoàn thiện về độ, việc thực hiện bước nhảy sẽ không thành công
và không thể hình thành chất mới. Ví dụ, nếu bạn hỏng kiến thức cơ bản ở bậc
tiểu học, bạn sẽ không thể thực hiện bước nhảy để được học ở cấp trung học.
Nếu bạn cố thực hiện bước nhảy, tức là bạn vượt qua điểm nút một cách ép
buộc, chất mới được hình thành nhưng nó không là vận dụng theo quy luật
lượng – chất. Những sự thay đổi về chất do thực hiện bước nhảy gây nên chỉ
xảy ra khi lượng đã thay đổi đến nút, độ được hoàn thiện từ sự tích luỹ đầy đủ
về chất. Bên cạnh, dù rằng sự phát triển và vận động của sự vật, hiện tượng là
việc liên tục thực hiện các bước nhảy, bạn phải chú ý đến độ trong quá trình
thay đổi của lượng, không vội vàng mà bỏ bước. Tư tưởng bảo thủ ngăn bạn
không dám vượt qua điểm nút. Như là một kỳ thi học sinh giỏi, mặc dù bạn có
đủ kiến thức được tích luỹ để tham gia kỳ thi, nhưng lại không đủ tự tin để thực
hiện bước nhảy, thì quá trình tích luỹ đó chỉ được xem là tích luỹ về lượng mà
không có sự thay đổi về chất. Bạn phải nhận thức được mối liên kết giữa các
yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng để lựa chọn phương pháp tích luỹ phù hợp,
đẩy nhanh tiến độ tích luỹ, kèm theo chất lượng của độ. Vận dụng được mối
liên kết đó sẽ giúp bạn hiểu rõ bản chất, quy luật của chất, nâng cao chất lượng
của độ
*Sự phát triển bền vững của tập thể phụ thuộc vào bản thân mỗi sinh viên.
Một tập thể bao gồm nhiều cá nhân. Mỗi cá nhân có phẩm chất tốt (lượng) sẽ
góp phần tạo nên “chất” tốt cho tập thể đó. Một lớp học tập tốt, nếu trong lớp
có nhiều cá nhân có ý thức học tập tốt, luôn cố gắng để phấn đấu đạt được
thành tích cao. Một lớp đoàn kết nếu các cá nhân luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi
người. Có thể nói uy tín, thành tích của một lớp phụ thuộc vào sự phấn đấu nỗ
lực của mỗi sinh viên.
Tóm lại, việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn

Câu 7: Tại sao mâu thuẫn là nguồn gốc , động lực bên trong của sự vận động
phát triển của các sự vật hiện tượng.
Câu 8: Phân biệt “phủ định biện chứng” và “phủ định của phủ định”

Câu 9: Vai trò của thực tiễn đối với quá trình nhận thức.

a. Phạm trù thực tiễn

Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội, chứ không phải hoạt động bản năng của loài
người. Thông qua thực tiễn cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội cải tạo chính bản thân con
người

- Đặc trưng của hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, là phương thức tồn tại
cơ bản, phổ biến của con người và xã hội, là hoạt động có tính mục đích nhằm cải tạo
tự nhiên và xã hội.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất cảm tính, đó là hoạt động mang tính tất yếu
khách quan, con người sử dụng công cụ lao động, lực lượng sản xuất vật chất để tác
động vào đối tượng vật chất ->> làm biến đổi để thỏa mãn nhu cầu sinh tồn của con
người và xã hội loài người.
VD: hoạt động lao động sản xuất nông nghiệp tạo ra lương thực thực phẩm ,..
-Thực tiễn là hoạt động có mục , nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người
VD: hoạt động xây nhà ở, đấu tranh để xóa bỏ áp bức bóc lột ,.. Là hoạt động có mục
đích của con người ( con người là động vật có ý thức, có tư duy sáng tạo , chứ không
phải hoạt động bản năng của loài vật)
- Thực tiễn mang tính lịch sử xã hội: hoạt động thực tiễn là hoạt động con người
, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người , trải qua giai đoạn lịch sử
nhất định, bị giới hạn bởi điều kiện lịch sử- cụ thể nhất định .
Vd: cùng là sản xuất lương thực , thực phẩm để nuôi sống con người nhưng mỗi giai
đoạn thời kỳ có công cụ sản xuất , phương thức cacnh tác, quản lý khác nhau, từ đồ
đá, đồng,sắt
=>> Thực tiễn là hoạt động đặc trưng bản chất của con người

- Các hình thức của thực tiễn:

+ Hoạt động sản xuất vật chất: là hoạt động mà trong đó con người sử dụng
những công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra những của cải và các điều
kiện thiết yếu nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của mình và xã hội. Hoạt động sản
xuất vật chất là cở sở quan trọng quyết định các hoạt động khác
+ Hoạt động chính trị - xã hội: là hoạt động của các tổ chức cộng đồng người
khác nhau trong xã hội nhằm cải biến những mỗi quan hệ xã hội để thúc đẩy xã hội
phát triển. Trong hoạt động động chính trị xã hội có nhiều hoạt động như xóa đói giảm
nghèo, hoạt động tạo công ăn việc,.. nhưng hoạt động đấu tranh giai cấp là cao nhất,
tại sao như vậy, bởi vi thông qua đấu tranh giai câp đỉnh cao của nó sẽ dẫn đến cách
mạng xã hồi, sau đó dẫn đến một chế độ xã hội mới tiền bộ hơn chế độ xã hội cũ, nó
thay đổi toàn mặt từ kinht ế , chính trị , xã hội, tức là thay đổi về chất của một xã hội .
VD: ra đời chủ nghĩa Mác lenin do sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản đặc
biệt là sự trường thành của phong trào công nhân và tiên đề lý luận và khoa học tự
triên

+ Hoạt độn thực nghiệm khoa học: nhiều bản nghĩ rằng nó là nghiên cứu khoa
học, thực chất nó không phải, nghiên cứu khoa học thuộc về hoạt động tinh thần, còn
thực nghiệm hoạt nó kiểm tra các kết qua của nghiên cứu khoa học rồi ứng dụng triển
khái, thực nghiệm là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con người
tạo ra gần giống, giống hoặc lặp lại những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác
định các quy luật biến đổi và phát triển của đối tượng nghiên cứu.

Nhận thức được hiểu theo 2 nghĩa:


+ khả năng nhận biết của con ng
+ để chỉ 1 trong những hoạt động của con người nhằm hình thành nên ý thức tri thức.
Nhận thức là quá trình phản ánh tích cực tự gaics sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
óc con người trên cơ sở thực tiễn nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách
quan

Vd: hiện nay cuộc cách mang công nghệ 4.0 đang diễn ra rất mạnh mẽ, vai trò thực
nghiệm khoa rất quan trọng, cho nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ, nghiên
cứu, cho nên những phát minh sáng chế được ứng dụng triển khai trở thành quy trình
sản xuất mới công nghệ mới công cụ mới được áp dụng các quá trình sản xuất, nhiều
nước đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, đặc biệt là nước phát triển,muốn đạt được
năng suất, chất lượng cao thì trong quá trình sản xuất, thực tiễn đời sống phải được
ứng dụng khoa học. Những nước có nền kinh tế tri thức có hàm lượng chất xám rất
cao.

???( có thể là câu hỏi thêm) Trong ba hình thức hoạt động thực tiễn cơ bản trên, mỗi
hoạt động có vai trò khác nhau, nhưng hoạt động sản xuất vật chất là cơ bản nhất,
quan trọng nhất. Vì không có sản xuất vật chất, con người và xã hội loài người không
thể tổn tại và phát triển. Sản xuất vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của của các hình
thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt động sống khác của con người.

b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

- Thực tiễn là cơ sở của nhận thức: Thực tiễn cung cấp những tài liệu, chất liệu
cho nhận thức của con người. qua hoạt động thức tiễn con người nhận thức được sự
vật hiện tượng hình thành nên tri thức về nó, thực tiễn hiện thực hóa các giác quan tạo
ra công cụ hỗ trợ cho các giác quan con người, con người muốn nối dài các giác quan
phải tạo ra các phương tiện công cụ để hỗ trợ các giác quan con người như là máy
tính, kính hiển vi,….

- Thực tiễn là động lực của nhận thức: Thực tiễn luôn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và
phương hướng phát triển của nhận thức; rèn luyện các giác quan của con người ngày
càng tỉnh tế hơn, hoàn thiện hơn, công cụ nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại làm
cho năng lực tư duy ngày cảng phát triển.
VD: những nhà khoa học nông dân chế tạo ra các máy móc, như máy bốc lạc bẻ ngô
chính thông hoạt động thực tiễn mới biết được bẻ ngô , bóc lạc nó lâu như thế nào, nó
đau như thế nào, và người ta muốn tìm cách để giải phóng sức lao động của con
người, người ta mới tạo ra máy móc.
Con người gặp khó khăn thực tiễn buộc phải giải đáp được nó đó là nguyên
nhân thúc đẩy con người.
VD: covid 19 đó là vấn đề thực tiễn để con người chắc chắn phải tìm ra được nguyên
nhân , tìm được phương thuốc, tìm ra được cách phòng, cách trị, nó buộc côn người
phải phải phát triển
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: nhận thức đề cải biến thể giới khách quan, cải
biến xã hội, vì nhu cầu của con người. Vì vậy, nhận thức từ thực tiễn mà ra, phải quay
về phục vụ thực tiễn. Tri thức chỉ có ý nghĩa khi nó được áp đụng vào đời sống thực
tiễn một cách trực tiếp hay gián tiếp để phục vụ con người.
VD nhận thức những vấn đề tiêu cục xã hội như bất bình đẳng ,tham ô ,hối lộ,…, tệ
nạn xã hội, chúng ta nhận thức để cải tạo nó để thế giới này tốt hơn. Nhân thức để cải
tạo tự nhiên xã hội, cải tạo chính bản thân con người…
- Nhận thức để giải quyết các vấn đề bức xúc được đặt ra như dịch tả lợn châu
phi,lở mồm long móng..

- Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: Thực tiễn có tính tất yếu, khách
quan, nên nó đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý.Thực tiễn là thước đo
giá trị của những tri thức con người đạt được trong quá trình nhận thức, đồng thời thực
tiễn không ngững bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa phát triển và hoàn thiện nhận thức,..

- Nguyên tắc thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

+ Cần phải quán triệt quan điểm thực tiễn trong hoạt động của con người. Nếu rời
xa thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Bệnh
giáo điều là khuynh hướng tư tưởng và hành động cường điệu lý luận coi nhẹ thực
tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể.

+ Cần tránh tuyệt đối hóa thực tiễn coi thường lý luận sẽ dẫn đến căn bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, lười biếng, không chịu học tập lý luận, không phát huy được tính
định hướng, dẫn dắt, soi đường của lý luận.

+ Quan điểm thống nhất giữa lý luận và thực tiễn yêu cầu việc nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng
tổng kết thực tiễn,

để bổ sung, hoàn thiện, phát triển nhận thức, lý luận cũng như chủ trương, đường lối,
chính sách. Trong hoạt động của con người, việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với
thực tiễn, học đi đôi với hành.

#VD: Năm 1930: Bác Hồ đưa ra cương lĩnh của Đảng Cộng sản, Trần Phú lên Tổng
Bí thư không đi theo đường lối của Bác nên đã thất bại.

Năm 1941: Quay lại với đường lối của Bác, vì đường lối của bác đưa ra là đúng đắn
gắn liền giữa nhận thức và thực tiễn lúc bấy giờ.
Câu 10: Trình bày mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.
Sách bài tập trang43. Sách giáo trình trang 133

—------------------------------------------------------

Câu 1: (Trang 96) Tại sao người lao động đóng vai trò quan trọng nhất trong lực
lượng sản xuất?

Câu 2: Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là gì?
Câu 3: Chỉ ra biểu hiện của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng ở Việt Nam?
Câu 4: Chỉ ra các yếu tố thuộc về cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam
hiện nay?
Câu 5: Tại sao nói sự phát triển của hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự
nhiên?
Câu 6: Tại sao nói sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là hợp quy luật?
Câu 7: Tại sao nói mâu thuẫn giai cấp là biểu hiện xã hội của mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất?
Câu 8: Tại sao ý thức xã hội thường lạc hậu so vs tồn tại xã hội?
Câu 9: Ý nghĩa của mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội trong
việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc hiện nay?
Câu 10: Giải thích luận điểm của C.Mác: “Trong tính thực hiện của nó, bản chất con
người là tổng hòa các quan hệ xã hội”

Câu 1: Cái chung có bao giờ tách rời khỏi cái riêng không ? Vì sao? Cho một ví

dụ để minh họa.

Cái chung không bao giờ tách khỏi cái riêng, vì :

- Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung đều tồn tại khách quan, giữa

chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:

+Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.

Ví dụ: không có cái cây nói chung tồn tại bên cạnh cây cam, cây quýt, cây đào cụ thể.

Nhưng cây cam, cây quýt, cây đào... nào cũng có rễ, có thân, có lá, có quá trình đồng
hóa, dị hóa để duy trì sự sống. Những đặc tính chung này lặp lại ở những cái cây riêng
lẻ, và được phản ánh trong khái niệm “cây”. Đó là cái chung của những cái cây cụ thể.
Rõ ràng cái chung tồn tại thực sự, nhưng không tồn tại ngoài cái riêng mà phải thông
qua cái riêng.

+Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái
riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.

V í dụ , mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi người không thể tồn tại ngoài
mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các
quy luật sinh học và quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.

Một ví dụ khác, nền kinh tế của mỗi quốc gia, dân tộc với tất cả những đặc điểm
phong

phú của nó là một cái riêng. Nhưng nền kinh tế nào cũng bị chi phối bởi quy luật cung
- cầu, quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đó là cái chung.

Như vậy sự vật, hiện tượng riêng nào cũng bao hàm cái chung.

+Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận,

nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc
điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất.

Ví dụ , người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên
thếgiới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn, v.v., còn có đặc
điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân
tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu
đựng được những khó khăn trong cuộc sống.

Cái chung sâu sắc hơn cái riêng và cái chung phản ánh những thuộc tính những
mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là
cái gắn liền với các bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái
riêng.

Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức của chủ nghĩa duy vật

1. 3 nội dung chính chủ nghĩa duy vật là gì ? các hình thức của chủ nghĩa duy vật,
vì sao chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy
vật?

a. Quan niệm về chủ nghĩa duy vật=> Là 1 trong những trường phái triết học lớn
trong lịch sử, bao gồm toàn bộ các học thuyết triết học được xây dựng trên lập trường
duy vật trong việc giải quyết các vấn đề triết học. Vật chất có trước và quyết định ý
thức vật chất là tính thứ nhất vật chất tinh thần là tính thứ 2, thừa nhận minh chứng
rằng bản chất và cơ sở một tồn tại trong giới tự nhiên và xã hội là vật chất
Câu 1: Chủ nghĩa duy vật và các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật?

- Khái niệm: Chủ nghĩa duy vật cho rằng giới vật chất, giới tự nhiên là cái có trước
và quyết định ý thức của con người, giải thích mọi hiện tượng của thế giới bằng
nguyên nhân vật chất. Chủ nghĩa duy vật có 3 hình thức cơ bản:

1. Chủ nghĩa duy vật chất phác: là kết quả nhận thức của các triết gia duy vật thời
cổ đại( tồn tại cở cả trong triết học phương đông (trong triết học Ấn Độ và Trung
Quốc)và phương tây(trong triết học hy lạp )) thừa nhận tính thứ nhất của vật chất
nhưng đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể của vật chất, coi đó là thực
thể đâu tiên là bản nguyên của vũ trụ và đưa ra những kết luận còn mang nặng tính
trực quan, ngây thơ, chất phác.

#VD: Quan niệm của Talet xem vật chất( xem bản nguyên sự tồn tại) là nước, Hêraclit
xem vật chất là lửa, thuyết ngũ hành ở Trung Hoa, Đêmôcrit cho rằng vật chất là
nguyên tử. Trong triết học Trung Quốc là ngũ hoành ( kim mộc thủy hỏa thổ),..
Tuy còn nhiều hạn chế chủ nghĩa duy vật thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó lấy bản
thân vật chất của giới tự nhiên đề giải thích cho giới tự nhiên, nó không cậu nguyện
vào vị thần linh hay đấng sáng tạo nào để giải thích thế giới

2. Chủ nghĩa duy vật siêu hình: là hình thức cơ bản thứ 2 trong lịch sử của chủ
nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học tky XV đến tky XVIII mà điển hình
là tky XVII, XVIII , chúng ta lưu ý rằng đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển và khoa học
thực nghiệm đạt đường thành công lớn ảnh hưởng sâu sắc đến nền triệt học,. Cho nên
Chủ nghĩa duy vật chịu sự tác động mạnh mẽ của tư duy siêu hình, cơ giới, nhìn thế
giới như một bộ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận cấu tạo nên nó đều ở trạng thái biệt lập
và tĩnh lại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực trong toàn cục, nhưng đã góp phần
đẩy lùi thế giới quan duy tâm, tôn giáo.

#VD: Thành công kỳ diệu của Newton trong nghiên cứu cấu tạo và thuộc tính của các
vật thể vật chất vĩ mô – bắt đầu tính từ nguyên tử trở lên. Bêcơn và các nhà duy vật
Pháp tky

XVIII
3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng: do C. Mác và ăngghen xây dựng vào cuối những
năm của tky XIX, sau đó được Lênin kế thừa và phát triển. Kế thừa tinh hoa từ các
học thuyết triết học trước đó và sử dụng triệt để thành tựu khoa học, chủ nghĩa duy vật
biện chứng là đỉnh cao trong phát triển chủ nghĩa duy vật, đã phản ánh hiện thực đúng
như chính bản thân nó tồn tại, là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển
dưới hình thức hoàn bị nhất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng là công cụ nhận thức và
cải tạo thế giới.
Đây là hình thức cao nhất/ hoàn hảo nhất.

Tại sao có thể nói chủ nghĩa duy vật biện chứng là hoàn hảo nhất.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật
trong lịch sử. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và tổng kết
sử dụng thành tựu khoa học kỹ thuật đương thời để làm rõ các khái niệm phạm trù quy
lật của mình và có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và khoa học giữa chủ nghĩa
duy vật và biện chứng, trước đó CNDV và phép biện chứng tách rời nhau. Cho niên
triết học Mác nói riêng và triết học nói chung không chỉ nhận thức thế giới, giải thích
thế giới mà điều quan trọng nhất là cải tạo thế giới. Cũng như CNDVBC khắc phục
được hạn chế của 2 CNDV trước đó chủ là chủ nghĩa duy vật chất phát và chủ nghĩa
duy vật siêu hình, phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan trong mối liên hệ phổ biến
và sự phát triển. Toàn bộ hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng được
xây dựng dựa trên cơ sở lý giải một cách khoa học về vật chất, ý thức và mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Với việc sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử C
Mác đã chỉ ra được cái quy luật hình thành, vận dộng và phát triển của xã hội và lịch
sử loài người. Chính vì vậy Ăngghen đã khẳng định rằng giống như Đác Uyn trong
khoa học tự nhiên đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ, Mác đã tìm ra
được quy luật phát triển của lịch sử loài người, Mác và Ăngghen đã chứng mình một
cách khoa học rằng sự ra đời phát triển và cũng như sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản
là tất yếu khách quan đồng thời thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản là 1 tât yếu khách
quan.

Câu 2: Vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp
đổi mới ở VN hiện nay.
Khái lược về triết học

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí,
vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và
cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như
vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết
học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.

Nguồn gốc:

+ Ngồn gốc nhận thức: TH xuất hiện khi tư duy của con người của con người phát
triển đến 1 trình độ nhất định. Tư duy con người đạt đến trình độ khái quát hóa trừu
tượng hóa cao, chỉ khi đó con người mới rút ra được cái chung của vô vàn sự kiện
riêng lẻ.

Triết học tri thức bao trùm là khoa học của mọi khoa học
có sứ mạng là mang trong mình nó mọi trí tuệ của nhân loại. Nhà triết học Talet cũng
là nhà hình học nhà toán học, hay nhà triết học Pytago. Cho thấy rằng triết học và các
khoa học riêng lẻ có mối quan hệ chặt chẽ. Chính sự phát triển khoa học cụ thể góp
phần hình thành nên thế giới quan phương pháp luận khoa học.
+ Nguồn gốc xã hội: TH ra đời khi nền sản xuất xh có sự phân công lao động, xuất
hiện giai cấp có đối kháng đấu tranh giai cấp

Vai trò của triết học

Triết học Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng
cho con người trong nhận thức và thực tiễn

Các nguyên lý, phạm trù quy luật của Triết học Mác-Leenin giúp cho con người định
hướng trong tất cả mọi trường hợp (trong nhận thức và hoạt động thực tiễn)

Giúp con người khi bắt tay vào nghiên cứu và hoạt động cải biến sự vật bao giờ cũng
xuất phát từ một lập trường nhất định, thấy được phương hướng vận động chung của
đối tượng, xác định được sơ bộ các mốc cơ bản mà việc nghiên cứu hay hoạt động cải
biến sự vật phải trải qua, có được phương hướng đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.

Chính ở đây thể hiện giá trị định hướng - một trong những biểu hiện cụ thể chức năng
phương pháp luận của triết học.

Thứ 2: Để có thể giải quyết hiệu quả các vấn đề cụ thể, phải luôn xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng . Cần tránh 2 thái cực sai lầm:

+ Nếu xem thường triết học thì sẽ sa vào tình thái mò mẫm tùy tiện dễ bằng lòng với
nhừng biện pháp cụ thể nhất thời, đi đến chỗ mất phương hướng, thiếu nhìn xa trông
rộng, chủ đọng sáng tạo.

+ nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học thì sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng một
cách máy móc những nguyên lý, quy phạm, phạm trù chung của triết học mà không
căn cứ tình hình cụ thể

Thứ 3: theo tinh thần chủ nghĩa của triết học mác – leenin, mỗi nguyên lý chung đều
phải được xem xét theo quan điểm lịch sử; gắn liền với các nguyên lý khác, gắn liền
với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử’.

#VD: Giải quyết vấn đề tôn giáo

Trong thực tế, việc giải quyết các vấn đề trong những năm đầu thời kỳ đổi mới ở Việt
Nam không nằm ở những vấn đề cụ thể, mà bắt nguồn từ những quan điểm lớn làm cơ
sở cho việc giải quyết những vấn đề cụ thể lúc bấy giờ chưa hoàn toàn rõ ràng, nhất
quán.

Đây chính là vấn đề của triết học và việc nghiên cứu, giải quyết những vấn đề về
quan điểm sẽ cung cấp cơ sở lý luận đúng đắn định hướng cho việc giải quyết một
cách có hiệu quả tất cả những vấn đề cụ thể. Đó là sự đóng góp vào việc giải quyết
những vấn đề rất thiết thực, cụ thể, bức bách của cuộc sống.
Tuy nhiên, kết luận của nghiên cứu triết học không phải là lời giải đáp trực tiếp, cụ
thể cho từng vấn đề cụ thể, mà là cơ sở cho việc xác định những lời giải đáp trực tiếp,
cụ thể ấy.

Triết học Mác – Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học và cách
mạng để phân tích xu hướng phát triển của xã hội trong điều kiện cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ

Bản chất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải biến về chất
các lực lượng sản xuất trên cơ sở tri thức khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã đưa
loài người bước vào thế kỉ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc.

Triết học Mác- Lê nin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học cách
mạng để phân tích xu hướng vận động, phát triển của thế giới trong bối cảnh toàn cầu
hóa.Thấy được mối liên hệ phổ biến, sự vận động, phát triển của thế giới mang tính
quy luật khách quan…

Chủ nghĩa Mac Lenin nói chung và triết học Mác lenin nói riêng là lý luận khoa học
và cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
trinh giai cấp và đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.

Bước vào tky XXI, Triết học Mác – Lênin đóng vai trò rất qua trọng, là cơ sở lý luận
– phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự tích hợp và truyền bá tri thức
của khoa học hiện đại. Dù tự giác hay tự phát khoa học hiện đại phát triển phải dựa
trên TGQ và PPLDVBC

Cuộc CMKH và công nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa cùng với những
vấn đề toàn cầu đang làm cho tính chỉnh thể của TG tăng lên, hợp tác và đấu tranh
trong xu thế cùng tồn tại hòa bình.

Tky XXI, trên TG vẫn tồn tại và phát triển trong mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
lợi ích của giai cấp tư sản với lợi ích của tuyệt đại đa số loài người đang hướng đến
mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để thực hiện mục tiêu
cao cả đó, loài người phải có lý luận khoa học và cách mạng soi đường. Lý luận đó
chính là chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và triết học Mác-Lênin nói riêng.

Triết học Mác – Lênin là cơ sở lý luận khoa học của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên thế giới và sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ 1: Đảng cộng sản luôn xuất phát từ thế giới quan phương pháp luận của triết học
Mác Leenin để thực hiện đổi mới ở VN. Nếu không trung thành và trên cơ sở của chủ
nghĩa Mác-Lênin để đổi mới tư duy, nhất là tư duy lý luận thì sẽ không có sự nghiệp
đổi mới thành công.
Thứ 2: Thế giới quan triết học Mác- Lenin giúp đảng cộng sản VN nhìn nhận rõ con
đường đi lên xá hội chủ nghĩa xã hội trong giai dodnaj mới, đánh giá đúng đắn bối
cảnh thế giới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại , thực trạng tình hình đất
nước và cocn đường phát triển trong tương lai.
Thứ 3: Triết học cung cấp phương pháp luận để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt
ra và phát sinh trong thực tiễn đổi mới ở VN hiện nay. Đòi hỏi Đảng phải luôn quán
triệt nguyên tắc khách quan toàn diện , lịch sử cụ thể, phát triển,… trong quá trình đổi
mới.
Trong bối cảnh CNXH hiện thực lâm vào thoái trào cần phải có 1 cơ sở TGQ,
PPLKH, CM để lý giải, phân tích sự khủng hoảng, xu thế phát triển của CNXH thế
giới và phương hướng khắc phục để phát triển.

Sự nghiệp đổi mới toàn diện ở VN tất yếu phải dựa trên cơ sở lý luận KH, trong đó hạt
nhân là phép BCDV. Công cuộc đổi mới toàn diện XH theo định hướng XHCN được
mở đường bằng đường lối tư duy lý luận, trong đó có vai trò của TH Mác – Lênin. TH
phải góp phần tìm được lời giải đáp về con đường đi lên CNXH ở VN, đồng thời qua
thực tiễn để bổ sung phát triển tư duy lý luận về CNXH.

Vai trò TGQ, PPL của triết học Mác – Lênin thể hiện đặc biệt rõ đối với sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam đó là đổi mới tư duy. Một trong những điểm nhấn của TGQ, PPL triết
học Mác – Lênin chính là vấn đề thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng. Đó chính
là những yếu tố đã góp phần xây dựng lý luận về đổi mới, về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ, về xây dựng kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, về mô hình chủ nghĩa xã hội, về các bước, cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội…
đó chính là thế giới quan mới của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp chúng ta đánh giá bối cảnh mới, đánh giá
cục diện thế giới mới, các mối quan hệ quốc tế, xu hướng thời đại, thực trạng tình hình
đất nước và con đường phát triển trong tương lai. Thế giới quan triết học Mác – Lênin
đã chỉ ra logic tất yếu của sự phát triển xã hội loài người là chủ nghĩa xã hội; chủ
nghĩa tư bản trước sau cũng sẽ được thay thế bởi một chế độ tốt hơn, công bằng hơn;
con người được phát triển toàn diện. Thế giới quan triết học Mác – Lênin đã giúp xác
định tính đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Nếu như thế giới quan triết học Mác – Lênin giúp chúng ta xác định con đường, bước
đi, thì phương pháp luận của triết học Mác- Lênin giúp chúng ta giải quyết những vấn
đề đặt ra trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực tiễn đổi mới hơn 30 năm
qua.
Bước vào thế kỷ XXI, những điều kiện lịch sử đã quy định vai trò của triết học
Mác– Lênin ngày càng tang. Điều đó đòi hỏi phải bảo vệ phát triển triết học
Mác – Lênin để phát huy tác dụng và sức sống của nó đối với thời đại và đất
nước

Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học?
Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những thành
tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học trước đó,
Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau đây:
- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư tưởng; một lý
luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt tinh thần. Mác cho
rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản, thì khối óc sự giải
phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của nó. Triết học Mác là vũ
khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ nhận thức và cải tạo thế giới,
cho nên Mác viết: “giống như triết học tìm thấy ở giai cấp vô sản là một vũ khí vật
chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra
đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào
tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác,
có lý luận và độc lập về tư tưởng.
- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù trung tâm
của triết học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và khắc phục
được những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý của triết học
Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường, những phương
tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học Mác thì thực tiễn có
vai trò quyết định mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả triết học. Không một nhà
triết học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của thực tiễn đối với lý luận và
đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó, các nhà duy vật trước Mác đã rơi vào
quan điểm duy tâm siêu hình khi đề cập đến những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm
phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi
hiện thực, làm cho quần chúng không thấy được những cơ sở vật chất của các quan hệ
bóc lột.
Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn mạng vai trò
to lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát triển học thuyết cân
đối về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách mạng. Lý luận cách mạng
có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát thành thực tiễn cách mạng, tự
giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu
biết quy luật của đời sống xã hội, hướng dẫn họ thực hiện một cách tự giác những
nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó trở thành sức mạnh vật chất.
Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có sự thống
nhất sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học Mác là sự
phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; đồng thời nó là lý luận cho
cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người, đưa nhân loại lên
chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết học Mác không đối lập
với tính khoa học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và phục vụ cho
cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản ánh đúng yêu cầu và những
quy luật khách quan của lịch sử.
Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép
biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trước Mác chủ
nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập trường duy tâm,
như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học Mác ra đời mới có sự
thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra một triết học phát triển
cao hơn về chất so với trước đó.
- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đây là biểu
hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực hiện. Chỉ khi
chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung mới trở thành triệt
để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong triết học trước đó, mà
còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn bộ xã hội học, cho hoạt
động thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và đảng của nó.
- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối tượng và mối
quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết học được coi là
khoa học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học cụ thể khác. Triết
học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không tách rời chúng. Trong
sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không chỉ dựa trên sự khái quát
thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những thành tựu khoa học cụ thể
(cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những tài liệu hết sức phong phú
cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan. Đồng
thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết về các quy luật chung nhất của hiện thực
khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc
thù.
Câu 3: Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thức a.

Nguồn gốc của ý thức:

- Quan điểm CNDT: Ý thức là bản thể đầu tiên tồn tại vĩnh viễn, là nguyên nhân sinh
thành, chi phối sự tồn tại, biến đổi của toàn bộ TGQVC
- Quan điểm CNDVSH: Xuất phát từ TG hiện thực để lý giải nguồn gốc của YT; coi
YT cũng chỉ là một dạng VC đặc biệt, do VC sản sinh ra. Các nhà duy vật tầm thường
thế kỷ XVIII (Phôgtơ, ..) lại cho rằng “Óc tiết ra ý thức như gan tiết ra mật”.

- Quan điểm CNDBC: YT xuất hiện là kết quả của quá tình tiến hóa lâu dài của giới
TN, của lịch sử TĐ, đồng thời là kết quả trực tiếp của thực tiễn XH – lịch sử của con
ng

+ Ý thức có 2 nguồn gốc:


Nguồn gốc tự nhiên: có nguồn gốc từ bộ não con người và TGQ

Dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã khẳng định rằng, ý thức chỉ là thuộc tính của vật chất; nhưng không
phải của mọi dạng vật chất, mà là thuộc tính của một dạng vật chất sống và có tổ chức
cao nhất là bộ óc con người.
Bộ não người có cấu trúc đặc biệt phát triển,rất tinh vi phức tạp gồm 14 đến 15 tỷ tế
bào thần kinh, điều khiển các giác quan qua dây thần kinh để thực hiện các hoạt động
và quan hệ với thế giới bên ngoài. Và có bộ não người con người có ý thức chưa, phải
có thế giới khách quan tác động vaò bộ não người, con người tồn tại phải liên hệ thế
giới, thông quan thế giới, cho nên thế giới tác động vao não người. Thế giới khách
quan tác động lên các giác quan và truyền bộ não phân tich xử lý ở đó thông qua quá
trình đó bộ não ta mới có chât liệu phản ánh. Phanranhr là sự tái tạo những đăc điểm
của dạng vật chất này ở dạng vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng
. Phản ánh không chỉ cong người mà là của tất cả các dạng vật chất thể hiện ở nhiều
trình độ khác nhau: phản ánh vật lý hóa học là trình độ phản ánh thấp nhất rồi đến
phản ánh sinh học rồi đến phản ánh tâm lý và hình thức phản ánh cao nhất chỉ có ở
con người là sự phản ánh năng đống sáng tạo là

Như vậy, bộ óc phải có hoạt động chức năng sinh lý, thần kinh bình thường có khả
năng phản ánh thế giới khách quan khi con người tác động với thế giới. Thông qua các
hình thức phản ánh của thế giới vật chất như phản ánh (vật lý, hóa học, sinh học, tâm
lý, sáng tạo). Ý thức là hình thức phản ánh đặc trưng cao nhất của thế giới vật chất chỉ
có ở con người. Đó là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc của con
người.

Tóm lại, sự xuất hiện của con người và hình thành bộ óc của con người có năng lực
phản ánh thế giới khách quan là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Nguồn gốc xã hội: từ lao động và ngôn ngữ

Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là nguồn gốc xã hội, thể hiện ở vai trò
của lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

Trong quá trình lao động, con người tác động vào TGKQ, nghiên cứu những thuộc
tính, những quy luật vận động của nó, từ đó hình thành dần tri thức nói riêng và Ý
thức nói chung. Ý thức được biểu hiện thông qua ngôn ngữ

Ph. Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật người ta sẽ thấy rõ rằng
ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích
duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”. Ngôn ngữ là phương thức để ý thức tồn
tại với tư cách là sản phầm xã hội – lịch sử.
=> Lao động và ngôn ngữ là 2 yếu tố kích thích chủ yếu, làm chuyển biến dần bộ óc
của loài vượn người thành bộ óc con người và tâm lý động vật thành ý thức con người

b. Bản chất cuả ý thức

YT là sự phản ánh năng động, sáng tạo TGKQ vào bộ óc con người, là hình ảnh chủ
quan của TGKQ. YT thức là sự phản ánh sáng tạo, nội dung của YT do TGKQ quyết
định. YT phản ánh tương đối đúng đắn TGKQ và YT mang bản chất xã hội.

+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách: Ý thức là cái vật chất ở bên ngoài
“di chuyển” vào trong đầu của con người và được cải biến ở trong đó.

+ YT có đặc tính tích cực, sáng tạo gắn bó chặt chẽ với thực tiễn xã hội.

+ Sự phản ánh ý thức là quá trình thống nhất trong việc trao đổi thông tin giữa chủ
thể và đối tượng phản ánh cùng với mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng
hình ảnh tinh

thần và chuyển hóa mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoại động
thực tiễn để biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài
hiện thực.

+ Ý thức là hình thức phản ánh cao nhất riêng có của con người về hiện thực khách
quan trên cơ sở thực tiễn xã hội - lịch sử.

c.Kết cấu của ý thức

Các lớp cấu trúc của ý thức bao gồm tri thức, tình cảm, niềm tin, ý chí...

+ Tri thức là toàn bộ sự hiểu biết của con người thu nhận được thông qua hoạt động
nhận thức, là kết quả của quá trình con người nhận thức thể giới.Tri thức là phương
thức tồn tại của ý thức.

+ Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự nhản ánh tồn tại, là những cung bậc cảm
xúc, rung động của con người khi tác động với thế giới xung quanh.

+ Ý chí là những cố gắng, nỗ lực, khả nắng huy động mọi tiềm năng trong mỗi con
người vào hoạt động để có thể vượt qua mọi trở ngại đạt được mục đích đề ra
- Các cấp độ của ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.

+ Tự ý thức là ý thức của chính bản thân con người về mối quan hệ của con người với
thể giới.

+ Tiềm thức là những hoạt động tâm lý diễn ra bên ngoài sự kiểm soát của ý thức.

+ Vô thức là những hiện tượng tâm lý không phải do lý trí điều khiển, nằm ngoài
phạm vi của lý trí mà ý thức không kiểm soát được trong một lúc nào đó.

??? Liên hệ tính sáng tạo của ý thức trong hoạt động thực tiễn

Vấn đề "trí tuệ nhân tạo AI” (tiếng Anh: Artfficial lIrtelligence)

Cùng với sự phát triển của khoa học, ý thức của con người ngày cản xâm nhập vảo
tầng sâu của thể giới hiện thực bằng cách phát triển các sản phẩm trí tuệ nhân tạo AI,
gần nhận thức với cải tạo thế giới. Một trong những sáng tạo đó là con người ngày
cảng sáng tạo ra các thế hệ "người máy thông minh" cao cấp hơn giúp cho con người
khắc phục được nhiều mặt hạn chế của mình, Từ đó, khẳng định vai trò quan trọng
của ý thức của con người trong đời sống hiện thực. Để con người luôn làm chủ trí tuệ
nhân tạo cần có chiến lược quan tâm, chăm lo phát triển con người toàn diện cả về thể
chất và tinh thân. Đặc biệt, quan tâm bồi dưỡng thể hệ trẻ có kiến thức, nắm vững
khoa học - công nghệ hiện đại, có tình cảm cách mạng trong sáng, ý chí vươn lên xây
dựng đất nước giàu mạnh.

Vận dụng ý thức:

Ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo của thế giới khách quan vào bộ não
người,là hình ảnh chủ quan của TGKQ, những hình ảnh trong não của chúng ta là
hình ảnh khách quan, bên ngoại là một bông hoa thì bên khi phán ánh trong não chúng
ta là khái niệm bông hoa. Phản ánh năng động sáng tạo không phải là phản ánh một
cách y nguyên như hình ảnh vật lý hay như chụp hình soi gương. Mỗi người có điều
kiện hoàn cảnh khác nhau,năng lực trình độ khác nhau, nhu cầu sở thích khác nhau,
tâm lý tình cảm khác nhau, nhiều khía cạnh như vậy khi sự vật đã được phản ánh vào
não người , mỗi người có một series những điều khác nhau nên nó được cải biến qua
lăng kính chủ quan nên hình ảnh đó là hình ảnh sáng tạo. Cuộc sống này ta thấy hiện
thức như nhau nhưng cách nhìn nhận của mỗi người , cách phản ánh của mỗi người, ,
cách nhận thức của mỗi người, cách phản ánh của mỗi người khác nhau, cho nên tại
sao có người thích văn học, có người lại thích toán học, có kẻ lại thích hóa học,…Sự
vật hiện tượng bên ngoài tác động vào nó, phản ánh năng động sáng tạo chứ không
phải phản ánh y nguyên. Hiện nay có nhiều khó khăn, khó khăn là tình trạng chung,
mỗi thời kỳ khác nhau, nhưng trong khó khăn lại có kẻ thành công, lại có kẻ giàu
nhưng lại có kẻ nghèo , thất bại, mặc dù mỗi người có thời gian như nhau mỗi người
đều có 24h mỗi ngày, quan trọng trong thời gian đó chúng ta suy nghĩ sắp xếp thời
gian như thế nào để đạt được thành công. Rõ ràng hiện thực như nhau phản ánh ở mỗi
người ra ở mõi người rất khác nhay. Ví dụ một người bạn của sinh viên năm 3 trường
Nông Lâm bạn ấy rớt rất nhiều môn nhưng bạn ấy bắt đầu kinh doanh làm khoai kén
đến nhà hàng mời không người ăn xin đóng góp của những người đó, xong đó bạn đó
nghiên cưu phải làm món đó thêm gia vị gì, cắt hình khoai lang sao cho đẹp,.. từ đó
bạn ấy bắt đầu làm ăn kinh doanh, bạn ấy đã thành lập công ty, lợi nhuận kinh doanh
của bạn ấy đem lại lợi nhuận lên tới vài tỷ, tạo rất nhiều điều kiện công ăn việc làm
cho người dân, kiến thức quan trọng nhưng chưa phải là ưu tiên số một, mặc dù điều
kiện khó khăn nhưng bạn ấy dám nghĩ dám làm và bạn ấy để thành công. Vậy tại
cũng là sinh viên như nhau nhưng bạn ấy làm được nhiều điều thành công như vậy .
Thực tế khó khăn nhưng chúng ta có trí tuệ có sáng tạo thì có thể khó với người khác
nhưng có khi chính cái khó đó mới ló ra được cái không,. Cho nên chúng ta không
năng động sáng tạo, chúng ta suy nghĩ học để làm gì ăn chơi là chuyện chính chỉ học
cho cố cái bằng. Nhiều bạn như thế đi học đại học về bức ép nhờ cậy cha mẹ để đi
kiếm việc làm dùm cho mình, chúng ta đi học đại học 4 năm tiếp xúc với cái gọi là
văn minh tiền bộ nhất, vậy mà chúng ta học về lại ép cha mẹ đi xin việc làm cho mình,
cha mẹ có gì đâu họ quan hệ không có, năng động sáng tạo không có, chỉ một chút
kinh nghiệm. Đó chính vì chúng ta sai, chúng ta trì trệ quá, chúng ta học xong chỉ
muốn lấy cái bằng, tại sao chúng ta kiểm điểm bản thân đã làm được gì, không làm
được gì cả vì vậy chúng ta phải năng động sáng tạo.

Ý thức mang bản chất xã hội, là sản phẩm của xã hội chừng nào con người còn tồn
tại. Môi trường hoàn cảnh tạo nên chúng ta , nơi em sinh ra là vùng nông thôn ở tỉnh
Phú Yên , em quen với cuộc sống gắn với ruộng đồng, và bây giờ em học tập cuộc
sống thành phố . Sự chuyển đổi về mỗi trường hoàn cảnh làm cho bản thân em cũng
thay đổi cho nên em khi mới lên thành phố em cũng có phần hơi tự ti, không dám thể
hiện mình, em thu mình lại khổng dám giao lưu, phát biểu bài vì lúc đó em nghĩ hoàn
cảnh em không giống như các bạn thành phố, họ ăn mặc sinh đẹp, giàu mình không
xứng, bây giờ đã là sinh viên 3 em nghĩ lại là em đã sai lầm, em hối hận, vì lên đại học
rồi thì các bạn như nhau phải không ạ, nhưng mình vẫn còn chặng đường dài phía nên
em sẽ cố găng tích cực hơn. Nhiều đứa bạn em, không phải là em chê trách gì, nhưng
các bạn ấy ở quê thì rất là ngoan thành tích cao, nhưng khi lên thành phố các bạn ấy sa
đà vào các cuộc vui nhiều hơn, các bạn ấy không lo học hành, theo đuổi các bạn ấy chỉ
muốn thỏa mãn bản thân, không giữ được mình tham gia cờ bạc banh bóng, tham gia
vào vũ trường,…nói một cách tế nhị là ánh sáng phồn hoa đô thị làm không ít người
lóa mắt, môi trường thay đổi chóng vánh nhưng chúng ta không có tri thức không có
sự hiểu biết đúng đắn, không xác định được mục tiêu. Là một người sinh viên , là
tương lai của đất nước chúng ta phải thực sự học tập rèn luyện bản thân, không phải
cứ ngồi chơi game từ đêm này đến đêm khác, hay suốt ngày chỉ có suy nghĩ đến tình
yêu, vì chỉ có như vậy chúng ta mới có tri thức có tình cảm đúng đắng, có ý chí nghị
lực vượt qua những mục tiêu , ý tưởng của bản thân, chúng ta sống mà không có hoài
bão thì có phải là con người trong xã hội hiện đại, có phải là con người bình thường
hay không. Khi môi trường hoàn cảnh thay đổi, chúng ta phải làm gì để không đánh
mất mình, đồng ý là chúng ta có học có chơi, như các nhà triết học cổ điển như Mac
cũng có nhiều khi uống rượu cũng ăn chơi đây chứ , vì họ cũng là con người, chúng
ta phải biết đâu là ưu tiên số 1 của mình, nếu chúng ta xác định sai thì cũng ta sẽ thất
bại, Chúng ta xuất thân từ nông thôn, có thể là xuất phát điểm của chúng ta là thấp
nhưng như vậy đừng lấy đó là lý do cho sự yếu kém của mình vì môi trường đại học
là nơi cân bằng các bạn đều xuất phát điểm như nhau, chúng ta cần phải bứt phát trong
tương lai. Mỗi người đều có hoàn cảnh khác nhau, năng lực khác nhau, sở thích sở
trường khác nhau, như vậy chúng ta đừng lấy ý chí chủ quan của mình áp đặt lên
người khác vì ý thức là sự phản ánh năng động sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của
TGKQ, nói như vậy nhiều người mắc phải điều này như trong gia đình, bố mẹ áp đặt
cho chúng làm những điều mà họ nghĩ là tốt nhưng trong thời đại mới thì điều đó chưa
chắc là đúng vì chúng ta không nên áp đặt người khác. Bà Bác em làm kênh youtube
về ẩm thực rất hay rất thú vị và bà nổi tiếng,và câu hỏi đặt tại sao tầng lớp trẻ như
chúng ta là những người có ước mơ hoài bão, tiếp cận với thứ xu hướng mới nhất của
thế giới tại sao bà ấy làm được mà chúng ta không. Bản thân mỗi người đều có đam
mê rất nhiều, lý tưởng rất nhiều, hoài bão rất nhiều, em rất ham mê chơi game như
sau nhiều trận thắng trận thua trên game như thế, em nhìn lại suy ngẫm liệu việc chơi
game như vậy có đem lại kiến thức có liên quan đến nghề nghiệp chuyên môn của
mình sau này không, em kiểm điểm và quyết định từ bỏ ham muốn của bản thân.
Trong điều kiện hay nay có thể có thể kiếm được tiền tỉ nhờ việc đánh game rất xuất
chúng đỉnh cao, nhưng em nhìn nhận mình cao nhất chỉ có thể hạng tầm trung là ghê
rồi, cho nên em tập trung vào ưu tiên, và ưu tiên số 1 là ngành nghề của em.

- Ý thức chỉ đạo con người trong hoạt động thực tiễn

Tại sao chúng ta đăng ký vào ngành ấy của trường ấy , chứ không phải ngành này
của trường khác, tại sao không phải là ngành khác? Ý thức chỉ đạo, trước khi đăng
ký chúng ta tìm hiểu thông tin trường ấy như thế nào, ngành ấy như thế nào, tìm hiều
những người đã được đào tạo, tìm hiểu từ những người có kinh nghiệm như thầy cô
giáo, sau khi xem xét đầy đủ, em xem những nghành em rất thích nhưng nhu cầu thị
trường có cần hay không, mình chưa học mà đã biết mình cầm tấm bằng thấp nghiệp
vậy có vấn đề hay không, nhu cầu của chúng ta vào nganh đấy nhưng nhu cầu của xã
hội không có , cuối cùng chúng ta không có cơ hội việc làm không có cơ hội phát
triển, vậy thì chúng ta có nên học hay không chúng ta có nên điều chỉnh nhu cầu
nguyện vọng của chúng ta hay không,… Sau khi xem xét hết rồi, phân tích nhu cầu,
trình độ , sở thích , năng lực của mình thì em đăng ký ngành Tự đọng hóa của trường
Bách Khoa, .. Sau khi vào trường em nhìn thấy công ăn việc làm rất khắc nghiệp, các
sinh viên như chúng ta học ở trên lớp là bạn bè, nhưng khi xin việc chúng ta là đối thủ
của nhau,… Sinh viên của chúng ta là đi kiếm công ăn việc làm, chứ không phải là tạo
ra công ăn việc làm cho kẻ khác đến xin mình, đấy cho nên phong trào khởi nghiệp ý
nghĩa như vậy. Cho nên khi vào trường chúng ta biết phía sau nó khốc liệt như vậy, thì
chúng ta phải óc như thế nào, có nhiều bạn nghĩ rằng chỉ tập trung vào chuyên môn cơ
sở ngành thôi, mấy môn phụ không quan trọng , nhận thức như vậy là sai ngay từ
điểm xuất phát , có bạn thì nghĩ rằng học là phụ chơi là chính , cần gì phải học , thằng
học xong xin được việc làm có tốt đâu, thằng học kém sau này trở thành thằng thành
đạt, suy nghĩ như vậy là sai rồi, có vấn đề. Chúng ta biết rằng cuộc cạnh tranh sau này
nó rất khốc liệt trong tương lai vậy chúng ta phải học như thế nào, chúng ta đâu thể
tập trung vào kiến thức chuyên môn hay chuyên ngành, các kiến thức cơ bản rất quan
trọng vì nó trang bị cho chúng ta những kiến thức kỹ năng cần thiết. Trong điều kiện
hiện nay chúng ta chỉ có kiến thức chuyên môn thì đủ chưa, chúng ta không chuẩn bị
công cụ ngoại ngữ cho mình , chúng ta không tập trung kỹ năng mềm cho mình, như
kỹ năng giao tiếp , ứng xử như nào, thuyết trình như nao, liệu chúng ta có công ăn
việc làm tốt cho tương lai hay không thì mới thấy rằng mấy bạn nghĩ học đại học
nhàn hơn học ở phổ thông mới là đứa nói bậy , rất la sai, bởi vì học đại học chủ yếu
là do mình, tự học là chính, học ở trường là cái phụ thôi, học ở nhà là không chỉ tập
trung vào chuyên môn mà tập trung vào các kỹ năng mềm, hãy trải nghiệm đi. Ra
trường ielt 6.0 7.0 , kỹ năng rất tốt , chuyên môn cao, thì công việc chúng ta dễ dàng
như thế nào. Chính vì vậy ý thức chỉ đạo hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực
tiễn là như vậy, chúng ta phải xác định duợc hiện tại như vậy, tương lai ra sao, thông
qua hoạt động thực tiễn thể hiện sự tác động cảu ý thức đối với vật chất.

Ý thức có tác động tiêu cực hay tiêu cực. Ý thức đúng , nếu chúng ta xác định học tập
đúng, không chỉ là kiến thucwsc chuyên môn mà còn là kiến thức xã hội , hành động
của chúng ta dành cho học tập không chỉ là học tập trên lớp, ở nhà như thế nào, hoạt
động thực tiễn như thế nào, chúng ta sẽ có tương lai rộng mở nếu có ielts , kỹ năng.
Nhưng mà ý thức sai , chúng ta nghĩ rặng học là phụ thôi , yêu đương là chính, nhiều
bộ phận sinh viên lại tranh thủ đi làm thêm , thời gian đi làm còn nhiều hơn đi học,
nhận thức như vậy có sai hay không, chắc chắn là sai ý thức sai hành động sai, và
cuối cùng ra trường có tấm bằng nhưng chúng ta cso phát triển được tấm bằng hay
không , tri thức năng lực có bằng tấm bằng hay không. Cố thủ tướng Lý Quang Diệu
có 1 câu rất hay “ hỡi thanh niên hãy bán cho tôi một năm tuổi trẻ tôi sẽ trả cho bạn
một tỷ đô xanh” chúng ta bán những năm tuổi trẻ nhưng đáng tiếc nhất đó lại là
những năm tuổi thanh xuân đẹp nhất , tuyệt vời nhất trong thời kỳ sinh viên, chúng ta
bán rẻ nó để kiếm một vài triệu một tháng trong lúc đi học, em không nói những
trường hợp cá biệt, gia đình khó khăn không có tiền, phải đi làm thêm vừa học vừa
làm, em nói những bạn được bố mẹ chu cấp tiền nhưng vẫn đi làm thêm, thời gian
làm thêm nhiều hơn thời gian học , cacs bạn đánh rơi mất, lãng phí nhất những năm
đẹp nhất của cuộc đời, đáng lẽ chúng ta phải phát triển trí não trí tuệ, phải có não 6
múi, cho nên chúng ta thấy đây ý thức sai, dẫn đến hành động sai và cuối cùng thất
bại. Cho nên hãy hành động cho đúng đừng bán rẻ nhưng năm tháng học tập. Từ chỗ
suy nghĩ đúng hành động đúng nó dẫn đến thành công, thành công là ở tương lai,
nhưng chắc chắn thành công đó nó được tạo trên nền tảng của hiện tại và quá khứ. Ý
thức mà sai hành động sai, chúng ta làm thêm , chơi game, lô đề cờ bạc nhất định
chúng ta sẽ thất bại.

Phân tích sự khác nhau giữa trí tuệ con người với trí tuệ nhân tạo

Liên hệ đến bản thân vận dụng ý thức vào học tập của sinh:

Thực trạng sinh viên hiện nay

Vận dụng ý thức đúng và sai


Sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, là người được học trong môi trường giáo
dục bậc cao, được tiếp cận với văn minh của nhân loại, nắm bắt xu thế của thế giới .
Trong cuộc cách mạng mới 4.0 của nhân loại, sinh viên chúng ta là người đừng đầu,
phải nắm bắt xu hướng nắm, bắt cơ hội, nổ lực tích cực năng động sáng tạo. Thế
nhưng thực sinh viên hiện nay, các bạn đa phần đều thụ động tức là tiếp thu kiện thức
thụ động ở trên trường không học hỏi thêm từ bên ngoài như là sách vở, kiến thức đợi
sống,các bạn ủy nại, không giảm khẳng định mình, còn tệ hơn nữa nhiền bạn suốt
ngày chơi game từ ngày này qua ngày khác, một số thì say đắm vào niềm vui của bản
thân như những cuộc nhậu, cờ bạc, tình yêu trai gái,.. các bạn chìm đắm vào nó không
thoát ra được. Bản thân em là một sinh viên xuất thân từ vùng nông thôn, nơi mà cuộc
sống khá yên bình, ban đêm thì không có đèn, khi lúc đầu vô sài gòn bắt đầu học ở
ngôi trường Bách Khoa thân yêu này, em thực sự mà nói rất choàng ngợp cuộc sống
trên này rất khác, môi trường thay đổi, như thành phố không ngủ, tiếp xúc với nhiều
người, nhiều khi em nhìn bản thân em khá là tự ti vì lục đó em có vẻ ngoài không
được như các bạn, và trong học tập vì học ở môi trường xưa em bị ảnh nặng nề tư
tưởng dạy đâu học đó tức là em không có sự chủ động, học xong thì em cũng chỉ ngồi
chơi game và sau kỳ 1 năm nhất em nhận được thất bại, em rớt 4 tín chỉ, lúc đó thật sự
em rất buồn, xuất thân của em cũng không phải là một gia đình khá giả về tiền chỉ có
tình cảm dồi dào mà bố mẹ dành cho em,’Ráng học nha con’. Sau khi học khoảng một
hai năm, em dắt đầu mới nhận ra nhận thức của mình lúc đó thật là thiển cận, không
có cái nhìn đúng đắn, em bắt đầu thay đổi chiến lược, nguyên tắc và cách thức học tập
và em đã tự tin hơn, chủ động, tích cực giao lưu với các bạn mới, nhìn nhận mọi thứ
một cách khách quan và trong học tập em đã cố gắng sắp xếp thời gian hợp lý, học tập
một có chủ đích, ngoài việc học ở trường em cũng bắt đầm tìm hiểu thêm những kiến
thức phụ cho nghề nghiệp tương lai của mình, dĩ nhiên là em thành tích học tập của
bản thân em đã tốt hơn. Trong thời đại cách mạng hóa 4.0, em sẽ cố gắng hết mình
tích cực sáng tạo trở thành một người có ích cho xã hội đóng góp vào quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Đó là những chía sẽ về ý thức tác động đến
thực tiễn đời sống của em. Hiện nay, em có thấy nhiều người bạn của em từ quê lên
thành phố bị ánh sáng phôn hoa đô thi làm không ít người lóa mắt. Các bạn chỉ nghĩ
rằng học tập trên Đại Học cho có để lấy cái bằng, còn ăn chời là chuyện chính, suy
nghĩ như thế thật sự rất sai lầm, chắc chắn sau này các bạn ấy sẽ thất bại, các bạn ấy
không lo học tập rèn luyện, khi tốt nghiệp rồi thì lại không có việc quay qua trách bố
mẹ “ngày xưa bắt con ăn học làm gì, lấy chồng cho rồi” , “giờ con không có việc làm
,bố mẹ tìm việc làm cho con đi”,… Eo ôi thật sự sai lầm, sai lầm ở đây chính ở ngay
giảng đường đại học này các bạn không lo học tập suốt ngày vui chơi đàm đúng.
Chính môi trường đại học này chính là cơ hội để các bạn phát triển, phát triển nhận
thức, phát triển tư duy sáng tạo, phát triển khả năng giải quyết vấn đề,…đó chính môi
trường này là thời gian quý giá nhất của các bạn, đừng để sàu này phải hồi tiết. Mỗi
sinh viên chúng nên nhìn nhận ,ý thức được bản thân đang ở đâu trên xã hội này, biết
được khả năng của bản thân và phát triển bản thân, đừng để bị thụt lùi, đất nước này
đang chờ các bạn , những con người làm chủ ddataast nước trong tương lai. Chúng
nên xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với khả năng của mình ,rèn luyện sức khỏe, ý
thức được việc tự học là chính phải tích cực năng động kiến thức chuyên ngành , học
thêm về Anh Văn,.. và đừng để thời gian ăn chơi nhiều quá, nhiều bạn sinh viên hiện
nay đi làm thêm, nhưng thời gian làm thêm nhiều hơn cả thời gian học trên trường
lớp, đồng ý là các bạn muốn kiếm thêm tiền nhưng các bạn phải biết đâu là ưu tiên số
1, em không nói đến các bạn có hoàn cảnh gia đình cực kỳ khó khăn, không chu cấp
được việc học của mình, các bạn nên xác định rõ việc học tập trên Đại học để làm gì,
đừng để thời gian trôi qua mà sau này hối hận, chỉ 4 năm cuộc đời thôi, nhưng nó
quyết định đến phần đời còn lại của các ban.Thế nên đừng dừng lại hãy tiếp tục sáng
tạo tư duy, hiện nay có phần lớn sinh viên việt nam thiếu khả năng sáng tạo, mỗi Một
kết quả nghiên cứu gần đây về tính sáng tạo của sinh viên ở một trường đại học lớn
của Việt Nam cho biết trong một mẫu điều tra khá lớn gồm hàng ngàn sinh viên, chí
có khoảng 20% sinh viên đặt hoặc vượt mức sáng tạo trung bình của tụ giới. Như vậy
có tới 80% sinh viên có tính sáng tạo thấp hơn mức trung bình. Đây là một thông tin
sét đánh, buộc các nhà giáo dục học phải nghiêm túc xem lại phương pháp, chương
trình, cách tổ chức dạy và học trong các trường đại học của Việt Nam. Không chỉ ở
phần hết là do trên trường đâu, là do sinh viên chúng ta không tích cực chủ động sáng
tạo trong học tập, áp dụng những gì học được trên trường đưa ra thực tiễn. Sáng tạo là
một bản chất quan trọng của ý thực, chúng ta làm chủ trí tuệ nhân tạo nhờ việc sáng
tạo ra đó. Sáng tạo thúc đẩy đất nước chúng ta phát triển, như anh Nguyễn Nam Trung
phát triển ra game Axie làm thế giời khuynh đảo bởi sự sáng tạo của anh trong việc
xây dựng tiền ảo trong game, và anh đã là tỷ phủ công nghệ đầu tiên ở tuổi 30. Đó
chính là sáng tạo của tri thức, đỉnh cao của ý thức. Thế nên, chúng ta nên học tập, tích
cực, chủ động, sáng tạo, theo đuổi mục tiêu , ước vọng khát vọng của mình và nhất
định chúng ta sẽ thành công trong cuộc sống

Câu 4: Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu
thuẫn)

Quy luật chỉ ra nguồn gốc vận động, phát triển chung của sự vật hiện tượng trong thế
giới, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, đối với quy luật này chúng ta phải nắm
được 1 loạt các khải niệm, phạm trù.

Mặt đối lập là những măt, những yếu tố,... có khuynh hướng, tính chất trái ngược
nhau. (VD đen trắng, lên xuống) đồng thời là điều kiện tiền đề tồn tại của nhau.
Hai mặt đối lập liên hệ với nhau thì tạo thành một mâu thuẫn biện chứng.
(VD:Nguyên tử, thầy trò) Mối liên hệ này sự thống nhất , đấu tranh và chuyển
hóa giữa các mặt đối lập hoặc sự vật hiện tượng với nhau
Ví dụ : mối liên hệ thóng nhất đấu tranh và chuyển giữa quá trình đồng hóa và dị hóa.
Quá trình đồng hóa là quá trình nạp năng lượng là quá trình tổng hợp chất sống đặc
trừng của cơ thể đồng thời tích lũy năng lượng, còn dị hóa là quá trình phân hủy một
phần các chất sống trong cơ thể thành các sản phẩm đơn giản đồng thời và giải phòng
năng lượng như quá trình oxihoa, chuyển hóa các chất hữu cơ phức tạp để sinh ra
năng lượng cung cấp cho tất cả hoạt động sống của cơ thể, đồng hóa và dị hóa thống
nhất với nhau , nó đấu tranh với nhau nó chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình hóa
chuyển hóa vật chất trong cơ thể. Trong mỗi tế bào, chúng luôn luôn xảy ra đồng thời
và liên quan mật thiết với nhau, nghĩa là trong tế bào vừa có qusa trình tổng hợp xây
dựng cấu trúc tế bào, vừa có quá trình phân giải các chất cung cấp năng lượng cho
hoạt động sống của tế bào, năng lượng giải phongstrong quá trình dị hóa đuợc sử dụng
trong quá trình tổng hợp, không có đồng hóa cũng không có dị hóa và ngược lại không
có dị hóa cũng không có năng lượng để tổng hợp trong quá trình đồng hóa.
VÍ dụ: bị bóc lột và bóc lột, cái mới và cái cũ, trong tư duy và phân tích, lực phản lực ,
vi phân tích phân.

Sự thống nhất giữa các mặt đối lập chính là phạm trù triết học để chỉ sự liên hệ gắn
bó, ràng buộc nhau không tách rời nhau, quy định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Sự
đấu tranh của hai mặt đối lập chính là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ nhau
phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Sự vật nào cũng là thể thống nhất giữa các
mặt đối lập. Các mặt đối lập trong mỗi sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc đọc lực của sự phát triển

Vd: chúng ta quan niệm thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta không còn mâu thuẫn
không còn đấu tranh thì điều đó là không đúng bởi vì nếu chúng ta nghiên cứu về học
thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của triết học mác lê nin thì chúng ta mới rút ra
một điều là đấu tranh giai cấp là một trong những nguồn gốc động lực thúc đẩy sự
phát triển và vận động của xã hội để xã hội tiến triển theo chiều hướng đi lên, như tư
bản thay phóng hay cộng sản thay xhcn thì có phải nó là đấu tranh hay không, thông
qua đấu tranh giữa các mặt đối lập giữa llsx tiên tiến và qhsx lỗi thời , giữa gc bị trị và
gc thống trị hay không, thông qua cuộc đấu tranh đó , cuộc đấu tranh giữa các mặt đối
lập đó, mà làm cho xã hội vận động phát triển từ thấp đến cao, cho nên đấu tranh giữa
các mặt đối lập là nguồn gốc vận động của sự phát triển.
Vd:Trong cuộc sống của chúng ta phải giải quyết rất nhiều mâu thuẫn
thông ra việc giải quyết mâu thuẩn, và thông qua việc giải tuyết mâu thuẫn
như vậy làm cho chúng ta phát triển, cho nên chúng ta gặp trở ngại đừng
kêu than vội, chính trwor ngại đó là thử thách rèn luyện chúng ta để chúng
ta có bản lĩnh hơn để chúng ta có thể vượt qua được những thử thách còn
lớn hơn, cho nên sau nay khi mà sếp phân công việc quá sức mình thì đừng
có kêu than, như thế là hỏng, sếp nhìn thấy năng lực của mình đặt ra tiêu
chí cao hơn kẻ khác, nhưng đó chính là nếu chúng ta vượt qua thử thách đó
chúng ta càng phát triển, năng lực của chúng ta tiến bộ hơn, kỹ năng của
chúng ta tiến bộ hơn, quan hệ ứng xử của chúng ta tuyệt vời hơn , thái độ
của chúng ta nhìn nhận tốt hơn, đừng than vội, chúng ta hay than quá, rõ
ràng sếp nhìn được nhân tố ta, tại sao chúng ta kêu than, hãy đóng góp đã,
cống hiễn rồi hãy nghĩ đến điều khác trong đó có hưởng thụ. Chúng tay hãy
thay đổi mình, nếu ta không tự thay đổi thì chúng ta tự làm khó mình.
*Tính chất của mâu thuẫn

Mâu thuẫn có tính khách quan phổ biến và đa dạng. Vì mâu thuẫn có tính đa dạng nên
chia mâu thuẫn thành bên trong - bên ngoài, cơ bản – không cơ bản, chủ yếu – thứ
yếu, đối kháng – không đối kháng.

+ Đối kháng là giữa những tập đoàn người mà lợi ích bị xâm phạm còn không đối
kháng là không xâm phạm về lợi ích.

*Quá trình vận động của mâu thuẫn:

Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là tương đối vì bất kỳ sự thống nhất nào cũng sự
thống nhất có điều kiện chỉ là tạm thời là thoáng qua thôi gắn liền với đừng im tương
đối của sự vật, còn đấu tranh giữa chúng là tuyệt đối vì nó diễn ra riêng tục trong suốt
quá trình tồn tại các mắt đối lập, gay trong thống nhất nó có sự phát triển đấu tranh,
đấu tranh gắn liền với vận động. Quá trình thống nhất và đấu tranh tất yếu dẫn đến sự
chuyển hóa giữa các mặt đối lập, :

+ Mâu thuẫn xuất hiện là sự khác biệt( xuất hiện 2 mđl)

+ Mâu thuẫn phát triển khi ( xung đột 2 mđl)

+ Mâu thuẫn giải quyết ( chuyển hóa 2 mđl)

+ Kết quả ( SV mới ra đời sinh ra mâu thuẫn mới thay thế cho mâu thuẫn cũ )

Cho nên V.I Lênin đã khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các
mặt đối lập”. Mâu thuẫn giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng là nguyên nhân,
giải quyết mâu thuần đó là động lực của sự vận động, phát triển.

#VD: Mâu thuẫn là nguồn gốc & động lực của sự phát triển cạnh tranh trong kinh tế
dẫn đến đầu tư phát triển nguồn nhân lực dẫn đến cạnh tranh vốn trên thị trường dẫn
đến đổi mới kỹ thuật để cạnh tranh từ đó kinh tế phát triển.

+ Ý nghĩa của phương pháp luận:

Trong các lĩnh vực khoa, trong đời sống, trong tập thể, trong học tập, để nhận thức
đúng việc đấu tiên là chúng ta phải biết phát hiện mấu thuẫn, vì mâu thuẫn là hiện
tượng khách quan phổ biến nên phải biết phát hiện mâu thuẫn, nó là điều tối quan
trong, người nao biết mình kém thì còn hy vọng, vì kẻ đó phát hiện ra mấu thuẫn, kẻ
nào nghĩ mình number 1 số 1 thì kẻ đó không thể nào phát triển được. Muốn phát hiện
ra mâu thuẫn phải nghiên cứu được mặt đối lập và phân tích mặt đối lập, khi phát hiện
ra mâu thuẫn thì chúng ta xác định vị trí vai trò các mâu thuẫn, có thể là mâu thuẫn
bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, có thể mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu,… tập
trung giải quyết các mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn bên trong trước đó là nghệ thuật
phân tích mâu thuẫn, Đảng ta dẫn đầu là chủ tich Hồ Chí Minh rất giỏi trong việc
phân tích mâu thuẫn, biết lời dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Giải quyết mâu
thuẫn phải bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, không được điều hòa mâu
thuẫn, nếu không thì sẽ không giải quyết được, mâu thuẫn đó tiếp tục tích tụ phát triển
ngày càng cao hơn, nghiêm trọng hơn, giải quyết mâu thuân bằng con dudownfgd dấu
tranh giữa các mặt đối lập không được điều hòa mâu thuẫn.
Vd: mâu thuẫn giữa lợi ích chung là lợi ích riêng, trong đại dịch có kẻ đục khoét mua
máy nâng lên gấp 3 lần, cả nước kể cả người nghèo chia sẻ, em bé cho vào lợn tích
góp mang đi để ủng hộ, cuối cùng vật có những kẻ như vậy.phải giải quyết như thế
nào, phải đấu tranh triệt tiêu chủ nghĩa cá nhân, mỗi thành viên nhường nhịn dĩ hòa di
quí, mâu thuẫn đấy không bao giờ được giải quyết, làm như vậy chính nhóm lợi ích đó
người ta ko còn đọng lực phấn đấu nếu người dundgws đầu kiểu như vậy, nó chờ điều
kiện phù hợp thì nó bùng lên, cuối cùng toang. Khi giải quyết mâu thuẫn không được
nóng vội chủ quan và bảo thủ trì trệ,cho nên nó lên 1 điều khi vận dụng quy luật ta
phải chống lại bệnh tả khuynh ( tức là nóng vội) và bệnh hữu khuynh (tức là bảo thụ
trì trệ)

Thứ nhất, mâu thuẫn có tính khách quan phải phân tích và giải quyết nó. Phân đôi cái
thống nhất và nhận thức các mặt đối lập của nó. Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu
thuẫn bằng đấu tranh chứ không điều hòa giữa các mặt đối lập.

* Vận dụng quy luật trong thực tiễn


– Các mặt đối lập của mâu thuẫn vừa thống nhất và vừa đấu tranh với nhau
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập chính là sự nương tựa, sự ràng buộc quy định lẫn
nhau và làm tiền đề cho nhau để cùng tồn tại; nếu không có sự thống nhất của các mặt
đối lập thì sẽ không tạo ra sự vật.

+ Có thể hiểu một cách đơn giản thì thống nhất chính là sự đồng nhất, sự phù hợp
ngang nhau của hai mặt đối lập đây là trạng thái cân bằng của mâu thuẫn.

+ Thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tạm thời là tương đối có nghĩa là nó chỉ tồn
tại trong một thời gian nhất định, đó là trạng thái đứng im, ổn định tương đối của sự
vật.

+ Việc đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp được diễn ra từ thấp
đến cao và bao gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng.

– Sự đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập chính là nguồn gốc, là động lực của
sự phát triển

Việc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ gây ra những biến đổi các mặt đối lập khi cuộc
đấu tranh của các mặt đối lập trở nên quyết liệt. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập
chính là khi các mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật cũ sẽ bị mất đi và sự vật mới
xuất hiện. Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau với ba hình thức sau đây:

+ Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau mặt đối lập này thành mặt đối lập kia và
ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương diện vật chất của sự vật.

+ Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển háo thành một mặt đối lập mới.
+ Các mặt đối lập thâm nhập vào nhau và cải biến lẫn nhau.

#VD: Trong mỗi mâu thuẫn thường có hai mặt đối lập liên hệ gắn bó với nhau tạo
tiền đề cho nhau cùng tồn tại, triết học gọi đó là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.

Ví dụ: như trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những
chiều hướng trái ngược với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản
phẩm để có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích
cuối cùng của việc sản xuất, tất cả những sản phẩm được sản xuất ra đều cần có người
tiêu dùng.
Sản xuất là việc tạo ra sản phẩm và là đối tượng có thể cung cấp cho việc tiêu dùng.
Nếu như không có quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm tiêu dùng thì sẽ không thể có
tiêu dùng.

Sản xuất quy định phương thức tiêu dùng, tạo ra đối tượng cho tiêu dùng, đây không
phải là đối tượng nói chúng mà là đối những đối tượng nhất định do bản thân sản xuất
làm môi giới cho người tiêu dùng.

Do đó sản xuất không chỉ là đối tượng của tiêu dùng mà nó còn quyết định về phương
thức tiêu dùng. Sản xuất cung cấp các sản phẩm cho tiêu dùng và tạo ra nhu cầu cho
người tiêu dùng. Điều này có nghĩa là chỉ khi sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó thì
mới tạo ra nhu cầu tiêu dùng đối với sản phẩm đó.

Do vậy có thể thấy được rằng sản xuất và tiêu dùng chính là sự thống nhất của hai
mặt đối lập, chúng có tính chất tương đồng và có mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ với
nhau từ đó tạo điều kiện cho nhau cùng chuyển hóa, cùng phát triển.

Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập - ý nghĩa
phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.
I. Nội dung quy luật:
- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật mâu thuẫn)
là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân của phép biện
chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát
triển.
- Khái quát nội dung quy luật:
Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện tượng đều
là thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau. Chính sự
đấu tranh của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận động, phát triển.
- Phân tích nội dung quy luật:
1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
- “Mặt đối lập”?
Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối nhau, trái
ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng có hai
mặt đối lập cơ bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật, hiện
tượng.
-“Mâu thuẫn”?
“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập
trong một sự vật, hiện tượng nhất định.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự vật, hiện
tượng.
Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong tư duy là
sự phản ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).
2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau.
- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh lẫn nhau.
- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ ràng buộc
với nhau, quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.
Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”, nghĩa là
cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập. Đồng thời cũng
thừa nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp.
Quá trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng
của nó. (Xem S.1)
S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.
- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin viết: “Sự
thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều
kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối” (V.I.Lênin toàn tập,
T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống nhất của các mặt đối lập
có tính chất tạm thời, thoáng qua, tương đối, cũng như trạng thái đứng im của sự vật,
bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể đều có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong
để nhường chỗ cho các sự vật, hiện tượng khác cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về
chất ra đời.
Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng đều có mâu
thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển của sự vật. Tính
tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động, sự biến đổi liên tục
của sự vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều kiện quan trọng nhất, có
tính quyết định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của các mặt đối
lập.
- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu
thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào những điều kiện
cụ thể.
Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:
+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự vật mới.
4. Phân loại mâu thuẫn
Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu thuẫn cơ
bản:
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa
các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính, các quá trình giữa sự vật, hiện tượng với nhau. Mâu thuẫn này
không giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Nó chỉ có
tác dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn bên trong.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn phát
sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và
giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng. Mâu thuẫn không
cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn
tại của vật, hiện tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng nhất định
đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi
lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng ở
mỗi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát sinh và không
giữ vai trò quyết định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của
sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ có trong
lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp có lợi
ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua cách mạng xã
hội. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có lợi ích cơ bản
không đối lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương pháp hòa bình thông
qua giáo dục và đổi mới xã hội.
II. Ý nghĩa phương pháp luận:
- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và giải quyết
các vấn đề: phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.
- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng ta, muốn
nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt đối lập của
mâu thuẫn.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể để giải
quyết đối với từng loại mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào, bất kỳ giai
đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các
mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường điều hòa giữa chúng.

Ví dụ minh họa các mặt đối lập để phát triển trong tự nhiên xã hội và tư duy

Quang hợp và hô hấp của giới thực vật

người sử dụng lao động và người lao động trong các hoạt động sản xuất

Quan điểm duy tâm và duy vật trong triết học

Vận dụng quy luật giải quyết mâu thuẫn cá nhân và lợi ích tập thể mô

Cần làm gì để nâng cao trình độ năng lực nhận thức của mình

I. Đặt vấn đề

Trong công cuộc hội nhập và đua tranh toàn cầu của người Việt Nam, có lẽ điều mà
chúng ta cần hội nhập đầu tiên và mạnh mẽ nhất, đó là hội nhập về tri thức. Và trong
công cuộc hội nhập về tri thức ấy, lĩnh vực cần phải hội nhập trước nhất và quyết liệt
nhất chính là lĩnh vực giáo dục.

Thực tiễn cho thấy, muốn có một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thịnh
vượng và văn minh, thì phải có những con người Việt Nam mới, những con người
được nuôi dưỡng tâm hồn, được khai sáng trí tuệ và rèn luyện thể chất tốt. Điều này
chỉ có thể có được khi chúng ta có một nền giáo dục mới, một nền giáo dục hội nhập
và sánh vai với thế giới. Muốn có một nền giáo dục như vậy, phải dựa và nhiều yếu tố,
một trong những yếu tố đầu tiên và không thể thiếu đó là phải có tư duy mới, tầm nhìn
mới, tri thức mới cho giáo dục. Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa- hiện đại hóa
trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, cần có một nguồn nhân lực phát triển ở
trình độ cao, luôn luôn đổi mới, cập nhật kỹ thuật cao, có phong cách sống mới: năng
động, khả năng thích nghi cao và sáng tạo. Những điều đó chỉ có thể thực hiện được
trong một xã hội mà ở đó mọi công dân luôn được tạo điều kiện học tập thường
xuyên, liên tục nhằm không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp và khả năng hội
nhập với xã hội ngày càng văn minh, hiện đại. Một trong những con đường quan
trọng nhất nâng cao trình độ bản thân là con đường phát triển nhận thức của sinh viên
của chúng ta. Thực tiễn hiện nay cần có khả năng nhận thức cao, có nhận thức đúng ta
mới xác định đúng bản chất của vấn đề từ đo sphanr ánh một cách tích cực sáng tạo, là
những nhà tri thức của Đất Nước

Không phải ai là toàn diện cho nên hãy tự nhận thức mình, biết được điểm mạnh điểm
yếu của bản thân. Chỉ khi biết điểm mạnh sẽ cho phép bạn tận dụng và phát huy tối
đa lợi thế của mình, khám phá sức mạnh tiềm năng của bản thân, vận dụng nó vào
thực tiễn khai thác bản thân Tiếp đến, hiểu được đâu là điểm yếu sẽ là cơ hội để bạn
cải thiện những khuyết điểm đang kìm hãm bạn, người mà biết nhìn nhận, xác định
khắc phục điểm yếu của mình đo sẽ là con người thành công trong tương, nếu cứ nghĩ
mình number 1 thì chắc chắn con người ấy sẽ thật bại đơn giản là vì không ai là hoàn
hảo, không ai là tuyệt vời kể cả những nhà triết gia lỗi lạc của thời đại như Mác, ông
cũng thường hay uống rượu đó thôi. Hiều quả của việc liệt kê điểm mạnh điểm yếu sẽ
giúp bạn biết được mình đang ở vị trí nào, tại sao bạn lại thất bại hay thành công trong
cuộc sống lẫn công việc, cũng như cho phép bản thân thay đổi và tự tin hơn trong việc
thể hiện mình. Bản thân em thì cũng có rất nhiều điểm yếu, em thiếu sự tin, thiếu mối
quan, thường hay chủ quan gây nên sơ suất,… và thế nên em cũng cố gắng hơn để
khắc phục điểm yếu ấy, nó sẽ là quá trình dài như em tham gia vào các hoạt động của
trường, không chỉ học trên trường mà em còn học ngoài xã hội, cố gắng giao tiếp với
người xung quanh,…Trong quá trình đánh giá bản thân đó em cố gắng nhìn nhận mọi
khía cạnh mà không phán xét hay đưa ra bất kỳ nhận xét mang tính chủ quan nào.

Tìm hiểu về động lực của bản thân cũng là một cách tốt để phát triển khả năng nhận
thức của bản thân. Như khi em có động lực em sẽ cố gắng tìm hiểu và nhận thức về
nó, nó giống như một dolphin thôi thúc bạn nỗ lực vượt qua mỗi khó khăn tiếp tục
được mục tiêu của mình và kiên định trên con đường em đã chọn. Động lực giúp em
có nhận thức đúng đắn, chính xác vấn đề vì nếu không có động lực bạn có thể như
một người sống không có nguyên tắc, ban ngày thì ngủ tới trưa, suốt ngày cứ bấm
điện thoạt, lướt facebook làm cho viện nhận thức sai, khi đó bạn cứ nghĩ việc làm
rảnh rỗi như chơi game ngày này của mình là đúng, không sao cả tại đâu có việc gì
làm đó là sai lầm do việc không có động lực, không thúc đẩy thực hiện mục tiêu mỗi
ngày, sống cứ như con robot sống qua ngày này như này, sống một cách không có
sáng tạo. Vì vậy động lực là một yếu tố thúc đẩy nhận thức làm cho việc nhận thức
đúng đắn theo đuổi mục tiêu của bản thân.

Em đã từng nhìn thấy một bạn chỉ vì đánh rơi đồng xu mà gần như tức giận, em nghĩ
bạn đó có vấn đề về nhạn thức, căn bản là bạn ấy không biết tiết chế cảm xúc của bản
thân, đó là kết quả dài của việc không quan tâm và nuôi dưỡng đến cảm xúc cũng như
là những phản ứng tự nhiên của mình trước mọi hoàn cảnh . Khi bạn chú tâm đến cảm
xúc của chính mình, bạn sẽ hiểu được tại sao mình lại cảm thấy như vậy và lần tới
mình nên làm gì để khắc phục điều này. Trên thực tế, kỹ năng kiểm soát cảm xúc sẽ
giúp bạn có cuộc sống tốt hơn chẳng hạn như trở một người giao tiếp tốt và khôn
ngoan hơn trong việc ra quyết định.

Kỹ năng tập viết nhật ký

Đây là một kỹ thuật rất đơn giản và dễ dàng mà bạn có thể luyện tập để phát triển khả
năng tự nhận thức bản thân. Viết nhật ký sẽ giúp bạn phơi bày những suy nghĩ, cảm
xúc và ý tưởng chân thật nhất lên trang giấy. Cuốn nhật ký này sẽ trở thành nơi lưu
giữ những hồi ức quan trọng, cũng như trở thanh một nhân chứng theo dõi quá trình
trưởng thành của bạn. Hãy cố gắng viết nhật ký ít nhất một lần mỗi ngày.

Và để phát triển kỹ năng nhận thức của bản thân một cách tốt chúng ta phải gắn liền
với thực tiễn. Vì thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tích lịch sử
Nhận thức là 1 quá trình từ thấp đến cao, ko có cái gì con người không nhận thức
được mà chỉ có những cái mà con người chưa nhận thcuws được mà thôi

- Liên hệ thực thực tiễn hiện nay ở Việt Nam.

Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công, thất bại trong
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng
là: “Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng qui luật hiện thực
khách quan”.

Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản
thân sự vật, từ hiện thực khách quan, phản ánh sự vật đúng với những gì vốn có của
nó, không lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí chủ quan áp
đặt cho thực tế, phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan nóng vội, phiến diện,
định kiến… Yêu cầu của nguyên tác tính khách quan còn đòi hỏi phải tôn trọng và
hành động theo qui luật khách quan.

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Đảnh
chủ trương: “Huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đ8ạ biệt
là nguồn lực của dân vào công cuộc phát triển đất nước”. Đó là chính sách chiến lược
về con người, về phát triển giáo dục và đào tạo...

Vì vậy, phải “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi
tình trạng kém phát triển, thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng,
dân chủa và văn minh”.

Liên hệ thực tiễn đến bản thân trong quá trình học tập

Câu 6: Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Vận dụng quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong
đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lưc lượng sản xuất là quy cơ
bản nhất của lịch sử xã hội, tri phối sự vận động phát triển của xã hội
Nội dung: LLSX và QHSX nó là 2 mặt của một phương thức sản xuất, nó tác động
biện chứng lẫn nhau trong đó LLSX quyết đinh QHXZ, QHSX tác động trở lại LLSX
Các khái niệm:

Lực lượng sản xuất (con ng vs tự nhiên): là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh
thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn,
phát triển của con người.
Trong llsx có sự kết hợp của 2 yếu tố cơ bản là người lao động với tư liệu sản xuất để
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn để làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu của con người. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó
yếu tố con người giữ vị trí hàng đầu, TLSX đóng vai trò rất quan trọng.
Trong giai đoạn hiện nay khoa học đã trở thành llsx trực tiếp. Khoa học sản xuất ra
của cải đặc biệt hàng hóa đặc biệt. Kích thích sự phát triển làm chủ năng lực sx của
con ng. Kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, yêu cầu SX đặt ra.
Tư liệu sản xuất gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động, trong tư liệu lao động có
công cụ lao động là các phương tiện lao động khác. Đối tượng có cái là có sẵn tự
nhiên con người chỉ cần qua sơ chế thôi đã có thể sử dụng được .VD: cá trong tự
nhiên con người chỉ cần sơ chế thôi đã ăn được rồi . CÓ cái là nhân tạo mà có. Trong
tư liệu sản xuất yếu tố thường xuyên biến đổi, yếu tố cách mạng đó chính là công cụ
lao động, đó là vì nhu cầu con người không đứng yên một chỗ, nhu cầu ngày càng
tằng lên, tốt hơn, ngon hơn,.. và dể thỏa mãn nhu cầu đó, con người phải tiến hành
cách mạng công cụ lao động, để chuyển sang công nghệ mới, quy trình mình, và
đương nhiên năng suất lao động tăng lên, cuối cùng nó sẽ giải phòng được sức lao
động con người. Cho nên công cụ lao động rất quan trọng.
Công nghệ việt nam như thế nào so với thế giới, lạc hậu, nguyên nhân vì sao

Người lao động triết học người ta nhần mạnh đến nhiều tiêu chí trình độ , tri thức ,
kinh nghiệm, kỹ năng lao động, và đặc trong điều kiều cách mạng công nghệ 4.0 nền
kinh tế tri thức đang được hành động phải cso năng lực sáng tạo. Một số vấn đề nữa là
phẩm chất trình độ, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức, tính kỹ luật,…đồng thời đã
là người lao động Việt Nam phải tuân theo đường lỗi chủ trương của đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước. người lao động chính là yếu tố quyết định nhất quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất. Liên hệ đến Việt Nam, ng lao động vn như thế nào, bao
nhiều phần trăm lao động đã qua đào tạo ( gần 80 % ll lao động chưa qua đào tạo) sản
xuất kinh doanh chỉ dựa vào kinh nghiệm trong lĩnh vực nông thôn, người nông dân
đã qua đào tạo rất thấp, có câu rất hay “ kinh nghiệm kết thúc ở đâu lý luận phải bắt
đầu ở đó”. Tại sao chúng ta thất bại nhiều lân, cứ được mùa sẽ mất giá, tính tự phát
tcuar người nông dân quá lớn, tổ chức thực hiện rất hạn chế, hiểu biết ng nông dân về
thị trường cong nhiều hạn chế. Là sinh iên chúng ta nên đáp ứng được nhà nước đang
cần j, nhà nucows cần cái j, cơ quan đoàn thể cần cái gì, xu thể phát triển thế giới việt
nam, chuẩn bị hành trang cho mình để có cơ hội phát triển , chúng ta bổ sung vào đội
ngủ thất nghiêm,hoặc làm ngành nghề không xứng đáng với với những gì được đạo
tạo ở đại học. Xã hội này , có người làm không hết việc, có người thì không có việc để
làm, cho nên thực chất bây giờ xã hội thừa ai, thauwf những người như thế nào, đất
nước này còn thiếu rất nhiều những chủ doanh nghiệp giởi, có tinh thần dân tộc,
chúng ta là đội ngũ tương lai
Quan hệ sản xuất (con ng vs con ng): là tổng hợp các quan hệ kinh tế - vật chất giữa
người với người trong quá trình sản xuất vật chất.

- QHSX kết cấu gồm có ba mặt: quan hệ sở hữu đối với TLSX, quan hệ tổ chức,
quản lí sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Ba mặt quan hệ này thống
nhất với nhau, mỗi mặt đều có tác động kích thích , thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm
những mặt khác. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với TLSX đóng vai trò quyết định hai
mặt kia.
Tạp đoàn nào giai cấp nào nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, nó quyêt định
quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm đồng thời nó quyết định tất
cả quan hệ khác, như quan hệ chính trị dân tộc pháp luật,
Quan hệ giữa người là quan hệ bình đẳng, bình đẳng về kinh tế, sản xuât,

=> QHSX mang tính khách quan, nó được hình thành trong quá trình phát triển lịch
sử không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. QHSX là quan hệ cơ bản
quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác của con người.

*Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong
đó LLSX quyết định QHSX và QHSX tác động ngược trở lại LLSX.

-Vai trò quyết định của LLSX đối với sự hình thành và biến đổi của QHSX:
+Vì sao LLSX quyết dịnh QHSX? Bởi vì LLSX là nội dung của quá trình sx và nó có
tính năng động, cách mạng và thường xuyên phát triển. Trong LLSX có công cụ lao
động và con người, công cụ lao động là yếu tố động thường xuyên biến đổi và khi nó
biến đổi nó cách mạng nó yêu cầu người sử dụng công cụ lao động phải có năng lực
sáng tạo, kinh nghiệm, phẩm chất. Như là hiện nay sản xuất yêu cầu về trí tuệ hơn là
lao động chân tay.
+ LLSX quyết định sự ra đời của QHXS mới, nó quyết định nội dung, tính chất của
quan hệ sản xuất, cho nên nguyên nhân sâu xa của sự vận động biến đổi của các xã
hội, của các chế độ xã hội, của các hình thái kinh tế xã hội, cuối cùng cũng là do sự
biến đổi của lực lượng sản xuất và lực lượng sản xuất nó biển đổi nó đòi hỏi quan hệ
sx cũng thay đổi theo sao cho phù hợp với nội dung.
VD: liên hệ đến việt nam trong thời kỳ quá độ lên cnxh bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
+ LLSX và QHSX nó đi từ phù hợp rồi phát triển thành không phù hợp rồi trở lại
thành phù hợp rồi nó không dừng lại nó tiếp tục trở thành không phù hợp, cho nên
thực giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là LLSX tiên tiến và một bên là QHSX lỗi
thời lạc hậu. Chính sự vận động nội tại QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX
làm cho các hình thái kinh tế xã hội thay thế nhau từ thấp đến cao. Để hiểu quy luật
này hơn, phải hiểu được quy luật thống nhất đấu tranh giữa các mặt đối lập, ngay khi
nó thống nhất hay là có sự phù hợp thì nó phát triển các yếu tố không phù hợp rồi dẫn
đến không phù hợp. Giải quyết được mâu thuẫn thúc đẩy phương thức sản xuất thay
thế nhau từ thấp đếp cao, vd từ phương thức cộng sản nguyên thủy, đến phương thức
sản xuất chiếm hữu nô lệ, rồi phương thức sản xuất phong kiến , ptsx tư bản chủ
nghĩa, rồi đến phương thức sản xuất cao hơn là phương thức cộng sản chủ nghĩa.
+ Tương ứng với một trình độ phát triển nhất định của LLSX tất yếu đòi hỏi phải có
một QHSX phù hợp với nó trên cả ba mặt của QHSX đó.
+ Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi
đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của LLSX mà trước hết là công
cụ lao động. Từ sự biến đổi của LLSX này mà QHSX phải biến đổi cho phù hợp.
+ LLSX thường biến đổi nhanh hơn ( yếu tố người lao động luôn thúc đẩy sự phát
triển của nó), còn QHSX thường biến đổi chậm hơn (vì QHSX bị quy định bởi quan
hệ về sở hữu TLSX bị níu giữ bởi yêu cầu phải bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị
hiện đang nắm giữ quyền sở hữu TLSX.

Do đó, sự phát triển của LLSX khi đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay
gắt với QHSX hiện có, đòi hỏi tất yếu phải phá bỏ QHSX lỗi thời và thay thế bằng
QHSX mới phù hợp.

- Tác động ngược lại của QHSX đối với LLSX.

+ Vì sao QHSX có thể tác động trở lại LLSX? Vì QHSX chính là hình thức xã hội
của quá trình sản xuất, nó có tính độc lập tương đối và nó ổn định, QHSX phù hợp với
trình độ phát triển LLSX và nó là yêu cầu khách quan của nền sản xuất, bởi vì chỉ có
phù hợp nó mới mở đường thúc đảy các yếu tố LLSX phát triển
+ QHSX quy định mục đích, cách thức sản xuất và cách thức phân phối những lợi
ích từ quá trình sản xuất do đó nó trực tiếp tác động tới thái độ của người lao động, tới
năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động.
+ Sự tác động của QHSX với LLSX diễn ra theo hai xu hướng:

Một là, Nếu QHSX phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát
triển.
Biểu hiện: năng suất ldd, trình độ llsx, các yếu tố công cụ lao động, tư liệu lao
động như thế nao.
Hai là, Nếu QHSX không phù hợp với trình độ của LLSX thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX.
Biểu hiện: qhsx lạc hậu tức là nó không phù hợp, còn nhiều yếu tố khác, vận
dụng ở việt nam 1986

Quy luật này là quy luật cơ bản , quan trọng tác động tới toàn bộ quá trình lịch sử
nhân loại, ở đó LLSX không ngừng phát triển phá vỡ sự phù hợp về mặt trình độ của
QHSX đối với nó dẫn tới việc phá bỏ QHSX đã lỗi thời thay thế bằng QHSX tiến bộ
hơn. Quá trình đó lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức
sản xuất từ thấp đến cao của các hình thái kinh tế - xã hội.
Hoạt động trong xã hội phải tuân theo quy luật, con người tuân theo quy luật,
quy luật không tuân theo ý chủ quan của con người , nó mang tính khách quan.

Ý nghĩa : Có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng.

Là cơ sở khoa học để nhận thức sâu sắc sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng cộng sản
Việt Nam :

- Muốn phát triển kinh tế phải bắt đầu từ phát triển lực lượng sản xuất, trước hết là
phát triển lực lượng lao động và công cụ lao động.
- Muốn xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất mới phải dựa vào trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, theo tính tất yếu của kinh tế, chống tùy tiện, chủ
quan, duy ý chí.

???Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay.

Phát triển người lao động:

-Thứ nhất, là trình độ của người lao động: đã được nâng cao rõ rệt và không ngừng
tăng cao.

+ Người lao động năng động, sáng tạo, cần cù, chịu khó,…kinh nghiệm và kĩ năng
lao động của con người Việt Nam cũng khác nhau: có kinh nghiệm và kĩ năng của
người lao động cơ khí, máy móc, có kinh nghiệm và kĩ năng của người lao động đối
với máy móc hiện đại, tự động hóa,… Từ đó, trình độ tổ chức và phân công lao động,
trình độ ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất ở Việt nam hiện nay đã có nhiều
tiến bộ. Qua đó, cho thấy trình độ chuyên môn tay nghề của lao động nước ta đang có
những chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu cũng như đòi hỏi thực
tế của nền kinh tế đất nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Phát triển công cụ lao động:

-Thứ hai, là trình độ của tư liệu sản xuất tiến bộ hơn so với thời kì trước đổi mới cụ
thể:

+ Công cụ lao động hiện đại hơn với sự đầu tư, mua mới nhiều máy móc, công cụ
hiện đại vào trong quá trình sản xuất góp phần làm cho năng suất lao động tăng cao,
giảm bớt được chi phí sức lao động. Điển hình, trước thời kì đổi mới chúng ta sử dụng
trâu, bò để cày, máy móc đưa vào sản xuất còn hạn chế và thô sơ. Nhưng đến giai
đoạn hiện nay, đã được thay bằng máy cày,…việc sản xuất đã được trang bị bởi một
hệ thống máy móc hiện đại nhập khẩu từ nước ngoài góp phần làm cho nền kinh tế đất
nước phát triển nhanh.

=> Như vậy lực lượng sản xuất của Việt Nam hiện nay là phù hợp với quan hệ sản
xuất. Tạo nên sự thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam đi lên. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) quý I/2021 ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng
3,68% của quý I/2020, cho thấy sự thích nghi, khả năng chống chịu và xu thế phục hồi
của nền kinh tế ngày càng gia tăng. Những thành tựu đạt được là kết quả của con
đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng
đắn quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển LLSX để phát triển kinh tế - xã
hội hiện nay.

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
Quy luật phổ biến chi phối sự vận động phát triển của loài người trong bất kỳ hình
thức xã hội nào.Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH chúng ta cũng có những tác
động đến quy luật .Trước năm 1986, chúng ta phải đứng trên nguyên tắc khách quan
toàn diện, đặt mình vào hoàn cảnh đất nước lúc đó để nhìn nhận xác định vấn đề, nếu
không chúng ta sẽ rơi vào bệnh phiến diện , ngụy biện. Sau khi đánh bại giặc Mỹ, một
siêu cường của thế giới , ta vì muốn có ngay XHCN , chúng ta đưa quan hệ sản xuất
lên quá cao.Cụ thể thể hiện ở quan hệ sở hữu có 2 thành phần là sở hữu nhà nước và
tập thể. Thành phần kinh tế gồm có kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Chúng ta không
chủ trương phát triển thành phần kinh tế tư nhân, chúng ta nghĩ rằng thành phần kinh
tế tư nhân là có dâu hiệu của chủ nghĩa tư bản . Trong khi đó , chúng ta vẫn giữ cơ chế
kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp cái gì cũng là Nhà Nước quản lý và quy
định, cơ chế này chỉ áp dụng thành công ở thời kỳ chiến tranh và đến thời kỳ hòa bình
thì nó không đúng. Chúng ta không theo kinh tế thị trường quy luật thị trường. Người
lao động của đất nước ta thì thụ động, ỷ nại. Quan hệ phân phối chúng ta thực hiện
phân phối bình quân, mọi người bình đẳng như nhau, người siêng năng cũng như
người làm biếng, người giỏi cũng như người dốt, tất cả đều hưởng thành quả lao động
như nhau. Chính nguyên tắc này khôn gkichs thích được tính tích cực sáng tạo của
người lao động, kinh tế đất nước rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Nhưng chúng ta nên biết
đặt mình vào hoàn cảnh khi ấy để nhìn nhận, sau khi chúng ta thắng Mỹ thì chúng ta
nhìn cuộc đời rất vui tơi , chúng ta muốn tiến đến CNXH ngay nhưng hoàn cảnh đất
nước khi ấy chịu tác động nặng nề bới chiến tranh, chúng ta bị cắt giảm viện trợ từ các
nước XHCN nên phải đặt mình vào hoàn cảnh khi ấy mà đánh giá, có khi chúng ta ở
hoàn cảnh ấy cũng tệ hơn như thế nhiều. Đất Nước chúng ta từ thời kỳ nửa thuộc địa
nửa phong kiên squas độ lên chủ nghĩa xã hooij bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa nên
lực lượng lao động cực kỳ thấp , người lao động bị ảnh hưởng bởi tư tưởng phong
kiến không muốn làm chỉ muốn có ăn , tư liệu lao động thì lạc hâu, kinh tế xã hội rơi
vào trì trệ khủng hoảng , lực lượng sản xuất trình độ sản xuất đưa lên quá cao mà quan
hệ sản xuất không phụ hợp

Từ năm 1986 đến nay, chúng ta với tinh thần nhìn vào sự thật đánh gia sự thật. Các
chủ quan chính sách phải tuân theo thực tế khách quan tuân theo quy luật khách quan.
Trước tiên đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất , chúng ta thực hiện công nghiệp
hóa hiện đại hóa Đất nước từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Chúng ta đẩy mạnh phát triển công cụ lao động trong mọi lĩnh vực và phát triển người
lao động đẩy mạnh , phát triển giao dục đào tạo và khoa học công nghệ . Đảng ta xác
định đầu tư vào giáo dục là đầu tư cho sự phát triển . Chúng ta điều chỉnh quan hệ sản
xuất phù hợp lực lượng sản xuất . Chúng ta có nhiều quan hệ sở hữu như sở hữu toàn
dân, cá nhân và đặc biệt có kinh tế tư nhân. Phát triển kinh tế nhà nước nhiều thành
phần và thành phần kinh tế tư nhân phát triển đang đóng vai trò quan trọng ở nước ta
hiện nay. CHúng ta bỏ tổ chức quản lý là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp và ta
thực hiện theo cơ chế thị trường . Về thành phần kinh tế chúng ta thực hiện nhiều
hình thức phân phối do thành phần sở hữu, thnahf phần kinh tế lấy phân phối theo lao
động làm cơ sở . Dẫn đến quann hệ sản xuất phù hợp với LLSX từ đó thúc đẩy nền
sản xuất Việt Nam phát triển theo, thể hiện ở đời sống vật chất được nâng cao hơn, Rõ
ràng chúng ta đã làm đúng quy luật LLSX phù hợp với QHSX đổi mới lấy kinh tế
làm trọng tâm , đổi mới trí tuệ.
Vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Theo C.Mác, trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
hai mặt có mối quan hệ biện chứng với nhau làm cho sản xuất phát triển. Lực lượng
sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động. Con người không thể sản xuất có hiệu quả nếu tiến hành riêng lẻ,
mà phải liên kết, phối hợp với nhau, quan hệ tác động với nhau. Bởi vậy, thiếu một
trong hai mối quan hệ này thì không thể có sản xuất vật chất.

Trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực lượng sản xuất. Mỗi loại hình quan hệ sản
xuất được xác lập trên cơ sở thích ứng với một trạng thái, trình độ phát triển nhất định
của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất cũng biến
đổi theo, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa và là động lực cơ
bản thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.

Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất nhưng do quan hệ sản xuất
quy định mục đích của sản xuất, quy định cách thức tổ chức, quản lý, phân công sản
xuất, quy định sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và cơ chế thực hiện lợi
ích của con người vì vậy, tác động đến thái độ của con người trong sản xuất ... từ đó
hình thành những yếu tố, khuynh hướng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất.

Có thể thấy rằng, quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất là quy luật kinh tế cơ bản, phổ biến, chi phối mọi phương thức sản xuất, không
loại trừ một quốc gia dân tộc nào. Điều đó, đòi hỏi chúng ta muốn phát triển kinh tế
đất nước thì phải nhận thức đúng để hành động phù hợp với quy luật khách quan.

Ở nước ta, trước thời kỳ đổi mới thực hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu, bao cấp. Mặc dù đã huy động được sức người, sức của cho kháng
chiến và phát huy có hiệu quả trong thời kỳ, nhưng kinh tế tăng trưởng chủ yếu theo
chiều rộng. Do không thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần, coi cơ
chế thị trường chỉ là thứ yếu bổ sung cho kế hoạch hoá; thủ tiêu cạnh tranh, triệt tiêu
động lực kinh tế đối với người lao động, kìm hãm tiến bộ khoa học, công nghệ… quá
nhấn mạnh một chiều cải tạo quan hệ sản xuất mà không thấy đầy đủ yêu cầu phát
triển lực lượng sản xuất, coi nhẹ quan hệ quản lý, quan hệ phân phối.Trong xác lập
quan hệ sản xuất, chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của công hữu, làm cho quan hệ sản
xuất chỉ còn tồn tại giản đơn dưới hai hình thức toàn dân và tập thể;kỳ thị, nóng vội
xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở
hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó
đang tạo điều kiện cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Dẫn đến lực lượng sản xuất
không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài, sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp
nhiều khó khăn. Hạn chế đó, có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là
chúng ta đã chủ quan, nóng vội, duy ý chí dẫn đến việc nhận thức và vận dụng không
đúng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất.
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, khởi đầu công cuộc đổi mới, Đảng ta đã nêu ra quan
điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ
nghĩa xã hội, với nhiều chế độ sở hữu. Mặc dù, chưa đề cập đến cơ chế thị trường,
phát triển nền kinh tế thị trường. Nhưng đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi
mới tư duy lý luận của Đảng về con đường và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, thể hiện sự nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; đồng thời đã đặt cơ sở, nền
tảng quan trọng để các nhân tố mới ra đời, tạo tiền đề để từng bước phát triển nền kinh
tế nước ta. Quá trình vận dụng quy luật và xuất phát từ thực tiễn đất nước, tại Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI (3-1989), Đảng đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính
sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, coi đây là chính sách có ý nghĩa chiến lược lâu
dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội; trong đó mọi người được
tự do làm ăn theo pháp luật; các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần
kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở
bình đẳng trước pháp luật”. (2)

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhìn tổng thể 30 năm qua đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trong đó, có thành tựu về nhận thức và vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan
hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta. Hơn nữa, trong
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, việc nhanh chóng phát triển lực lượng sản
xuất đi đôi với từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội,
khắc phục nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế đang càng là một yêu cầu cấp thiết.

Để thực hiện điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã, đang và sẽ phải tiếp tục thống nhất
nhận thức về kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng
bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường. Đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; xây dựng nền kinh tế thị
trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Xác lập nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa Việt nam “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh
theo pháp luật”(3); thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ hiệu
quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với
cơ chế thị trường. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các
công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền
kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của
nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội.

Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, biện pháp để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo “cốt vật chất” cho
quan hệ sản xuất mới. Tiếp tục thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và hàng hoá dịch vụ chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế để phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, tiếp thu
những thành tựu về khoa học và công nghệ, về kinh tế tri thức. Xây dựng, hoàn thiện
luật pháp và chính sách kinh tế để kiến tạo sự phát triển bền vững. Đào tạo nguồn
nhân lực, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý nhà nước. Đổi mới thể chế
nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng
cường kỷ luật, kỷ cương.

Tóm lại, có thể khẳng định công cuộc đổi mới là quá trình chúng ta ngày càng nhận
thức và vận dụng đúng đắn hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất trong

Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất trong xác định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng
ta hiện nay?
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
quy luật cơ bản nhất chi phối sự vận động, phát triển của các phương thức sản xuất và
các hình thái kinh tế – xã hội trong lịch sử. Đảng ta đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo
quy luật này vào xác định mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Nội dung quan điểm của Đảng ta về phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Do lực lượng sản xuất của ta thấp kém, để sản xuất nhiều hàng hóa thỏa mãn nhu cầu
xã hội, Đảng ta khẳng định, thực hiện nhất quán phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Lực lượng sản xuất ở nước ta đang tồn tại khách quan nhiều trình độ khác
nhau về công cụ lao động, về tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng người lao động. Cùng với
nó là còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, phải phát triển
nhiều thành phần kinh tế để tạo ra nhiều phương thức kết hợp khác nhau giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm cho nền sản xuất phát triển, tạo ra nhiều sản
phẩm xã hội.

Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo để
định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Phát triển nền kinh tế hàng hóa
tất yếu phải sử dụng và vận dụng cơ chế thị trường, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa để định hướng cho toàn bộ chế độ kinh tế xã hội. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát ở nước ta hiện nay,
là sự tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận của Đảng ta, thể hiện sự vận dụng sáng tạo
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất và xây
dựng, phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách
quan

để tạo ra địa bàn và điều kiện thuận lợi thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giải
phóng sức sản xuất xã hội và đảm bảo sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng
sản xuất. Nhận thức và vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan để thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ở nước ta hiện nay;
khắc phục những quan niệm không đúng về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ của lực lượng sản xuất trong thực tiễn đổi mới đất nước hiện nay.

Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng quy luật này

Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất

Điều đầu tiên mà chúng ta cần thực hiện để tiếp tục vận dụng tốt quy luật này chính là
nâng cao chất lượng, trình độ nguời lao động bằng cách mở các trường lớp đào tạo
ngành nghề, đầu tư phát triển giáo dục. Tập trung vào việc đào tạo các ngành nghề có
nhu cầu lớn trong xã hội, chú trọng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao
động. Quan tâm, học hỏi chất lượng đào tạo nước ngoài.

Đồng thời, cải tạo các loại máy móc, dây chuyền sản xuất để nâng cao năng suất,
khối luợng sản phẩm. Nhà nước cần quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học – kĩ thuật
vào trong sản xuất cũng như việc nghiên cứu, sáng chế, mua các thiết bị, máy móc sản
xuất hiện đại.

Phương hướng hoàn thiện các quan hệ sản xuất

Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu lại nền doanh nghiệp,và điều
chỉnh chiến lược thị trường. Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo huớng tồn tại nhiều hình
thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.

Về quản lý, trong kinh tế thị trường định huớng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản
lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nuớc quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế
và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tính tích
cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường…

Mặc dù quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất đem lại cho ta những lợi ích, hiệu quả lớn trong sự phát triển kinh tế của đất
nước nhưng nếu áp dụng không đúng cách sẽ gây sai lầm. Chính vì vậy chúng ta cần
hiểu biết rõ quy luật để biết áp dụng một cách đúng đắn.

Trên đây là những hiểu biết của em về đề bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm tòi
kiến thức nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Mong thầy cô góp ý để bài làm
của em được hoàn chỉnh hơn.

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ổ NƯỚC TA HIỆN NAY:


Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của LLSX ở Việt Nam đã có những bước
tiến đáng kể. Hiện nay, cần ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất hiện đại để tạo đà cho
việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật tiên tiến, nhằm thực hiện mục tiêu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.

Thực trạng LLSX ở Việt Nam hiện nay , khoa học - công nghệ là một trong những
yếu tố đóng vai trò quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Những
thành tựu của khoa học, công nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu
sản xuất, trước hết là cải biến những công cụ lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp
và nông nghiệp. với xu thế toàn cầu hóa, sự chuyển giao và hội nhập quốc tế về khoa
học, công nghệ đã khiến nền kinh tế nước ta phát triển mạnh mẽ. Những công cụ lao
động giản đơn mang tính chất tiểu thủ công nghiệp đã được thay thế bằng những dây
chuyền máy móc thiết bị tối tân, hiện đại. Sức lao động của con người được giải
phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần
được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao. Những sự thay đổi lớn lao của
công cụ sản xuất đã làm cho năng suất lao động tăng vượt bậc, khối lượng sản phẩm
làm ra ngày càng nhiều và có chất lượng cao. Cũng nhờ sự phát triển của công cụ sản
xuất, nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch lớn mạnh về cơ cấu kinh tế. , tỉ trọng
đóng góp của các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh
hơn so với các ngành nông nghiệp . Từ một nước thuần nông, Việt Nam đã xây dựng
được nhiều nhà máy, xí nghiệp có những dây chuyền công nghệ tiến tiến; nhiều khu
chế xuất công nghệ cao. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia khác trên khu vực và trên
thế giới, là một nước đi sau nên nhìn chung nền sản xuất công nghiệp của Việt Nam
vẫn còn nhiều hạn chế, những ngành công nghiệp chế tạo chưa thực sự phát triển, mới
phát triển những ngành công nghiệp lắp ráp theo dây chuyền công nghệ của nước
ngoài, mức độ hiện đại hóa trong các ngành công nghiệp chưa đồng đều giữa các
ngành và giữa các địa phương trong cả nước, tính cạnh tranh của các mặt hàng sản
xuất công nghiệp nhìn chung còn thấp nên giá thành không cao, nhất là những ngành
vốn là thế mạnh của nước ta như dệt may, da giày, khoáng sản…

Theo Báo cáo chỉ số đổi mới toàn cầu năm 2014 của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO), chỉ số đổi mới công nghệ của Việt Nam đứng thứ 71/143 nước. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất còn nhiều
hạn chế. Trình độ cơ khí hóa, tự động hóa và tin học hóa của nhiều ngành kinh tế nhìn
chung còn nhiều hạn chế. Theo điều tra các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, chế tạo
năm 2015, khoảng 57% doanh nghiệp có công nghệ thấp, 31% doanh nghiệp có công
nghệ trung bình, 12% doanh nghiệp có công nghệ cao. Qua hơn 30 năm đổi mới, nền
công nghiệp Việt Nam vẫn chỉ dừng lại ở trình độ gia công.

Thực trạng đội ngũ người lao động trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam

Việt Nam có dân số trên 98 triệu người. Dân số phân bố không đều giữa các vùng
miền trong cả nước và có sự khác biệt lớn về trình độ theo vùng, cư dân nông thôn
chiếm khoảng 68% dân số, Việt Nam là nước có cơ cấu dân số trẻ, đang ở thời kỳ dân
số vàng. Với nguồn lao động trẻ dồi dào, Việt Nam đang có lợi thế lớn để phát triển
lực lượng sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại, thúc
đẩy nền kinh tế của đất nước. Nguồn lao động trẻ sẽ gặp nhiều thuận lợi trong việc
tiếp thu những tiến bộ của khoa học, công nghệ vào sản xuất; thích ứng và bắt nhịp
nhanh với quá trình sản xuất đòi hỏi công nghệ cao, áp lực lớn và thích ứng được việc
thay đổi nghề nghiệp, điều kiện làm việc theo yêu cầu của quá trình sản xuất. Sự tăng
lên không ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng
được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng những
thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại.

Một trong những đặc điểm nổi bật của con người Việt Nam trong lịch sử là sự cần cù,
linh hoạt, sáng tạo. Đó cũng chính là ưu điểm của người lao động nước ta hiện nay.
Nhờ đó, người lao động có năng lực trong việc sản xuất những mặt hàng đòi hỏi sự
khéo léo, tỉ mỉ, có độ tinh xảo cao. Do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong
những năm gần đây, ở Việt Nam có rất nhiều các công ty, nhà máy lớn được xây dựng
do các tập đoàn kinh tế lớn bỏ vốn như Sam Sung, Toyota, Deawoo... Các chủ đầu tư
của những công ty đó đã nhìn thấy ưu điểm nổi bật của nguồn lao động nước ta là sự
cần cù, chăm chỉ, khéo léo. Nhờ đó, cơ cấu lao động của Việt Nam đã có sự chuyển
biến theo hướng tích cực, giảm dần tỉ lệ lao động nông nghiệp, tăng lên đáng kể tỉ lệ
lao động công nghiệp, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm cho lao động ở
nông thôn, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.

Tuy nhiên, do nền kinh tế phát triển của Việt Nam chưa thực sự phát triển nên việc
đầu tư cho công tác y tế chăm sóc sức khỏe nhân dân nhìn chung còn thấp. Mức đầu
tư cho công tác y tế còn thấp cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến việc khám chữa bệnh và
công tác bảo hiểm y tế cho người lao động. Ngoài ra, vấn đề an toàn, vệ sinh lao động
cũng đang là một trong những yếu tố ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe, thể lực của
người lao động cả trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp ở nước ta hiện nay.

Một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của sự phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại là tỉ lệ những người lao động đã qua đào tạo, lao động tay có tay nghề, có
trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm đa số nhưng ở Việt Nam hiện nay, mặc dù đã tăng
lên đáng kể nhưng so với nhu cầu hiện tại của nền sản xuất, tỷ lệ đó còn khá thấp.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB) chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam chỉ đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), chỉ số Kinh tế Tri thức ( KEI) của nước ta còn
thấp lao động nông thôn chủ yếu chưa được đào tạo nghề, năng suất lao động thấp.
Đây là những thách thức lớn đối với nước ta trong quá trình phát triển lực lượng sản
xuất nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Sau hơn 30 năm đổi mới, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam đã có
nhiều thay đổi đáng kể như trình độ của tư liệu sản xuất, nhất là công cụ lao động
được cải tiến; khoa học - công nghệ được ứng dụng nhiều vào sản xuất; trình độ, kỹ
năng của người lao động không ngừng tăng lên nhưng so với yêu cầu của nền sản xuất
hiện đại, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Do đó, cần có những giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm phát triển lực lượng sản xuất
ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.

Liên hệ đến sinh viên làm thế nào để phát triển lực lượng sản xuất
Hiện nay kinh tế ở Việt Nam phát triển, đời sống nhân dân phát triển, nhưng vẫn chưa
có sự phù hợp giữa LLSX và QHSX, biểu hiện năng suất lao động của người lao
động nước ta chưa cao. Là sinh viên ,là thế hệ tương lai của Đất Nước, dưới cả một
hệ thống giáo dục đào tạo, sự đầu tư chăm lo của nhà nước, chúng ta phải biết tự phát
triển mình, chúng ta phải tích cực, sáng tạo và năng động hòa mình vào thế giới mới,
hòa mình vào thời kỳ 4.0. Hiện nay, nhiều bạn sinh viên có suy nghĩ ỷ nại,thụ động,
học cho ra trường học, học cho cái bằng, nhiều bạn đi làm thêm kiếm tiền thời gian
làm thêm còn nhiều hơn cả thời gian học trên trường, nhiều bạn chỉ muốn ăn chơi, tụ
tập, là chủ yếu học tập thứ yếu các bạn ấy là sai lầm , hoàn toàn sai lệch về tư tưởng
nhận thức, vì vậy chúng ta phải biết đâu là mục tiêu số một của mình, chúng ta là
người làm chủ tương lai của Đất nước, là sinh viên chúng ta phải tích cực sáng tạo để
hoàn thiện mình và sáng tạo, áp dụng công nghệ vào đời sống , quản lý đời sống thúc
đẩy Đất nước đi lên . Chúng ta thấy vừa rồi , anh Nguyễn Thành Chung phát triền ra
game làm khuynh đảo thế giới, anh ấy đã trở thành một tỷ phú đô la 30 tuổi ở Việt
Nam, đâu phải tự nhiên mà anh ấy làm được như thế, nhất là thời buổi dịch bệnh như
thế này, đằng sau sự thành công đó là cả 1 quá trình nổ lực tích cực sáng tạo, phát
triển bản thân , phát triển người lao động của anh ấy. Và dĩ nhiên chúng ta phải nhìn
nhận bản thân trong nền kinh tế toàn cầu, mỗi sinh viên tự phát triển cá nhân

Phát triển đảy mạnh tiến bộ công nghệ, áp dụng công nghệ vào đời sống, phát triển
công cụ lao động, phải triển thể lực trí tuệ

Vai trò người lao động và biện pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở việt nam
hiện nay

- Phân tích làm rõ quan điểm duy vật về: phương thức sản xuất ,LLSX, vai
trò của người lao động trong LLSX

- Liên hệ thực tiễn : thực trạng nguyên nhân và các giải pháp nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực hiện nay

- Liên hệ với trách nhiệm vản thân trong học tập để trở thanh người lao
động chất lượng cao, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay

Bằng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, làm sáng tỏ quan điểm người lao động là
yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất

sx= nld (chủ động) + (ccld + dtld)( bị động, phương tiện, điều kiện để người lao động
hoạt động thực tiễn)

_ Vận dụng: rèn luyện sức khỏe cơ bắp/ tinh thần, học tập tiếp thu kiến thức, ......

Lực lượng sản xuất (con ng vs tự nhiên): là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh
thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến thế giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn,
phát triển của con người.
Trong llsx có sự kết hợp của 2 yếu tố cơ bản là người lao động với tư liệu sản xuất để
tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn để làm biến đổi các đối tượng vật chất của
giới tự nhiên theo nhu cầu của con người. Chúng có quan hệ hữu cơ với nhau trong đó
yếu tố con người giữ vị trí hàng đầu, TLSX đóng vai trò rất quan trọng.
Người lao động được đề cập đến rất nhiều đến các khía cạnh khác nhau nói đến
những người lao độn hiện nay thì phải nói đến tri thức kinh nghiệm nói đến kỹ năng
kỹ sảo nói đến năng lực sáng tạo nhất định trong quá trình sản xuất vật chất. Với tư
cách là một bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất người lao động là những người có
khả năng lao động, họ có cả sức mạnh về cơ bắp và sức mạnh trí tuệ, chính vì vậy
Mác đã gọi cụ thể là họ có đầu óc và đôi bàn tay, ngoài ra người lao động cũng phải có
kinh nghiệm những kỹ năng kỹ sảo trong lao động, điều đó cho thấy người lao động
không phải là con người nói chung, không phải con người nào có sức mạnh thể chất
và tinh thần cũng được coi là người lao động, chỉ có những người nao dùng sức mạnh
thể chất và tinh thần của mình tham gia vào quá trình sản xuất vật chất nhằm tạo ra
của cải vật chất mới được coi là người tạo ra của cải lao động với tư cách là yêu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất. Mác đã khẳng định hoạt động sản xuất chính là một
trong những hoạt động chỉ có ở con người nó khác hẳn về chất so với hoạt động bản
năng ở loài vật. Ông khẳng định con nhện làm những động tác giống như động tác của
người thợ dệt và bằng việt xây dựng những ngăn tổ sáp của mình con ong phải làm
một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn nhưng điều ngay từ đâu đầu phân biệt nhà kiến trúc
tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng những ngăn tổ ong bằng sáp, nhà
kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu mình rồi. Cuối quá trình lao động, người lao
động thu được kết quả mà họ đã hình dung ngay từ đầu quá trình ấy.
Trong những năm qua những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã
và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất như làmcải tiến
công cụ lao động tạo ra những đối tượng lao động mới có tính bền vững thân thiện với
môi trường sinh thái, nhiều người cho rằng khoa học công nghệ đang dần thay thế
quyết định của con người lao động trong quá trình sản xuất vật chất , ngày nay người
ta dùng thuật ngữ như trí tuệ nhân tạo, máy thông minh để chỉ sự phát triển không
ngừng của nền khoa học công nghệ hiện đại. Trong nền sản xuất hiện đại , công nghệ
thông tin là một trong những ngày đã thâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực của sản xuất
và trong đời sống con người . Trước đây, trong điều kiện sản xuất thủ công sức lực của
người lao động được sử dụng 1 cách tối đa trong quá trình sản xuất, trong điều kiện
sản xuất công nghiệp cơ khí máy móc đã thay thế cho sức lực con người ở một số
khâu, một số công đoạn của quá trình sản xuất nhưng chủ yếu ở những công đoạn sản
xuất thủ công theo dây truyền . Vì vậy trong các nhà máy xí nghiệp lớn vẫn cần đến
hàng vạn công nhân , ngày nay việc áp dụng các dây truyền sản xuất tự động làm số
lượng công nhân ngày càng giảm , máy móc đã thay thế không chỉ những công việc
nặng nhọc mà còn có thể thay thế hoạt động tinh vi, phức tạp của con người, vi vậy
nhiều người cho rằng dười tác động của cuộc cách mạng khoa học 4.0, vai trò của
người lao động đang bị lu mờ đáng kể không còn đóng vai trò là nhân tố quyết đinh
quan trọng nhất của lực lượng sản xuất như trước kia nữa, mà máy móc khoa học công
nghệ mới chính là yếu tố đóng vai trò quyết đinh. Nhưng điều này không có nghĩa là
khoa học công nghệ hiện đại trở thành yếu tố quyết đính sự phát triển lực lượng sản
xuất từ đó người lao động trở thành yếu tố thứ yếu của lực lượng sản xuất, thực chất
khoa học công nghệ là sản phẩm của quá trình nhận thức, là sản phẩm sự phát triển trí
tuệ của con người, do yêu câu của sản xuất mà con người đã sáng tạo quyết định
khuynh hướng tốc độ phát triển khoa học công nghệ ,đồng thời quyết định áp dụng
khoa học công nghệ vào sản xuất theo mục địch của mình. Do đó, dù khoa học công
nghệ tạo sự cách mạng vĩ đại trong LLSX nhưng bản thân nó không thể trở thành yếu
tố độc lập đối với sự phát triển của LLSX,cho nên trong các yêu tố của LLSX người ta
chỉ đề cập đến 2 yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất, khoa được thâm nhập
vào mọi yếu tố lực lượng sản xuất nó thể hiện ở trình độ của tư liệu sản xuất , trình độ
của tư liệu lao đông, trình độ công cụ lao động, nó thâm nhập vào người lao động thể
hiện ở trình độ kỹ năng và năng lực sáng tạo của người lao động trong quá trình sản
xuất. Thực tế cho thấy kỹ thuật công nghệ hiện đại với tư cách là phần vật chất trong
các yếu tố cấu thành LLSX dù năng động, cách mạng đến mấy cũng chỉ là sản phẩn
do bàn tay và khối óc con người tạo ra, và chịu sự điều khiển giám sát con người, do
đó dù chí tuệ nhân tạo tiên tiến đến đâu cũng chỉ là sản phẩm con người , hoạt động
của nó phụ thuộc vào chương trình mà con người đã lập ra, đã cài đặt vào máy tính
điện tử và người máy công nghiệp. Vì vậy, khoa học công nghề là vì con người gắn
liền với con người, nó phụ thuộc vào con người, phải thông qua hoạt động con người
mới có thể được vật hóa trong quá trình sản xuất, nếu không xuất phát từ con người,
không phục vụ con người không có quá trình sản xuất nào tồn tại và phát triền. Vì vậy
trong bất kỳ thời địa nào người lao động luôn là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát
triển của LLSX, họ vẫn là chủ thể của quá trình sản xuất hiện tại, là chủ thể gắn kết
các yếu tố lực lượng sản xuất lại với nhau. Song thực tế cho thấy để giữ được vai trò
quan trọng nhất, quyêt định nhất trong LLSX , trong cuộc cách mạng 4.0 hiện nay, con
người phải có tri thức, trí tuệ nổi trội hơn so với người lao động trong các thời đại lich
sử trước đây. Ngày nay tri thức trí tuệ của người lao đông không chỉ áp dụng các loại
máy móc mà con chế tạo ra các lọa máy móc mới với công nghệ hiện đại theo yêu cầu
ngày càng cao của sản xuât, không ngừng thay đổi mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu
đa dạng của thị trường, tạo ra những đối tượng lao động mới có tính bền vững và thân
thiện với môi trường sinh thái,.. Những yêu tổ tri thức của người lao động hiện nay
được kết tinh trong sản phẩm hàng hóa, làm cho các sản phẩm đó có hàm lượng trí tuệ
cao có giá trị gia tăng lớn và người tính toán rằng trong các sản phẩm công nghệ hiện
nay thì yếu tố trí tuê tri thức kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn nó chiểm khoảng
70-80% hàng hóa dịch vụ đó, chỉ khoảng 15%-20% yếu tố thuộc về lao động cơ
bắp,…Mặc khác người lao động sản xuất hiện đại phải có khả năng thích ứng nhanh
với những biến đổi của điều kiện sản xuất vật chất hiện đại, thích ứng là sự biến đổi
của chủ thể để phù hợp với điều kiện mới, môi trường mới.
Như vậy trong sự phát triển của LLSX hiện đại, yếu tô tri thức của người lao động trở
thành yếu tố chủ yếu là đầu vào quan trong của lực lượng sản xuất, tri thức của người
lao động không bị hao mòn bị tổn thát khi sử dụng khi chuyển giao tri thức cho người
khác người sở hữu tri thức không bị mất đi tri thức của mình, khi tri thức được chuyển
giao cho nhiều người thì vốn tri thức được nhân lên gấp bội với chi phí không đáng
kể, việc tiếp nhận vốn tri thức không dễ dàng như việc tiếp nhận vồn tiền tề vì việc
tiếp nhân vốn tri thức phải thông qua giáo dục và đào tạo. Bởi vậy trong nền sản xuất
hiện đại, GD và ĐT có vai trò quan trọng là sản xuất vốn tri thức, vì lẽ đó người lao
động không phải là người sản xuất đơn thuần mà là người có tri thức sâu rộng, họ thực
sự làm chủ quá trình sản xuất hợp tácvới nhau trong quá trình tạo ra và phân phối của
cải vật chất. Để phát triển LLSX hiện đại ngoài việc ứng dụng thành tựu khoa học vào
việc cải tiến tư liệu sản xuất, cần phải phát triển về trình độ tri thức tay nghề tác
phong công nghiệp cho người lao động. Thực tế trong nền sản xuất hiện đại đã chứng
minh rằng có những côn gty có những doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ hiện đại ,
nhưng yếu tốc con người không được nâng cao về trình độ kỹ năng, tay nghề, năng
lực sáng tạo, không nâng cao dược tác phong công nghiệp thì không phát huy được
trong quá trình sản xuất.BỞi vì người lao đọng dù thế nào đi chăng nữa cũng là yếu tố
chủ thể của quá trình sản xuất cho nên người sản xuất là sự thống nhất giữa 2 mặt đó
là người lao động và tư liệu sản xuất, hai yếu tố này có mối quan hệ biện chứng tác
động qua lại lấn nhau

Trong giai đoạn hiện nay khoa học đã trở thành llsx trực tiếp. Khoa học sản xuất ra
của cải đặc biệt hàng hóa đặc biệt. Kích thích sự phát triển làm chủ năng lực sx của
con ng. Kịp thời giải quyết những mâu thuẫn, yêu cầu SX đặt ra.

Khái niệm phương thức sản xuất? Tại sao nói phương thức sản xuất là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của xã hội?
Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ nhất định với tự
nhiên và với nhau trong sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch
sử phát triển của sản xuất, lịch sử vận động của các phương thức sản xuất lần lượt
thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao động trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã hội loài người,
trước hết phải hiểu lịch sử phát triển của sản xuất, hiểu quá trình sản xuất của con
người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận động và phát triển theo quy luật
đặc thù của nó. Tuy nhiên, giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra sự trao đổi
vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động sản xuất của con
người. Như vậy, nếu tách lịch sử xã hội loài người với lịch sử phát triển của sản xuất
vật chất thì sẽ không thể nào hiểu được loài người phải trải qua những hình thái kinh
tế-xã hội từ thấp lên cao.
Sản xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là động lực cơ bản thúc đẩy lịch sử phát
triển, xã hội tiến lên. Đó là điều kiện quyết định của đời sống con người, là yêu cầu tất
yếu khách quan đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội không thể thỏa mãn nhu cầu
của mình bằng cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống của mình, con
người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất. Vì thế, sản xuất của cải vật chất là một
điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà loài người phải duy trì
từ xưa đến nay.
Xã hội là một hệ thống và trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, tính chất và kết cấu
xã hội không phải do nguyện vọng và ý chí của cá nhân, tập đoàn, cũng không do hình
thức nhà nước pháp quyền quy định mà do phương thức sản xuất quyết định. Phương
thức sản xuất thống trị trong mỗi xã hội quyết định tính chất của chế độ xã hội; các
giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ giữa các giai cấp, cũng như
các quan điểm về chính trị pháp quyền, đạo đức, triết học…
Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có phương thức sản xuất đặc thù của nó. Và sự thay thế
của các phương thức sản xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay thế của các hình
thái kinh tế-xã hội nối tiếp nhau. Điều này chứng tỏ, phương thức sản xuất giữ vai trò
quyết định trong sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử khác
nhau. Mỗi khi phương thức sản xuất mới ra đời, giai cấp mới lên cầm quyền, kết cấu
kinh tế xã hội thay đổi thì những quan hệ xã hội về mặt chính trị, pháp quyền, tư
tưởng, đạo đức,.. cũng biến đổi theo.
Với ý nghĩa nói trên mà C.Mác đã nhấn mạnh: “Do có được những lực lượng sản xuất
mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức
sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội
của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy
bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.380).
Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các phương
thức sản xuất vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao. Theo anh chị cần
làm gì để trở thành một người lao động giỏi, làm giàu cho bản thân , gia đình ,đóng
góp cho xã hội?

Người lao động triết học người ta nhần mạnh đến nhiều tiêu chí trình độ , tri thức ,
kinh nghiệm, kỹ năng lao động, và đặc trong điều kiều cách mạng công nghệ 4.0 nền
kinh tế tri thức đang được hành động phải cso năng lực sáng tạo. Một số vấn đề nữa là
phẩm chất trình độ, đạo đức nghề nghiệp, ý thức tổ chức, tính kỹ luật,…đồng thời đã
là người lao động Việt Nam phải tuân theo đường lỗi chủ trương của đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước. người lao động chính là yếu tố quyết định nhất quan trọng
nhất trong lực lượng sản xuất. Liên hệ đến Việt Nam, ng lao động vn như thế nào, bao
nhiều phần trăm lao động đã qua đào tạo ( gần 80 % ll lao động chưa qua đào tạo) sản
xuất kinh doanh chỉ dựa vào kinh nghiệm trong lĩnh vực nông thôn, người nông dân
đã qua đào tạo rất thấp, có câu rất hay “ kinh nghiệm kết thúc ở đâu lý luận phải bắt
đầu ở đó”. Tại sao chúng ta thất bại nhiều lân, cứ được mùa sẽ mất giá, tính tự phát
tcuar người nông dân quá lớn, tổ chức thực hiện rất hạn chế, hiểu biết ng nông dân về
thị trường cong nhiều hạn chế. Là sinh iên chúng ta nên đáp ứng được nhà nước đang
cần j, nhà nucows cần cái j, cơ quan đoàn thể cần cái gì, xu thể phát triển thế giới việt
nam, chuẩn bị hành trang cho mình để có cơ hội phát triển , chúng ta bổ sung vào đội
ngủ thất nghiêm,hoặc làm ngành nghề không xứng đáng với với những gì được đạo
tạo ở đại học. Xã hội này , có người làm không hết việc, có người thì không có việc để
làm, cho nên thực chất bây giờ xã hội thừa ai, thauwf những người như thế nào, đất
nước này còn thiếu rất nhiều những chủ doanh nghiệp giởi, có tinh thần dân tộc,
chúng ta là đội ngũ tương lai

Trong thời cách mang 4.0 hiện nay, sinh viên là chúng ta là những người có yếu tố
cực kỳ quan trong đối với Đất Nước trong
Thực tại, công việc rất nhiều, nhưng tại sao vẫn có người thất nghiệp tại sao
những nhà quản trị kinh doanh, những già giáo dục bị thất nghiệp nhieeif, vì đất nước
cần những con người giỏi, biết theo đuổi đam mê sáng tạo

Cố gặng học tập, chuẩn bị mọi mặt từ kinh nghiêm, tư duy sáng, tạo ,…

TÌm hiểu xem những người chủ doanh nghiệp cần gì , đất nước làm gì

Bổ sung kiến thức chuyên ngành ngành, nâng cao nhận thức, bổ ung kiến thức
đời sống, như kỹ năng tiến anh, đó là yêu cầu bắt buộc với kỹ sư thê giới

Liên hệ với cải tiến công cụ lao động trong sản xuất ở việt nam hiện nay

Câu 7: Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

a.Định nghĩa giai cấp

V.I Lênin đã định nghĩa: “Giai cấp là những tập đoàn người, mà tập đoàn này thì có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ tập đoàn đó có địa vì khác nhau
trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định”. Muốn hiểu được định nghĩa này ta dựa
vào quan hệ sản xuất mà quan hệ sản xuất có 3 quan hệ là quan hệ sở hữu quan hệ tổ
chức quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm
Những dấu hiệu phân biệt tập đoàn người trong xã hội

+ Khác nhau về QH của họ đối với việc sở hữu những TLSX của XH

+ Khác nhau về vai trò địa vị của họ trong tổ chức lao động quản lý sản xuất do sự
khác biệt về quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất

+ Khác nhau về cách thức và quy mô hưởng thụ phần của cải xã hội kết quả cảu quá
trình sx

- Các đặc trưng cơ bản của giai cấp:

+ Những tập đoàn người có địa vị KT -XH khác nhau về vị trí, vai trò trong hệ thống
sản xuất xã hội nhất định.

+ Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị KT – XH của GC là các mqh kinh tế - vật chất
giữa các tập đoàn người trong PTSX

+ Thực chất của quan hệ giai cấp là quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, là tập đoàn
người này chiếm đoạt lao động của tập đoàn người khác do đối lập về địa vị trong một
chế độ kinh tế - xã hội nhất định.

+ Giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội có tính lịch sử.

- Nguồn gốc giai cấp (dựa trên tính tất yếu và gắn với giai đoạn lịch sử nhất
định)
+ Nguyên nhân sâu xa của sự xuất hiện giai cấp chính là do sự phát triển của lực
lượng sản xuất (nguyên nhân của mọi nguyên nhân) làm cho năng suất lao động
tăng lên, nảy sinh của cải dư thừa, tạo khả năng khách quan, tiền đề cho tập đoàn
người này chiếm đoạt lao động của người khác mà tiêu biểu là những người có địa vị
như tù trưởng thủ lĩnh quân sự nảy sinh lòng tham biến những của chung còn dư thừa
ấy thành của riêng, xã hội sẽ phân chia thành kẻ giàu người nghèo, và xã hội tiếp tục
phân tầng tiếp dẫn đến sự phân chia thành càng tầng lớp giai cấp khác nhau.

+ Nguyên nhân trực tiếp đưa tới sự ra đời của giai cấp là xã hội. Xuất hiện chế độ
chiếm hữ tư nhân về tư liệu sản xuất, dẫn đến sự khác nhau, sự phân biệt về địa vị
giữa các tập đoàn người trong xã hội và dẫn đến khả năng là tập đoàn này có thể
chiếm đoạt thặng dư hay là bóc lột sức lao động của tập đoàn khác, và chừng nảo, ở
đâu còn tôn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất thì ở đó còn có sự tôn tại của các giai
cấp và đấu tranh giai cấp. Như vậy giai cấp không xuất hiện cùng sự xuất hiện của con
người bởi vì chỉ khi xuất hiện chế độ tư hữu, nói chính xác là xuất hiện chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất thì mới dẫn đến sự ra đời của giai cấp, rõ ràng trươc
đó xã hội làm gì có chiếm hữu tư nhân , làm gì có xã hội phân chia thành giai cấp,
không có áp bức bóc lột ví dụ như xã hội cộng sản nguyên thủy, tư liệu sản xuất lúc
bây giờ là của chung , tất cả mọi người đều bình đẳng không có áp bức, bóc lột, bất
công. Giai cấp là một phạm trù lịch sử, nó ra đời khi chế đô chiểm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất xuất hiện.

+ Con đường hình thành giai cấp rất phức tạp: Những người có chức, có quyền lợi
dụng quyền lực để chiếm đoạt tài sản công làm của riêng; tù binh bắt được trong chiến
tranh được sử dụng làm nô lệ đề sản xuất; các tầng lớp xã hội tự do trao đổi, bị phân
hoá thành các giai cấp khác nhau...
+ Điểu kiện gớp phần đây nhanh quá trình phân hoá giai cấp là các cuộc chiến
tranh, những thủ đoạn cướp bóc, những hành vị bạo lực trong xã hội. Xã hội cộng sản
nguyên thủy tan rã, xã hội chiếm hữu nô lệ là xã bội có giai cấp đầu tiên tong lịch sử
ra đời, xuất hiện khoảng 3 - 5 nghìn năm trước.

- Kết cấu xã hội – giai cấp: là tổng thể các giai cấp và mỗi quan hệ giữa các giai cấp,
tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

- Trong một kết cấu xã hội - giai cấp bao giờ cũng gồm có hai giai cấp cơ bản và
những giai cấp không cơ bản, hoặc các tầng lớp xã hội trung gian.

+ Giai cấp cơ bản là giai cấp gắn với phương thức sản xuất thống trị, là sản phẩm
của những phương thức sản xuất thống trị nhất định.

+ Những giai cấp không cơ bản là những giai cấp gắn với phương thức sản xuất tàn
dư, hoặc mầm mống trong xã hội.

+ Tầng lớp trung gian không có địa vị KT – XH độc lập

=> Kết cấu xã hội - giai cấp luôn có sự vận động và biến đổi không ngừng.
b. Đấu tranh giai cấp

Đ/n theo V.I Lênin: “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của bộ phận nhân dân này chống
một bộ phận khác, đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động,
chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của những
người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay
giai cấp tư sản”.
Đấu tranh giai cấp là một tất yếu khách quan do sự đối lập về lợi ích căn bản không
thể điều hòa giữa các giai giai cấp vd giai cấp nô lệ với chủ nô, giải công nông dân với
giai cấp địa chủ, giai cấp vô sản với giai cấp tư sản trong các xã hội có đối kháng giai
cấp,
- Tính tất yếu và thực chất của đấu tranh giai cấp
+ Sự đối lập về lợi ích căn bản không thể điều hoà được giữa các giai cấp.
+ Cuộc đấu tranh của các tập đoàn người to lớn có lợi ích căn bản đối lập nhau
trong một phương thức sản xuất xã hội nhất định.
+ Thưc chất của cuộc đấu tranh của quận chúng lao động bị áp bức, bóc lội chống
lại giai cấp áp bức, bóc lột nhằm li đô ách thông trị của các thế lực áp bức bóc lột
năm trong tay các tư liệu chủ yếu của xã hội.
+ Trong đấu tranh giai cấp, liên minh giai cấp là tất yếu

- Vai trò của đấu tranh giai cấp trong sự phải triển của xã hội.

Trong xã hội có giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực quan trọng, trực tiếp của lịch
sử , là động lực thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội, vì:
Thực chất đấu tranh giai cấp trong xã hội là mâu thuẫn giữa llsx tiên tiến với qhsx lỗi
thời. Biển hiện ở chính trị xã hội là giai cấp bị áp bức bóc lột đại diện cho llsx tiên tiến
với QHSX lỗi thời với người đại diện chính là giai cấp thống trị, cho nên nó đấu tranh
với nhau.
Sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất phát triển sẽ mâu thuẫn với quan hệ
sản xuất lỗi thời, lạc hậu.

=> Mâu thuẫn giữa llsx và qhsx biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp, để xóa bỏ qhsx
cũ, thay thế qhsx mới thông qua CMXH để chuyển sang hình thái kt – xh tiến bộ hơn.

c. Đấu tranh giai cấp của GCVS

Khi chưa có chính quyền, trong lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến những cuộc đấu tranh của
gc vô sản chống lại tư sản là cuộc đấu tranh gia cấp cuối cùng trong lịch sử.

Đấu tranh của gcvs chia làm 2 gđ:

- GĐ trc khi giành chính quyền: C.Mác và Ăngghen đã khái quát và chỉ ra ba hình
thức cơ bản của đấu tranh. Đó là đấu tranh kte, ctri và tư tưởng.

+ Đấu tranh kte: là một trong những hình thức cơ bản của gcvs, mục đích là bảo vệ
những lợi ích của họ
+ Đấu tranh ctri: là hình thức đấu tranh cao nhất của gcvs, mục đích là đánh đổ ách
thống trị.

+ Đấu tranh tư tưởng: mục đích là đập tan hệ tư tưởng của gcts, khắc phục tâm lý,
tập quán lạc hậu, vũ trang cho họ tư tưởng cách mạng và KH, đó là chủ nghĩa Mác –
Lênin

Ba hình thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau bổ sung cho nhau, tác động qua lại lẫn
nhau.

- GĐ sau khi giành chính quyền:

+Đấu tranh gc trong thời kỳ quá độ từ tbcn lên xhcn

+ Do đặc điểm của thời kì quá độ lên CNXH chi phối nên đấu tranh gc là tất yếu.

+ Đấu tranh gc trong điều kiện mới với những thuận lợi cơ bản và khó khăn, thách
thức đặt ra

+ Nội dung của đấu tranh giai cấp là cnxh và cntb


+ Hình thức của đấu tranh gc là kết hợp các hình thức đa dạng phong phú, đồng thời
sử dụng các nhiệm vụ cụ thể của sự nghiệp CM.

*Đặc điểm đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay.

Đặc điểm: Đấu tranh giai cấp là tất yếu, khách quan trong mọi xã hội có giai cấp sẽ
là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội Việt Nam không còn đấu tranh giai cấp không còn
mấu thuẫn giai cấp, việc nhận thức đúng đâu tranh giai cấp ở Việt Nam giúp chúng ta
xử lý một cách khoa học mối quan hệ xã hội giai cấp và đưa công cuộc đổi mới đi
đến thằng lợi.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là quả độ gián tiếp từ một xã hội thuộc địa,
nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp, tiến lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩ
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay, những tàn dư về tư
tưởng, tâm lý và tập quán lạc hậu của giai cấp phong kiến, tư sản, của chủ nghĩa thực
dân cũ, chủ nghĩa thực dân mới...còn tồn tại. Tất cả những yếu tổ và tàn dư lạc hậu đó
không tự động mất đi, mà chỉ có thể thông qua cuộc đầu tranh giai câp mới loại bỏ
được nó.

Điều kiện:

Thuận lợi Giai cấp công nhân Việt Nam trở thành giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng và có sự phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Trong bối cảnh quốc
tế phức tạp, song vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được giữ vững và tăng
cường.

Khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen nhau. Tình hình hiện nay cho thấy, các thể
lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ,
sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở
Việt Nam cùng với sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới

Nội dụng:
Nội dung chủ yếu đấu tranh giai cấp ở việt nam hiện nay là thực hiện thắng lợi
sự nghiêp công nghiệp hóa hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa khắc phục
tình trạng nước nghèo kém phát triển, chống áp bức bất công , đấu tranh ngăn chặn và
khắc phục hành động tư tưởng tiêu cực sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu là
hành động chống phá của các thế lực thù địch
Cuộc đáu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay diễn ra trong tình hình, diễn biến
phức tạp nhanh chóng có xu hướng khó lường của thế giới nhất là sau khi sự khủng
hoảng của các nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện và dẫn đến sự tan rã, sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, sự phục hồi về 1 số mặt trong kinh tế nhiều nước
tư bản chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch chống phá chủ nghĩa xã
hội với quy mô toàn diện tinh vi, đặc biệt sử dụng chiến lược diễn biến hòa bình
chống phá trên tất cả các lĩnh từ kinh tế chính trị văn hóa và tư tưởng.
Ở trong nước thì đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế
thị trường, giai cấp công nhân ra đời trước giai cấp tư sản, sớm xác định được vai trò
lãnh đạo của mình, phần lớn giai cấp công nhân xuất thân từ giai cấp nông dân, đó
chính là cơ sở để liên kết khối liên minh công nông mang tính tự nhiên bền vững, đó
chính là khối đại đoàn kết giúp cho các cuộc đấu tranh xóa bỏ ách áp bức bóc lột,
đóng góp cho công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Tri thức và giai cấp công nông
là lực lượng cơ bản mọi cuộc cách mạng ở VN, lực lượng chống đối cách mạng là thế
lực thù địch phản động trong và ngoài nước, chúng hoạt động ngấm ngầm chuẩn bị
lực lượng chờ thời cơ, đòi hỏi chúng ta phải luôn cảnh giác với cách mạng nước ta.
Đấu tranh trên cả 3 lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa.Thực chất cuộc đấu
tranh giai cấp ở nước ta hiện này là cuộc đấu tranh chống khuynh hướng tự phát tư
bản chủ nghĩa và các thế lực thù địch chống lại độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
đấu tranh giữa 2 con đường XHCN và TBCN gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống nghèo nàn lạc hậu, khắc phục tình trạng
nước nghèo kém phát triển, đánh tranh ngăn chặn những tư tưởng hành đọng tiêu cực
sai trái .
Thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng một xã
hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn mỉnh. Xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay, là thực hiện thắng
lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc
phục tình trạng nước kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai
trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thể lực thù
địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

Hình thức:
Đa dạng, phong phú và đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp và kết hợp các hình thức, biện
pháp linh hoạt: bằng hành chính và giáo dục; giữa cải tạo và xây dựng; sử dụng các
hình thức kinh tế trung gian, quá độ; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; mở cửa và hội nhập, để tranh thủ các vận hội, thời cơ xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội; kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh
quốc phòng và an ninh...

Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, được diễn ra trong điều kiện mới, với nội dung và hình thức mới với tính chất
phúc tạp, khó khăn và lâu dài.

Tính tất yếu cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam

Chúng ta biết rằng các thế lực thù địch thì vẫn luôn tìm cách chống phá cách mạng,
chống phá những thành tựu mà đảng và nhân dân ta đã dành được, chúng ta vần phải
từng bước khắc phụ tư tưởng, tâm lý, văn hóa,thói quen lạc hậu của xã hội cũ còn in
đậm trong đời sống tinhf thần xã hội mới, Đất nước ta cần phải chủ động phát triển về
kinh tế đặc biệt phải thứcj hiện thành công việc phát triển nền kinh tế thị trường định
huớng xã hội chủ nghĩa vì vậy luôn tồn tại những điều kiện có xu hướng tự phát đi
lên tư bản chủ nghĩa, nghĩa là cuộc đấu tranh giai cấp vẫn diễn ta trên cả ba lĩnh vực
kinh tế chính trị và văn hóa tư tưởng, như vậy cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện
nay vẫn là một tất yếu khách quan nhưng trong điều kiện quốc tế phức tạp như hiện
nay chúng phải nang cao tinh thần cách mạng , cảnh giác với chiến lược diễn biến hòa
bình, bạo loạn lật đổ, nhưng chúng ta phải đấu tranh một cách mềm dẻo, linh hoạt
trong sách lược đấu tranh , tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước, phát huy sức
mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, từng bước xây dựng thành công nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tốc giữ vững đọc lập dân tộc toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền
quốc gia, đặc biệt trong điều kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.
những cuộc cách mạng màu sắc diễn ra ở nhiều nước làm cho tình hình chính trị xã
hội thế giới biến đổi , chúng ta phải kiên định con đường Bác Hồ, Đảng và nhân dân
ta đã lựa chọn đó là độc lập dân tốc phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội và chính kiên
định với con đường đó mà đã đưa nước ta ra khỏi thời kỳ khủng hoàng trầm trọng về
kinh tế xã hội và những đường lối đúng đắn do đảng cộng sản Việt Nam đặt ra và thực
hiện và chúng ta đã ra khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển đặc biệt trong điều
kiện hiện nay trong tình hình thế giới, đấu tranh giai cấp dân tộc, mâu thuẫn sắc tộc,
tôn giáo vẫn diễn ra gay gắt, thì Việt Nam vẫn được thế giới đánh là một trong những
nước có nền chính trị ổn định trong khu vực châu á thái bình dương

Đấu tranh giai cấp là gì? Phân tích vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển
của xã hội có giai cấp đối kháng.
1. Đấu tranh giai cấp là gì?
Học thuyết Mác đã chỉ rõ: “ Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa những tập đoàn mà
lợi ích căn bản đối lập nhau và kết cục của cuộc đấu tranh giai cấp là đi đến một cuộc
cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội khác tiến bộ
hơn”.
Hiểu vắn tắt: đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích căn bản
đối lập nhau (lợi ích căn bản nói ở đây là lợi ích kinh tế, lợi ích cơ bản là quyền lực
chính trị).
Như vậy, nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp là do sự đối lập nhau về địa vị kinh
tế và mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa các giai cấp mà sinh ra.
Đấu tranh giai cấp không phải là do “sự hiểu lẩm”, “sự không hiểu biết lẫn nhau giữa
các giai cấp”; “do chính sách không khôn khéo của nhà cầm quyền trong xã hội”, hoặc
do “sự xúi dục của những phần tử ác ý”,.. như quan niệm của các nhà tư tưởng của các
giai cấp bóc lột thường nêu ra để che đậy nguyên nhân của đấu tranh giai cấp.
Cũng cần thấy thêm rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh của cá nhân
trong giai cấp này chống cá nhân trong giai cấp khác mới chỉ là mầm mống của đấu
tranh giai cấp chứ chưa quan niệm đó là đấu tranh giai cấp. Chỉ thực sự là đấu tranh
giai cấp khi những cá nhân đó nhận thức một cách tự giác, thông qua những hoạt động
có ý thức, có tổ chức của mình nhằm góp phần lật đổ giai cấp thống trị bảo vệ lợi ích
của giai cấp mình. Chẳng hạn, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, đấu tranh của một người
công nhân chỉ trở thành đấu tranh giai cấp khi nó nằm trong cuộc đấu tranh chung của
toàn bộ giai cấp công nhân, chống lại toàn bộ giai cấp tư sản, nhằm lật đổ nền thống
trị của giai cấp tư sản.
2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối
kháng.
Trong các xã hội có giai cấp đối kháng (chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ
nghĩa) thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Vai trò là động lực thể hiện ở những điểm sau đây:
- Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với
quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ được giải quyết, từ đó thực hiện bước quá độ từ một chế
độ xã hội lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn.
Như đã biết: sự phát triển của xã hội xét đến cùng là do sự phát triển của lực lượng
sản xuất quyết định. Nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất lại phụ thuộc vào việc
lực lượng sản xuất mới có gạt bỏ được những quan hệ lỗi thời đang kìm hãm nó hay
không. Nếu như không gạt bỏ được quan hệ sản xuất lỗi thời thì chứa đựng mâu thuẫn
gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời đang kìm hãm nó.
Mà mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời, biểu hiện
về mặt xã hội chính là mâu thuẫn giữa giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất mới và
giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời. Mâu thuẫn đó chỉ có thể được giải
quyết bằng một cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là một cuộc cách mạng xã hội
nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, xác lập quan hệ sản xuất mới tiến bộ, từ đó làm
cho xã hội phát triển đi lên. Do vậy mà nói, đấu tranh giai cấp là động lực phát triển
của xã hội có giai cấp đối kháng.
- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng không chỉ
thể hiện trong thời kỳ cách mạng xã hội mà còn thể hiện trong cả thời kỳ hòa bình.
Trong thời kỳ hòa bình, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp tư
sản tăng lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động đã buộc các chủ tư sản phải chú ý
sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao động, qua đó để rút ngắn
thời gian lao động cần thiết cho công nhân, khi phong trào đấu tranh của công nhân
đang đòi hỏi phải giảm bớt thời gian lao động. Các Mác có nhận xét rằng: ở nước Anh
kể từ năm 1825 sự phát sinh và sử dụng máy móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh
giữa công nhân và chủ các xí nghiệp. Hoặc những cải cách tiến bộ ở một số nước nào
đó cũng là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp ở trong nước và áp lực của đấu tranh
giai cấp ở các nước khác trên thế giới tạo ra. Như thế chứng tỏ trong thời kỳ hòa bình,
đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà
sự phát triển của lực lượng sản xuất lại là nguyên nhân sâu xa của sự phát triển xã hội.
- Đấu tranh giai cấp không chỉ có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực lượng xã hội
phản động mà còn có tác dụng cải tạo cả bản thân các giai cấp cách mạng. Vì qua đấu
tranh giai cấp, các giai cấp cách mạng được tôi luyện và trưởng thành lên về nhiều
mặt như tư tưởng, lý luận, tổ chức,.. để đương đầu và chiến thắng giai cấp đối kháng.
Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai
cấp đối kháng. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung, phổ biến của mọi xã hội có phân
chia giai cấp. Song quy luật này lại có những biểu hiện đặc thù trong từng xã hội cụ
thể do kết cấu giai cấp trong xã hội, do địa vị lịch sử của giai cấp cách mạng trong
từng phương thức sản xuất, do tương quan lực lượng giai cấp trong từng giai đoạn và
trên từng địa bàn quyết định. Do vậy, muốn hiểu đúng quy luật đấu tranh giai cấp còn
phải phân tích cụ thể những điều kiện lịch sử cụ thể.

Câu 8: Khái niệm, bản chất, vai trò của con người. Vấn đề con người ở Việt Nam
hiện nay.

a. Con người là thực thể sinh học - xã hội

Con người là thực thể sinh học xã hội, là chỉnh thể thống nhất giữa mặt sinh học xã
hội. Con người là một sinh vật có tính xã hội vừa là sản phẩm cao nhất trong quá trình
tiến hóa tự nhiên và lịch sử xã hội, vừa là chủ thể sáng tạo mọi thành tựu văn hóa trên
trái đất.Con người khác với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những
tư liệu sinh hoạt của mình.

- Về phương diện sinh học

+ Con người là một thực thể sinh vật vì phát triển đến đâu cũng là động vật và con
người chính là một bộ phận của tự nhiên. Bản thân sự kiện con người tự loaì động vật
mà ra đã quyết định con người không bao giờ hoàn toàn thoát ly khỏi những đặc tính
vốn có của con vật
+ Con người tiến hóa từ tự nhiên và chịu tác động của các quy luật khách quan trong
tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên, giới tự nhiên là thân thể vô cơ của
con người, đời sống thể xác và đời sống tinh thần của con người gắn liền với giới tự
nhiên nhưng con người khác với động vật vì con người còn là một thực thể xã hội.

+ Con người bị quyết định bởi các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học,
đồng hóa - dị hóa, sinh, lão, bệnh, tử,...

+ Con người mang bản năng tính.


- Về phương diện xã hội:

+ Con người còn là một thực thể xã hội vì con người cần tham gia vào các hoạt động
xã hội, trong đó quan trọng nhất là hoạt động lao động sản xuất. Hoạt động lao động
sản xuất đã làm con người trở thành con người với đúng nghĩa của nó, người là giống
vật duy nhât có thể bằng lao động mà thoát khỏi trạng thái thuần túy là loài vật

+ Con người bị quyết định bởi các quy luật xã hội như biện chứng giữa lực lượng sàn
xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội,...

+ Con người mang bản chất xã hội. theo Mác xã hội suy cho cùng là sản phẩm của
sự tác động qua lại giữa người giữa những con người, con người tạo ra xã hội là thành
viên của xã hôi, mọi biểu hiện sinh hoạt của con người là biểu hiện và là khẳng định
của xã hội. Con người là động vật xã hội, một thực thể sinh vật xã hội, con người bẩm
sinh đã là sinh vật có tính xã hội, thực thể sinh vật và thực thể xã hội của con người ,
không tách khỏi nhau. Trong đó thực thể sinh vật là tiền đề trên cái tiền đề thực thể xã
hội tồn tại và phát triển

+ Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con
người luôn luôn bị quyết định bởi 3 hệ thống quy luật khác nhau thông nhất với nhau:
hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp của cơ thể với môi trường,
quy luật về trao đổi chất, di truyển, tiến hóa,…quy định phương diện sinh học con
người hệ thống các quy luât tâm lý, tình cảm, ý thức hình thành và vận động trên nền
tảng sinh học của con người như là hình tâm lý tình cảm, khát vọng, niêm tin, ý chí
hoài bão,… Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với
người . 3 hệ thống quy luật trên cùng tác động tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trên
đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. MỐi quan hệ SH và Xh
là cơ sở hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và xã hội trong đời sống con người ,
như nhu cầu ăn mặc, ở, nhu cầu tình cảm , thẩm mỹ, hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh
thần. Con người là chỉnh thể thống nhất giữa 2 mặt sinh học avaf xã hội

Hai mặt đó hợp thành một hệ thống năng động phức tạp , luôn luôn biến đổi và phát
triển.

Sự hình thành và phát triển con người gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất

Triết học mac-lenin xuất phát từ quan điểm duy vật lịch sử đã tiếp cận sự hình
thành và phát triển con người gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất từ đó khẳng định
lao động là điều kiện chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người,
chỉ qua lao động mà con người biến đổi điều kiện tự nhiên bên ngoài, làm biến đổi
bản chất của tự nhiên cải tạo bản năng sinh học của con người đồng thời hình thành và
phát triển những phẩm chất xã hội của mình , con người khác con vật ở chỗ, đối với
con vật nó sống dựa hoàn toàn vào tự nhiên vào những tặng phẩm của tự nhiên, còn
con người phải bằng lao động sản xuất đê cải tạo tự nhiên sáng tạo ra của cải vật chất
thỏa mãn nhu cầu ngày càng phát triển ngày càng đa dạng phong phú của con người,
lịch sử sản xuất vật chất cũng là lịch sử con người , cải tạo tự nhiên phù hợp với nhu
cầu tồn tại và phát triển của mình về điều này các nhà kinh điển mac đã khăng định
nhờ sản xuất mà giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của con người. Làm cho có tính
người, tự nhiên được nhân loại hóa , lịch sử phát triển của tự nhiên gắn bó hữu cơ với
lịch sử phát triển của xã hội loài người do đó mác đã nhấn mạnh :“con người đừng
trước một tự nhiêncó tính lịch sử và một lịch sử có tính tự nhiên”. Con người được
chuẩn bị như thế nào về mặt sinh học để có khả năng lao động và trở thành chủ thể
sáng tạo là vấn đề do ngành sinh học và khoa học tự nhiên làm rõ vấn đề này. Tuy
nhiên triết học Mac leenin khảng định” thông qua lịch sử sản xuất vc nhờ lao động mà
một loài sinh vật mới ra đời đó là con người có lý tính con người tinh khôn mang tính
chất xã hội, lao động đã biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên loài người khoa học đã
chứng minh rằng con người là một tổ chức sinh vật có trình độ phát triển cao nhất trên
hành tinh, từ một loài sinh vật có sương sống, phát triển lên là nấc thang cao nhất
trong lịch sử tiến hóa của các giống loài qua hàng triệu năm lịch sử. Lao động đã cải
tạo bản năng sinh học con người bắt bản năng phải phục tùng lý trí, phát triển bản
năng con người thành một trạng thái mới về chất. Mác cho rằng :’Trong con người ý
thức thay thế bản năng hay bản năng con người là bản năng đã được ý thức” . Lao
động là điều kiện chủ yếu quyết đinh sự hình thành phát triển phẩm chất xã hội của
con người, trong lao động tất yêu hình thành nên quan hệ xã hội, thông qua hoạt động
giao tiếp hình thành nên ngôn ngữ, nhận thức tình cảm ý chí và cả phuong pháp tư duy
của con người. Angghen cho rằng tren ý nghĩa cao cả nhất lao động sáng tạo ra chính
bản thân con người. Nhờ lao động con người tách khỏi tự nhiên vừa hòa nhập với tự
nhiên trở thành một thực thể sáng tạo, con người bắt đầu lịch sử của mình là hoạt động
biết chế tạo ra công cụ lao động. Nhờ có công cụ lao động ,tư liệu của mọi tư liệu ,
sưc mạnh vật chất đầu tiên mà con người tách khỏi loại vật với tư cách là một chủ thể
hoạt động thực tiễn xã hội. Như vậy sáng tạo là thuộc tính con người , bản chất con
người là sáng tạo ngay từ đầu với đầy đủ ý nghĩa. Sự hình thành và phát triển con
người gắn liền với lịch sử sản xuất vật chất và đặc biệt nhờ có lao động con người mới
thoát khỏi giới động vật.

Mối quan hệ biện chứng thống nhất giữa tính sinh học và tính xã hội trong con
người. Có thể là câu hỏi thêm?

Cái sinh học là điều kiện, tiền để không thể thiếu làm cơ sở cho sự tồn tại của con
người, cái xã hội ra đời và phát triển trên nền tảng cái sinh học, nhưng sau khi hình
thành nó quay lại thỏa mãn cái sinh học của con người văn minh hơn, văn hóa hơn, cái
xã hội quyết định bản chất con người. Sự vận động biện chứng thống nhất giữa tính
sinh học và tính xã hội trong con người lấy thỏa mãn nhu cầu của con người làm tiêu
chuẩn chính và vận động theo đường xoáy ốc đi lên, cứ như vậy tác động qua lại giữa
chúng làm con người vận động và phát triển không ngừng.
b. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người

Con người là sản phẩm của lịch sử xã hội loài người, có nghĩa là lịch sử xã hội loài
người sản sinh ra con người, lịch sử xã hội loài người phát triển đến đâu, con người
phát triển đến đó từ thấp đến cao qua các hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Trong đó
hoạt động thực tiễn, đặc biệt hoạt động sản xuất đã tạo nên con người ở từng giai đoạn
lịch sử. Không có con người như là sản phẩm thuần túy của tư duy trừu tượng, chỉ có
những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm ra lịch sử của
chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại, rất phong phú vẻ
đời sống vật chất lẫn tinh thần trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Cần lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, cho nên
con người không thụ động để lịch sử làm mình thay đối, mà con người còn là chủ thể
của lịch sử, tích cực, tự giác, năng động sáng tạo ra lịch sử.

c. Con người vừa là chủ thể của lịch sử.

Con người là chủ thể của lịch sử “tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý
thức”. Con người chế tạo ra công cụ lao động, tích cực tham gia hoạt động lao động
sản xuất, từ đó tách khỏi tự nhiên trở thành chủ thể hoạt động thực tiên xã hội (hoạt
động sản xuất, hoạt động chính trị - cải tạo xã hội, hoạt động khoa học - thực nghiệm).

Con người sử dụng, cải tạo, bảo vệ, giữ gìn và mở rộng sự phát triển của môi trường
tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu sinh tồn của loài người và tiến bộ xã hội. Khi con
người cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi - chính mình, thì cải biến cần
mang tính tích cực, xây dựng, bảo tồn, phát triển, nếu ngược lại sẽ tàn phá môi trường
và gây ra những hiểm họa to lớn đe dọa sự sinh tồn của con người và nhân loại.

#VD: Mình là con của bố mẹ có đúng không? Đáp án mình là chủ thể của lịch sử và
là sản phẩm của lịch sử, vì khi mình sinh ra chỉ có 3kg nhưng 47 kg còn lại là thức ăn,
tài nguyên của cả 1 quá trình trong quá khứ sản xuất ra.

Lịch sử hiểu theo nghĩa rộng là những quá trình đan xen nối tiếp nhau, với tất
cả những bảo tồn và biến đổi trong quá trình đó, như vây con người có lịch sử và con
vật cũng có lich sử, song lịch sử của con người và lịch sử của động vật khác nhau, lịch
sử của động vật chính là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát triển dần dần của
chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng, nhưng lịch sử ấy không phải do chúng
làm ra và trong chuẩn mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó
diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con
người càng cách xa con vật, con người tự làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức
bấy nhiêu, lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động có ý thức của chính bản thân con người,
hoạt động con người làm ra lịch sử nên để có lịch sử trước hết phải có con người , tiền
đề đấu tiên của lịch sử là sự tồn tại của những cá nhân con người sống vì vậy hành
động lịch sử đầu tiên là hành động lao động sản xuất để con người tách khỏi động vật,
con người tách khỏi động vật như thế nào thì họ tách khỏi lịch sử như thế đó. Con
người làm ra lịch sử song không phải làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những
điều kiện mình có quyền tự lựa chọn mà trong những điều kiện có sẵn do quá khứ để
lại. Với những điều kiện ấy mỗi người mỗi thế hệ một mặt tiếp tục hoạt động cũ của
thế hệ trước trong hoàn cảnh mới , một mặt tiếp tuc hoạt động mới của mình để biến
đổi hoàn cảnh cũ , xét mối quan hệ giữa các thế hệ và hoàn cảnh sống của con người
thì bản thân xã hội sản xuất ra con người thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như
thế. Như vậy trong quá trình phát triển của thế giới nói chung và quá trình phát triển
của con người nói riêng, thì tự khi con người ra đời cho đến lúc nào con người còn tồn
tại con người vẫn luôn vừa là sản phẩm vừa là chủ thể của lịch sử. VỚi những luận
điểm bên trên, chúng ta có thể khẳng định trong quan niệm của các nhà sáng lập ra
chủ nghĩa Mác, con người không chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất, con người còn
là chủ thể của hoạt động lịch sử là người sáng tạo ra lịch sử, bằng hoạt động thực tiễn
con đã in dấu ấn sáng tạo của bàn tay và trí tuệ của mình vào giới tự nhiên, cải tạo đời
sống xã hội và qua đó phát triển hoàn thiện chính bản thân con người. Con người vừa
là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình phát triển lịch sử, con người làm nên lịch sử
của chính minh, do vậy mà lịch sử là lịch sử của con người do con người và vì con
người, lịch sử không chỉ là một chuỗi biến cố được tạo nên bởi những điều kiện khách
quan mà còn là một chuỗi các hoạt động do con người thực hiện, con người vừa là sản
phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của mọi sự biến động của hoàn cảnh. Bằng hoạt
động thực tiễn năng động và sáng tạo con người làm thay đổi không chỉ bộ mặt tự
nhiên và cả bộ mặt xã hội của chính minh. Với quan niệm đó, các nhà sáng lập ra chủ
nghĩa Mác- lenin đã khảng định rằng không phải lịch sử sử dụng con người như một
phương tiện để đạt mục đích rằng con người vừa là tiền đề thường xuyên của lịch sử ,
vừa là sản phẩm , là kết quả thường xuyên của lịch sử, con người vừa là diễn viên vừa
là tác giả của vở kịch mình dàn dựng và hoàn cảnh chỉ có thể tạo ra con người trong
chừng mực con người tạo ra hoàn cảnh ấy, do vậy theo các ông chính con người phải
nhân đạo hóa hoàn cảnh, tạo ra hoàn cảnh hợp tính người để phát triển bản chất và
hoàn thiện nhân cách của chính mình , con người tạo ra bước nhảy của chính mình từ
vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do khi con người làm chủ tự nhiên
làm chủ xã hội một cách thật sự và có ý thức khi những quy luật chị phối hành đọng
xã hội của con người vẫn đối lập với con người như những quy luật tự nhiên, xa lạ và
thống trị được con người bvaanj dụng hoàn cách một động tự giasc và do đó bị con
người chi phối, khi tồn tại xã hội của con người mà tự trước đến nay vẫn đối lập với
con người như những cái do tự nhiên và lịch sửu gắn cho con người đã biến thành
hành doọng tự do của bản thân con người và khi lực lượng khách quan bên ngoài mà
tự trước đến nay vấn thống trị lịch sử, sẽ do chính con người kiểm soát và do vật mà
con người bắt đầu tự mình sáng tạo ra lịch sử của chính mình một cách hoàn toàn tự
giác rằng con người với khả năng lao động và năng lực sáng tạo tiềm tàng đã làm nên
các cuộc cách mạng trong thời đại văn minh của nó từ nên văn mình cổ đại đến văn
minh hiện đại với khả năng và năng lực đó con người chính là động lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội và là chủ thể sáng tạo nên những nền văn minh trong lịch sử nhân
loại .
d. Bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội

C.Mác nhận định: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt.Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các
quan hệ xã hội”. Con người ở đây là con người hiện thực, cụ thể sống trong những
điều kiện lịch sử cụ thể.

+ Không có con người trừu tượng thoát ly mọi điều kiện hoàn cảnh lịch sử xã hội, con
người luôn cụ thể xác định sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, trong
điều kiện lịch sử đó , bằng hoạt động thực tiễn con người con người tạo ra những giá
trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực, và tư duy trí tuệ.Chỉ trong
toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó như quan hệ giai cấp dân tộc thời đại, các quan hệ
kinh tế chính trị, quan hệ giữa cá nhân gia đình xã hội, .. con người mới bộc lộ toàn bộ
bản chất xã hội của mình.

+ Khi khẳng định bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội, cũng có nghĩa
là tất cả các quan hệ xã hội đều góp phần hình thành bản chất con người nhưng có ý
nghĩa quyết định nhất là quan hệ sản xuât , bởi vì các quan hệ khác đều trực tiếp hoặc
gián tiếp chịu sự quy định của quan hệ sản xuất. Mỗi hình thái kinh tế xã hội có một
kiểu quan hệ sản xuất nhất định giữ vai trò chi phối chính kiểu quan hệ sản xuất đố là
cái xét đến cùng tạo nên bản chất con người trong giai đoạn lịch sử. Các quan hệ XH
không phải chỉ xét quan hệ trong từng hình thái xã hội riêng biệt mà còn khái quát
những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ thời đại riêng biệt, quan hệ xã
hội vừa diễn ra theo chiều ngang đương vừa diễn ra theo chiều dọc lịch sử. Các quan
hệ xã hội quy định bản chất con người bao gồm cả quan hệ xã hội hiện tại và quan hệ
xã hội truyền thống, bới trong lịch của mình con người bắt buộc phải kế thừa, di sản
của những thế hệ của thời đại trước để lại. Trong lĩnh vực văn hóa tinh thần có những
truyền thống thúc đấy con người vươn lên, nhưng cũng có những truyền thống đè
nặng lên những con người đã sống do đó khi xem xét bản chất con người, không nên
tách rời hiện tại và quá khứ. Cái bản chất không phải là cái duy nhất mà là một bộ
phận chi phối trong chỉnh thể, tổng thể phong phú đa dạng, bản chất và thể hiện bản
chất con người có sự khác biệt, bản chất của một con người cụ thể là tổng hòa các
quan hệ xã hội vốn có của con người đó là những quy định và quy định những đặc
điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của người đó, còn tất cả hành vi của người đó bộc lộ
ra bên ngoài là những hiện tượng biểu hiện bản chất của họ. Sự thể hiện bản chất của
con người, không phải theo con đường thẳng, trực tiếp mà thường là gián tiếp quanh
co qua hang loạt mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội, giữa kinh nghiệm với nhận thức
khoa học, giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa bản năng sinh vật và hoạt
động có ý thức , giữa di truyền tự nhiên và văn hóa xã hội… Trong diễn biến đầy mâu
thuẫn đó, bản chất thể hiện ra như là một xu hướng chung xét đến cùng mới thấy sự
chi phối của xu hướng đó, Con người là một thực thể sinh vật xã hội thông qua hoạt
động thực tiễn và hoạt động xã hội, con người làm biến đổi đời sống xã hội đồng thời
biến đổi chính bản thân mình, điều đó có nghĩa là thông qua hoạt động thực tiễn con
người tiếp nhận bản chất xã hội của minh. Như vậy, bản chất con người không phỉa là
cái trừu tượng mà là cái hiện thực không phải là tự nhiên mà là lịch sử, không phải là
cái vốn có trong mỗi cá thể mà là tổng hòa tổng hòa các quan hệ xã hội. Đây là phát
hiện có giá trị to lớn của Mác về bản chất con người, thừa nhận ý nghĩa quyết định
của mặt xã hội đối với việc hình thành bản chất con người xong không có nghĩa chủ
nghĩa Mác Lenin coi nhẹ mặt tự nhiên phủ nhận cái sinh vật trong yếu tố cấu thành
bản chất con người bởi vì theo Mác giới tự nhiên là thân thể của con người , thân thể
mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường xuyên giao tiếp để tồn tại, nói
rằng đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên, nói như
thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, chỉ vì
con người là một bộ phận giới tự nhiên .

=> Con người chỉ phát triển và tồn tại trong xã hội loài người “Bản chất của con
người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội”.

Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoạc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người
cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan bệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể
bộc lộ được bản chất thực sự của mình và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản
chất người của con người mới được phát triển.

Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trò chi phối và quyết định các phương
diện khác của đời sống con người khiến cho con người không còn thuần túy là một
động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã
hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiên đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và
chi phối.

4. Vấn đề con người trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam

Lý luận về con người của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng lý
luận cho việc phát huy vai trò của con người trong cách mạng và trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt nam hiện nay.

Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định con người là chủ thể lịch sử xã hội, con người vừa
là mục tiêu, là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển xã hội.

- Trong điều kiện hiện nay, việc phát huy vai trò con người luôn được Đảng Cộng
sản Việt Nam chú trọng, nhấn mạnh trong các kỳ đại hộ

Thứ nhất, Đảng ta nhấn mạnh việc đấu tranh không khoan nhượng chống thoái hóa,
biến chất, suy thoái về chính trị, tư tưởng đạo đức, chống lại những thói hư tật xấu,
những đặc tính tiêu cực của cơn người Việt Nam đang cản trở sự phát triển của chính
con người và xã hội.

Thứ hai, xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước hiện nay
với những đức tính sau đây:

- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với
nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa binh, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. (K tế)

- Có lối sống lảnh mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn
trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái. ( Văn hóa)
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kĩ thuật, sáng tạo, năng suất cao
vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội

- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ
và thể lực, (Lao động tốt)

=> Việc phát huy vai trò con người là yếu tố quan trọng quyết định thành công của
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

3. Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tiễn hiện nay ở Việt Nam

- Ý nghĩa phương pháp luận

Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức phải bảo đảm nguyên tắc tính khách quan trong
sự xem xét. Đây là nguyên tắc cơ bản của phương pháp nhận thức biện chứng duy vật.
Nguyên tắc này đòi hỏi xem xét các sự vật, hiện tượng không xuất phát từ ý muốn chủ
quan, mà phải xuất phát từ đối tượng trên cơ sở hiện thực khách quan vốn có để phản
ánh đúng đắn và xây dựng mô hình lý luận phù hợp với đối tượng. Nguyên tắc tính
khách quan của sự xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm duy vật mácxít, khi giải
quyết mối quan hệ giữa vật chất - ý thức, giữa khách quan - chủ quan.

Thứ hai, phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức phát huy nhân tố con người.
Nguyên tác tính khách quan không những không bài trừ, mà trái lại còn đòi hỏi phải
phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức. Tính năng động và sáng tạo của ý thức
được thể hiện ngay từ khi con người xác định đối tượng, mục tiêu, phương hướng hoạt
động cũng như việc lựa chọn cách thức, phương pháp thực hiện mục tiêu.

Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn phải giải quyết đúng đắn giữa nhân tố khách quan
và nhân tố chủ quan. Bởi vì, nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong
hoạt động thực tiễn, xét cho cùng là giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đời sống
vật chất, nhân tố vật chất và đời sống tinh thần, nhân tố tinh thần. Trong mối quan hệ
biện chứng đó đời sống vật chất, nhân tố vật chất giữ vai trò quyết định; ngược lại đời
sống tinh thần, nhân tố tinh thần có tính năng động và sáng tạo.

Câu 10: Ví dụ về con người là chủ thể của lịch sử

-Con người là chủ thể sáng tạo ra giá trị vật chất tinh thần cho xã hội :

Sản xuất ra của cải vật chất riêng có ở con người: lương thực, thực phẩm, tư liệu
sinh hoạt,…

-Tác giả của các công trình văn hóa nghệ thuật: Nhã nhạc cung đình Huế, di tích
Thành Hoàng Thăng Long, di tích Tràng An,…..

-Con người là động lực của các cuộc cách mạng xã hội: từ CXNT → CHNL → PK
→ TBCN → XHCN.
Câu 11: Ví dụ về đấu tranh giai cấp

Thời gian vừa qua đã xuất hiện những quan điểm lệch lạc, sai trái và cả những quan
điểm của thế lực thù địch nhằm xuyên tạc, phủ nhận quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin về đấu tranh giai cấp. Trong đó, nổi lên là quan điểm cho rằng: “trong điều kiện
hiện nay, nói tới đấu tranh giai cấp là bảo thủ, lạc hậu, là gây nên sự chia rẽ, phân
hoá nội bộ… làm phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc” hay: “hiện nay, nói đến đấu tranh
giai cấp ở Việt Nam là đi ngược lại xu thế của thời đại, là lạc hậu, không thức thời,
không phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay”. Do vậy, có thể nói, việc nâng cao
nhận thức khoa học về đấu tranh giai cấp sẽ góp phần đấu tranh phòng chống những
quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, bảo vệ nền tảng, tư tưởng
của Đảng trong tình hình hiện nay là một vấn đề khoa học, có ý nghĩa thiết thực.

Câu 12: Thực chất của đấu tranh giai cấp

Thực tiễn lịch sử trên hai nghìn năm qua ở các nước phương Tây đã từng diễn ra sự
phân hoá giai cấp hết sức điển hình, đó là các giai cấp: chủ nô và nô lệ thời cổ đại,
chúa đất và nông nô thời trung cổ, tư sản và vô sản từ thời cận đại đến nay.

You might also like