Professional Documents
Culture Documents
Đồ án lò hơi công nghiệp HUỲNH VĂN VŨ-SG22CNL
Đồ án lò hơi công nghiệp HUỲNH VĂN VŨ-SG22CNL
ĐỀ TÀI:
Việc sản xuất và sử dụng hơi đã có từ rất lâu. Nếu không kể đến chiếc
chong chóng hơi-aelopile-do nhà toán học Hero người Hy lạp chế tạo ra từ những
năm 200 trước Công nguyên, chiếc bánh xe quay bằng hơi nước của một người Ý
tên là Branca chế tạo từ năm 1600 thì năm 1680 Dr. Denis Papin chế tạo lò hơi có
áp suất dùng trong chế biến thực phẩm; năm1698, Thomas Savery được cấp bằng
sáng chế về hệ thống bơm nước bằng hơi. Năm 1690 máy hơi nước đầu tiên được
chế tạo theo ý tưởng của Papin và được hoàn thiện bởi Thomas Newcomen và John
Cowly vào năm 1711. Lúc đó, lò hơi và máy hơi đi liền với nhau. Đến 1769, một
công nhân cơ khí người Anh Jame Watt mới chế tạo lò hơi kiểu toa xe tách khỏi
động cơ; từ 1804, Trevithick đã thiết kế loại lò hơi dạng như hiện nay, thân hình trụ,
đáy tròn, chịu được áp suất cao. Cũng đáng chú ý là từ năm 1730 Dr. John Allen đã
lần đầu tiên tính toán hiệu suất lò hơi làm cơ sở để không ngừng cải tiến, hoàn
thiện.
Đến nay, đã có những lò hơi đồ sộ, mỗi giờ sản xuất đến ba bốn ngàn tấn
hơi nước trên dưois triệu chiếc lò hơi ra đời với hàng trăm kiểu dáng và quy mô
khác nhau. Có những lò hơi nhỏ, mỗi giờ chỉ sản xuất được mấy chục lít nước nóng
hoặc hơi bão hòa ở áp suất bình thường 300 bar, nhiệt độ dưới 600 0C cấp hơi cho tổ
máy phát điện đên 1200-1300 MW.
Rõ ràng việc sản xuất và sử dụng nhiệt của hơi nước đã góp phần quan
trọng trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, phát triển của xã hội và nâng cao đời
sống nhưng cũng cần lưu ý là hơi nước ở áp suất và nhiệt độ cao cũng rất nguy hại,
không chỉ cho tài sản mà cho cả đến tính mạng con người, không phải đến bây giờ
mà đã từ rất lâu; trong cuốn sánh về “Hơi nước” xuất bản năm 1898 cho biết là năm
3
1880 chỉ riêng nước Mỹ đã có 170 vụ nổ lò hơi làm chết 250 người và bị thương
555 người… Do vậy ta cần tìm cách tiếp tục phát huy tác dụng tích cực của việc sản
xuất hơi, đồng thời hạn chế nguy hiểm đến mức tối thiểu.
Trong suốt quá trình làm đồ án với sự nổ lực của nhóm cùng với sự hướng dẫn của
thầy: ThS. Nguyễn Văn Phúc đến nay đồ án nhóm đã được hoàn thành. Mặc dù
chúng em đã cố gắng tìm tòi và học hỏi nhưng do kinh nghiệm, kiến thức còn hạn
chế nên không tránh khỏi thiếu sót trong quá trình làm đồ án. Nhóm rất mong nhận
được sự giúp đỡ góp ý của thầy để chúng em hoàn thiện hơn về kiến thức chuyên
môn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn thầy: ThS. Nguyễn Văn Phúc đã tận tình
hướng dẫn nhóm trong thời gian tìm hiểu và thực hiện đề tài này. Sự hướng dẫn,
góp ý tận tình của thầy đã là nguồn động viên to lớn giúp nhóm rất nhiều trong quá
trình thực hiện đề tài.
Sau cùng, chúng em xin kính chúc Thầy dồi dào sức khỏe, niềm tin để tiếp tục
thực hiện sứ mệnh cao đẹp của mình là truyền đạt kiến thức cho thế hệ mai sau.
Huỳnh Văn Vũ
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LÒ HƠI VÀ CHỌN PHƯƠNG ÁN THIẾT KẾ
1.1 Quá trình phát triển về cấu tạo của lò hơi:
Quá trình phát triển về cấu tạo của nồi hơi thường chuyển từ loại này sang
loại khác là do yêu cầu ngày càng tăng về công suất sản lượng hơi cũng như yêu
cầu về giảm tiêu hao kim loại và nhiêu liệu cho nồi hơi.
Các nồi hơi hình trụ và các loại nồi hơi ống lửa chuyển sang các loại nồi
hơi ống nước đã diễn ra cách đây hàng trăm năm. Kết quả là ta đã đạt được việc
tăng diện tích bề mặt đốt trên cơ sở giảm đường kính ống, tức là tăng được công
Trong các nồi hơi ống nước nằm ngang có buồng nước các ống sinh hơi
được liên kết với nhau thành từng chùm nhỏ các buồng nước hình hộp. Điều này
không cho phép tăng áp suất hơi lên quá 12 – 15 at và không thể tiêu chuẩn hóa
việc chế tạo các bộ phận của nồi hơi. Các nhược điểm này có thể khắc phục bằng
cách nối các chùm ống thẳng với đầu góp hình trụ và cứ hai chùm nằm ngang thì
nối với một bao hơi. Điều đó cho phép tăng áp suất hơi, đồng thời tăng được công
suất của nồi hơi, nhờ tăng số lượng, chiều dài ống và tăng số lượng đầu góp. Các
bao hơi lúc đầu thì đặt dọc về sau thì đặt ngang, vì khi đặt dọc công suất của lò sẽ
bị giới hạn bởi không phát triển được bề mặt đốt theo chiều rộng. Để ngăn ngừa sự
5
đóng xỉ, các hàng ống phía dưới được làm dưới dạng festôn. Áp dụng các bộ phận
hâm nước và bộ sấy không khí cho phép tăng hiệu suất của nồi hơi và tăng công
Tuy nhiên, sự tiêu hao nhiều kim loại do có nhiều bao hơi, sự bố trí dày đặc
các chùm ống cản trở công việc vệ sinh nồi hơi và các nhược điểm khác đã làm
cho việc phát triển các loại nồi hơi trên đây không còn nữa.
Ngày nay, nồi hơi đã được thay thế bởi các loại nồi hơi ống nước đứng. Các
ống sinh hơi được đấu trực tiếp vào bao hơi. Lúc đầu số bao hơi lên tới 3 – 5 và
các ống thẳng, về sau dần dần chỉ còn 1 bao hơi và các ống thì uốn cong ở 2 đầu.
Điều đó đã cải thiện điều kiện liên kết các ống và phát triển bề mặt đốt bức xạ
trong buồng lửa. Trong những năm gần đây người ta đã hoàn thiện loại lò hơi có
một bao hơi cũng như loại nồi hơi không có bao hơi – nồi hơi trực lưu.
Thiết bị nồi hơi hiện đại bao gồm bản thân nồi hơi và các thiết bị phụ của
nồi hơi. Hệ thống đập than và nghiền than thành bột, vận chuyển và cung cấp
nhiên liệu và nước cho lò, các loại quạt để cung cấp gió và vận chuyển khói. Các
Nồi hơi lớn và hiện đại thường có đủ các bộ phận như sau: buồng lửa, dàn
ống sinh hơi, bộ quá nhiệt, bộ hâm nước và bộ sấy không khí. Ngoài ra, phải có
6
đầy đủ tất cả các loại van, dụng cụ đo và kiểm soát, các thiết bị tự động điều
chỉnh.
Buồng lửa và đường khói được làm bằng gạch chịu lửa hoặc các tấm
Lò hơi công suất trung bình, thường quy ước sản lượng hơi từ 20 đến
75 T/h
Lò hơi công suất lớn, thường quy ước sản lượng trên 75 T/h
Lò hơi thông số trung bình, thường quy ước áp suất từ 15 đến 60 bar,
nhiệt độ từ 350 0C đến 450 0C
Lò hơi thông số trung bình, thường quy ước áp suất trên 60 bar, nhiệt
độ từ 450 0C đến 540 0C
Lò hơi thông số siêu cao, thường quy ước áp suất trên 140 bar, trong
loại này có khi còn chia thành lò hơi dưới hoặc trên thông số tới hạn
7
Dựa theo chế độ chuyển động của nước trong lò hơi, có thể chia thành 4
1.2.3
loại:
Lò hơi đối lưu tự nhiên: ở đây môi chất chỉ chuyển động đối lưu tự
nhiên do sự chênh lệch về mật độ trong nội bộ môi chất mà không
tạo được vòng tuần hoàn tự nhiên, thường gặp trong các lò hơi công
suất nhỏ.
Lò hơi tuần hoàn tự nhiên: đây là lò hơi thường gặp, nhất là trong
phạm vi công suất trung bình và lớn. Khi vận hành, môi chất chuyển
động theo vòng tuần hoàn, nghĩa là theo một quỹ đạo khép kín rõ
Lò hơi tuần hoàn cưỡng bức: dưới tác dụng của bơm, môi chất
chuyển động theo quỹ đạo khép kín, gặp trong lò hơi có thông số
cao.
Lò hơi đối lưu cưỡng bức: đây là lò hơi trực lưu hoặc đơn lưu; trong
loại lò hơi này, dưới tác dụng của bơm, môi chất chỉ đi thẳng một
chiều, nhận nhiệt, biến dần thành hơi đưa ra sử dụng mà không có
Dựa theo cách đốt nhiên liệu, có thể chia thành mấy loại:
1.2.4
8
Lò hơi đốt theo lớp: nhiên liệu rắn (than, củi, bã mía…) được xếp
thành lớp trên ghi để đốt. Có loại cố định, có loại ghi chuyển động
thường gọi là ghi xích, có loại ghi xích thuận chiều và ngược chiều.
Lò hơi đốt phun: nhiên liệu khí, nhiên liệu lỏng phun thành bụi,
nhiên liệu rắn nghiền thành bột phun vào buồng lửa, hỗn hợp với
không khí và tiến hành các giai đoạn của quá trình cháy trong không
Lò hơi đốt đặc biệt: thường gặp hai loại buồng lửa xoáy và buồng
lửa tầng sôi.
Buồng lửa có thể đốt được than cám nguyên khai hoặc nghiền
sơ bộ. Nhiên liệu và không khí được đưa vào buồng lửa hình trụ theo
chiều tiếp tuyến với tốc độ cao. Dưới tác dụng của lực ly tâm, xỉ
lỏng và các hạt nguyên liệu có kích thước lớn bám sát thành lớp vào
tường lò, rồi đến các lớp có kích thước nhỏ hơn, những lớp này cháy
hoàn toàn theo lớp, còn những hạt than nhỏ cùng với chất bốc
Còn trong lò hơi buồng lửa tầng sôi (tầng lỏng), nhiên liệu rắn
nguyên khai hoặc nghiền sơ bộ sau khi được đưa vào, dưới tác dụng
của gió có tốc độ đủ cao, dao động lên xuống trong một khoảng
9
không gian nhất định của buồng lửa và tiến hành tất cả các giai đoạn
Các cách phân loại khác: Ngoài các cách trên còn có một số cách phân loại
1.2.5
khác như:
Dựa theo trạng thái xỉ thải ra, chia thành lò hơi xỉ thải khô và loại xit
thải lỏng
Dựa theo áp suất của không khí và sản phẩm cháy trong buồng lửa, có
loại buồng lửa áp suất âm, có loại buồng lửa áp suất dương; trong loại áp
suất dương có loại đốt cao áp, có loại đốt dưới áp suất bình thường.
Dựa theo cách lắp đặt, có loại lò hơi di động, có loại lò hơi tĩnh tại.
Dựa theo công dụng, có loại lò hơi cấp nhiệt, có laoij lò hơi động lực.
Dựa theo đặc điểm bề mặt truyền nhiệt, có loại lò hơi ống lò, có loại lò
hơi ống lửa, có loại lò hơi ống nước, có loại lò hơi nằm, có loại lò hơi
đứng.
Là nồi hơi đơn giản nhất có dạng một bình hình trụ, khói đốt nóng ngoài
bình. Để tăng bề mặt truyền nhiệt của nồi, người ta có thể tăng số bình của lò.
10
Người ta có thể tăng bề mặt truyền nhiệt của nồi hơi bằng cách đặt vào trong bình
lớn nhất một hay hai đến 3 ống 500 800 mm gọi là ống lò. Khói đi trong ống lò
Ưu điểm: Loại này không đòi hỏi nhiều về bảo ôn buồng lửa có thể tích
-
chứa nước lớn.
Khuyết điểm: Khó tăng bề mặt truyền nhiệt theo yêu cầu công suất, hơi
-
sinh ra thường là hơi bảo hòa.
Nồi hơi ống lò thường có sản lượng bé, khoảng 2 2,5 t/h.
-
Trong loại này ống lò được thay bằng ống lửa với kích thước nhỏ hơn (50
150mm). Buồng lửa được đặt dưới nồi hơi. Khói sau khi đi qua ống lửa còn có thể
- Ưu điểm: Loại nồi hơi này có bề mặt truyền nhiệt lớn hơn, suất tiêu hao
kim loại giảm so với loại ống lò. Nhưng loại này khả năng tăng công suất và chất
- Nồi hơi phối hợp ống lò - ống lửa được sử dụng khá rộng rãi hiện nay do
nó lợi dụng được ưu điểm của nồi hơi ống lò và nồi hơi ống lửa. vì vậy những nồi
này năng suất bốc hơi cao hơn, cho phép tăng công suất của nồi hơi lên cao hơn.
11
Do kích thước của nồi hơi này rất gọn nên được sử dụng chủ yếu cho nhu
cầu di động: nồi hơi xe lửa, tàu thủy, cho các trạm phát điện di động (nồi hơi
lôcô).
Là loại nồi hơi phối hợp có sản lượng hơi lớn nhất, có thể đạt 20t/h, năng
suất bốc hơi cũng cao nhất trong các loại nồi hơi ống lò và ống lửa, từ 30 35 đến
Do hơi sản xuất ra để chạy máy hơi nên nồi hơi cần đặt thêm bộ
quá nhiệt để gia nhiệt hơi tới nhiệt độ thường không quá 4000C. Các ống xoắn của
bộ quá nhiệt có thể đặt ở buồng khói sau cụm ống lửa hoặc có thể đặt lồng trong
Để đảm bảo tuần hoàn nước trong lò, người ta đặt thêm hệ thống
ống nghiêng trong hộp lửa, dẫn nước chuyển động từ dưới lên.
Do trở lực của đường ống tương đối lớn hơn đầu xa của nồi cần
tạo nên một chân không lớn để đảm bảo hút được khói chân không này thường tạo
nên bởi một ejectơ làm việc bằng hơi thải của máy hơi.
Dùng để chạy máy hơi phát động lực, nó được chế tạo thành hai loại: Loại di
động và loại tĩnh tại. Đối với nồi hơi lôcô tĩnh tại, ống lò có cấu tạo hình lượn
12
sóng. Để dễ dàng cho việc làm sạch lò, ống lò, cụm ống lửa và buồng khói sau khi
được nối với nhau bằng bulông. Khi vệ sinh, sửa chữa chúng có thể tháo rời nhau
ra.
Do yêu cầu về kích thước gọn, không cho phép tăng chiều dài của nồi hơi nên
người ta không nối dàn ống lò với ống lửa mà đặt ống lò với ống lửa song song
với nhau, khi ấy dòng khói ra khỏi ống lò được quặt trở lại để đi trong các ống lửa
nên lò còn có tên gọi là lò lửa quặt. Ngoài những ưu và nhược điểm chung của lò
Ưu điểm: Kích thước rất gọn, chiếm diện tích đặt ít.
Khuyết điểm: Vận hành, sửa chữa vất vả, do kích thước buồng lửa quá nhỏ
và đặt ở những độ cao khác nhau.
Các ống nước được đặt nằm nghiêng so với mặt phẳng nằm ngang một góc
nhỏ (từ 12 – 250). Các hệ thống ống nước được nối với nhau bằng hai hộp góp.
Hai hộp góp này được nối với bao hơi đặt dọc.
Khuyết điểm của lò hơi có bao hơi đặt dọc là số dãy ống theo chiều ngang
được chọn phụ thuộc vào đường kính bao hơi (không được tùy ý chọn). Muốn
13
tăng số dãy ống ngang thì cần thiết tăng số lượng bao hơi, trong khi đó số ống
theo chiều đứng cũng không thể tăng quá nhiều được, do điều kiện phải đảm bảo
Khuyết điểm của nồi hơi có hộp góp là có một hộp phẳng rộng nên không
thể tăng áp suất lên cao được, các ống nước hấp thụ nhiệt khác nhau có giản nở
nhiệt khác nhau nhưng lại được nối chung cùng một hộp góp nên dễ gây xì hở mối
Ngoài ưu điểm cho phép tăng bề mặt đốt của lò hơi, giảm được suất tiêu
hao kim loại (tới 30% so với lò có bao hơi đặt dọc), lò hơi có bao hơi đặt nằm
ngang còn có ưu điểm nữa là ống góp được nối với bao hơi bằng những ống cong,
Nhìn chung lò hơi ống nước nằm nghiêng có những ưu điểm sau:
- Tăng áp suất và sản lượng hơi nước lên rất nhiều so với lò hơi ống lửa
- Ống nước nghiêng nên dễ dàng thải cáu bám trong ống
Nhưng lò hơi có ống nước nằm nghiêng có những khuyết điểm sau:
- Tường buồng lửa phải làm việc trong diều kiện nặng nề vì tiếp xúc với
- Tuần hoàn nước còn yếu vì ống đặt nằm nghiêng với góc bé.
- Lò hơi ống nước nằm nghiêng được dùng chủ yếu cho các xí nghiệp công
Ở nước ta, loại lò hơi này chỉ được sử dụng trong một số xí nghiệp công
nghiệp. Thông số hơi của loại lò này không quá 1,5MN/m2, 3500C, sản lượng hơi
Để tăng cường độ tuần hoàn của nước, người ta chuyển các ống nước nằm
nghiêng thành thẳng đứng. Khi ấy các ống được nối vuông góc với bao hơi, nên để
bảo đảm độ bền của mối núc, người ta đã táp thêm vào thành bao hơi một tấm thép
rèn hình bậc thang, ống sẽ được nối vuông góc với các bậc thang của tấm thép
này.
Ưu điểm: Dễ dàng xem xét và làm sạch bên trong đường ống.
Khuyết điểm: Giữa các bao hơi bị uốn cứng với nhau gây khó khăn cho
việc giản nở nhiệt, dễ bị rò nứt nhất là lúc nhóm lò và lúc thay đổi phụ tải nhanh.
Để tăng cường khả năng tuần hoàn của nồi hơi, người ta đặt thêm bơm tuần
hoàn. Khi đó, nó sẽ làm việc theo chế độ tuần hoàn cưỡng bức với bội số tuần
hoàn lớn.
1. Trang bị cho các cơ sở sử dụng lò hơi bé (nồi hơi dùng khí thải).
2. Trang bị cho các cơ sở sử dụng lò hơi lớn (như nhà máy điện). Khi ấy áp
suất được thiết kế tới 21MN/m2, công suất D = 2500 t/h. Tuy áp suất làm việc
của nồi lớn nhưng áp lực đẩy của bơm tuần hoàn khá bé, chỉ cần đủ khắc phục trở
môi chất làm việc một chiều, từ lúc vào ở trạng thái nước cấp tới lúc ra ở trạng
thái hơi quá nhiệt có thông số quy định. Lò hơi trực lưu ra đời vào khoảng năm
1925-1930.
Ưu điểm:
- Do không có bao hơi và chỉ có rất ít ống nên tốn ít kim loại, khung lò và
- Khắc phục được những thiếu xót về tuần hoàn tự nhiên như tốc độ tuần
- Cho phép tăng áp suất của hơi lên cao. Tuy nhiên, chỉ có nồi trực lưu mới
Khuyết điểm: Duy nhất ở nồi trực lưu mà đến nay chưa ai khắc phục được là
yêu cầu nước cấp phải đặc biệt sạch. Hơn nữa do trữ lượng nước trong nồi hơi chỉ
- Các nồi hơi thông thường được làm việc với áp suất trong buồng lửa bằng
áp suất khí quyển còn nồi hơi loại này sử dụng áp suất dương ở 0,3 0,5 MN/m2.
Khi ấy trở lực đường gió, đường khói được khắc phục chỉ bởi quạt gió mà không
cần quạt khói. phần không khí nóng cung cấp cho hệ thống nghiền than được gia
nhiệt trong bộ sấy không khí thứ cấp với áp lực bình thường, còn bộ sấy không khí
Tăng áp suất trong buồng lửa sẽ làm tăng được tốc độ khói, do đó làm tăng hệ
số truyền nhiệt, và có tác dụng làm giảm kích thước của nồi hơi đi rất nhiều. Mặt
khác ở áp suất lớn, quá trình cháy xảy ra tốt hơn, các tổn thất nhiệt giảm bớt đi.
+ Nồi hơi Vêlôc: Nhiên liệu lỏng hay khí được phun vào trong buồng lửa. Áp
suất thải ra khỏi buồng lửa còn khoảng 0,25 MN/m2, T = 500 ÷ 6000C được đưa
vào tua bin khí để phát điện. Môi chất tuần hoàn trong nồi hơi dưới dạng tuần
17
hoàn cưỡng bức bội số lớn. Hiệu suất của nồi vêlêc đạt tới 92%, suất tiêu hao kim
loại bé, kích thước gọn nhưng không dùng được với nhiên liệu rắn.
Loại nồi hơi áp suất buồng lửa dương có kích thước gọn, khởi động nhanh
-
nên được dùng trong ngành giao thông đường sắt, hàng hải và trong các nhà máy
b. Nồi hơi phản ứng sinh hơi của nhà máy điện nguyên tử
Về nguyên tắc hơi, nó không khác gì so với nồi hơi thông thường, nhưng cơ
bản của nồi hơi phản ứng sinh hơi không có quá trình buồng lửa.
ty thủy sản tôi chọn nồi hơi ống lò ống lửa 2 pass
- Nồi hơi phối hợp ống lò - ống lửa được sử dụng khá rộng rãi hiện nay do
nó lợi dụng được ưu điểm của nồi hơi ống lò và nồi hơi ống lửa. Vì vậy những nồi
này năng suất bốc hơi cao hơn, cho phép tăng công suất của nồi hơi lên cao hơn.
Do kích thước của nồi hơi này rất gọn nên được sử dụng chủ yếu cho nhu
cầu di động: nồi hơi xe lửa, tàu thủy, cho các trạm phát điện di động (nồi hơi
lôcô).
Biến động của nhu cầu hơi có thể được đáp ứng dễ dàng.
Do nước lớn, áp suất hơi yêu cầu thời gian tăng khá cao.
Áp suất hơi đầu ra không thể rất cao do nước và hơi nước được giữ trong cùng một
bình.
Hơi nước nhận được từ nồi hơi ống lửa không khô lắm.
Trong nồi hơi ống lửa, trống hơi luôn chịu áp lực, do đó có thể có khả năng nổ lớn
dẫn đến tai nạn nghiêm trọng.
19
CHƯƠNG 2
C3H8 CH4 H2 CO N2 O2 W
3% 26% 53% 6% 10% 1.82% 0,18%
= 418,6.(30,2.[6%]+25,8.[53%]+85,5.[26%]+218.[3%]
H2 + 0,5O2 = H2O
CO + 0,5O2 = CO2
Thể tích không khí lý thuyết cần thiết cho quá trình cháy (𝜆 = 1):
= 2.[26%]+5.[3%]+0,5.[53%]+0,5.[6%]-[1,82%]
21
Trong đó:
Entanpi của khói với 1 m3tc nhiên liệu được xác định bởi công thức:
0 0 3
I k=I k +(α−1 ). I kcal/mtc
kcal/m3tc
I0 = V0(Ct), kcal/m3tc
Trong đó:
Ct: Gọi là entanpi theo thể tích của từng loại khí ở nhiệt độ kcal/m 3.
23
Giá trị Ct (cp.tth) tính theo phụ lục bảng 2/trang 259 sách TKLH-Ts.Nguyễn
Thanh Hào.
Tính theo phụ lục bảng 2/trang 259 ta có giá trị của :
= 612,9 kcal/m3tc
Entanpi của khói với 1 m3tc nhiên liệu được xác định bởi công thức:
= 664,6 kcal/m3tc
Thiết lập sự cân bằng nhiệt tức là lập phương trình cân bằng giữa nhiệt
lượng dẫn vào lò (gọi là tổng nhiệt Q l0) và nhiệt lượng hữu ích Q 1 cùng tất cả tổn
thất nhiệt Q2, Q3, Q4, Q5, Q6 trên cơ sở đó ta có thể tính hiệu suất và tiêu hao nhiên
liệu.
24
Cân bằng nhiệt được thiết lập đối với chế độ nhiệt ổn định của lò hơi cho 1 m3tc
1.3.2 Tính tổng nhiệt thu được khi đốt 1 m3tc gas:
Với:
Do không khí được đưa trực tiếp vào buồng đốt không qua bộ sấy không khí nên
không có .
Vậy: Ql0 = Q1th = 4424,8 kcal/m3tc
Tổn thất nhiệt trong nồi hơi được biểu thị bằng giá trị tương đối %.
25
Qi
qi = ×100 % ( i=2,3,4,5,6 )
Q l0
Khói được tạo thành trong quá trình cháy tức là từ không khí và nhiên liệu.
Không khí vào lò có nhiệt độ khoảng 20-30 0C, trong khi đó nhiệt độ khói thải ra
khỏi lò thường lớn hơn 110 0C. Như vậy phải mất một lượng nhiệt để đốt nóng
không khí và nhiên liệu từ nhiệt độ môi trường đến nhiệt độ khói thải. Tổn thất này
gọi là tổn thất nhiệt do khói thải, ký hiệu là q2 (%).
Tổn thất nhiệt theo khói thải xác định bằng hiệu số giữa entanpi của khói ra
khỏi bề mặt đốt cuối cùng của lò hơi và entanpi của không khí lạnh q2 %.
Ta có:
Q2 ( I k −α k I ol )( 100−q4 )
q 2= l
×100 %= l
%
Q0 Q0
Với:
α k =1,1
Ik: entanpi của khói. Sơ bộ chọn nhiệt độ khói thải là θkhói = 3500C.
Ik = 644.6 kcal/m3tc,
0
I 1 : entanpi của không khí lạnh
I 10=V 0 (cθ )
Trong đó:
Do đó:
0 3
I 1=4,52. ( 0,31.29 ) =40,6 kcal /mtc
Vậy:
(664,6−1,1× 40,6)(100−0)
q 2= =13,56 %
4424,8
Thay các giá trị vừa tìm được vào trên, ta có:
Q2
×100=q2
Q l0
l
q 2 ×Q 0 13,56 × 4424,8
Q 2= Q 2= =600 kcal/m3tc
100 100
Khi nhiên liệu cháy không hoàn toàn thì trong khói còn có các chất khí cháy
không hoàn toàn như CO, H2, CH4. Những khí này còn có thể cháy và sinh nhiệt
27
được nhưng chưa cháy đã bị thải ra ngoài, gây nên tổn thất nhiệt gọi là tổn thất nhiệt
Xác định bằng tổng nhiệt trị của các sản phẩm không cháy hết còn lại trong
khói q3 %.
Q3
q 3= ×100 %
Q l0
Chọn q 3=1,5 %
Nên:
l
q3 ×Q 0 1,5.4424,8
Q3 = =66,4 kcal/m
3
100 = 100
Nhiên liệu đưa vào lò có một phần chưa kịp cháy đã bị thải ra ngoài theo các
đường: bay theo khói, lọt qua ghi lò hoặc rơi xuống đáy buồng lửa cùng với xỉ gây
nên tổn thất nhiệt gọi là tổn thất nhiệt do cháy không hoàn toàn về mặt cơ học q4 %.
Xác định bằng lượng nhiên liệu cháy không hết trong xỉ, trong bụi tro hay
trong khói và lượng nhiên liệu lọt xuống dưới đáy buồng lửa q4 %
Vậy: Q4 =0 kcal/kg
Bề mặt xung quanh của lò luôn có nhiệt độ cao hơn nhiệt độ môi trường
xung quanh, do đó luôn có sự tỏa nhiệt từ mặt ngoài lò đến môi trường gây nên
tổn thất, gọi là tổn thất do tỏa nhiệt ra môi trường xung quanh, ký hiệu là q5 (%).
Muốn giảm q5 phải thiết kế lò và bọc cách nhiệt sao cho hợp lý.
Từ đó suy ra
l
q ×Q0
Q5 = 5
100
Xỉ sinh ra từ nhiên liệu trong quá trình cháy, được thải ra khỏi lò ở nhiệt độ
cao. Như vậy lò hơi đã mất đi một lượng nhiệt để nâng nhiệt độ xỉ từ nhiệt độ bằng
nhiệt độ môi trường lúc vào đến nhiệt độ xỉ lúc ra khỏi lò, gọi là tổn thất nhiệt do xỉ
mang ra ngoài q6 (%).
Q6
q 6= ×100 %
Q l0
q 6=0 %
Q6 =0 kcal/m3tc
Tổng tổn thất nhiệt được xác định theo công thức:
∑ q=q2 + q3 + q 4+q 5 + q6 ,%
Thay các giá trị tính toán trên, ta có:
η=100−∑ q
η=100−18,56=81,44 %
1.3.5 Nhiệt lượng hữu ích - tiêu hao nhiên liệu cho nồi hơi:
Q l0
Q1 =η kcal /m3tc
100
4424,8 3
Q1=81,44 Q 1=3603,6 kcal /mtc
100
D(i qn−i nc )
B= l
×100 m3tc /h
Q th×η
30
Hơi sau khi qua các thiết bị nhiệt trao đổi nhiệt và được ngưng tụ, phần nước
ngưng 27 0C được đưa trở lại tank chứa nước cấp, rồi sau đó đi qua bộ hâm nước
mới vào nồi hơi. Nên nhiệt độ nước trước khi vào lò vào khoảng 27 0C.
ibh : entanpi hơi bão hòa ứng với áp suất P = 6 bar = 6/0,981 = 6,12 at
Tra bảng phụ lục 2/trang 138. Bảng nước sôi và hơi bão hòa khô theo nhiệt
độ:
l
Qth : Nhiệt trị thấp của gas
η=81,44 %
Vậy:
340(658,7−27,1)
B= ×100 B=134,62 kg /h=59,57 m3 /h
1958,7.81,44
Để xác định tổng thể tích sản phẩm cháy và không khí chuyển dời qua toàn
bộ lò hơi và nhiệt lượng chứa trong chúng người ta sử dụng đại lượng tiêu hao
nhiên liệu tính toán theo công thức:
31
Bt = B.
( 1−
q4
)
100 = 59,57 m3tc/h = 134,62kg/h, do q4 = 0
B
b = D , m3tcnhiên liệu /kg hơi
59,57
b= = 0,06 m3tcnhiên liệu /kg hơi
1000
Sự phân bố tổn thất nhiệt ra môi trường xung quanh trên đường khói người ta
coi như là tỷ lệ thuận với nhiệt lượng do khói truyền lại trong đường khói và đưa
vào công thức tính nhiệt lượng do khói truyền cho bề mặt đốt một hệ số bảo toàn
nhiệt năng :
1−q 5
= =0,965
100
32
CHƯƠNG 3
Giả định rằng không có không khí lọt vào buồng lửa:
Qk’=1,1.(7871,28)=8658,4kj/kg
100−q3 −q 6
Q0=Q10 +Qk
100
100−1,5−0
Q0=40047,5 +8658,4=48105,2kj/kg
100
Tk=1200℃
I k =V RO .(ct¿ RO + V N (ct ¿N +V H O ¿
0 0 0 0
2 2 2 2 2
√ pn . S 1000
Trong đó :
VH O 1,37
r H O= 2
= =0,1062
2
VK 12,9
V R O +V H O 1,61+1,37
rn= 2 2
= =0,231
V❑K 12,9
pn=prn=1(0,231)=0,231
0,8+1,6.(0,1062) 1200
K= .(1-0,38 )=1,3563
√0,231.0,454 1000
a’=0,75.0,54=0,405
Độ đen của buồng lửa:
0,82[a' + ( 1−a ' ) ρψ ]
a0=
1−( 1−ψξ ) (1−ψρ ) (1−a ' )
trong đó:
ψ - độ dầy đặc của đường ống được xác định theo công thức:
34
Hb
ψ= =1
Fv
ξ - hệ số phụ thuộc vào loại nhiên liệu, nhiên liệu lỏng ta chọn ξ=1.
0 kcal
Q1=Ql −Q2−Q3−Q 4−Q5−Q6 Q =4424,8−600−66,4−0−154,9
m3tc 1
3
Q 1=3602,7 kcal / mtc
Trong đó:
Lbd=2lf=2.(0,8)=1,6 m
Dbd=2Df=2.(0,25)=0,5 m
Fbd= π Df.Lf=3,14.(0,5)1,6=2,5 m2
Diện tích buồng lửa bằng diện tích bứa xạ: Fbd=Fv
D2bd 0,5
2
Vbd= π .Lbd=3,14. 1,6 = 0,314 m2
4 4
3,6.V 0 3,6.(0,314)
S= = = 0,454 m
Fv 2,5
B .Q t
qv = V bl
2;
59,57.4424,8
Suy ra qv = =839443,75kcal/m3. h
0,314
B .Q t
= 59,57.4424,8 =105434,13
qs = F bl 2,5 kcal/m3.h
4.3.5. Nhiệt lượng truyền lại cho buồng lửa đối với 1m3 nhiên liệu
36
'' 3
Qb =(Q 0 −I 1 ) kcal/m tc [1, 45]
3
Q 0=4424,8 kcal / mtc
I’’1 – entanpi sản phẩm cháy của 1 kg nhiên liệu, ở nhiệt độ khói ra t = 350 0C
''
Q0 −I 1
V Cm= kcal / kg0 C
θ a −θ''1
Qb
V Cm=
θa −θ1''
Q
b = 3780,2 kcal/m3 = 1673,39 kcal/kg
1673,39
Vậy: V Cm = =3,35 kcal m3tc0 C
850−350
Độ đen buồng lửa khi nhiên liệu không đốt trên mặt ghi
'
0 , 82 a
a0 =
a' +(1−a ' )ψξ
Trong đó:
37
Hb
ψ=
Fv
H b =F v =2,5 m2
Hb
ψ= =1
Fv
−kp s
a=1- e
k = k k . rn
0 ,78+ 1,6 r H O tk
kk = .(1-0,37 )
2
√ pn. S 1000
Trong đó:
VH O 1 ,17
r H O= 2
= = 0,21
2
VK 5,644
V R O +V H O 1, 17+0,35
rn = 2 2
= = 0,27
V❑K 5,644
38
P = 1 ata.
−kp s
Do đó: a = 1 - e
−0,85.1 .0,454
= 1- e = 0,32
'
a =βa [1, 49]
Đối với ngọn lửa mờ khi đốt nhiên liệu khí: [1, 50]
β=1,0
Chọn = 1,00
0,82 ×0,32
a 0= a =0,26
0,32+(1−0,32).1.1 0
'' Ta
θ1tính = −2730 C
1 , 27×10−8 ζH b . a0 . T 3a
[ ]0,6 + 1
ϕB t V C
m
Với:
39
[1, 46]
Nên:
Chọn là 500 0C
CHƯƠNG 4
Dựa vào nhiệt lượng cần cấp cho nồi hơi là Q0l = 4424,8 kcal/m3tc
Suy ra nhiệt lượng hữu ích sinh ra trong buồng lửa trong 1h là:
Ta chọn được công suất của Béc đốt cho nồi hơi là 306,5 kW.
Công suất nhiệt Tiêu hao nhiên liệu Tổng công suất điện
Model Điện áp
(kW) (kg/h) (kW)
kgl: hệ số dự phòng lưu lượng quạt gió, thường lấy bằng 1,1.
Bmax = 59,57 m3tc/h: lượng tiêu hao nhiên liệu khi làm việc ở công suất định mức.
Vkk = 4,972 m3tc/m3tc, lượng không khí khô thực cần thiết cho 1m3 nhiên liệu
b = 1at = 760 mm Hg
273+27 760
= 1,1. 59,57.( 1,1−0 ).4,972. .
273 760
= 396,45 m3/h
CHƯƠNG 5
Thông thường cần dự trữ gas đủ dùng khoảng 1 tháng, nếu điều kiện cung
cấp, vận chuyển dễ dàng có thể chỉ cần dự trữ khoảng 10 ngày.
Gas được nhốt trong 1 tank có thể tích 10 m 3 và được chôn dưới đất. Trên
tank thường có bố trí:
- Đồng hồ đo áp suất để nhận biết được lượng gas có trong tank, kiểm soát,
bố trí nạp gas.
- Van an toàn.
Bồn thường được sơn chống gỉ cả hai mặt, mặt ngoài còn bọc cách nhiệt dày
khoảng 40-100 mm, chát vữa xi-măng, bọc tôn tráng kẽm, nhiều khi sơn màu sáng
để giảm bớt sự hấp thụ bức xạ mặt trời
Từ bồn chứa, gas được dẫn lên bằng đường ống thép chống gỉ nhờ sự chênh
lệch áp suất.
Nước sau khi qua bộ làm mềm nước và đi vào tank chứa, tiếp tục được bơm
vào bộ hâm nước để cấp nước vào trong ba-lông.
Nồi hơi sử dụng cho công trình này sẽ được lắp thiết bị hâm nước ở dầu ra
của ống khói để tận dụng nhiệt của khói, gia nhiệt nước gần đến nhiệt độ sôi, đôi
khi có thể cho bốc hơi mấy phần trăm, như vậy giảm được tổn thất do khói thải
mang ra, nâng cao hiệu suất của nồi hơi nên còn có tên là bộ tiết kiệm (economizer).
Mặt khác tránh được hiện tượng nước lạnh phun thẳng vào bề mặt truyền
nhiệt có nhiệt đọ cao làm cho bề mặt truyền nhiệt bị co giãn đột ngột, tạo ra ứng
suất nhiệt, ngoài ra còn giảm được kim loại quý chế tạo bề mặt sinh hơi vì bộ hâm
nước nằm ở vùng nhiệt độ thấp, không cần kim loại tốt có khi có thể chế tạo bằng
gang.
Trong thiết kế này ta chọn ống thép trơn để chế tạo. Chọn ống thép có đường
kính DN32. Nước đi trong ống từ trên xuống, khói đi ngoài ống từ dưới lên. Như
vậy có độ chênh lệch nhiệt độ lớn nhất vì trao đổi nhiệt tốt nhất.
Nhiệt độ đầu ra và vào bộ hâm nước của khói và nước đã biết cho nên nhiệm
vụ thiết kế là xác định bề mặt chịu nhiệt và kết cấu của nó. Việc tính toán truyền
nhiệt phải tiến hành song song với thiết kế cấu tạo.
Để tăng cường độ truyền nhiệt, ta bố trí bộ hâm nước theo kiểu so le đặt nằm
ngang, khói bao phủ bên ngoài và cắt ngang qua chùm ống.
Chọn bán kính uốn của ống xoắn R = (1,5 2) d = 1,875. 32 = 60mm
Bước ống ngang tương đối: S1/d = 2 3 để hạn chế sự bám bẩn. [1, 113]
Bước ống dọc tương đối: S2/d = 1,875 (tiêu chuẩn S2/d = 2).
Tốc độ khói đi qua bộ hâm nước theo tiêu chuẩn thiết kế phải đảm bảo ω k <
13m/s, ωk = 7 m/s.
Tốc độ khói đi qua bộ hâm nước phải tương đối lớn để đảm bảo nước và hơi
(đoạn trên) lưu thông dễ dàng, nhưng cũng không được quá cao vì như vậy sẽ làm
tăng trở lực đường ống.
Bộ hâm nước được chế tạo thành từng cụm có chiều cao khoảng 1m và các
cụm được đặt cách nhau 0,06m nhằm tạo khoảng trống cho việc làm vệ sinh được
dễ dàng. Thông thường các ống xoắn của bộ hâm nước được bố trí sole, tạo tốc độ
dòng khói lớn và xoáy nhiều nhằm tăng cường truyền nhiệt.
Bảng 5.1. Đặc tính cấu tạo của bộ hâm nước
2 S1 mm S1/d = 2 3 95
Bước ống ngang
3 S2/d = 1,875 60
Bước ống dọc S2 mm
Chọn
10 Chiều dài mỗi ống l mm 900
Tiết diện đường khói a. b - dL = 0,2.1,2 - . 0,032.
11 F m2 0,15
đi 0,9
10 Entanpi nước cấp đầu ra ir’ kcal/kg Tra bảng hơi nước ở 62,45
70 0C
CHƯƠNG 6
TÍNH THIẾT KẾ HỆ THỐNG XỬ LÝ VÀ THOÁT KHÓI
( )
2 0,583
1 ω T
Δ hms=λ . .ρ. [2, 174]
d td 2 Tv
λ : hệ số ma sát.
ω.d 7.0,34
ℜ¿ = =31192,6
ν 76,3.1 0
−6
0,3164
Với ống trơn kĩ thuật khi 4000 ≤ ℜ≤ 10 5ta lấy λ = =0,024
√ℜ
4
( ) ( )
2 0,583
Δ hms=λ .
l
.ρ.
ω T 10 7 2 850+273 0,583
= 0,024. .0,457 . = 12,5 N/m2
d td 2 Tv 0,34 2 240+273
ω2
Δ hcb=ξ . ρ . , N /m2
2
500+220
Khối lượng riêng của khói có nhiệt độ trung bình =3600C là ρ=0,562kg/m3
2
Vận tốc dòng khói, ω=7m/s
ξ - hệ số trở lực cục bộ, theo hình 4.1 [2] ta chọn ξ = 0,5
2 2
ω 7
Suy ra Δ hcb=ξ . ρ . =0,5.0,562. =6,88 N /m2
2 2
273 b
Δ htt =(h1−h 2)g (1,2−ρ 0 )
273+t k 760
h1 , h2 là khoảng cách thẳng đứng từ cùng 1 mặt phẳng chọn làm chuẩn đến cửa vào và
ra, m
Chọn h1 – h2 = 5m
(
Δ htt =5.9,81 . 1,2−1,3.
273
).
760
273+ 360 760
=31,36 N/m2
2 2
ω 0,722.7
Δ hđ =ρ . = = 17,69 N/m2
2 2
ω.d 7.0,032
ℜ¿ = =2935,8
ν 76,3.1 0
−6
2
ω
Δ hđ 2=2,8. ( Z +1 ) . ℜ−0,25 . ρ . , N /m2 [2, 181]
2
2
7
Δ hđ 2=2,8. ( 19+1 ) .2935 , 8−0,25 .0,457 . ¿ 65,1 N /m
2
2
Trong đó:
Δ htg: là tổng trở lực tính từ khi không khí đến cửa vào ống khói và 1,2 là tính
dự phòng 20%
= 60,38
Δ hd : là trở lực động và 1,1 là tính dự phòng 10%, Δ hd =17,69 (đã tính)
Δ hok : là trở lực của 1m chiều cao ống khói. Theo trên ta tính được trở lực của
toàn bộ đường ống khói (10m) là 12,5 N/m 2. Nên trở lực của 1m chiều cao ống khói là
Δ hok = 1,25 N/m2
ρk : là khối lượng riêng của khói ở nhiệt độ trung bình trong ống khói và áp suất
ρkk : là khối lượng riêng không khí ở áp suất và nhiệt độ trong lò, lấy ρkk =1,2
kg/m3
Suy ra, chiều cao ống khói là:
V kt
F= , m2 [2, 185]
ωk
Trong đó:
Vk lưu lượng thể tích khói thải qua ống, m3/s. Vk = 1793,3 m3/h = 0,498 m3/s
V k 0,498
Suy ra F= = =0,071, m2
ωk 7
Như vậy chọn đường kính ống khói theo cataloge là 340 mm
CHƯƠNG 7
π . D2
Từ công thức tính lưu lượng quen thuộc: Q = ω , m3/s
4
Suy ra: Dh =
√ 4Q
π .ω
1000
Q = 340 kg/h = =0,03 m3/s
3600.3,258
3
6 ¯¿=3,258 kg /m ¿
ρhơi
Catoluge nồi hơi của hãng Hồng Nhựt có thông số kỹ thuật như sau:
MW MW MW MW MW MW MW MW
MODEL No
100 200 300 500 750 1000 1500 2300
Công suất (kw) 60 120 200 300 500 600 1000 1500
Năng suất hơi (kg/hr) 100 200 300 500 750 1000 1500 2300
Chiều cao tổng thể (mm) C 1570 1750 2100 2400 2450 2650 2850 3700
Chiều rộng tổng thể (mm) A 830 850 1300 1320 1580 1620 1660 1660
Chiều dài tổng thể (mm) B 850 900 1200 1400 1450 1550 1560 1560
Đường kính ống khói (mm) Ø 150 180 200 250 280 340 340 420
Từ cataloge nồi hơi ta đã chọn model MW 500, van hơi chính có đường kính
40 mm, do đó ta tính đường cấp hơi chính có đường kính là Dh = 40 mm là hợp lý.
6.1 Tính toán đường ống cấp hơi tới các thiết bị:
* Thiết bị Washer extracter type W4 400H
Nhiệt dung riêng của hơi ở 4 bar: 2,163 kg/m3, theo bảng nước và hơi nước bão hòa.
21 −3
Suy ra: Q1 = 21 kg/h = =2,7.1 0 , m3/s
2,163 x 3600
√ √
4 Q1 −3
D1 = = 4.2,7 .10 =0,0172m = 17,2 mm
π .ω 3,14.20
4.1 Tính toán đường ống cấp nước cho nồi hơi:
Lưu lượng hơi mà nồi hơi cấp là 340 kg/h, do đó lượng nước cấp vào trong lò ít
nhất cũng phải 340 kg/h tức khoảng 0,34m 3/h, nhưng vì bơm chỉ hoạt động khi trong
nước trong lò đến mức thấp nhất nên ta chọn lưu lượng bơm nước là 0,8 m3/h.
Đường kính dường ống cấp nước:
Dn =
√ 4Q
π .ω
Dựa vào cataloge đã chọn model MW 500 ta có van cấp nước là 20 mm, do đó
ta tính chọn đường ống cấp nước cho nồi hơi là Dn = 20 mm là hợp lý.
Mỗi 1 bộ tách nước ngưng bao gồm: 1 phễu tách nước ngưng, 2 van chặn có
bích 2 đầu, 1 van chặn ren, 1 lọc chữ Y, 1 bẫy hơi. Đi kèm với bộ này còn có cụm van
bypass cho hơi đi tắt khi bộ tách nước ngưng gặp vấn đề (hình vẽ).
Đường kính ống nước ngưng ra khỏi các thiết bị thường lấy bằng hoặc nhỏ hơn
1 mức so với đường ống hơi vào thiết bị. Ví dụ: thiết bị 010-FIT 5A S, có đường kính
hơi vào là DN15, đường ống nước ngưng ra cung là DN15.
Với:
Dựa vào các thông số trên ta chọn bơm ly tâm có ký hiệu CDLF1 - 8
Head: 46m
việc, không cho phép vượt quá giới hạn. Số lượng và kiểu loại van an toàn phụ thuộc vào
năng suất bốc hơi của nồi và điều kiện làm việc của nồi. Các van an toàn nói chung là làm
việc tự động không cho áp suất vượt quá các chỉ tiêu quy định.
Số lượng và kích thước van an toàn được xác định theo công thức sau:
D
n . d .h= A
P
Trong đó:
n: Số lượng van an toàn. (theo bài giảng lò hơi, http//ebook. edu. vn/)
Chọn số lượng van là n = 2. Van loại van nâng lên không hoàn toàn khi đó d
d≥
√ 20 × D × A
n× p √
=
20× 1000× 0,0075
2× 10,19
=2,71 cm=27,1 mm
Vị trí đặt van: van an toàn được đặt ở vị trí cao nhất của bao hơi, bộ hâm nước
lò hơi phải có ít nhất hai ống thủy độc lập với nhau chỉ có những nồi hơi có diện
tích truyền nhiệt nhỏ hơn 100m2 thì thay 1 trong 2 ống thủy sáng bằng thủy tối.
Ống thủy giúp ta xác định được lượng nước trong lò hơi để dễ dàng kiểm
tra mực nước trong lò hơi do ngăn ngừa được sự cố cạn nước.
Có 2 loại ống thủy: Ống thủy tinh tròn, ống thủy tinh dẹt.
Ống thủy tinh tròn cấu tạo đơn giản nhưng rất dễ vỡ.
o
Ống thủy tinh dẹp có cấu tạo phức tạp hơn nhiều nhưng rất tiện lợi
o
và an toàn lúc công tác vì nó được đặt trong khung bảo vệ bằng kim loại.
Ống thủy sáng cho phép nhìn thấy mức nước qua ống thủy tinh nếu là ống thủy
tròn, hoặc qua tấm thủy tinh nếu là ống thủy dẹt. Ở đây ống hoặc tấm thủy tinh đều là
thủy tinh chịu nhiệt.
Ống thủy tinh của ống thủy tròn chịu lực kém dễ bị vỡ, do đó thường được
dùng cho các lò hơi có áp suất thấp, nhiệt độ nước nhỏ hơn 250 0C. Ở các lò áp suất
cao, người ta thường dùng ống thủy dẹt.
Theo qui phạm an toàn lò hơi thì mỗi lò hơi phải có ít nhất là 2 ống thủy đặt
độc lập với nhau.
Đối với những lò hơi nhỏ, diện tích bề mặt đốt nhỏ hơn 100m 2, có thể cho phép
thay thế một ống thủy sáng bằng một ống thủy tối. ống thủy tối thường gồm 3 van
được nối ở mức nước cao nhất, trung bình và thấp nhất của lò.
Ta kết hợp ống thủy tới bộ điều khiển bơm nước tự động bằng điện cực.
Hình 3.8. Ống thủy dẹt Van cho ống thủy
6.2.3 Áp kế:
Áp kế dùng để đo áp suất của hơi trong nồi và trong các bộ phận chứa nước
khác.
Mỗi nồi hơi phải được trang bị ít nhất là 1 áp kế có thang đo thích hợp và
đặt ở chỗ dễ thấy nhất của nồi hơi hoặc ở phòng điều khiển của trung tâm. Theo
quy phạm kỹ thuật an toàn của nồi hơi của nhà nước thì áp kế dùng để đo áp suất
trong nồi hơi phải là loại có cấp chính xác 1,5%, chỉ tiêu cấp chính xác này được
áp kế mẫu. Khi cần kiểm tra áp kế đang dùng hoặc để thông đường ống nối với áp
Ngoài ra trên đường nối ống van 3 ngã còn lắp 1 ống xi phông chứa nước
ngưng để bảo vệ áp kế khỏi bị tác dụng trực tiếp của hơi nóng.
Lắp đặt đồng hồ: Nếu áp kế ở ngang tầm mặt thì được đặt thẳng đứng. Nếu áp
kế ở trên tầm mắt, xa khoảng 2m thì phải đặt nghiêng khoảng 300.
Nguyên tắc làm việc của van này là thay đổi độ mở cửa van để thay đổi tiết
diện môi chất đi qua đó nên điều chỉnh được lưu lượng, áp suất của môi chất
Sau khi kiểm tra xem xét kỹ các bộ phận của nồi hơi thì bắt đầu đốt lò.
- Gas đốt lò: Kiểm tra tất cả các van gas từ tank chứa gas đến béc ở vị trí mở,
cho quạt gió chạy để thông gió thải các khí sót ra ngoài. Khi đã kiểm tra mọi cái đều
tốt cả ta bật công tắc đánh lửa, mở van gas (Solenoid) để becđốt hoạt động. Khi lửa đã
cháy ổn định, ngắt công tắc đánh lửa. Lúc này tình trạng cháy trong buồng lửa được
kiểm tra nhờ mắt thần (photocell).
- Nước: Khi mực nước đạt đến mức thấp nhất của ống thủy thì ngưng cấp nước.
Kiểm tra kỹ mực nước ống thủy có duy trì được hay không. Nếu nó giảm xuống, cần
phải xác minh nguyên nhân, tìm ra chỗ xì và khắc phục nó. Nếu mực nước trong nồi
dâng lên khi đã khóa van cấp nước thì điều đó chứng tỏ van không kín cần phải thay
hoặc sửa van cấp nước.
Khi thấy hơi nước bắt đầu xuất hiện (nhìn can xả khí), thì đóng van xả khí lại để
nâng dần áp suất lên đến áp suất làm việc.
* Chú ý:
- Nếu hệ thống đốt được trang bị tự động thì các thao tác trên được bộ chương
trình đảm nhận.
- Trong quá trình tăng áp suất từ “0” đến áp suất làm việc, nếu xảy ra hư hỏng gì
ở những bộ phận chủ yếu của nồi hơi thì phải ngưng lò, hạ áp suất về “0” để sửa chữa.
Tuyệt đối cấm siết ốc hay sửa chữa các bộ phận nồi hơi khi nồi hơi đã có áp suất.
- Trước khi cung cấp hơi cho các máy tiêu thụ thì phải có quy định hay tín hiệu
báo cho công nhân ở các nơi đó biết, tránh gây tai nạn lao động cho công nhân thao
tác ở các máy lò hơi.
7.3 Vận hành bình thường:
- Khi nồi hơi đang làm việc, công nhân vận hành nồi hơi phải thường xuyên xem
xét áp kế, ống thủy và phải đảm bảo:
Khi áp kế phải đạt dưới vị trí vạch đỏ quy định hay đúng vạch đỏ quy định (tùy
theo yêu cầu của nơi tiêu thụ hơi). Khi có tình trạng thay đổi lưu lượng hơi, làm
giảm áp suất hoặc tăng áp suất quy định phải mau chóng xử lý để ổn định áp
suất.
Mực nước trong ống thủy phải nằm giữa hai mực thấp nhất và mực cao nhất đã
quy định trên ống thủy.
Mỗi ngày phải thông rửa ống thủy ít nhất 2 làn và luôn luôn giữ ống thủy sạch
sẽ, kín và dễ thấy.
Thứ tự thao tác khi sửa ống thủy:
Đóng van kín hơi xả ống thủy, mở van nước xả ống thủy.
Khi nồi hơi vận hành phải thường xuyên kiểm tra các van hơi chính, van cấp
nước, van xả đáy, van xả ống góp … Kiểm tra các van an toàn, lấy tay nâng nghẹ van
an toàn xem tác động có nhạy hay không. Tuyệt đối cấm xê dịch hay treo thêm vật
nặng vào quả tạ.
Không được dùng que, gây xẹo vào tay van xả để vặn, tránh gãy tay van xã có
thể đưa tới sự cố cạn nước trong nồi hơi.
Trước khi xả cạn phải lấy nước vào nồi hơi tới mức cao nhất ở vạch trên ống
thủy, mục đích sau khi xả nước trong nồi hơi tụt xuống là vừa.
Trong quá trình xả bẩn phải thường xuyên chú ý theo dõi mực nước trong ống
thủy, nếu thấy mực nước tụt xuống quá nhanh phải ngừng ngay việc xả bẩn lại để
nghe ngóng, kiểm tra lại các bộ phận chứa nước của nồi hơi.
Có 2 trường hợp:
Ngừng lò bình thường: tức là ngừng lò theo kế hoạch, theo lệnh đã có từ trước,
việc ngừng lò phải tiến hành từ từ đúng thời gian cho phép (ngừng lò để sửa chữa
hoặc ngừng lò để đổi ca).
Ngừng lò sự cố: tức là ngừng lò khi xãy ra sự cố nguy hiểm, việc này phải tiến
hành nhanh chóng, hạn chế tác hại của sự cố.
+ Giảm dần lượng hơi cung cấp cho sản xuất đồng thời giảm dần áp suất, khi
áp suất hơi đã giảm xuống quá quy định thì đóng hẳn van cấp hơi, cắt hẳn sang sản
xuất, có thể xả hơi cho ra ngoài trời.
Sau khi ngừng cung cấp hơi cho sản xuất phải cung cấp nước vào nồi hơi đến
mứa cao của ống thủy.
Cuối cùng cúp cầu dao điện bơm nước, cúp cầu dao điện chính và kiểm tra toàn
bộ lần cuối cùng.
Khi đóng mở các van phải tiến hành thật từ từ, tránh làm hỏng van và dễ gây ra
tai nạn lao động.
Trong ca thường xuyên xem xét chung quanh lò hơi, khi xem phía sau phải có
người xem ở mặt trước lò hơi để thường xuyên theo dõi áp kế, ống thủy. khi nghe có
tiếng động bất thường trong nồi hơi phải chú ý theo dõi và kịp thời xử lý, phải thường
xuyên xem xét, cho dầu mỡ vào các ổ bôi trơn của bơm, quạt, các bộ phận truyền
động khác.
Khi nồi hơi đang làm việc, tuyệt đối cấm sửa chữa một bộ phận nào có áp suất
của nồi hơi.
Công nhân vận hành nồi hơi phải thực hiện xả bẩn liên tục (xả váng trên mặt
nước lò) và xả bẩn định kỳ nồi hơi (xả cáu cặn dưới đáy lò).
Xả bẩn liên tục nhằm khống chế độ kiểm tra phẩm chất nước cung cấp cho lò
hơi ít nhất 02 lần trong ca để yêu cầu công nhân vận hành xả liên tục.
Xả bẩn định kỳ nhằm lấy bớt cáu bẩn lắng ở đáy nồi, đáy các ống góp ra khỏi
nồi hơi.
Xả bẩn nên tiến hành lúc sản lượng hơi thấp nhất thì có hiệu quả và tránh gây
ra sự cố, vì lúc đó buồng lửa tương đối ổn định. Trước khi xả bẩn phải hé mở van xả
để sấy các ống xả trước độ 3-5 phút, sau đó mở van, để tránh gây giãn nở đột ngột các
ống xả có thể đưa tới nứt hoặc gẫy ống. trong ca xả bẩn định kỳ ít nhất là 1 lần (tùy
theo mức độ có cáu cặn trong lò hơi).
Mở van chính (van lắp ở trong) từ từ, vừa mở vừa phải nghe ngóng, nếu van
chính bị hở thì càng phải chú ý tránh phá hỏng van xả.
Đóng van chính lại trước, cũng chú ý nghe ngóng, nếu thấy không kín phải ghi
vào sổ nhật ký vận hành của nồi hơi đó.
Thời gian ngừng lò của từng loại nồi hơi phải theo đúng quy định trong quy
chế, khi nước trong lò đã nguội 50 – 600C mới cho phép théo hết nước ra ngoài để
tiến hành vệ sinh hay sửa chữa theo kế hoạch đã định.
Các bộ phận tiếp nhiệt của nồi hơi bị xì hơi, xì nước hay biến dạng rõ rệt.
Buồng lửa bị sụp lở các bộ phận của nồi hơi ra ngoài hay làm cho khung lò hơi
bị cháy đỏ.
Áp kế, ống thủy hỏng nghiêm trọng mà không có cái thay thế, báo cho tổ
trưởng hay trưởng ca biết và khẩn trương, thận trọng thao tác ngừng lò sự cố như sau:
+ Kênh van toàn cho hơi thoát ra ngoài hoặc mở van xả hơi ra ngoài.
+ Nếu mực nước giảm xuống thấp quá mức trung bình thì cung cấp thêm nước
vào nồi hơi và tăng cường xả bẩn 15 – 20 lần, mục đích làm nồi hơi giảm nhiệt độ
nhanh hơn.
Nhưng riêng đối với nồi hơi cạn nước quá mức phải thao tác ngừng lò thận
trọng hơn, tuyệt đối không để thiếu nước trong lò hơi khi nồi hơi đã cạn nước nghiêm
trọng (xem kỹ phần quy trình xử lý sự cố).
Nếu có quạt khói thì có thể cho quạt chạy để hút hết khói nóng ở trong lò ra
ngoài, thời gian ngừng lò sự cố từ lúc bắt đầu tắt lò đến lúc tháo nước ra khỏi lò không
được ngắn hơn 3 giờ.
Trong quá trình vận hành nồi hơi, nếu công nhân đốt lò thao tác không đúng
chỉ dẫn trong quy trình vận hành hay thiếu tinh thần trách nhiệm gây những hư hỏng
nghiêm trọng ở các bộ phận của nồi hơi hay gây ra những tai nạn cho công nhân đốt lò
… thì gọi là sự cố nồi hơi.
Trong phần này sẽ giới thiệu một số sự cố điển hình thường thấy ở các nồi hơi,
mỗi sự cố được trình bày gồm có 3 phần:
Hiện tượng.
Nguyên nhân.
Trong thực tế sản xuất có thể gặp những sự cố đặc biệt hơn, phức tạp hơn những sự cố
nêu trên ở đây. Khi đó đòi hỏi công nhân vận hành nồi hơi phải bình tĩnh nghe ngóng,
xác minh những hiện tượng, phán đoán những nguyên nhân để có những thao tác xử
lý sự cố một cách kịp thời, chính xác.
Trong lúc vận hành nồi hơi, bất thình lình công nhân vận hành nhìn thấy ống
thủy không còn nước, không nhìn thấy vạch ranh giới giữa nước trắng và nước đen
óng ánh nữa mà thấy ống thủy chỉ là một màu trắng của hơi, đồng thời có khi còn
nghe thấy kim áp kế tăng lên một chút, nếu áp suất tăng quá quy định thì còn nghe
thấy tiếng xì hơi ở van an toàn. Nếu nhìn vào cửa xem lửa thì thấy lửa trong lò cháy
mãnh liệt, buồng lửa nóng hơn bình thường.
- Do sự sơ xuất của công nhân đốt lò, quên không theo dõi thường xuyên mức
nước trong ống thủy, quên không cung cấp nước cho nồi hơi.
- Do van xả đáy nồi hơi bị hở, nước chảy quá nhiều, mức nước trên ống thủy
tụt xuống nhanh chóng mà không nhìn thấy.
- Do nồi hơi có bộ phận nào đó xì vỡ (nứt), nước thoát ra ngoài mà không biết
(thường xì vỡ ở ba lông, ống sinh hơi, ống góp, mặt sàng).
- Do bơm nước hỏng hay vị trí các van nước vặn không đúng, nhưng mặt dù
bơm có chạy nhưng nước không vào nồi hơi, công nhân vận hành không chú ý theo
dõi ống nước.
Cũng cần chú ý có khi hiện tượng “mức nước giả tạo” tức là các đường ống
nước, ống hơi thông ra ống thủy bị tắc nghẽn, sau khi xả ống thủy xong, cho ống thủy
làm việc lại thì không thấy còn nước ở ống thủy nửa, thực ra nước trong nồi hơi còn
đủ mức bình thường nhưng cũng có trường hợp ngược lại. Cũng do các ống nước, ống
hơi thông ra ống thủy bị tất cả làm cho mực nước ống thủy vẫn còn cao nhưng thực tế
trong nồi đã xuống thấp quá mức. đây là trường hợp hét sức nguy hiểm.
Để khắc phục hiện tượng cạn nước giả tạo trên, công nhân vận hành phải nhìn
mực nước ở ống thủy liên tục và phải thường thấy mực nước trong ống thủy rung rinh,
lên xuống chút ít. Khi thấy mặt nước trong ống thủy đứng im lâu, phải kiểm tra mực
nước trong nồi bằng cách thay rửa ống thủy.
Trước hết phải xem xét kỹ ống thủy có bị chảy nước không, sau đó kiểm tra
mức nước bằng cách gọi nước, thao tác như sau:
Đóng chặt van thông hơi, van thông nước ra ống thủy.
Mở van xả đáy ống thủy cho hơi và nước thoát ra ngoài ống thủy, sau đó đóng van và
ống thủy lại.
Nếu còn thấy lấp ló nước ở mặt kính đáy ống thủy là còn khả năng cung cấp nước bổ
sung vào lò hơi, công nhân đốt lò sẽ tiếp tục thao tác như sau:
Chạy bơm cấp nước vào lò hơi thì phải mở từ từ, thận trọng, nghe ngóng những tiếng
động phía trong lò, theo dõi mức nước ở trong ống thủy.
Nếu không có hiện tượng gì bất thường xãy ra thì cung cấp nước đến mức thấp nhất
của ống thủy (vạch quy định dưới) thì tắt bơm ngừng cung cấp nước vào lò hơi cho
đến mức trung bình của ống thủy. Nếu đã kiểm tra mức nước nồi bằng cách gọi nước
2 lần mà không thấy mức nước lấp ló ở đáy ống thủy thì phải mở các vòi kiểm tra mức
nước nồi hơi (mở vòi dưới cùng trước rồi đến vòi giữa). Nếu không thấy vòi nào có
nước thì nhanh chóng thao tác ngừng lò sự cố, tuyệt đối không được cung cấp nước
vào nồi hơi nữa.
Nếu mở vòi dưới cùng thấy còn nước thì phải kiểm tra lại ống thủy một lần nữa (vì
vòi dưới cùng bố trí cao hơn đáy ống thủy một chút mà còn nước, chứng tỏ ống thủy
bị hỏng). Nếu cần phải thông ống thủy.
Tắt bơm nước, đóng chặt van nước cấp vào nồi hơi.
Tuyệt đối cấm cấp nước lạnh vào nồi hơi trong suốt quá trình thao tác xử lý sự cố.
Có thể cùng một lúc thấp áp suất của nồi hơi giảm xuống từ từ (kim áp kế tụt
xuống dần).
Nếu nồi hơi cung cấp hơi cho các nơi tiêu thụ dễ phát hiện như tuabin, sấy hỗn hợp
hơi nước thì ở những nơi tiêu thụ sẽ thấy có hiện tượng bất thường.
Do công nhân vận hành nồi hơi sơ suất không chú ý theo dõi ống thủy khi đang
lấy nước vào nồi hơi, quên tắt bơm nước khi nồi hơi đầy đủ nước.
Van cấp nước của nồi hơi bị xì hở lớn khi nồi hơi khác lấy nước (lấy chung
một đường ông thì nước cũng do van cấp nước hỏng mà vào nồi hơi cho đến khi đầy
nước, công nhân đốt lò cũng không biết).
Chú ý, khi thấy nước ngập hết ống thủy sau khi thông rửa ống thủy xong, cho
ống thủy làm việc lại. nhưng không phải sự cố đầy nước quá mức, mà do đường dẫn
hơi ta ống thủy bị tắt. nước trong nồi hơi tràn ra dâng hết cả ống thủy. trường hợp này
phải kiểm tra mức nước thực tế của nồi bằng vòi kiểm tra mức nước (ống thủy tôi từ
trên xuống (trong 2 – 3 vòi hệ thống ống thủy sáng) đồng thời phải chú ý kim áp kế có
hơi xuống không. Ngược lại, có khi nước trong ống thủy vẫn bình thường, đó là do
đường ống nước thông ra ống thủy bị tắt, trường hợp này thường thấy mực nước trong
ống thủy đứng im, không rung rinh lên xuống.
Trước nhất nếu đang cung cấp nước vào nồi hơi thì tắt ngay bơm và khóa cặt
van cấp nước lại.
Kiểm tra ống thủy, thông rửa ống thủy rồi cho ống thủy làm việc trở lại, nếu
thấy mực nước vẫn dâng kín ống thủy thì phải kiểm tra mực nước của ống thủy tối.
Nếu thấy phù hợp với mực nước của ống thủy sáng thì nhanh chóng thao tác như sau:
Xả van xả đáy nồi, xả từng hồi cho đều, khi thấy mực nước ở ống thủy ở mức cao nhất
sẽ tạm ngừng xả.
Sau đó 3 phút sẽ tiếp tục xả cho mức nước ở ống thủy xuống bình thường.
Nếu hơi cấp cho hộ tiêu dùng hơi yêu càu chất lượng, hơi phải khô chạy tuabin,
sấy thực phẩm … thì có thể phải đóng chặt van hơi chính, ngừng cấp hơi đang sản
xuất, xả hơi ra ngoài trời hoặc kênh van xả hơi lại.
Khi nước đã ấn định ở mức bình thường và phẩm chất hơi đã tốt thì mở van hơi
chính cung cấp hơi cho sản xuất, hạ van an toàn xuống hoặc đóng kín van xả hơi lại.
7.5.3 Áp kế bị hỏng:
7.5.3.1 Hiện tượng:
Tết của chấn áp kế bị xì hơi mạnh làm áp kế làm việc không chính xác.
Áp kế đang nóng bị nước lạnh đột ngột phun thẳng vào mặt kính.
Do khung nén lên mặt kính của áp kế căng quá khi bị nóng giãn nở ra nén thêm vào
mặt kính gây nứt đôi mặt kính.
Nếu mặt kính áp kế bị hỏng nhẹ, kính không bị bung ra khung đở không hở lớn
thì vẫn để áp kế làm việc bình thường nưng phải ghi chép hiện tượng hư hỏng áp kế
này vào nhật ký vận hành nồi hơi hay sổ bàn giao ca, để khi ngừng lò tiểu tu sẽ thay
hoặc sửa chữa áp kế này.
Nếu mặt kính bị hỏng nặng vỡ toang, rơi bắn mặt kính này ra ngoài, hay còn
dính mặt kính ở áp kế thì phải thay áp kế như sau:
Vặn van 3 ngả về hướng khóa chặt hơi ra áp kế, để hơi thoát ra ngoài, sau đó vặn van
3 ngã về hướng xả nước động từ áp kế thoát ra ngoài. Sau cùng, vặn van 3 ngã về
hướng khóa chặt đường hơi từ nồi hơi ra ap`1 kế và ra mặt kính 3 ngã (có thể vặn hơi
chếch tay quay đi một chút hay để nguyên vị trí xả nước đọng của áp kế ra ngoài trời).
Tháo áp kế cũ ra một cách thận trọng thay tết cho zoăng đệm xong lắp áp kế mới vào.
Vặn van 3 ngã lấy một ít hơi từ nồi hơi ra sấy áp kế mới, sau 1-2 phút mở hết tay vặn
cho hơi thông suất từ nồi hơi ra áp kế và để áp kế làm việc, tiếp tục nghe ngóng 1 – 2
giờ sau khi thay áp kế mới.
Nếu áp kế hỏng nghiêm trọng mà không có áp kế tốt thay thế thì phải dùng lò
(cho phép dùng lò bình thường) kể cả trường hợp nơi tiêu thụ hơi có áp kế tốt cũng
phải dùng lò).
Kim áp kế không trở lại về số “0” khi đã xả hết hơi trong áp kế không thoát ra
được.
Do van ba ngã bị ngắt, bị lệch lỗ thông hơi làm hơi trong áp kế không thoát ra được.
Do bộ phận bên trong của áp kế bị hỏng: tóc (cót) bị rối, răng khía gãy hay kênh, các
vít hảm, vít điều chỉnh bị long ra cũng có khi kim bị xoay trượt với trục cam kim.
Tất cả những hư hỏng trên đều có thể dẫn đến những tác hại về an toàn nồi hơi.
Vì vậy, nếu áp kế lò hơi bị sai lệch so với áp kế mẫu không quá 0,5 kg/cm2 thì cho
phép dùng áp kế đó đến kỳ tu sửa gần nhất nhưng không được quá 3 tháng nếu áp kế
lò hơi sai lệch so với áp kế mẫu 0,5 kg/cm2 phải thay ngay áp kế mới. nếu van ba ngã
bị hư hỏng thì phải dùng lò (cho phép dùng lò bình thường để thay thế hay sửa chữa
van ba ngã).
Kim áp kế bị rung mạnh thường là do bộ phận ruột gà (ống co dãn) bên trong
áp kế bị hỏng, nếu biết độ rung của kim 0,5 kh/cm2 thì phải thay áp kế mới. Nếu
biên độ dao động của kim nhỏ hơn 0,5 kh/cm2 thì cho phép áp kế này dùng tới kỳ
sửa chữa gần nhất nhưng không được quá 3 tháng.
Mặt kính bị mờ, không nhìn thấy mặt đo của áp kế, thường đo:
Bị khói bụi nhà lò phủ kín mặt ngoài kính, trường hợp này phải thường xuyên làm vệ
sinh, lau mặt kính.
Bị xì hơi ở tết chân áp dò vào trong áp kế (khi vỏ áp kế không kín) làm mờ bên trong
mặt kính. Trường hợp này, mở mặt kính áp kế ra lau sạch, phải dùng găng tay kính
bảo vệ mặt kính khi tháo mặt kính áp kế, phải chữa ngay tết chân áp kế.
Nếu áp kế có niêm chì thì báo cáo cho người phụ trách phân xưởng biết, ghi
vấn đề này vào sổ vận hành hay sổ giao ca của nồi hơi.
Nếu chỉ còn một ống thủy sáng mà không có ống thủy tối thì cũng phải dừng
lò, cho phép dừng lò bình thường.
7.5.4 Xì hơi của người chui, kiểm tra, vệ sinh nồi hơi:
7.5.4.1 Hiện tượng:
Thấy xì hơi nước ở vành đệm (joăng) của cánh cửa người chui, cửa kiểm tra,
cửa vệ sinh, có thể thấy kim áp kế hơi xuống nếu các cửa đó bị xì mạnh. Trường hợp
xì nhẹ, có thể không trông rõ hơi nước ra ở các vành đệm của các cửa đó, nhưng nếu
để tấm gỗ ở sát đó sẽ thấy có nước đọng trên tấm gỗ.
- Do sửa chữa nồi hơi đã lắp sai đầu nắp đậy của người chiu, cửa vệ sinh, cửa
kiểm tra.
- Vành đệm đã quá cũ, đã mục nát chưa thay zoang mới.
- Do nắp đậy các cửa đó bị vênh (xì xiết quá mức, xì xiết không cân đôi hay ốc
bắt cửa chưa vặn chặt.
Nếu cửa người chui, cửa vệ sinh xì nhẹ và không có chiều hướng phát triển rộng lớn
hơn, thì có thể cho nồi làm việc tiếp tục đến kỳ sửa chữa gần nhất, nhưng không quá 1
tháng.
Nếu ở tấm đệm của các cửa đó xì mạnh và có chiều hướng phát triển thì phải nhanh
chóng ngừng lò sự cố.
Nếu xì do dò rỉ ở các cửa, các nắp bị nứt, thì dù xì hơi, xì nước to hay nhỏ cũng phải
dừng lò sự cố để tránh gây ra những sự cố nguy hiểm.
Tuyệt đối cấm vặn nút mũ ốc, hay dùng gậy xẹo nạy những “đòn gánh” đỡ các nắp
người chiu, cửa vệ sinh, cửa kiểm tra của nồi hơi đang làm việc.
Khi nứt vỏ các bộ phận chịu áp lực của nồi hơi nằm bên trong nồi hơi như: thân
nồi, mặt sàng, ống góp, ống sinh hơi của nước trong lò hơi. Nếu xì mạnh có thể thấy
lửa, khói phụt ra phía cửa phun dầu, mực nước trong ống thủy xuống tương đối rõ rệt.
cần phân biệt với chãi đinh chì bảo hiểm.
Khi nứt vỏ các bộ phận chịu áp lực của nồi hơi nằm bên ngoài lò hơi thì thấy
hơi nước thấm qua các lớp bảo ôn, cũng có khi thấy rỉ nước, hay phảng phất hơi trên
các bộ phận chịu áp lực (mà không có bọc bảo ôn hay không có các mặt bích nồi).
Thường hiện tượng nứt vỏ các bộ phận của nồi hơi là do hậu quả của sự cố cạn
nước nghiêm trọng của nồi hơi gây ra, các bộ phận này bị đốt nóng qua mức đột ngột,
lại cấp nước lạnh hay gió lạnh ùa vào.
Do tuần hoàn nước không tốt ở những bộ phận đó (nhất là các ống sinh hơi
nằm nghiêng có những túi hơi, kim loại nơi đó bị đốt nóng quá mức (quá 4800C).
Do phẩm chất những mối hàn, tán đinh không tốt, dưới tác dụng của nhiệt độ
áp suất sẽ bị phá những nơi xung yếu.
Cũng có khi do việc sửa chữa không đúng kỹ thuật, nhất là khi phải hàn đắp
các bộ phận khác (như mặt sàng ảnh hưởng đến các mép ống lốc, hoặc hàn mép kim
loại gần mối tán đinh, ảnh hưởng đén các đinh tán, hàn gần gờ đệm xoăng gây ra vênh
mặt đỡ xoang không kín nữa …)
Do những tác động với các tính chất dao động tuần hoàn làm cho kim loại ở
những nơi đó làm việc “mệt mỏi” dễ gây ra nứt.
Hiện tượng nứt vỡ các bộ phận chịu áp lực, dù to hay nhỏ, ở những bộ phận
chủ yếu hay không chủ yếu ở trong hay ở ngoài lò hơi, đều phải ngừng lò sự cố để
tránh những tác hại hết sức nguy hiểm cho công nhân và thiết bị.
Do nắp đầy bị mòn vẹt khi đóng cửa vào đậy không kín, nước và hơi theo khe
hở rò rỉ ra ngoài (gây hư hỏng).
Do nắp đậy bị kênh bởi những lớp cáu cặn cứng cháy, kênh bởi một vật thì bỏ
sót loại trong lò hơi khi sửa chữa, nước thoát ra ngoài tương đối nhiều, gây hư hỏng
nặng.
Cũng có khi do trục vít của van bị gẫy đứt làm cho nắp đóng
Kiểm tra lại van xả một lần nữa bằng cách mở van lên, đóng xuống thật chặt
(bằng tay), nếu thấy van xả bẩn rò rỉ mạnh thì phải đóng ngay van chặn (lắp sát lò hơi)
và đóng cả van xả lại nghe ngóng thêm một tí nữa. Nếu nước vẫn thoát ra tiếp tục thì
nhanh chóng chạy bơm nước bổ sung vào lò hơi, giữ cho mức nước trong nồi luôn
luôn trên mức trung bình.
Nếu xác minh rõ ràng là chỉ có cột van xả ngoài bị hỏng, thì có thể đóng chặt
van ở trong lại, sửa chữa hay thay thế van xả đáy, rồi cho hai van này làm việc lại, thử
thấy tốt thì cho nồi làm việc lại bình thường, nhưng phải hết sức đề phòng bị hỏng.
Cụm van cấp nước gồm có một van chặn (hay còn gọi là liên thông) và 1 van 1
chiều hay còn gọi là van triệt hồi), van một chiều lắp sát với nồi hơi.
Khi cụm van này bị hỏng, thường gây ra hiện tượng hơi nước trong nồi rồi trở
lại, bơm cấp nước qua hệ thống ống cấp nước. Khi đường ống này nghỉ 2 van đã đóng
chặt nhưng vẫn thấy đường ống nóng bỏng.
Khi nồi hơi làm việc chung trong hệ thống cấp nước thì thấy mực nước của lò
hơi cứ bị dâng cao (mặc dù các van cấp nước đã đóng kín) thì các nồi hơi khác lấy
nước, thì nước dò qua các van này vào nồi hơi đó.
Cũng có khi thấy bơm nước không vào nồi hơi mặc dù van liên thông đã mở
hết mức.
Trong quá trình cụm này làm việc, nước chảy qua nắp đậy và bệ đỡ nắp van
trong nước có mang theo các tạp chất, đất cát bào mòn bệ nắp van, vì vậy đã đóng hết
mức cụm van cũng không kín.
Cũng có khi nước lọc không kỹ, nắp đậy của van khi đóng xuống vướng phải
vật cứng như sỏi đá làm vênh nắp van đóng không kín.
Nắp đóng tự động của van 1 chiều bị kẹt cứng không hạ xuống được (kẹt giữ ti van
với lỗ giữa và hướng trục) nên nước có thể dò qua nắp đậy của van 1 chiều được.
Nắp đóng tự động của van 1 chiều bị kẹt cứng không nâng lên được thì mặc dù
bơm chạy, van liên thôn đã mở những nước không cho vào lò hơi được.
Sự cố hỏng cụm van nước, thường đưa tới những hậu quả nghiêm trọng:
Nếu bơm chạy, van hỏng, nước không vào được thì dễ gây ra sự cố cạn nước nghiêm
trọng mà không biết.
Nếu bơm chạy, van đóng chặt (để lấy nước vào lò khác) mà nước vẫn vào lò hơi gây
ra sự cố đầy nước quá mức mà không biết.
Nếu lò đang làm việc, van đóng chặt mà nước, hơi vẫn dò trở lại ống vào bơm
cấp nước sẽ gây hư hỏng bơm (vì bơm 1 phải làm việc ở nhiệt độ cao, gây dãn nở
cánh bơm) hoặc gây tai nạn phong cho công nhân.
Chạy bơm khi zoăng, đệm của bơm bị bỏng hoặc sẽ gây nhiều khó khăn và
không an toàn khi sửa chữa các đường ống nước, các van nước, các mặt bích.
Nếu cụm van này bị hỏng nặng, nước hơi rò ra rất mạnh hay ngược lại bơm nước
không vào. . . nhất thiết phải ngừng lò sự cố.
Khi phải sửa chữa những bộ phận của hệ thống đường ống bay bơm cấp nước
thì phải xả cho hết nước còn lại trong ống ra ngoài mới được tiến hành sửa chữa.
Thông thường vẫn còn có một số loại sự cố khác phát sinh trong quá trình vận
hành như: hỏng bơm, quạt … thường xảy ra. Trong trường hợp không có bơm, quạt
dự phòng phải tiến hành ngừng lò. Cho phép ngừng lò bình thường. Hư hỏng sự cố
cũng có thể phát sinh trong quá trình dừng lò do không thực hiện đúng quy trình hoặc
công nhân vận hành không được đào tạo kỹ lưỡng về những quá trình nhiệt xảy ra
trong buồng lửa và trong quá trình nhận nhiệt – như hư hỏng bộ quá nhiệt khi ngừng
lò do sự cố mất điện.
Thực tế vận hành còn có thể xuất hiện những sự cố vô cùng phức tạp cần phải
có kinh nghiệm, do đó yêu cầu tất cả mọi người vận hành nồi hơi phải nhất thiết thực
hiện đúng quy định vận hành nồi hơi đã nêu trên.
Nắp đóng tự động của van 1 chiều bị kẹt cứng không hạ xuống được (kẹt giữa
ti van với lỗ giữ và hướng trục) nên nước có thể dò qua nắp đậy của van 1 chiều được.
Nắp đóng tự động của van 1 chiều bị kẹt cứng không nâng lên được, thì mặc dù
bơm chạy, van liên thông đã mở nhưng nước không vào lò hơi được.
Sự cố hỏng cụm van nước, thường đưa tới những hậu quả nghiêm trọng:
Nếu bơm chạy, van hỏng, nước không vào được thì dễ gây ra sự cố cạn nước nghiêm
trọng mà không biết.
Nếu bơm chạy, van đóng chặt để lấy nước vào lò khác mà nước vẫn vào lò hơi gây ra
sự cố đầy nước quá mức mà không biết.
Nếu lò hơi đang làm việc, van đóng chặt mà nước, hơi vẫn dò trở lại ống bơm vào cấp
nước sẽ gây hư hỏng bơm (vì bơm phải làm việc ở nhiệt độ cao), gây dãn nở cánh
bơm) hoặc gây tai nạn phỏng cho công nhân.
Chạy bơm khi zoăng, đệm của bơm bị bỏng hoặc sẽ gây nhiều khó khăn và không an
toàn khi sửa chữa các đường ống nước, các van nước, các mặt bích.
Thao tác:
Các mặt van này bị rò rỉ nước, hơi ở mức thì có thể tạm thời cho lò đó tiếp tục
làm việc đến kỳ sửa chữa gần nhất nhưng không quá 1 tháng, đồng thời phải có biện
pháp bảo vệ cấp nước bị hỏng do nước quá nóng, bằng cách xả nước nóng đọng lại
trong hệ thống ống cấp nước và trong bơm ra ngoài.
Khi phải sửa chữa những bộ phận của hệ thống đường ống hay bơm cấp nước
thì phải xả cho hết nước còn lại trong ống ra ngoài mới được tiến hành sửa chữa.