Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 12

Kiến thức về văn bản học kì 1 lớp 9

Tên văn bản Tác giả Thể loại Nội dung chính Ý nghĩa Nghệ thuật
– Dẫn chứng đã chọn lọc, rất tiêu
Khẳng định được vẻ đẹp thi hùng của
biểu, rất chính xác.
Vốn hiểu biết thật sâu rộng và phong cách Hồ Chí Minh là một sự kết
Phong cách – Kết hợp đan xen giữa yếu tố thuyết
Văn bản lối sống đỗi giản dị tạo nên hợp hài hòa giữa truyền thống văn hóa
Hồ Chí Lê Anh Trà minh với yếu tố kể chuyện và yếu tố
nhật dụng một  vẻ đẹp trong phong cách của dân tộc và tinh hoa văn hóa của
Minh bình luận.
Hồ Chí Minh. nhân loại, giữa sự thanh cao và sự giản
– Sử dụng được nghệ thuật đối lập
dị.
một cách hợp lý.
Khẳng định lại việc đấu tranh cho sự
Đấu tranh Nguy cơ có chiến tranh hạt
Ga-bri-en hòa bình, ngăn chặn đi và xóa bỏ được Lập luận khá chặt chẽ, chứng cứ khá
cho một thế nhân đang rất đe dọa toàn thể
Gác-xi-a Tham luận nguy cơ chiến tranh hạt nhân và cái phong phú, tương đối xác thực, cụ
giới hòa loài người và sự sống còn trên
Mác-két nhiệm vụ cấp bách của toàn thể loài thể.
bình trái đất này.
người.
Chuyện – Niềm cảm thương sâu đậm đối với số
người con phận đầy oan nghiệt của người phụ nữ – Nghệ thuật dựng truyện thành công,
Câu chuyện về một cuộc đời và
gái Nam Truyện Việt Nam nói chung sống dưới chế độ miêu tả nhân vật thật đặc sắc.
Nguyễn Dữ một cái chết thật thương tâm
Xương truyền kì phong kiến. – Kết hợp yếu tố tự sự với yếu tố trữ
của nhân vật Vũ Nương.
(trích Truyền – Khẳng định lại được vẻ đẹp truyền tình.
kì mạn lục) thống của họ.
Tái hiện thực sự chân thực
rằng hình ảnh người anh hùng
Hoàng Lê
Tiểu thuyết dân tộc Nguyễn Huệ qua cái
nhất thống – Nghệ thuật trần thuật thì đặc sắc.
lịch sử chiến công thần tốc đại phá Thể hiện được quan điểm lịch sử rất đỗi
chí Ngô gia văn – Khắc họa thật thành công các nhân
được viết được quân Thanh, sự thảm bại đúng đắn và niềm tự hào dân tộc trong
(trích Hồi phái vật lịch sử với sự ngôn ngữ chân thật,
theo lối: của bè lũ quân tướng nhà các tác giả.
thứ mười sinh động.
chương hồi Thanh và số phận bi đát thảm
bốn)
hại của vua tôi Lê Chiêu
Thống.
Chị em Thúy Ca ngợi được vẻ đẹp, tài năng xuất
Bút pháp nghệ thuật tượng trưng ước
Kiều Truyện thơ Khắc họa rõ nét chân dung của chúng của con người và dự cảm sẵn về
Nguyễn Du lệ, lấy cái vẻ đẹp của thiên nhiên để
(trích Truyện Nôm hai chị em nhà Thúy Kiều. kiếp người tài hoa bạc mệnh của cô
gợi tả cái vẻ đẹp của con người.
Kiều) Kiều.
Kiều ở lầu – Đỉnh cao trong khả năng miêu tả
Tâm trạng của cô Thúy Kiều Cảnh ngộ thì cô đơn, đượm sự buồn tủi
Ngưng Bích Nguyễn Truyện thơ nội tâm nhân vật.
khi đang đứng trước lầu Ngưng và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của
(trích Truyện Du Nôm – Bút pháp nghệ thuật thành công tả
Bích. cô Thúy Kiều.
Kiều) cảnh ngụ tình.
– Mang đậm trong bài màu sắc dân
Lục Vân Thể hiện được khát vọng hành đạo giúp gian.
Tiên đời của ông tác giả và đã khắc họa – Ngôn ngữ thì mang màu sắc Nam
cứu  Kiều Ng những phẩm chất rất đẹp đẽ của hai Bộ, mộc mạc rất đỗi bình dị, khá gần
Nguyễn Đình Truyện thơ Cảnh chàng Lục Vân Tiên cứu
uyệt  Nga nhân vật là Lục Vân Tiên (tài ba, dũng với lời nói thông thường.
Chiểu Nôm cô Kiều Nguyệt Nga.
(trích Truyện cảm, anh dũng, trọng nghĩa khinh tài) – Nhân vật thì được đặt trong những
Lục Vân và cô Kiều Nguyệt Nga (hiền hậu, nết tình huống khá khác nhau, bộc lộ rõ
Tiên) na, xinh đẹp, ân tình). tính cách qua hành động, cử chỉ và lời
nói.
Lục Vân – Nói lên sự đối lập rõ ràng giữa thiện
Tiên gặp và ác, giữa nhân cách cao cả với những
nạn Nguyễn Truyện thơ Cảnh tên Trịnh Hâm hãm hại toan tính thấp hèn. Thơ thì giàu cảm xúc, thật khoáng
(trích Truyện Đình Chiểu Nôm chàng  Lục Vân Tiên. – Thể hiện thái độ thật quý trọng và đạt, ngôn ngữ thì bình dị, dân dã.
Lục Vân niềm tin của người tác giả đối với nhân
Tiên) dân lao động.
Tình đồng chí keo sơn gắn bó
của những người lính cách Ca ngợi lên tình đồng chí keo sơn và vẻ Chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ rất là
Đồng chí Chính Hữu Thơ tự do mạng gắn bó keo sơn dựa trên đẹp tinh thần anh dũng của những người giản dị, chân thực, cô đọng và giàu
được cơ sở có cùng chung cảnh lính cách mạng. sức biểu cảm.
ngộ và có lí tưởng chiến đấu.
– Hình ảnh hiện lên những
– Hình ảnh thơ thì độc đáo.
chiếc xe không kính vẫn băng Tư thế thì hiên ngang, tinh thần thì lạc
Bài thơ về – Chất liệu thì hiện thực sinh động.
Phạm Tiến băng xông ra chiến trường. quan, dũng cảm, bất chấp tất cả khó
tiểu đội xe Thơ tự do – Ngôn ngữ và giọng điệu thì giàu
Duật – Cuộc sống khó khăn của khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải
không kính tính khẩu ngữ, tự nhiên và khỏe
những người lính đang trên phóng miền Nam.
khoắn.
đường hành quân.
– Khắc họa thành công nhiều hình
ảnh đẹp tráng lệ.
Thể hiện được sự hài hòa giữa thiên
Đoàn Cảnh đoàn thuyền đang đi ra – Sáng tạo lắm trong việc xây dựng
nhiên và những con người lao động, bộc
thuyền Huy Cận Thơ 7 chữ khơi và cái cảnh lao động của hình ảnh bằng yếu tố liên tưởng,
lộ được niềm vui, niềm tự hào của nhà
đánh cá con người trên biển. tưởng tượng phong phú, độc đáo, có
thơ trước cảnh đất nước và cuộc sống.
âm hưởng khá khỏe khoắn, hào hùng,
lạc quan.
– Tình cảm, cảm xúc thì chân thành của
nhân vật trữ tình – người cháu – và hình
ảnh người bà thì giàu tình thương, giàu – Sáng tạo trong công tác hình tượng
Bài thơ có gợi về những kỉ lắm đức hi sinh, có lẽ sống thật giản dị bếp lửa vừa thực vừa mang nghĩa
niệm tuổi thơ sống bên người mà cao quý. biểu tượng.
bà của nhân vật trữ tình, làm – Bài thơ thì chứa đựng một ý nghĩa – Kết hợp các yếu tố miêu tả, biểu
Bếp lửa Bằng Việt Thơ 8 chữ
hiện lên cái hình ảnh người bà triết lí: Những gì thân thiết nhất của tuổi cảm, tự sự và bình luận.
và tình bà cháu sâu sắc, quen thơ mỗi người thì đều có sức lan tỏa, – Giọng điệu và thể thơ tám chữ thì
thuộc trong mọi người. nâng đỡ tất cả con người suốt hành trình khá phù hợp với cảm xúc hồi tưởng
dài rộng bao la của cuộc đời. Tình yêu và suy ngẫm.
của bà là sự khởi đầu nhỏ nhắn của tình
yêu con người, tình yêu đất nước.
Lời tự nhắc nhở của tôi về
những năm tháng đầy gian lao Gợi nhắc và củng cố cái thái độ sống Giọng điệu tâm tình thâm sâu tự
Ánh trăng Nguyễn Duy Thơ 5 chữ đã qua của một cuộc đời người “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy nhiên, hình ảnh thì giàu tính biểu
lính gắn liền với thiên nhiên, chung cùng với quá khứ. cảm.
đất nước bình dị, hiền hậu.
Giới thiệu về những hoàn cảnh Ca ngợi tình yêu lớn với làng quê, một – Xây dựng thành công tình huống
Truyện mà phải rời làng lên nơi tản cư lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến truyện thật đặc sắc.
Làng Kim Lân
ngắn của người ông Hai và tính bất khuất của người nông dân phải dời – Nghệ thuật miêu tả được tâm lí và
thích khoe làng của ông. làng đi tản cư. ngôn ngữ của nhân vật.
Khắc họa rất thành công cái hình ảnh
Tái hiện thành công được hình Xây dựng tình huống thì thật hợp lý,
những người lao động thật bình thường.
Lặng lẽ Sa Nguyễn Truyện ảnh một anh thanh niên đang cách kể chuyện thì thật tự nhiên, có
Qua đó, đã khẳng định vẻ đẹp ngút ngàn
Pa Thành Long ngắn làm công tác khí tượng ở một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự,
của con người lao động và ý nghĩa to tát
mình trên một đỉnh núi cao. trữ tình với bình luận.
của những công việc thầm lặng.
Câu chuyện về hai cha con bé
Thu được gặp lại nhau sau
– Sáng tạo nên tình huống thật bất
khoảng chừng tám năm xa
Thể hiện được thật cảm động tình cha ngờ mà tự nhiên, hợp lý.
Nguyễn cách, bé Thu đã không nhận ra
Chiếc lược Truyện con thì thật sâu sắc và thật cao đẹp – Thành công lắm trong việc miêu tả
Quang ba, đến khi nhận ra thì ông Sáu
ngà ngắn trong cái cảnh ngộ éo le của cái chiến lên tâm lí và xây dựng được tính cách
Sáng một lần nữa phải ra đi.
tranh tàn khốc. nhân vật, đặc biệt nhất là nhân vật bé
Ở chiến khu, ông Sáu tự làm
Thu.
chiếc lược ngà tặng bé  Thu và
phải hy sinh tính mạng.
Thuật lại thành công chuyến về
quê lần cuối cùng của nhân vật
Phê phán cái xã hội phong kiến, lễ giáo
“tôi” trong bài, những rung
Truyện của phong kiến, đặt ra trong vấn đề con Nghệ thuật tinh vi miêu tả tâm lí nhân
Cố hương Lỗ Tấn cảm bên trong “tôi” trước sự
ngắn đường đi của nông dân và của cả toàn vật thật đặc sắc.
thay đổi khác thường của làng
xã hội.
quê, đặc biệt nhất là của Nhuận
Thổ.

Các em tham khảo từ bài đồng chí trở về sau, còn trở về trước tự xem lại
- Tiếng Việt: xem kĩ các phương châm hội thoại (5 phương châm), lời dẫn trực tiếp và lời
dẫn gián tiếp, đối thoại, độc thoại nội tâm,…
- Học thuộc các bài thơ
- Chú ý phân tích đoạn thơ, bài thơ (theo bố cục hoặc nội dung), phân tích các truyện
theo tuyến nhân vật: Làng (ông Hai), Lặng lẽ Sapa (Anh thanh niên, ông họa sĩ, cô kĩ sư
trẻ, bác lái xe…), Chiếc lược ngà (ông Sáu, Bé Thu).
Tác giả các tác phẩm xem SGK hoặc vở ghi
1. Đồng chí – Chính Hữu
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ « Đồng chí » được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch
Việt Bắc Thu- Đông (1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế
cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.
- Bài thơ được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo »- 1966.
b. Nhan đề bài thơ.
- Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.
- Đồng chí gợi cảm nghĩ về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là 1 loại tình cảm mới, 1tình cảm
đặc biệt xuất hiện, phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến.
- Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong 1 đoàn thể cách mạng, của
những người lính, người coongnhaan, người cán bộ từ sau cách mạng.
->Đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí
“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo toàn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”
Mỗi lần nghe lại những giai điệu hào hùng này trong lòng tôi lại trào lên những cảm xúc khó tả. Tôi - người lính trong chiến dịch chống Pháp năm ấy. Những năm tháng mưa
bom bão đạn, những năm tháng đói khổ gian nan và những năm tháng của tình đồng đội tình đồng chí keo sơn gắn bó đối với tôi là những năm tháng đầy giá trị và quý báu,
khắc tạc nên những kỉ niệm chẳng thể phai nhòa trong ký ức và trái tim cách mạng nhiệt thành này.
Những người lính chúng tôi từ những miền quê khác nhau, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc cùng sum họp về đây, về dưới ánh sáng lý tưởng của ngọn cờ cách
mạng. Buổi đầu với bao bỡ ngỡ, xa lạ chúng tôi chào hỏi nhau bằng những câu trân thành, chất phác: Quê anh ở đâu? Anh bạn nhập ngũ cùng tôi ngày ấy không ngần ngại chia
sẻ: “quê tôi vùng ven biển ngập mặn, ít phù sao; mùa màng khó khăn” Tôi cũng thật thà đáp cùng : “Còn tôi lại sinh ra ở vùng quê xơ xác; đất đai cằn cỗi; cây cối hoa màu khó
mà phát triển; kinh tế đói kém, chiến tranh tàn phá khiến cho đời sống con người khốn khó trăm bề” Cái vỗ vai thấu hiểu đầy cảm thông, sự sẻ chia nhọc nhằn; trân thành; và cả
cái chất phác của những anh nông dân như đã xua tan đi mọi khoảng cách, mọi sự xa lạ, kéo những người lính chúng tôi xích lại gần nhau hơn. Đó cái mục làm quen của người
lính nó mộc mạc, chất phác và giản đơn lắm các bạn ạ.
Chúng tôi đến đây vì ước mơ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và hi vọng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn nhà, muôn nơi.
Trước khi về đây chúng tôi ai cũng đã từng có cho mình những ước mơ; hoài bão và cả những định hướng riêng cho cuộc đời mình. Nhưng chúng tôi biết chúng tôi hiểu và
chúng tôi khao khát biết nhường nào 2 chữ “Tự do”. Bởi vì thể chúng tôi vẫn quyết tâm hòa ước mơ riêng vào ước mơ chung; hi sinh cái tôi cá nhân; bỏ mặc lại quê hương; gia
đình; tình yêu lên đường ra chiến trận nhập ngũ; đánh đuổi kẻ thù. Trong lòng chúng tôi cũng buồn lắm chứ, cũng nhớ và yêu quê hương da diết lắm chứ nhưng chúng tôi nhận
thức được rõ ràng hơn cả: “Có độc lập quê hương, gia đình mới có thể thanh bình’. Chính động lực đó đã nâng bước những chàng trai trẻ ngày ấy mang súng hăng say ra chiến
trận lập công.
Cuộc sống người lính bắt đầu với bao gian khổ, hi sinh và mất mát. Cơm ăn không đủ no, đi nhiều hơn ngủ; hành quân liên tục. Tôi còn nhớ mãi trận sốt rét giữa rừng hoang
lạnh giá năm ấy. Những người đồng đội của tôi và cả tôi phải đối diện với căn bệnh quái ác- sốt xuất huyết; lương thực và thuốc men thì không kịp chi viện cho quân đội, chúng
tôi cứ thế mê man, sốt run người. Khí hậu khắc nghiệt; địa hình hiểm trở như những con quỷ chỉ chực nuốt trọn những tấm thân gầy gò, xanh xao, bệnh tật ấy. Những đôi bàn
tay nắm chặt, động viên an ủi; dìu dắt nhau qua những hang núi hiểm trở. Người ốm cõng người ốm, người ốm chăm sóc cho người ốm; cùng nhường nhau bát cháo loãng húp
vội; đắp cho nhau chiếc khăn lạnh giữa chặng đường hành quân. Nhớ lại những tháng ngày đấu tranh nghiệt ngã với bệnh tật với thiên nhiên lòng tôi lại đau xót đến nhói lòng.
Trận dịch bệnh năm ấy đã cướp đi của tôi biết bao người đồng đội, các anh nằm lại rải rác trên cung đường hành quân, được đắp vội tấm chiếu và tấm lòng thương tiếc của
người ở lại. Và rồi chúng tôi lại tiếp tục lên đường hành quân, tiếp tục chiến đấu và sẻ chia cùng nhau.
Sẻ chia tình thần , sẻ chia vật chất trong cuộc sống gian khó; thiếu thốn của người lính. Áo anh sờn chỉ rách vai thì quần tôi đã có vài mảnh vá. Anh đừng lo, tôi ấm thì anh
cũng phải ấm, một chiếc chăn cũng đủ cho đôi ta. Gió bấc ngoài kia cứ việc thét gào còn trong này tình thương ấm áp của tôi với anh vẫn cứ thể rực sáng, nồng đượm.
Những người lính xa lạ từ mọi miền quê hương qua sự thử thách của đất trời, của khó khăn đã hun đúc nên tình cảm tri kỉ đáng giá, đó là tình Đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí”
với biết bao ân tình bao nghĩa nặng cao cả.
Đặc trưng của người lính chúng tôi là những cái nắm tay. Nắm tay để động viên nhau cùng cố gắng; nắm tay để kéo nhau đứng dậy, sải bước tiếp trên con đường cách mạng
đầy trắc trở, nắm tay để trao nhau tình yêu thương, sự quan tâm và sẻ chia và cái nắm tay để hứa hẹn lập công giành chiến thắng, hẹn không xa sẽ trở lại mang theo niềm vui
thắng trận.
Cuộc sống người lính giản dị mà ý nghĩa là thế đó. Người lính không biết nói những câu thơ hoa mĩ, người lính chỉ biết nói cho thực cái bụng của mình, chỉ biết
dùng những hành động để thể hiện ý chí và tấm lòng son sắt.
Còn nhớ mãi những đêm canh gác giữa rừng hoang giá buốt năm ấy. Trời thì lạnh buốt; gió cứ từng cơn ào ào; hối hả xả vào mặt tê tái nhưng chúng tôi vẫn thực hiện mọi
nhiệm vụ canh gác như thường. Chúng tôi canh gác để đề phòng giặc tấn công bất ngờ; để canh cho giấc ngủ chớp nhoáng yên bình của các đồng đội khác. Ánh trăng đêm nay
lên cao quá, sáng quá. Ánh trăng lan tỏa khắp không gian; treo trên mũi súng người lính. Tôi nghĩ đến ánh trăng hòa bình, có lẽ ánh trăng hòa bình sẽ còn đẹp và tròn vành hơn
nhiều. Trăng với súng sóng sánh bên nhau phải chăng biểu trưng cho lý tưởng cách mạng cao đẹp, cho dự báo tương lai chiến thắng chẳng xa. Hình ảnh đấy thật đẹp; thật lãng
mạn; in sâu trong tâm trí tôi những đêm dài chiến đấu, phục kích và cho đến tận bây giờ…
Đất nước độc lập, thống nhất, chúng tôi trở về quê nhà, có những người lính người đồng đội đã mãi mãi hi sinh đã nằm xuống nhưng tình đồng chí của chúng tôi vẫn mãi vẹn
nguyên và đậm đà như thế. Cảm ơn lời thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu đã thay tiếng lòng của tôi gửi đến những người anh em thuở ấy. Tôi mong rằng máu xương của
chúng tôi sẽ được thế hệ sau trân trọng và phát triển để dựng xây đất nước ngày càng phát triển và giàu đẹp hơn nữa
2. Bài thơ tiểu đội xe không kính
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- « Bài thơ về tiểu đội xe không kính » được sáng tác năm 1969. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng khắc nghiệt.
- Bài thơ nằm trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức và được in trong tập thơ « Vầng trăng quầng lửa » năm 1970.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- Bài thơ có nhan đề khá dài, khá đặc biệt : « Bài thơ về tiểu đội xe không kính ». Nhan đề bài thơ thoạt nghe sẽ thấy như có chỗ thừa: thừa 2 chữ « bài thơ ». Nhưng chính chỗ
thừa ấy đã tạo sức hút cho người đọc ở vẻ khác lạ và độc đáo ở sức gợi: gợi chất thơ của cuộc sống nơi chiến trường.
- Hình ảnh « tiểu đội xe không kính » được đưa vào nhan đề bài thơ:
+ Gợi hiện thực phổ biến, quen thuộc trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
+ Gợi hiện thực của cuộc chiến vô cùng gay go, khốc liệt.
+ Gợi vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn, vẻ đẹp của lòng dũng cảm, của ý chí nghị lựa của sự kiên cường.
=>Cả ý nghĩa nhan đề đã gợi ra hiện thực về chiến trường, đồng thời tô đậm chất thơ trong cuộc đời người lính lái xe.
Đóng vai kể lại Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Bài 1:
Bước vào năm 1969, cuộc chiến khốc liệt và căng thẳng hơn. Sau thất bại trong chiến lược Chiến tranh cục bộ, quân Mỹ bắt đầu tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến
tranh. Thực hiện chính sách này, Mỹ rút dần quân số trên chiến trường Đông Dương và tăng cường chiêu mộ, bắt bớ người Việt Nam đi lính. Đồng thời, chúng tiến hành các
chiến lược bình định trên toàn miền Nam. Một không khí khủng bố vô cùng căng thẳng bao trùm lên khắp miền lãnh thổ. Nhiệm vụ chiến đấu giải phóng miền Nam cũng đối
mặt với những khó khăn vô cùng lớn. Không để miền Nam đơn độc trong cuộc chiến đấu ác liệt với kẻ thù, quân và dân miền Bắc gắng hết sức mình chi viện và cùng quân dân
miền Nam anh dũng chiến đấu.
Tôi là một chiến sĩ lái xe. Cuối năm 1968, tôi được điều động về đại đội một ô tô vận tải, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ Tư lệnh Đoàn 559. Nhiệm vụ của
đại đội là vận chuyển những chuyến hàng vào chiến trường miền Nam. Không những đưa hàng hóa đến tận chiến trường, phục vụ nhanh chóng và kịp thời cho cuộc chiến đấu,
chúng tôi còn phải cung ứng quân trang, quân dụng, thuốc men và những thứ cần thiết khác mà quân và dân miền Nam đang cần.
Trong những năm khó khăn ấy, nhân dân miền Bắc đã dốc hết sức mình vì miền Nam ruột thịt. Vì sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước mà bà con miền
Bắc đã không quản ngại gian khổ hy sinh. Từng lớp thanh niên đã hăng hái lên đường tham gia chiến đấu. Ngày ra đi còn vẫy chào tạm biệt, hứa xong nhiệm vụ với tổ quốc mới
trở về.
Bao nhiêu nông phẩm thu được, nhân dân chỉ giữ lại phần ít. Phần lớn còn lại gửi vào miền Nam cho bà con và các chiến sĩ. Chính phủ còn nhận được sự hỗ trợ của các nước
anh em ủng hộ cuộc chiến. Chúng tôi lên đường bất kể ngày đêm. Hễ có hàng là chúng tôi chạy. Từng đoàn xe nối đuôi nhau xuôi ngược trên tuyến đường Trường Sơn, nhộn
nhịp như mùa hội. Tấm chân tình của nhân dân miền Bắc đối với quan và dân miền Nam thật nói sao cũng không hết.
Năm ấy, phát hiện tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, quân Mỹ tiến hành đánh phá ác liệt. Chúng rải thảm bom đạn nhằm ngăn chặn dòng tiếp viện. Con đường bị cày xới
dữ dội. Rất nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh. Những chiếc xe băng trong mưa bom bão đạn của kẻ thù không chiếc nào còn nguyên vẹn. Khung cửa kính bị hơi bom ép vỡ. Đèn
pha cũng bị cháy. Thùng xe lỗ rỗ vết bom. Mui xe bị đánh bật quang mất từ bao giờ. Sau những chuyến đi trở về, xe của chúng tôi bị biến dạng ghê gớm.
Thế nhưng, chúng tôi không hề nản lòng. Các đồng chí động viên nhắc nhở nhau cùng hứa sẽ giữ vững tay lái, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chúng phá đường thì
ta sửa. Chúng đánh ngày thì ta chạy đêm. Những đoàn xe lại nối đuôi nhau ra tiền tuyến. Tuyến đường Trường Sơn như sợi chỉ thần kì nối liền miền Nam, miền Bắc. Nơi đâu
cũng nhộn nhịp bóng người. Có thể nói, mọi sức mạnh đều tập trung về đây để bảo vệ tuyến đường, bảo vệ mạch máu của dân tộc.
Ngồi trong những chiếc xe không kính, cả bầu trời như đến gần với tôi. Dù trời không có gió nhưng hề xe chạy thì gió cứ thế mà lùa vào ào ạt. Gió thổi xoát mặt, cay xè cả
hai mắt, thổi bồng mái tóc của chúng tôi. Cứ mỗi lần bước ra khỏi buồng lái là tóc tôi dựng ngược hẳn lên như vừa được bôi một thứ keo dán tóc nào đó. Ban đêm xe chạy, sao
sáng vằng vặc trên trời cao, rõ ràng hết mức vì không bị kính che mờ. Những cánh chim trời tinh nghịch cứ bay ngay buồng lái. Đôi khi chúng làm tôi hết hồn vì ngỡ bóng máy
bay của địch.
Sợ nhất vẫn là bụi đường. Không có kính, bụi phun tóc trắng xóa như người già. Cả đầu tóc lẫn mặt mũi của chúng tôi như trát một lớp phấn trắng. Chỉ còn hai con mắt là
khác màu thôi. Mỗi lần nghỉ ngơi, nhìn các chiến sĩ ai cũng bạc phết mà cười ngất ngây. Hết bụi thì đến mưa. Mưa rừng trường Sơn đột ngột và dữ dội lắm. Không hề báo trước,
cơn mưa từ đâu phía bên kia núi ào ào kéo đến trút nước lên đầu. Không có kính, nước mưa cứ thế mà tuôn, mà xối vào. Ngồi trong xe mà tôi cứ ngỡ đang ở ngoài trời. Nhưng
mưa cứ kệ mưa. Xe chạy vẫn cứ chạy. Quần áo ướt rồi lại khô, cần chi phải nghỉ ngơi lôi thôi. Cuộc sống như thế chúng tôi đã quen từ lâu, có chi mà quản ngại gió sương.
Vui nhất là những lần đồng đội khắp muôn phương cùng nhau hội tụ. Những đoàn xe nối đuôi nhau mấy cây số. Chúng tôi bắt tay thân ái qua ô cửa kính vỡ, hỏi han và
động viên nhau. Tôi chúc mừng các anh đã hoàn thành nhiệm vụ trở về. Những chiến sĩ trở về động viên và cầu chúc tôi may mắn.
Những cuộc dừng chân giữa rừng kết nối biết bao trái tim. Dù ở những đơn vị khác nhau, từ nhiều vùng quê của đất nước, nhưng gặp nhau ở đây, chúng bếp lửa hồng,
chung bữa cơm vui thì chúng tôi xem nhau là anh em đồng chí cả.
Đường Trường Sơn được xây dựng bằng sức người, bằng đôi bàn tay của hàng vạn thanh niên yêu nước. Trên núi cao, dưới vực thẳm thách thức mọi tinh thần. Những
con dốc cao đến nỗi đứng dưới nhìn lên mỏi cả cổ. Tôi nhớ rất rõ lần chạy xe xuyên đêm vượt qua con dốc vô cùng hiểm trở. Con dốc sừng sững thách thức các đồng chí lái xe
đã từng vận chuyển hàng hóa trên cung đường này.
Đêm ấy trời mưa to, đường bị xói lở nhiều. Đại đội trưởng lệnh chúng tôi dừng lại tìm nơi ẩn nấp. Đến đêm mai lại chạy tiếp. Nhưng chúng tôi đang ở giữa vùng trống,
không có nơi ẩn nấp an toàn cho cả đoàn xe. Lại thêm trời cứ mưa thế này, đến đêm mai chưa chắc đã hết. Tôi khuyên đại đội trưởng cho đoàn xe vượt dốc. Sau phút suy nghĩ,
đại đội trưởng đồng ý.
Tôi lái xe đi đầu. Lấy hết bình tĩnh, tôi đạp mạnh chân ga. Chiếc xe lừ lừ chạy tới. Biết mặt đất trơn, tôi cố gắng giữ ga thật đều. Bánh xe bám chặt vào mặt đường giữ xe
vững chắc. Bỗng chiếc xe lắc lư dữ dội vì vấp phải rãnh sâu. Tôi đạp mạnh ga hơn cho xe vượt qua nhưng không thể. Xe bị tuột ga rồi. Tôi đạp mạnh thắng để giữ xe lại nhưng
mặt đường như rải dầu trơn tuồn tuột. Đuôi xe lệch về một bên, đầu xe quay ngang. Phía sau là con vực sâu đến nghìn mét.
“Chắc chắn xe sẽ lao xuống vực”. Tôi nghĩ thế và thầm mong có một sức mạnh nào đó nâng đỡ. Bỗng chiếc xe khựng lại. Tôi nghe tiếng đại đội trưởng thét lớn: “Cho xe lao lên
mau!”. Tiếng thét làm tôi sực tỉnh. Tôi lấy hết sức đạp mạnh chân ga. Bánh xe chà xát trên mặt đường đưa đầu xe từ từ quay lên, bùn đất văng rào rào hai bên. Tiếng xe gầm thét
dữ dội. Chiếc xe khựng lại rồi từ từ quay đầu lên dốc. Tôi hít một hơi dài, nhấn ga thêm nữa, xoay vô lăng đều đều đưa xe lên. Cuối cùng, tôi cũng đưa xe lên đến đỉnh dốc an
toàn. Bước xuống xe, tôi thở phào nhẹ nhõm.
Nhìn đại đội trưởng và các đồng đội mình mẩy đầy bùn đất tôi nghẹn ngào xúc động vô cùng. Thì ra, khi thấy xe tôi trượt dốc, đại đội trưởng và các chiến sĩ đã vội đi tìm đá
kê. Mỗi người một hòn kê vào bánh xe. Hết hòn này đến hòn khác cho đến khi xe lên hẳn trên dốc. Đêm ấy, đoàn chúng tôi vượt dốc thành công nhờ mưu trí của đồng đội, kịp
đưa xe về nơi trú ẩn an toàn.
Bình tĩnh, quả cảm, xử lý các tình huống mau lẹ, chính xác là những yếu tố cần có ở người lính lái xe. Người lái xe mặt trận không chỉ bình tĩnh vững vàng trong buồng lái,
mà cần cả mưu lược, linh hoạt trong việc xử lý các tình huống trên thực địa. Có khi còn phải biết làm “tham mưu” đề xuất với chỉ huy cấp trên các phương án khai thông khi tắc
đường. Phải biết hợp đồng tác chiến với công binh, với bộ đội phòng không, phải hiểu rõ thủ đoạn và quy luật hoạt động của kẻ địch trên trời dưới đất để đưa hàng tới đích. Đó
là lời dạy của đại đội trưởng mà tôi còn nhớ mãi cho tới bây giờ.
Chiến tranh là phải có hy sinh. Chúng tôi đã xác định điều mỗi khi lên đường. Người đồng đội thân nhất, đã cùng tôi vào sinh ra tử bao nhiêu trận đã hy sinh. Anh ra đi như
một người lính thật sự, không hề hối tiếc.
Hôm ấy, sau một đêm vận chuyển, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã “đánh hơi”, gọi máy bay ném bom. Dứt đợt oanh
kích của địch, ba đồng chí công binh gọi anh đi kiểm tra hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng anh không chịu. Đến nơi giấu xe, anh đụng bom bi vướng nổ. Quả
bom hất tung anh rơi xuống vực sâu. Anh ra đi, đồng đội vô cùng thương tiếc.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc chúng tôi khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy
nhất là vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng cao chúng tôi lại càng quyết tâm chiến thắng.
Không thể nhớ hết bao nhiêu tình huống trên đường vận chuyển. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong vòng lượn
của máy bay tiêm kích suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh kích bắn phá các trọng điểm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông
bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Dù kẻ thù rình rập, đường đi nguy hiểm, dù có bao nhiêu hy sinh đi chăng nữa nhưng không gì thể cản bước đoàn xe chạy tới.
Xe vẫn chạy. Những đoàn xe nặng trĩu chuyến hàng vẫn ngày đêm chạy tới. Tất cả vì miền Nam ruột thịt. Tất cả vì sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước của dân
tộc. Mỗi khi ngồi vào buồng lái, tôi lại nhớ đến các anh, nhớ đến nhiệm vụ thiêng liêng mà nhắc mình giữ vững tay lái, sống và chiến đấu xứng đáng với những người đã mãi
mãi ra đi để bảo vệ đất mẹ thiêng liêng này.
Bài 2:
Trong buổi họp mặt nhân ngày quân đội nhân dân Việt Nam, tôi đã tình cờ gặp lại người bạn xưa cùng chung tiểu đội trên những chiếc xe không kính ở tuyến đường Trường
Sơn làm nhiệm vụ vận chuyển chi viện cho miền Nam. Chúng tôi tay bắt mặt mừng và mọi người yêu cầu tôi kể lại những ngày tháng ấy.
Tôi còn nhớ trên con đường huyết mạch nối giữa miền Nam và miền Bắc mà chúng tôi lái trên những chiếc xe lại là nơi bom đạn giật tung dữ dội ác liệt. Nhiệm vụ của tôi là
vận chuyển lương thực, vũ khí, bom đạn của Mỹ đã biến những chiếc xe không còn có kính. Tôi đã thực sự hiểu rõ hơn về những gian lao khổ cực mà chúng tôi đã phải chịu
ngày chịu đêm không lùi bước tôi vẫn ung dung lái xe đi tới những chặng đường, luôn nghe âm thanh của bom liên tục gào thét. Trên một chiếc xe không kính, tôi đã nhìn thấy
được trời, nhìn thấy cả đất và những ánh sao đêm. Tôi nhìn thẳng về phía trước, vì phía ấy chính là tương lai của đất nước, là miền nam ruột thịt quê hương tôi.
Tôi vẫn lái dù bụi có phun làm mái tóc trở nên trắng xóa, chúng tôi vẫn vô tư phì phèo điếu thuốc và cất tiếng cười khi nhìn mặt nhau. Khó khăn gian khổ hay bom đạn của
kẻ thù chẳng thể nào làm tôi nản chí, sờn lòng. Những chiếc xe không kính cứ tiếp tục đi và đi trên những tuyến đường ra trận, mưa tuôn mưa xối ướt hết cả áo nhưng tôi vẫn cố
gắng lái trăm cây số nữa vượt qua những chặng đường nguy hiểm để đảm bảo an toàn cho mọi thứ tôi đang vận chuyển. Và tôi nghĩ khi mưa ngừng, có gió lùa vào rồi thì sẽ
mau khô thôi.
Càng đi càng đi, tôi càng gặp được nhiều anh em đồng đội của mình dù bom đạn của Mỹ vẫn giật tung sát bên tai. Cái chết luôn rình rập nhưng tôi vẫn luôn lạc quan yêu đời.
Ngày ấy cũng có người hy sinh, nên vì vậy, khi tôi gặp lại người bạn năm xưa thì mọi kí ức kỉ niệm chợt ùa về khiến tôi say mê kể lại.
Những giây phút hiếm hoi khi gặp lại đồng đội, cái bắt tay qua cửa kính bể rồi làm tôi thắm thiết hơn. Những bữa cơm bên bếp Hoàng Cầm, mọi cái bát cái đũa dùng
chung như một đại gia đình lớn của những người lính lái xe Trường Sơn. Rồi giây phút được nghỉ ngơi trên những chiếc võng mắc chông chênh ngoài đường, kể nhau nghe mọi
sự ác liệt trên những con đường đã đi qua. Càng kể tôi càng thấy yêu đồng đội mình hơn, bom đạn của Mỹ có thể hạ xuống trong lúc chúng tôi đang làm nhiệm vụ. Chiếc xe
không chỉ mất kính, mà lại còn không có đèn, thùng xe thì rách xước nhưng những thiếu thốn này vẫn chẳng thể cản được chúng tôi tiến tới miền Nam ruột thịt. Và những
chuyến hàng của tôi cũng đã góp phần tạo nên chiến thắng của dân tộc.
Đến bây giờ tôi vẫn còn rất tự hào vì đã lái những chiếc xe không kính làm nhiệm vụ chi viện cho miền Nam, góp phần không nhỏ vào cuộc chiến đấu giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước. Tôi vẫn không quên nhắc nhở con cháu của mình là phải biết ơn các thế hệ trước, phải luôn tưởng nhớ những con người đã hi sinh “Uống nước nhớ
nguồn”.

3. Đoàn thuyền đánh cá


a. Hoàn cảnh sáng tác :
- Bài thơ « Đoàn thuền đánh cá » ra đời năm 1958. Đây là thời kì miền Bắc được giải phóng, bắt tay vào xây dựng CNXH để chi viện cho chiến trường miền Nam.
- Bài thơ là kết quả sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ QN. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ HUy Cận mới thực sự trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về
lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.
- Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng » năm 1986.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- Hình ảnh « đoàn thuyền » gợi về 1 sự đoàn kết, ở đó có sự đồng lòng, chung sức giữa các thành viên.
- Phản ánh không khí lao động sôi nổi, hăng say của những người dân chài.
- Gợi lên những thành quả lao động góp phần xây dựng đất nước theo nhịp sống mới sau chiến tranh.
Đóng vai ngư dân kể lại Đoàn thuyền đánh cá
Chúng tôi là những ngư dân miền biển cùng đoàn thuyền đánh cá ra khơi say sưa hào hứng phấn khởi chinh phục tài nguyên biển làm giàu cho quê hương đất nước.
Hoàng hôn buông xuống mặt trời kỳ vĩ như một ngọn lửa khổng lồ đang chìm dần xuống biển khơi. Những lượn sóng là then cửa màn đêm là tấm cửa khổng lồ. Vũ trụ
mênh mông rộng lớn trở lên gần gũi với cuộc sống của con người. Khi vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi một ngày đang dần khép lại thì cũng là lúc đoàn thuyền chúng tôi bắt đầu
một công cuộc chinh phục đánh bắt mới. Cả đoàn thuyền dũng mãnh tiến ra biển chứ không phải một con thuyền riêng lẻ. Công việc làm ăn đã đi vào nề nếp. Đánh cá đêm là
đặc thù của nghề bởi cá ăn đêm, đánh vào ban đêm sẽ gặt hái được thành quả to lớn nhưng đánh cá đêm cũng phản ánh hình ảnh không khí lao động say sưa không quản ngày
đêm của những người chài nói riêng và nhân dân ta nói chung khi xây dựng cuộc đời mới khi ra khơi chúng tôi cất cao tiếng hát, câu hát góp gió làm cánh buồm căng phồng,
bằng mình là buồm khơi kì vĩ chúng tôi mượn tiếng hát để gọi cá biển giàu đẹp, những luồng cá đặc biệt là cá thu đang dệt biển tạo ra muôn luồng sáng. Cầu mong chúng dệt
lưới ta để chuyến ra khơi thật viên mãn.
Thuyền xa khơi, dò được luồng cá chúng tôi buông leo hạ buồm đánh bắt khung cảnh biển trời tuyệt đẹp thuyền có bánh lái nhưng lại là lái gió có cánh buồm nhưng lại là
buồn trông, thiên nhiên hữu tình quá! Gió trời, trăng trời hòa nhịp hỗ trợ con người trong lao động chúng tôi buông lưới thuyền, lưới là vũ khí biển trời là mặt trận ngư dân trong
tư thế chủ động. Chinh phục dàn đao, vây giăng các luồng cá.
Biển hội tụ đủ các loại cá ngon nhất ngày: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song đều có cả. Cá quẫy nước, nước đẫm ánh trăng sao có cảm giác cá quẫy trăng vàng chóe. Trên mình
con cá song có nhiều sọc vạch dài và những chấm tròn đen hồng càng lấp lánh hơn dưới ánh trăng sao như những bó đuốc tuyệt đẹp. Sao in xuống mặt nước, sóng xô nước vào
mạn thuyền có cảm giác sao đang lùa nước Hạ Long vậy. Tất cả đã tạo lên hơi thở của biển đêm. Biển lung linh kì ảo như một sinh vật sống gần gũi với con người.
Không chỉ ra khơi mang theo câu hát mà khi đánh cá trên biển chúng tôi cũng vừa làm vừa hát. Tiếng hát vang lên trên mặt biển đêm biến công việc nặng nhọc thành bài ca
đầy niềm vui. Bài hát gọi cá vào lưới được sự hỗ trợ của trăng trời trăng cũng góp nhịp đuổi cá để con người gặt hái được nhiều thành quả hơn. Và bài hát ấy còn cất lên từ sâu
thẳm trái tim chúng tôi cảm tạ mẹ biển ân tình cho những đứa con miền biển bao tài nguyên quý giá cuộc sống lo đủ nuôi sống đời ta tự bao buổi nay.
Sao mờ đêm tàn trời gần về sáng cũng là lúc ngư dân chúng tôi thu hoạch cá cánh tay kéo lưới căng và khỏe bắp thịt nổi cuồn cuộn kéo những mẻ lưới nặng cá. Ánh rạng
đông đã ngời lên cá quẫy tung trong lưới nhảy nhót ánh trăng bạc của cá càng lấp lánh lung linh hơn dưới ánh hồng của bình minh. Đúng lá rừng vàng biển bạc đáng quý biết
bao! Xếp lưới, căng buồm chúng tôi chuẩn bị về bến.
Và khi trở về chúng tôi cũng cất cao tiếng hát nếu khi ra khơi tiếng hát cầu mong đánh bắt được nhiều cá thì giờ đây trở về tiếng hát lại mang âm hưởng ngợi ca thành quả đã
đạt được. Cả đoàn thuyền hào hứng chạy đua với thời gian trở về bến kịp chuyến chợ buổi sáng. Mặt trời bình minh rạng ngời đang nhô lên giữa biển khơi bao la vô cùng tận
một ngày mới bắt đầu. Phải chăng cuộc sống mới đổi thay đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước tươi đẹp rạng rỡ. Cá xếp dày khít vào nhau đầy ắp trên các khoang thuyền ánh
mặt trời rọi vào mắt cá như những lăng kính nhỏ phản chiếu ánh mặt trời tạo ra muôn mặt trời li ti huy hoàng. Phải chăng đó cũng là ánh mắt lấp lánh niềm vui trước thành quả
đạt được của tất cả ngư dân miền biển chúng tôi.
Hành trình chuyến ra khơi của chúng tôi là như vậy đấy không ai có thể phủ nhận vai trò của biển khơi. Vậy nên một phần lãnh thổ, lãnh hải cũng không thể lọt vào tay kẻ
ngoại bang ngư dân miền biển chúng tôi ngày đêm bám biển bảo vệ lãnh thổ lãnh hải thiêng liêng của đất nước mong rằng thế hệ sau học tập tốt lao động tốt xây dựng kiến thiết
đất nước giàu mạnh giữ vững chủ quyền biển đảo quê hương.

4. Bếp lửa
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ “Bếp lửa” ra đời năm 1963, khi ấy tác giả đang là sing viên ngành luật tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ.
- Bài thơ in trong tập “Hương cây- Bếp lửa” năm 1968.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- “Bếp lửa” là 1 hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng:
- Trước hết, đây là 1 bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu thơ về 1 người bà cụ thể, có thật của tác
giả.
- Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa:
+ Bếp lửa gợi lên sự tảo tần, chăm sóc, yêu thương của người bà dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh để trưởng thành và khôn lớn.
+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin và hi vọng cho cháu vào 1 tương lai phía trước.
+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn....đã nâng bước người cháu trên suốt hành rình dài rộng của cuộc đời.
=>”Bếp lửa” là tên gọi của 1 bài thơ cảm động về tình bà cháu giản dị, thiêng liêng. Đồng thời thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất nước sâu sắc....

Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa


Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của đất nước Nga mênh mông, rộng lớn, tôi lại nhớ đến quê hương Việt Nam thân thương của tôi. Nhất là vào những ngày tuyết rơi
trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi run rẩy trong chiếc áo dày cộm ngồi bên lò sưởi. Nhưng lúc đó sao tôi lại thấy lò sưởi sao quen thuộc đến thế! Ngọn lửa ấm áp làm tôi
nhớ đến cái bếp lửa của bà tôi quá!
Tôi sinh ra vào thời chiến tranh loạn lạc, cái thời kì mà đất nước bị chia cắt làm hai, cái thời kì mà đất nước bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia đình tôi có một truyền
thống yêu nước nồng nàn, nên từ khi tôi còn bé, bố mẹ tôi đã luôn rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gian nan, hiểm trở. Vì vậy tôi đã sống với bà từ những ngày
thơ ấu. Tôi có những kỉ niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà luôn gắn với cái bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tinh mơ để nhóm cái bếp lửa
chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu ấm áp, nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tần tảo, vất vả của bà sao tôi có thể quên.
Còn nhớ lại cái năm tôi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái năm đói mòn đói mỏi. Tôi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng gia đình, gây nên cái chết
thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì đau khổ của dân tộc Việt Nam ta. Bố tôi thì đi đánh xe khô rạc ngựa gầy. Còn
tôi thì vẫn ở với bà, bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi chết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì một thời kì bi thương, đói khổ, chết chóc
của dân tộc ta!
Tám năm ròng tôi cùng bà nhóm bếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, bảo ban của bà. Nhớ đến mùa hè năm ấy, tu hú kêu
trên những cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những
ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp của bà chạm đến trái tim tôi, cho tôi biết thương cảm, yêu thương người khác hơn.
Nghĩ đến đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Cuộc sống tưởng như yên bình trôi qua trong mắt đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in mãi trong tâm trí tôi.
Chúng đốt làng cháy tàn cháy rụi, hình ảnh làng xóm lại trở về lầm lụi, may thay bà tôi sống có nghĩa có tình, được hàng xóm đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn.
Lúc đó tôi sợ đến òa khóc, nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà chăm sóc, bảo vệ bà cháu mình “. Thế mà bà vẫn vững lòng, vẫn còn niềm tin vào cuộc
chiến đấu của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh rằng:” Bố ở chiến khu, vẫn còn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại
nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà thắm thiết, nhóm lên niềm tin dai dẳng của bà vào cuộc sống, vào tương lai của đất nước.
Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên niềm yêu thương ngọt bùi của khoai sắn, nhóm lên hương vị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ chung vui, nhóm dậy cả
tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó
chưa bao giờ tắt vì bất cứ lý do gì.
Bếp lửa thật thiêng liêng và mầu nhiệm, nó gắn liền với hình ảnh người bà đáng kính của tôi, nó cũng là hình ảnh cho hi vọng niềm chiến thắng của dân tộc tôi, cháy lên
không bao giờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn ấm áp đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm
vui trăm ngả. Nhưng không đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không niềm vui nào bằng những ngày ở cùng bà, bà ơi!
Nay tôi đang ở nơi đất khách quê người, nơi xa lạ, không người thân thiết làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trước mắt, nhưng không có
mùi khói cay của bếp lửa bà tôi. Ôi bà ơi, con nhớ mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên
chưa”.
5. Ánh trăng
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Bài thơ “Ánh trăng” ra đời năm 1978, tại Thành phố HCM, 3 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên và được giải A của Hội nhà văn VN năm 1984.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- Nhan đề “Ánh trăng” trước hết là 1 phần của thiên nhiên với tất cả những gì gần gũi, thân thuộc.
- “Ánh trăng” là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung gắn với lịch sử hào hùng của dân tộc.
- Gợi cho ta liên tưởng đến những con người giản dị mà thủy chung nghĩa tình: nhân dân, đồng đội....
Đóng vai người lính kể lại bài thơ Ánh trăng
Sau khi đất nước thống nhất, tôi giải ngũ trở về quê nhà. Ba năm sau, tôi chuyển lên thành phố sinh sống cùng các con tôi. Thú thật, tôi vẫn thích sống ở quê nhà hơn.
Nhưng các con tôi cứ bảo không có ai chăm sóc nên tôi đành nghe theo.
Cuộc sống nơi thành phố đầy tiện nghi. Các con tôi đều là công chức, viên chức cả nên chẳng thiếu thứ gì. Vừa bước ra khỏi cuộc sống khó khăn của chiến tranh thì đây
quả là cuộc sống đáng mơ ước. Tôi tận hưởng tất cả những ngọt ngào của cuộc sống ấy. Không còn lo âu, không còn mất ngủ, không còn nghe tiếng pháo ì ầm mỗi đêm. Tôi tận
hưởng những giấc ngủ thanh bình và những bữ a ăn đầy đủ và nhanh chóng quên đi mọi khổ nhọc xưa kia. Mà nhớ để làm gì. Chiến tranh đã đi qua, vết thương xưa cũng đã
lành rồi.
Tưởng tôi đã mãi mãi quên đi tất cả, mãi mãi ngủ quên trong đời sống tiện nghi và giả tạo này. Tưởng ánh sáng hào nhoáng của phố thị sẽ chôn chặt đời tôi trong bốn bức
tường vôi kín đáo, an toàn nhưng lạnh lẽo. Nhưng không! Một đêm nọ, nó đã đến, cái vầng trăng tình nghĩa năm xưa, đánh thức hồn tôi trong cơn mộng hão huyền.
Đó là một đêm thành phố bỗng cúp điện. Cúp điện ở thành phố không phải là chuyện hiếm gặp. Nhưng đêm ấy, khi ánh sáng giả dối kia vụt tắt, căn phòng rơi vào bóng tối.
Tôi vội bật tung cửa sổ tìm chút gió trời thì bất ngờ, ánh sáng của vầng trăng tràn vào khắp căn phòng. Ánh sáng phóng thẳng vào đôi mắt, chiếu rọi vào hồn tôi. Ôi cái thứ ánh
sáng quen thuộc và kì diệu ấy trải một lớp sáng mờ mờ trên nền gạch lấp loáng. Tôi ngẩng đầu nhìn đăm đăm lên trời cao. Bầu trời thật rộng lớn. Bầu trời thật trong trẻo. Vầng
trăng tròn ngự trị khắp một miền không gian rộng lớn. Dường như nó đang chiếm lĩnh cả thành phố, cả bầu trời cao đến vô tận.
Chợt nhớ đến bài thơ xưa của Lý Bạch:
“Đầu giường ánh trăng rọi
Ngỡ mặt đất phủ sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương”.
Ánh trăng hiền hòa soi rọi lòng tôi, mơn man như có cái gì đó đang xoa dịu khắp người. ÁNh trăng gợi nhớ đến những ngày xưa tháng cũ. Ánh trăng ấy đã theo tôi đến suốt
cuộc đời. Thuở thiếu thời chốn quê xưa, trăng đi vào cuộc sống như người bạn thâm tình cố hữu. Tôi nhớ đến những đêm trăng thanh bình trên dòng sông. Vầng trăng cao lấp
lóa ánh sáng trong dòng sông sâu thẳm, mơ huyền trong tiếng chùa vọng xa. Tôi nhớ những đêm trăng tát nước trên đồng. Ánh trăng vàng cứ chập chờn, vỡ rồi liền lại theo nhịp
cầu đưa. Hay ánh trăng ma quái khu nghĩa địa sau làng mà bọn nhỏ chúng tôi thường hay chơi trốn tìm sau ấy.
Vầng trăng ấy gắn chặt vào đời tôi, hết quãng đời tuổi thơ trên đồng dưới bể. Nhiều đêm nằm dưới ánh trăng sáng, nghe tiếng chim kêu mà đắng lòng đắng dạ. Đất nước đang
chiến tranh. Quê hương đang bị giày xéo dưới bom đạn của kẻ thù, đau thương biết mấy. Tôi nhìn trăng. Trăng cũng nhìn tôi. Cả hai im lặng không nói nên lời nhưng thấu hiểu
lòng nhau.
Tháng sau, tôi lên đường đi chiến đấu. Trăng cũng theo tôi lên rừng lên núi. Trải qua bao cuộc chiến chinh trăng vẫn bên tôi, thủy chung và tình nghĩa. Trăng soi rọi bước
hành quân đêm rừng sâu thẳm. Trăng lao vào cuộc chiến đấu. Trăng xung phong mở lối dẫn đường quân ta tiến tới. Trăng tiến công vào kẻ thù. Trăng là người đồng chí, đồng
đội của chúng tôi.
Nhiều đêm, giữa rừng sâu thanh vắng, nằm trên võng dù, giữa đường hành quân, nhìn ánh trăng sáng trên trời cao bỗng nhớ quê nhà tha thiết. Ánh trăng hiền hòa giữa trời
cao xanh, ánh sáng vằng vặc soi khắp núi rừng. Tôi ước gì mai này khi kẻ thù bị tiêu diệt, tôi trở về quê xây dựng cuộc sống mới. Cuộc sống với với cái cày con trâu. Ngày ngày
cuốc vườn trồng rau, đêm đêm uống cốc trà ấm, ngắm vầng trăng tròn. Cuộc đời như thế đủ thú lắm rồi.
Ánh trăng chiếu rọi vào nơi tôi nằm như đồng cảm và an ủi tôi. Ánh trăng thấu hiểu lòng tôi, đến xoa dịu cơn đau trong trái tim tôi. Trái tim chất chứa hận thù. Tôi thầm
hứa với trăng cao sẽ anh dũng chiến đấu đến khi đất nước sạch bóng giặc thù. Cuộc sống tươi đẹp đang chờ tôi. Người thân đang ngóng đợi tôi. Nước mắt tôi chợt rưng rưng khi
nghĩ điều đó.
Than ôi! Có ngờ đâu, khi cuộc chiến kết thúc, lời hứa năm xưa tôi đã quên đi từ bao giờ. Bước ra khỏi chiến tranh, tôi rơi vào trạng thái hụt hẫng. Một phần vì quá vui
mừng và hạnh phúc. Một phần vì tôi trở về với cuộc sống thường ngày với những ràng buộc mới. Cuộc sống vật chất đầy đủ, tiện nghi khiến tôi say mê tận hưởng để bù đắp lại
bao nhiêu năm vất vả nơi rừng thiêng nước độc. Nhiều lúc cận kề sinh tử, tưởng sẽ không thể trở về để gặp mặt vợ hiền con thơ.
Công việc mới trong thời kì dựng xây đất nước khắc phục hậu quả chiến tranh khiến tôi cũng bận rộn tối ngày. Hết đi sớm lại về khuya khiến tôi không còn thời gian để nghĩ
ngợi. Hình bóng quê hương và muôn vàn kỉ niệm tuy nhiên vẫn còn ở trong trái tim tôi nhưng từ lâu đã bị khép lại, giấu kín. Đô thị phồn hoa, diễm lệ, ánh đèn màu lấp loáng
soi rọi khắp mặt đất, khắp bầu trời. Vầng trăng nghĩa tình năm xưa vẫn cứ từng đêm đi qua bầu trời. Nhưng gần như tôi không hề hay biết.
Tôi ngửa mặt lên nhìn vầng trăng. Trăng nay vẫn thế, vẫn tròn trịa và tỏa sáng. Hình như có cái gì đó đang rưng rưng. Trong lòng tôi bỗng hiện rõ hình ảnh quê hương
thương yêu. Từng cánh đồng, từng ngọn núi, con sông bỗng trở về ào ạt. Bất chợt tôi bật khóc. Giọt nước mắt lăn dài trên má nóng hổi.
Đó là nước mắt xót xa những tháng ngày xưa cũ. Giọt nước mắt hối hận khi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ nghĩa tình, hững hờ với vầng trăng thủy chung.
Dù chúng tôi, những người lính, từ lâu đã không hề nhớ tới. Nhưng vầng trăng bao năm qua vẫn không thay đổi. Trăng vẫn luôn ở cạnh chúng tôi, dõi theo chúng tôi. Trăng
nghĩa tình thủy chung còn chúng tôi lại vô tình, lạnh nhạt nó nó.
Ánh trăng lặng im phăng phắc, không nói gì. Đó là sự im lặng nghiêm khắc nhắc nhở tôi về quá khứ đau thương nhưng nghĩa tình. Trăng không giận dữ, nghiêm nghị mà
bao dung càng khiến tôi thêm đau lòng. Tôi nhận ra bấy lâu mình đã hững hờ với quá khứ, hững hờ với nỗi đau thương mà dân tộc vừa trải qua. Nhiều lần tôi đã tự ngụy biện
rằng hoàn thành tốt công việc trong hiện tại là đã có công với đất nước rồi. Và những gì mình nhận được là do công sức mình bỏ ra, là hoàn toàn xứng đáng.
Nhưng kì thực, đó là một cuộc sống ích kỷ và vô tâm. Biết bao con người vẫn đang âm thầm hi sinh bởi bom đạn của kẻ thù còn sót lại, bởi đói khổ triền miên. Nỗi đau
thương vẫn còn âm ỉ trong lòng dân tộc. Kẻ thù đã rời đi, nhưng hậu quả của chúng gây ra vẫn tiếp tục gây tổn thương cho biết bao người. Biết bao gia đình, bao con người chưa
thể tìm thấy được hạnh phúc. Cả dân tộc đang gượng mình gắng sức vượt qua. Còn tôi thì ngập ngụa, sướng vui trong đời sống vật chất.
Càng suy nghĩ, tôi càng thấy hối lỗi. Cảm ơn vầng trăng đã giúp tôi thấu hiểu và nhận rõ bản thân mình. Tôi phải làm gì đó để xứng đáng với dân tộc. Tôi cần làm gì đó để
bù đắp lại lỗi lầm. Tôi phải sống xứng đáng với tinh thần người lính trong thời đại mới, tiếp tục tiên phong trong những nhiệm vụ khó khăn nhất của dân tộc. Chắc chắn rồi.
Nhất định tôi phải gắn kết mình với những nhiệm vụ của dân tộc. Nhất định phải biết trân trọng quá khứ và sống xứng đáng với những gì mình đã nhận được. Cuộc sống này
không chỉ dành cho riêng tôi mà dành cho cả dân tộc, dành những con người anh hùng đã cống hiến hết mình vì độc lập, tự do của tổ quốc
6. Làng
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948. Đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Tác phẩm được đăng trên Tạp chí Văn nghệ năm 1948.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là “Làng chợ Dầu”. Nếu lấy tên tác phẩm là “Làng chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành
chuyện riêng của 1 cái làng cụ thể; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu ấy. Như vậy, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái
quát.
- Tác giả đã sử dụng 1 danh từ chung là “Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đạt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là 1 câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng
chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân VN yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.
c. Tóm tắt.
Ông Hai người làng chợ Dầu, trong kháng chiến buộc phải rời làng đi tản cư. Là 1 người nông dân yêu làng tha thiết: ông hay khoe về làng mình, ngày nào cũng
ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh để lắng nghe tin tức về làng. Ruột gan ông cứ múa lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích khi nghe về những chiến công của làng.
Một hôm, tại quán nước, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo giặc. Ông cảm thấy khổ tâm, nhục nhã và xấu hổ vô cùng. Về nhà, ông nằm vật ra
giường nhìn lũ con mà nước mắt trào ra. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà, nơm nớp lo sợ. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc khi bà chủ nhà có ý đuổi khéo gia đình ông,
nhưng không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ biết tâm sự với đứa con về nỗi lòng của mình.
Chỉ khi thông tin được cải chính, rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh giặc ông mới vui vẻ và phấn chấn hẳn lên. Ông đi khoe với bác Thứ, với mọi người
nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá. Về nhà ông vui vẻ mua quà cho lũ con.

Đóng vai ông Hai kể lại bài Làng


Người ta có thể tác con người ra khỏi quê hương nhưng không thể tách quê hương ra khỏi con người. Câu nói ấy thật sâu sắc. Đối với tôi, làng Chợ Dầu là máu thịt, là linh
hồn, không gì có thể cướp lấy hay xóa nó đi trong tâm hồn tôi.
Đã mấy chục năm rồi, có lẽ chừng ấy năm ròng cũng đủ để tôi thấu hiểu hầu hết những người dân trong làng. Họ và tôi, chúng tôi đều là người Việt Nam, chúng tôi đều
mang trong mình dòng máu lạc hồng luôn đỏ mãi trong lòng mỗi người. Người trong làng tôi hầu hết đều là những người nông dân một nắng hai sương tần tảo sớm hôm vất vả
ra đồng. Chúng tôi sống cho bản thân mình nhưng chưa giây phút nào chúng tôi quên được lòng yêu Tổ Quốc, yêu nơi mà tôi sinh ra và lớn lên. Thế mà không hiểu vì lí do gì
mà mọi người lại tung tin đồn xấu cho làng tôi.
Hôm ấy trời nắng đẹp và trong, như mọi hôm tôi lại đến phòng thông tin để đọc báo. Tôi rất thích đến đây nghe người khác đọc báo. Tuy là nông dân nghèo, cuộc sống cực
khổ, làm nhiều việc tôi vẫn có cái thú vui đọc tin tức thường xuyên để nắm bắt thông tin mọi nơi. Khi vừa bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi ra
lối huyện cũ, tôi bắt gặp tốp người tản cư bàn tán rất náo nhiệt.
Tính tôi cũng hay tò mò không biết có việc gì nên liền lại tán gẫu cùng. Được biết có làng nào ấy Việt gian theo Tây. Tôi nào ngờ ấy lại là làng Chợ Dầu – chính ngôi
làng tôi sống. Họ bảo làng tôi Việt gian, người làng tôi theo giặc. Như không tin được vào tai mình. Tôi thầm nghĩ đủ điều. Chẳng nhỡ làng mình theo Tây thật rồi sao. Sao lại
có chuyện đấy được. Người làng ta đều là những con người yêu nước hết cả mà. Không nhẫn nhịn được nỗi nhục nhã đến tận cùng, tôi đành đánh trống lảng bỏ đi: “Hà, nắng
gớm, về nào…”
Kể từ cái ngày tin đồn ấy được truyền lây lan rộng khắp nơi, tôi chẳng dám bén lẻn ra đường nữa. Tâm trí tôi như dần triệt quệ, tôi không thèm màng đến việc gì nữa. Cả
vợ tôi cũng chán nản không thiết làm việc nhà. Được sinh ra và lớn lên trong thời kì chiến tranh, từ bé tôi đã phải sống với bom đạn. Thấy thế tôi luôn nhủ với lòng mình rằng
sau này phải gắng sức làm việc gì đấy giúp ích cho đất nước.
Trong đầu tôi cũng như gia đình, làng xóm tôi đều hứa với lòng sẽ luôn ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Thế mà giờ đây chúng tôi còn chưa làm được điều gì đã làm
tổn hại đến đất nước rồi. Tôi cũng yêu làng tôi lắm, cái làng Chợ Dầu ấy đã gắn bó với tôi khá lâu rồi. Nhưng sâu thẳm trong trái tim mộc mạc , bình dị của người nông dân
nghèo này vẫn luôn dành một phần quan trọng đối với Tổ quốc. “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.
Thời điểm ấy, khắp nơi mọi người đều xua đuổi dân làng Chợ Dầu. Bà chủ nhà của tôi rồi cũng phải từ chối gia đình tôi sinh sống tại nhà bà. Trong vài ba hôm ngắn ngủi,
không biết làm gì, đi về đâu, đầu óc tôi như trống rỗng bởi sự nhục nhã không cam chịu nổi.
Thế mà nỗi buồn ấy lại bỗng chốc chuyển sang nụ cười vui hồn nhiên nở dần trên gương mặt tôi. Tôi vu i sướng khi được nghe tin mừng rằng tin làng Chợ Dầu Việt gian
đã được cải chính lại. Đúng thật là, toàn là sai sự mục đích cả. Tôi đi đến khắp nơi báo tin mừng dây cho mọi người. Ngay cả bà chủ nhà cũng vui và đành cho tôi tiếp tục ở nhà
bà. Thế là cuộc sống tôi lại trở nên vui vẻ như trước.
Mọi con sông đều chảy ra biển, tình yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê hương trở thành tình yêu Tổ Quốc. Đối với người nông dân một nắng hai sương, làng có một vị trí rất
quan trọng. Đấy là nơi tôi sinh ra, lớn lên và làm việc. Quan trọng hơn làng đã trở thành cội nguồn quê hương, là một phần không thể thiếu trong tâm hồn của người nông dân.
Riêng bản thân tôi, tôi sẽ không bao giờ quên đi được bóng dáng cái làng Chợ Dầu thân thuộc ấy và sẽ luôn tin tưởng, chẳng bao giờ rời xa làng mình.
7. Lặng lẽ Sapa
a. Ho àn cảnh sáng tác.
- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc sống, con người trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền bắc.
- Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” 1972.
b. Ý nghĩa nhan đề.
- Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” là 1 nhan đề giàu chất thơ, góp phần khắc họa chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.
+ Lặng lẽ gợi đến 1 khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.
+ Nhưng “lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
->Dưới vẻ lặng lẽ của Sa Pa luôn có những con người âm thầm làm việc, cống hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những dòng sông cuộn chảy mang phù sa bồi đắp
cho đất nước thêm đẹp giàu.
c. Tóm tắt.
“Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống 1 mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công
tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, 4 năm anh chưa về nhà 1 lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và trò chuyện với mọi
người. Bời vậy, anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc,làm quen với mọi người.
Trong 1 lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với 1 ông họa sĩ và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt
với ông họa sĩ. Anh thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.
Ông họa sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên và định vẽ 1 bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa,
anh cán bộ nghiên cứu bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ hơn. Cô kĩ sư sau khi trò chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm nhận công tác ở
Lai Châu.
Sau 30 phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục với công việc của mình. trước khi tạm biệt, anh không quên biếu 2 người 1 làn trứng gà và tặng cô gái 1 bó hoa
đẹp.
Đóng vai anh thanh niên kể lại Lặng lẽ Sa Pa (tự đóng thêm vai cô kĩ sư, ông họa sĩ kể lại)

Tôi - kẻ được mệnh danh là cô độc nhất thế gian. Gọi như thế có lẽ cũng phải
thôi vì đã mấy năm trời tôi sống quanh quẩn làm công tác khí tượng trên
đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét; quanh năm làm bạn với mây mù và
thiên nhiên lạnh lẽo. Tôi thèm lắm cái hơi người ấm đượm giữa cái chốn mênh
mông bát ngát này. Thế là trời chẳng phụ tôi đã cho tôi có một cuộc gặp gỡ đầy
bất ngờ đong đầy những dư vị tình cảm.
Nói đến cuộc gặp gỡ đặc biệt này tôi há phải cảm ơn bác lái xe già nhiều lắm
vì bác đã giới thiệu tôi với mọi người. Nhắc đến bác lái xe già cơ duyên tôi may
mắn được gặp bác qua một lần đẩy cây chắn ngang xe bác. Nghĩ lại thấy ngại và
đáng xấu hổ vì ước muốn nhỏ nhen được gặp người của mình mà làm chắn đoạn
đường bác đi. Thế mà bác lại chẳng trách tôi lại thông cảm và hiểu cho tôi. Từ đó
về sau bác hay lên thăm tôi khi thì mua sách khi lại mua cho tôi những thứ tôi cần.
Hôm nay cũng như thường lệ; nhác thấy chiếc xe của bác phía xa xa, tôi rạng
rỡ chạy tới dúi vào tay bác củ tam thất nhỏ vừa đào được, gửi bác về ngâm rượu
bồi bổ cho bác gái vừa mới ốm dậy. Tôi hồ hới khoe với bác mà chẳng để ý bác
còn dẫn thêm hai người khách. Bác giới thiệu nhanh với tôi rằng đó là một ông
họa sĩ già và một cô kĩ sư nông nghiệp. Theo lời gợi ý của bác, tôi có lời mời
khách lên thăm nhà và cũng chính là nơi tôi làm việc.
Ở đây cuộc sống cô độc tôi có trồng thêm vài cây hoa: hoa dơn; hoa thược
dược; hoa hồng phấn… Sắc xanh đỏ, tím đan xen rực rỡ. Không nhiều nhưng cũng
đủ làm nức lòng khách nơi xa. Cô kĩ sư xinh đẹp cũng không nằm trong ngoại lệ,
cô ô lên một tiếng đầy thích thú. Cô ấy là cô gái đầu tiên từ Hà Nội tới thăm nhà
tôi vậy chả có lý do gì mà tôi không dành tặng cho cô ấy một bó hoa thật to.
Bác lái xe già chỉ cho tôi gặp “người” được ba mươi phút để bác không lỡ dở
hành trình của mình. Vì thế tôi phải tranh thủ từng giây từng phút quý giá của
cuộc đời. Tôi xin ông và cô năm phút để kể về câu chuyện của mình và hai mươi
phút để được nghe về chuyện dưới xuôi. Tôi thực sự rất muốn biết dưới xuôi bây
giờ tình hình kinh tế, con người như thế nào, có gì đổi mới.
Tôi bắt đầu kể về công việc của mình. Công việc của tôi gắn liền với những
chiếc máy nằm ngoài vườn kia. Nhiệm vụ của tôi là đo gió, đo mưa, đo nắng, tính
mây, tính chấn động, dự báo thời tiết hàng ngày phục vụ cho bà con sản xuất và
chiến đấu. Vừa kể tôi vừa giới thiệu cho bác từng loại máy: nào là máy đo mưa;
mưa xong thì đổ nước mưa ra cốc phân ly rồi đo; còn đây là máy nhật quang ký,
chuyên dùng để đo mức độ nắng dựa trên khả năng thiêu đốt giấy rồi máy đo gió;
đo mây… Tôi giới thiệu cho họ về những máy móc làm việc hàng ngày của tôi; tôi
sử dụng chúng để nghiên cứu lấy số liệu rồi báo về bằng bộ đàm chuyên dụng vào
khoảng thời gian cố định là bốn giờ; mười một giờ; bảy giờ tối và mười một giờ
sáng. Nắm chắc kiến thức khoa học; công việc nói chung là đơn giản. Chỉ ngại
mỗi hôm thời tiết khắc nghiệt; gió tuyết lạnh căm mà phải ra vườn lúc một giờ
sáng thì cảm giác thật khó tả. Cái lặng im; gào thét lạnh lẽo của gió như giằng xé,
nuốt trọn con người nhỏ bé. Lúc xong việc quay trở vào giường lại đau đáu trằn
trọc không tài nào tiếp giấc được nữa.
Nói đến đây giọng tôi bỗng nghẹn lại, cảm như có cái gì đó đè nén, có cái gì
nghẹn ngào đến khó tả. Tôi ngẩng lên thấy cô gái đang chăm chú lắng nghe, ông
họa sĩ già lại dục tôi:
- Anh kể tiếp đi.
Tôi sợ rằng kể nữa mình sẽ chẳng kìm được cảm xúc nên lảng sang, tôi vui vẻ:
- Thôi mời cô và ông vào trong nhà. Chè đã ngấm rồi đó ạ.
Nhà tôi thì đơn sơ: có chiếc giường con; chiếc bàn học và một giá sách. Sống một
mình thế có lẽ là đủ. Tôi rót nước mời ông, mời cô nhưng cô gái trẻ lại đang mải
mê bên trang sách nên tôi chỉ lẳng lặng đặt nhẹ phía trước mặt. Uống chè tôi pha,
ông họa sĩ tỏ ra thích thú, ông tiếp:
- Ta thỏa thuận thế này. Chuyện dưới xuôi, mười ngày nữa trở lại đây, tôi sẽ kể
anh nghe. Tôi sẽ trở lạ i, danh dự đấy. Tôi cũng muốn biết cái yên lặng lúc một giờ
sáng chon von trên cao nó thế nào. Bây giờ có cả ba chúng ta đây, anh hãy kể
chuyện anh đi. Sao người ta bảo anh là người cô độc nhất thế gian? Rằng anh
“thèm” người lắm?
Nghe đến đây tôi sững sờ, đoán biết là do bác lái xe kể, tôi vội thanh minh:
- Không, không đúng đâu. Một mình thì anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng ba
nghìn một trăm bốn mươi hai mét kia mới một mình hơn cháu. Làm khí tượng, ở
được cao thế mới là lí tưởng chứ.
Nói cho vui thế chứ cũng có lúc tôi đã từng nghĩ mình cô đơn nhưng ngẫm lại
cho cùng tôi nào có cô đơn, tôi còn có công việc vả lại công việc của tôi còn gắn
liền với bao anh em, đồng chí dưới kia. Còn nói về cái thèm người tôi không phủ
nhận. Mỗi lúc như thế tôi lại nói với lòng mình rằng: Mình sinh ra ở đâu và làm
việc vì cái gì? Mình phải có trách nhiệm và cống hiến hết mình. Mà đâu chỉ mình
tôi thèm người bác lái xe cũng thế còn gì, những hôm bác ấn còi inh ỏi mà tôi
không chịu xuống là bác lại mò lên tận đây.
Quay sang cô kĩ sư tôi nói:
- Và cô thấy đấy, tôi còn có sách làm bạn cơ mà.
Ông họa sĩ thắc mắc hỏi tôi:
- Quê anh ở đâu?
Tôi không ngần ngại chia sẻ:
- Quê cháu ở Lào Cai và tôi có một ông bố tuyệt lắm.
Tôi kể cho họ nghe chuyện hai bố con tôi cùng viết đơn xin ra lính đi mặt
trận. Kết quả: bô tôi thắng cháu một – không. Dịp Tết vừa rồi có một đoàn các chú
lái máy bay lên thăm cơ quan tôi ở Sa Pa. Không có tôi ở đấy. Các chú lại cử một
chú lên tận đây. Chú ấy nói: nhờ có tôi góp phần phát hiện một đám mây khô mà
ngày ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mỹ trên cầu Hàm
Rồng. Đối với tôi lúc đấy cảm xúc như vỡ òa, hạnh phúc vì cũng có lúc mình lại
lập được chiến công to đến thế. Chú lái máy bay có nhắc đến bố tôi, ôm tôi mà lắc
“Thế là một – hòa nhé!”. Chú nói thế chứ tôi vẫn còn thua bố nhiều lắm.
Bất giác quay sang tôi thấy ông họa sĩ đang hí hoáy vào cuốn sổ trên gối. Bác
vẽ tôi nhưng mình còn chưa xứng đáng. Dù thể để không vô lễ tôi vẫn ngồi yên để
bác vẽ. Những nét phác họa nhanh nhưng chứa đựng đầy tâm huyết và tình cảm ở
trong đó. Tôi cảm nhận là vậy.
Tôi biết có rất nhiều người xứng đáng hơn mình. Tôi nhanh nhảu:
- Cháu giới thiệu với bác ông kĩ sư ở vườn rau dưới Sa Pa! Ngày này sang ngày
khác ông ngồi im trong vườn su hào, rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho
hoa su hào. Rồi, để được theo ý mình, tự ông cầm một chiếc que, mỗi ngày chín
mười giờ sáng, lúc hoa tung cánh, đi từng cây su hào làm thay cho ong. Hàng vạn
cây như vậy. Để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngon
hơn trước. Ông kĩ sư làm cháu thấy cuộc đời đẹp quá. Bác về Sa Pa vẽ ông ta đi,
bác. Hay là, đồng chí nghiên cứu khoa học ở cơ quan cháu ở dưới ấy đấy. Có thể
nói đồng chí ấy trong tư thế sẵn sàng suốt ngày chờ sét. Nửa đêm mưa gió rét
buốt, mặc, cứ nghe sét là đồng chí choáng choàng chạy ra. Như thế mười một
năm. Mười một năm không một ngày xa cơ quan. Không đi đến đâu mà tìm vợ.
Đồng chí cứ sợ nhỡ có sét lại vắng mặt mình. Đồng chí đang làm một cái bản đồ
sét riêng cho nước ta. Có cái bản đồ ấy thì lắm của lắm bác ạ. Của chìm nông, của
chìm sâu trong lòng đất đều có thể biết, quý giá lắm. Trán đồng chí cứ hói dần đi.
Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi.
Đó là những con người hi sinh thầm lặng, những con người cống hiến hết
mình giữa cái chốn hoang vu, lạnh lẽo để dựng xây quê hương đất nước. Nói đến
đây tôi thoáng thấy một nét đượm buồn ,băn khoăn đầy ưu tư trên khuôn mặt ông
họa sĩ.
Còn về cô kĩ sư nông nghiệp. Tôi không giỏi đoán được suy nghĩ con gái. Tôi
không biết rằng cô đang nghĩ gì? Về câu chuyện tôi kể hay về những cảm xúc tình
yêu trong cuốn sách? Hay phải chăng còn là những quyết định đã qua? Tôi không
thể đoán được nhưng tôi chắc rằng trong cô đang dạt dào lên một ấn tượng hàm ơn
khó tả. Và như muốn để lưu lại chút gì đó nơi đây cô cố tình kẹp lại chiếc khăn tay
vào giữa cuốn sách gửi lại cho tôi.
Nhưng vì lịch sự, vì những suy nghĩ chốc lát tôi lại gào lên:
- Ô, cô còn quên khăn mùi soa đây này!
Rồi cuộn tròn lại trả cho cô. Cô gái ngượng ngùng nhận rồi ngoảnh mặt quay đi.
Tôi đúng là vô tâm, vô tâm nên mới không hiểu ý nhị của người con gái đáng yêu;
tâm tình ấy. Mãi đến bây giờ nhận ra thì cũng đã chỉ còn là quá khứ.
Thời gian cũng đã hết tôi phải tiễn hai người khách đặc biệt ra về. Ông họa sĩ ôm
chặt vai tôi lắc mạnh đầy hứa hẹn:
- Chắc chắn rồi tôi sẽ trở lại. Tôi ở với anh ít hôm được chứ?
Còn cô gái nắm lấy tay tôi buông câu nhẹ nhàng:
- Chào anh.
Một tình cảm nghẹn ngào như hàm chứa trong đó, cảm xúc dâng trào đến tột cùng
trong tôi và có lẽ trong cả chính cô gái ấy.
Tôi xách vội túi trứng, dúi vào tay ông họa sĩ:
- Cái này để ăn trưa cho bác, cho cô và bác lái xe. Cháu có bao nhiêu là trứng, ăn
không xuể. Cháu không tiễn bác và cô ra xe được, vì gần tới giờ “ốp” rồi. Thôi
chào bác, chào cô. Bác sẽ trở lại nhé.”
Trung thực mà nói chưa đến giờ tôi trực nhưng tôi sợ sợ cái cảm giác chia ly
ấy, sợ phải nói lời tạm biệt, sợ phải xa cái gọi là “hơi người”. Tôi chạy vào trong
nhà và ngắm nhìn mãi cho đến khi bóng cái xe khuất hẳn phía đằng xa.
Đó là câu chuyện của tôi câu chuyện về chuyến gặp gỡ đặc biệt nơi núi rừng
lạnh lẽo. Trong con mắt của ông họa sĩ già, của cô kĩ sư và của những người khác
nữa, có lẽ đôi lúc họ sẽ tự hỏi tại sao tôi lại hành khổ mình đến thế? Tại sao tôi lại
phí hoài tuổi trẻ đến thế? Tuổi trẻ để bay bổng còn tại sao tôi lại chọn cuộc sống
cô đơn? Tôi không buồn mà trái lại tôi còn cảm thấy vui, cảm thấy hạnh phúc vì
đã được đóng góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước; được cống
hiến nhiệt thành tuổi trẻ này cho non sông, núi rừng, để quốc gia ngày một đi lên,
phát triển hưng thịnh và giàu đẹp. Hi vọng thế hệ sau này sẽ có những con người
như tôi, như ông kĩ sư hay đồng chí nghiên cứu sét - Những con người Lặng lẽ Sa
Pa.
8. Chiếc lược ngà
a. Hoàn cảnh sáng tác.
- Truyện ngắn « Chiếc lược ngà » được viết năm 1966. Đây là giai đoạn mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt và tác giả đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.
- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên.
b. Ý nghĩa nhan đề.
« Chiếc lược ngà » là hình ảnh, chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết cuộc đời, tính cách của các nhân vật và góp phần khắc họa sâu nội dung truyện.
- Với bé Thu, chiếc lược ngà là ước mơ, là món quà đầu tiên và cũng là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy, chiếc lược ngà là kỉ vật, hình ảnh của người cha.
- Với ông Sáu, chiếc lược ngà không chỉ là món quà ông dành tặng con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi vậy, chiếc lược ngà là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông
gửi gắm cho cô con gái bé bỏng.
- Với bác Ba, chiếc lược ngà là sự trao gửi thiêng liêng giữa người cán bộ cách mạng với đứa con gái của người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường.
- Với 2 cha con ông Sáu, chiếc lược ngà là biểu tượng thiêng liêng, bất diệt và cầu nối tình cảm sâu nặng của 2 cha con.
c. Tóm tắt tác phẩm.
Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà với hi vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, chưa hề 1 lần gặp mặt. Mấy ngày đầu bé Thu không nhận ra
ba do vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà em biết. Em bướng bỉnh và đối xử với ông Sáu như 1 người xa lạ.
Nghe bà ngoại kể, bé Thu đã nhận cha và tình cảm cha con đã thức dậy 1 cách mãnh liệt. Song đó cũng là lúc ông Sáu phải trở lại chiến khu. Ở khu căn cứ, người cha dồn
hết tình thương, nỗi nhớ vào việc làm 1 chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh trong 1 trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc
lược ngà cho con gái.
Đóng vai bé Thu kể lại truyện Chiếc lược ngà
Với tôi, hạnh phúc là mục đích cuối cùng của một con người. Tuy nhiên, không phải ai cũng phát hiện ra điều này. Và không phải ai cũng nhận ra rằng: Hạnh phúc là những
điều ở ngay quanh ta. Tôi – thường được gọi là bé Thu, cũng là một con người luôn khao khát có được hạnh phúc. Ba Sáu – là bóng hình mà cả đời tôi luôn tìm kiếm. Đó cũng
là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời tôi. Tuy nhiên, khi tôi nhận ra điều ấy, thì tất cả cũng đã muộn màng. Vì, ba tôi đã không còn xuất hiện trở lại được nữa. Những ức ấy mãi sẽ
theo tôi đến suốt cuộc đời.
Tô i sống xa ba từ nhỏ. Ngay khi vừa tròn một tuổi, ba tôi đã đi lính để bảo vệ Tổ Quốc. Đó là tất cả những gì mà mẹ kể lại cho tôi. Và lúc ấy, tôi cũng chẳng thể nào nhớ nổi
gương mặt của cha. Và từ đó, tôi chỉ sống và trưởng thành trong sự yêu thương của mẹ. Thế nhưng, trong thâm tâm, tôi vẫn mơ có một ngày gặp lại ba, và nhận lấy sự yêu
thương từ ba. Lúc ấy, qua lời kể của mẹ, tôi vẫn luôn tự hào về ba mình. Ông là một người anh hùng, một người chiến sĩ dũng cảm nơi chiến trường.
Và rồi, 8 năm ròng, khi tôi được tám tuổi, ba trở về. Điều đó như một phép màu đối với tôi. Khi nghe mẹ báo tin, tội tràn ngập một nỗi mong chờ và háo hức. Tôi chờ ngày
bà trở về, ngày được gặp ba và được ba ôm vào lòng. Và rồi, một ngày, tôi thấy thấp thoáng từ xa một người đàn ông mặc áo lính cao to. Nhưng… tôi lại thấy, trên mặt người
đàn ông ấy, có một vết sẹo thật khủng khiếp. Khi thấy tôi, ông ta lao đến và bảo “Ba đây con!”. Sợ hãi hình dạng đó, tôi hoảng sợ và bỏ chạy vào nhà để tìm mẹ. Thế nhưng, khi
mẹ gặp người đàn ông đó, bà lại vui mừng ôm chầm lấy ông. Tôi cảm thấy thật lạ, sao mẹ lại vui mừng với người khác? Trong tâm tôi bỗng xuất hiện những ý nghĩa khác
thường về người lớn.
Sau đó, người đàn ông đó lại ở nhà tôi cùng 1 người khác. Và mẹ thì lại luôn bắt tôi phải gọi người đàn ông đó là ba. Nhưng, làm sao có thể chứ, đấy không thể là ba tôi được.
Sao lại bắt tôi nhận người đàn ông đáng sợ kia làm ba mình. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận được việc đó. Cứ thế, mỗi lần mà tôi nhìn hình ba chụp chung với má, tôi lại cảm
thấy rất chạnh lòng. Và càng cảm thấy ghét người đàn ông xấu xí với vết sẹo kinh khủng kia.
Ba ngày trôi qua, người đàn ông kia cứ xuất hiện trước mặt tôi. Thật khó chịu, nhưng tôi chẳng làm được gì cả. Cách duy nhất để phản kháng lại đó là tôi luôn cư xử xấc xược
với ông. Dù ông ta có quan tâm tôi thế nào, tôi cũng mặc kệ. Và tôi luôn trả lời ông trống không. Tôi nhớ có lần, ông ta gắp trứng cá cho tôi, tôi liền hất văng ra ngoài. Sau đó,
tôi liền bị đánh và la “Sao mày cứng đầu quá vậy hả?” Giận lắm, nhưng tôi không thèm khóc đâu, tôi sẽ chiến đấu đến cùng vì ba. Tôi cúi gằm mặt xuống, bỏ trứng vào bát, rồi
bỏ đi. Tôi sang nhà ngoại.
Lúc ấy, nghe mẹ kể ông ta hoảng lắm, khuôn mặt trở nên tái nhợt và vết sẹo ửng đỏ. Hình ảnh ấy có lẽ trông rất tội nghiệp. Giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy thật ân hận vì điều ấy.
Khi qua nhà bà ngoại, tôi được bà kể cho nghe về những sự đáng sợ của chiến tranh. Bà kể cho tôi nghe về những sự độc ác của bọn xâm lược. Rồi bà kể cho tôi nghe về
những đau khổ khi gia đình chia ly vì chiến tranh. Và rồi, bà nói cho tôi biết, khuôn mặt người đàn ông ấy chính là khuôn mặt của cha tôi do chiến tranh mà bị biến dạng…Nghe
xong, tôi thấy ân hận và căm ghét chiến tranh ghê gớm. Và tôi bỗng nhận ra một điều, đó thật là ba tôi. Và tôi bỗng mong trời sáng thật nhanh, để tôi có thể gặp ba.
Sáng hôm sau, tôi được bà dẫn về. Lúc đó, ân hận và lo lắng vì những điều mình đã làm, tôi chẳng dám đến gần ba. Tôi chỉ dám đứng một góc, nhìn mẹ và mọi người tiễn ba
ra trận lần nữa. Lúc này, tôi cảm thấy thật lạc lõng. Sau đó, ba tiến gần đến tôi, như không để ý gì đến những việc sai trái tôi đã làm, ba nói bằng một giọng nói u buồn “Thôi, ba
đi nghe con!”. Mọi cảm xúc bỗng bùng nổ, tôi gọi “Ba!”. Tiếng gọi chất chứa mọi nỗi niềm thương nhớ của tôi dành cho ba.
Tiếng gọi ấy của tôi hình như đã khiến tất cả đều bất ngờ. Ngay lập tức, tội chạy vào lòng ba và hôn ông khắp nơi. Cha tôi vui mừng vì cuối cùng tôi cũng chịu nhận ông. Tuy
nhiên, lúc ấy, lúc hạnh phúc nhất, cũng là lúc đau buồn nhất. Vì, giây phút ấy, cũng là giây phút tôi phải chia tay ba. Cuối cùng, ba cũng đi ra chiến trường và mang theo lời hứa
sẽ mang về cho tôi một chiếc lược ngà. Thế nhưng, lúc ấy, tôi nào có biết. Đó là lần cuối cùng tôi gặp ba, và chiếc lược ngà tôi chỉ có thể nhận lại từ bạn của ba.
Có lẽ, mãi mãi, hình ảnh có người ba sẽ không bao giờ được xóa nhòa trong tôi. Và khoảng trống về tình yêu của ba cũng sẽ mãi mãi không được lấp đầy. Những nỗi ân hận
vì sự ngu ngốc của mình ngày trước sẽ mãi không thể nào quên được. Nhưng, tôi sẽ luôn cố gắng để đền đáp. The o cha, nay tôi đã là một cô giao liên. Vì với tôi, ba tôi sẽ mãi
sát cánh bên tôi để chiến đánh và bảo vệ tổ quốc.
Thay lời ông Sáu kể lại bài Chiếc lược ngà
Tôi người chiến sĩ ở chiến trường Nam Bộ. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, tôi bỏ lại mẹ già con thơ lên đường đi nhập ngũ. Giữa những năm tháng ác liệt của
chiến tranh cha con tôi thật khó mà gặp mặt nhau được. Mãi đến khi con lên 8 tuổi tôi mới có dịp trở về thăm quê. Chuyến về thăm quê lần này để lại trong tôi hồi ức chẳng thể
phai nhòa.
Khi tôi lên đường nhập ngũ, bé Thu nhà tôi chưa đầy một tuổi. Những lần vợ tới thăm, tôi có nhắc vợ mang con theo để tôi thỏa nỗi nhớ thương con ấy thế nhưng hoàn cảnh
lại chẳng thể cho phép. Chính vì thế mãi sau ngày khi ngày được về thăm quê tôi mới có cơ hội được gặp con.
Cái tình nhớ con thương con cứ nao nao trong lòng tôi. Tôi bồn chồn cả đêm chẳng thể ngủ được, chỉ mong sao thời gian trôi thật nhanh để sớm được gặp con, ôm con vào lòng.
Xuồng vừa cập bến nhác thấy bóng cô bé độ 8 tuổi, tóc cắt ngang vai mặc quần bông áo đỏ đang chơi trước nhà chòi, bằng giác quan thứ 6 và tình cha con mãnh liệt tôi linh
cảm đó chính là Thu- con của tôi. Tôi nhảy vội lên bờ, kêu to:
“Thu, con”
Tôi mường tượng ra con sẽ chạy đến ôm tôi, hôn tôi thắm thiết, cảnh cha con xúc động thế nhưng khi nghe tôi gọi con bé lại giật mình, tròn xoe mắt nhìn. Không kìm được
nỗi lòng tôi xúc động chầm chậm bước tới, mỗi lần tôi xúc động vết thẹo dài trên má tôi lại đỏ ửng lên trong thật dễ sợ. Có lẽ vì thế mà khiến con bé khóc thét lên rồi chạy vội
đi tìm mẹ của nó. Tôi cảm thấy mình như người xa lạ, trong lòng buồn bã đầy hụt hẫng. Trái tim tôi nhói lên đau đớn. Đứa con gái tôi mong ngóng, tôi đợi chờ lại không chấp
nhận người cha này ư? Trong lòng tôi cứ dấy lên một nỗi lòng chẳng nguôi ngoai.
Lần này tôi về nghỉ phép được 3 ngày. 3 ngày ngắn ngủi tôi chẳng dám đi đâu xa, suốt ngày chỉ quanh quẩn ở nhà để vỗ về con, thân thiết với con hơn. Tôi chỉ mong một
phút giây nào đó con sẽ nhận ra và gọi tôi là “Ba”. Tiếng ba lúc nào cũng thường trực trong tâm trí tôi, trở thành nỗi khao khát cháy bỏng trong tôi.
Nhưng nào ai ngờ tôi càng muốn gần thì con bé lại càng đẩy tôi ra xa hơn. Vợ tôi có nói nhưng nó cũng chỉ lảng tránh và tỏ ra không thích. Dù cho đặt vào hoàn cảnh cuối cùng,
khi nồi cơm sôi nhưng nó nhất quyết vẫn không chịu gọi tôi một tiếng ba để tôi chắt nước nồi cơm dùm.
Trong bữa cơm ngày hôm đó, chọn miếng trứng cá ngon nhất to nhất tôi gắp cho con bé. Nhưng nó lại ngỗ nghịch hất miếng trứng cá ra khiến cơm văng tung tóe mâm.
Vừa giận vừa thương, tôi vung tay đánh vào mông nó quát to: “Sao mày cứng đầu quá vậy”. Tưởng rằng với tính cách bướng bỉnh nó sẽ lăn ra khóc rồi giãy, đạp đổ cả mâm
cơm nhưng không nó ngồi xuống, cúi gằm mặt rồi gắp cái trứng cá vào lại bài, lặng lẽ đứng dậy, đi ra ngoài và chèo thuyền qua phía nhà ngoại. Hết bữa cơm tôi bảo vợ sang
đón con về nhưng dù vợ tôi có nói thế nào nó nhất định cũng không chịu về.
Mai đã là ngày tôi phải đi. Ra chiến trận nào ai biết trước được ngày về, không biết bao giờ tôi mới lại được gặp con thế nhưng con lại chẳng thể hiểu cho nỗi lòng người
cha này.
Cả đêm đó những dòng suy nghĩ miên man cứ lặp lại hoài trong đầu tôi. Tôi trở mình thở dài mấy lần. Mỗi lần như thế vợ tôi đều hiểu, cô ấy bảo tôi cứ yên tâm công tác,
sau con lớn rồi con sẽ hiểu ra thôi. Tôi cứ đành tặc lưỡi ngao ngán cho vợ an lòng.
Sáng hôm sau, bà con nội ngoại đến rất đông. Con bé nhà tôi cũng theo ngoại nó về. Vì mải tiếp khách tôi cũng chẳng để ý được đến con. Lúc xách ba lô lên vai, tôi ngoái lại
nhìn con. Bé con đứng ở góc nhà, không còn bướng bỉnh nữa mà vẻ mặt có chút đượm buồn, nghĩ ngợi sâu sa. Tôi chỉ muốn chạy lại hôn lên má con, ôm con nhưng tôi sợ vết
thẹo của mình lại khiến con sợ nên tôi chỉ đành lẳng lặng từ xa:
“Thôi ba đi nghe con”
Quay lưng bước đi, lòng ngập tràn thương nhớ, tôi không giấu nổi nước mắt thế nhưng lại càng xúc động hơn khi bé Thu chợt chạy đến ôm lấy tôi khóc nức nở “Baaaaaaaa”
Trời con bé gọi tôi là ba, nó đang gọi tôi là ba, tôi có nghe nhầm không chứ. Không tiếng ba của nó thật rõ, xé tan không gian im lặng, tiếng ba đầy nghẹn ngào như bóp chặt trái
tim tôi.
Tôi chạy lại ôm con vào lòng. Dường như cảm nhận được điều gì đó, bé Thu ôm chặt lấy tôi, vừa khóc vừa nói:
“Không cho ba đi nữa, ba ở lại với con”
Tôi thương con bé nhiều lắm. Đến bây giờ là phút giây tôi cảm nhận rõ nhất tình phụ tử ấy thế mà tôi lại sắp phải chia xa. Nghẹn ngào chẳng nói được nên lời, tôi nói với con bé
và cũng tự trấn an mình:
“Ba đi rồi ba sẽ về thôi con”
Nhưng con bé nào có nghe, nó đưa hai chân ghì chặt lấy người tôi. Nó sợ tôi đi mất, tôi cũng sợ, sợ phải xa con. Tôi muốn gần bên con thêm vài ngày nữa để trao cho con
những yêu thương cất giấu từ bấy lâu trong lòng nhưng vì nhiệm vụ cấp bách chiến trường không cho phép tôi được làm thế
Rồi cũng đến lúc phải đi, bà con chòm xóm an ủi bé con nhà tôi để tôi an tâm lên đường. Chứng kiến cảnh này ai nấy cũng chẳng thể cầm nổi nước mắt.
Con bé có vẻ hiểu ra, không còn bướng bỉnh nữa nhưng vẫn ôm lấy tôi mếu máo:
“Ba đi ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba”
Rồi từ từ tuột xuống.
Mãi sau này nghe kể lại tôi mới biết thì ra nó không nhận ra tôi vì vết thẹo dài, khác với ảnh má nó đã cho nó xem. Rồi ngoại đã giải thích và nó đã hiểu. Thì ra nó không hề
quên tôi, không hề quên người cha này chỉ là vì chút trẻ con ngây dại, vì vết sẹo chiến tranh khiến nó không nhận ra tôi mà thôi.
Chia tay trong nghẹn ngào, chúng tôi từ biệt mọi người trở về nhận nhiệm vụ. Chúng tôi phải trở lại miền Đông để chiến đấu. Mỗi đêm rừng, nằm trên võng nhớ về con tôi lại
ân hận vô cùng trước đây đã trót đánh con. Yêu thương chưa là bao mà lại đánh con. Tôi dằn vặt, đau đáu suốt những năm tháng chiến dịch.
Hôm đó là buổi chiều mưa rừng, tôi trở về đơn vị. Hôm nay tôi vui lắm vì tôi nhặt được một khúc ngà voi. Tôi hí hửng thích chí đem lên khoe với đồng đội. Cái ngà voi này
dùng để làm cho bé con chiếc lược chắc có lẽ nó sẽ thích lắm. Rồi tôi lấy vỏ đạn hai mươi li của Mỹ đập thành chiếc cưa nhỏ.
Những ngày tháng về sau, tranh thủ phút giây rảnh rỗi nghỉ ngơi tôi lại lôi ra, tỉ mỉ cưa từng chiếc răng lược. Ấy thế mà chẳng mấy chốc chiếc lược cũng hoàn thành. Tôi
dùng tất cả niềm thương nỗi nhớ nắn nót khắc từng chữ nhỏ lên chiếc lược: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” Cái lược dài độ hơn một tấc, ngày nào tôi cũng đem nó ra ngắm
nghía cho vơi bớt nỗi nhớ con. Chiếc lược cho tôi thêm ý chí vượt qua mọi gian lao, hiểm nguy, chiến đấu và chiến thắng để sớm ngày được trở về đoàn tụ cùng con.
Chiến tranh khiến con người phải xa cách, chiến tranh khiến cho những đứa trẻ không còn nhận ra ba của nó nữa, đến khi nhận ra lại chẳng được ở bên nhau. Có lẽ không
chỉ có con tôi, gia đình tôi mà con rất nhiều người như thế, gia đình cũng lâm vào hoàn cảnh éo le như chúng tôi. Chỉ có hòa bình, có thống nhất con người ta mới hạnh phúc,
ấm no. Chúng tôi- những người lính cách mạng nhất định sẽ chiến đấu và chiến thắng để nhân dân Việt Nam, dân tộc Việt Nam được sống trọn trong thống nhất, độc lập, tự do,
an bình, để trẻ thơ được yêu thương, chăm sóc bên cha mẹ, gia đình.

You might also like