Professional Documents
Culture Documents
Chương Iv
Chương Iv
- Tia gamma γ
Tia γ là bức xạ điện từ có bước sóng rất ngắn, ngắn hơn cả bước sóng tia X,
≤ 10-12m, có điện tích q = 0 và khối lượng nghỉ của nó m0 = 0
Tia γ được phóng ra từ hạt nhân khi nó từ trạng thái kích thích có năng lượng cao
hơn trở về trạng thái kích thích có năng lượng thấp hơn hay về trạng thái cơ bản.
1
Cho nên khi phóng ra bức xạ hay , bức xạ γ bao giờ cũng được phát ra.Năng
lượng của tia γ có thể đạt đến giá trị vài Mev. Nó có khả năng ion hoá cao và đặc
biệt có khả năng đâm xuyên rất lớn.
60 60 60
Ví dụ: C
27 o 27
C o +
-
28
Ni
-(0,31 Mev)
2,50 Mev
γ1
1,3Mev
γ2
0 Mev
60
28
Ni
Để đặc trưng cho độ phóng xạ mạnh hay yếu của một nguồn phóng xạ, người ta
đưa ra một đại lượng là độ phóng xạ H
Độ phóng xạ H là số phân rã phóng xạ trong một đơn vị thời gian (1 giây)
−dN
H=
dt
= −d
dt
(N oe ) = NNoe
-t -t
= H oe
-t
Với Ho = No
4.1.2 Tia X
Tia X ( hay còn gọi là tia Rơnghen) được phát ra từ vật rắn khi bị bắn phá
bởi một chùm electron có năng lượng lớn.
Tia X là sóng điện từ ( bức xạ điện từ) có bước sóng rất ngắn. Bước sóng
tiaX = 10-8 ÷ 10-11m
h
Photon tia X có năng lượng w = hf vì động lượng ( xung lượng) p= ❑
ở đây f: tần số, : bước sóng, h : hằng số planck
Vì có năng lượng lớn nên tia X có khả năng ion hoá cao, có khả năng đâm xuyên
rất lớn.
Cũng giống như tia , tia X có khối lượng nghỉ m o = 0 và điện tích q = 0 và
nó không bị lệch trong điện trường cũng như từ trường
Nguồn phát tia X phổ biến nhất là bóng phát tia x
Tóm lại, đặc điểm chung của các tia ,, và tia X là chúng có năng lượng
lớn nên có khả năng ion hoá cao và người ta gọi chúng là bức xạ ion hoá.
4.2 Tác dụng của bức xạ ion hoá lên hệ thống sống
4.2.1 Một số tính chất của bức xạ ion hoá khi tác dụng ( tương tác) với hệ
thống sống
- Tính chất thứ nhất là tính chất cơ bản của bức xạ ion hoá là khả năng
xuyên sâu và tác dụng lên tất cả các nguyên phân tử của chất sống, không phân biệt
cấu trúc, trạng thái và bản chất của đối tượng được chiếu. Việc xảy ra tổn thương
hoàn toàn được quy định bởi sự xuất hiện các quá trình dẫn đến tổn thương sau khi
chiếu. Nếu sản phẩm đầu tiên tạo ra dưới tác dụng cua bức xạ ion hoá tái hợp với
nhau thì các nguyên phân tử của chất sống sẽ hồi phục lại trạng thái ban đầu
-Tính chất thứ hai có ý nghĩa trong thực tiễn là khi tương tác với cơ thể sống
thì bức xạ ion hoá có tác dụng tích luỹ. Tác dụng tích luỹ thể hiện khi chiếu kế tiếp
nhau từng liều nhỏ thì tổn thương ở lần chiếu sau sẽ lớ hơn lần chiếu trước đó và
tổn thương cuối cùng cũng chính là tổn thương sẽ phả xảy ra nếu chiếu với liều
bằng tổng các phần liều đó. Ví dụ: liều gây chết với một sinh vật nào đó là 1000R.
Nếu chiếu sinh vật đó bằng các liều nhỏ sao cho tổng cộng liều chiếu bằng 1000R
thì hiệu ứng chết sẽ xảy ra
-Tính chất thứ ba là bức xạ ion hoá có tác dụng gây hiệu ứng “nghịch lý
năng lượng”nghĩa là khả năng gây hiệu ứng sinh vật lớn bằng một liều chiếu không
cao về mặt năng lượng. Vd: khi chiếu cơ thể sống bởi liều 1000R thì toàn bộ năng
lượng hấp thụ chỉ có 84000 erg (1ev = 1,6.10 -12 erg = 1,6.10-19 J). Với năng lượng
3
đó chỉ làm cho nhiệt độ của 1lít nước tăng lên 1 độ, nhưng hiệu ứng sinh vật của
liều như thế là rất lớn vì đó là liều chết với nhiều động vật có vú
4.2.2 Tác dụng trực tiếp và tác dụng gián tiếp của bức xạ ion hoá
Bức xạ ion hoá có khả năng gây hiệu ứng sinh vật cao và sự tổn thương có
những tính chất đặc biệt khó giải thích. Nhiều thuyêt được đưa ra nhằm giải thích
cơ chế tác dụng đầu tiên của bức xạ ion hoá lên hệ thống sống là tác dụng trực tiếp
và tác dụng gián tiếp.
-Tác dụng trực tiếp: khi chiếu xạ dạng bất kỳ, một phần năng lượng của bức
xạ ion hoá được hấp thụ trực tiếp bởi các phân tử chất tan. Trong trường hợp này
người ta cho rằng sự biến đổi của phân tử chất tan là do tác dụng trực tiếp
Wbức xạ RH RH+
O2
RH *
H R RO*2
+ *
R* H*
Thuyết tác dụng trực tiếp cho rằng sự hấp thụ năng lượng bức xạ ion hoá trực tiếp
bới các phân tử chất hữu cơ (RH) hoàn toàn có thể xảy ra trong chất sống dẫn tới
sự xuất hiện các phân tử kích thích, ion, gốc tự do và peroxide ( H+, H*, R*, RO2*)
- Tác dụng gián tiếp: Phần năng lượng hấp thụ bởi các phân tử dung môi ( nước),
các phân tử này cũng chịu sự biến đổi như phân tử chất tan. Sự biến đổi đó tạo ra
trong nước các gốc tự do H*, OH* và một số sản phẩm khác có khả năng tương tác
với phân tử chất tan và oxy hoá chúng.Tác dụng của bức xạ ion hoá lên các phân tử
chất tan trong trường hợp này gọi là tác dụng gián tiếp
Theo thuyết tác dụng gián tiếp thì sự biến đổi của các phân tử hữu cơ, các
phân tử và cấu trúc của tế bào sống bị tổn thương chủ yếu do chúng chịu tác dụng
của các sản phẩm phân ly phóng xạ nước khi chiếu xạ. Cơ thể sống có tới ¾ là
nước.
H3O+ + OH-
+ H2O +RH
+H2O+ *
H2O OH + H**
Rối loạn các PƯ
hoá sinh và gây tổn thương
Wbxạ H2O H2O +e+
+H2O+
+O2
OH + H
- *
H2O* H2O2
H+ + OH*
Các gốc tự do của nước cũng như các gôc tự do hữu cơ đều là những sản phẩm có
khả năng phản ứng cao và chúng dễ dàng phá vỡ các liên kết hoá học. Sau khi tạo
4
ra các sản phẩm này sẽ tiếp tục tham gia phản ứng với các hệ hoá sinh phức tạp của
cơ thể sống gây nên những tổn thương về cấu trúc và chức năng ở cấp độ tế bào
cũng như mức độ toàn bộ cơ thể.
Như vậy tác dụng của bức xạ ion hoá lên hệ thống ống có thể thực hiện theo
hai cơ chế trên.
Người ta thấy sự thay đổi của nồng độ oxy trong môi trường chiếu có ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của tổn thương. Ví dụ khi chiếu chuột bạch với liều 1000R ở
đk nồng độ oxy là 21% thì sau 30 ngày số chuột này sẽ chết gần hết. Nếu giảm
nồng độ oxy xuống còn 5% thì sao 30 ngày chúng sẽ sống 100%. Hiện tượng tăng
hoặc giảm mức độ tổn thương của đối tượng sống khi tăng hoặc giảm tương ứng
nồng độ oxy trong môi trường chiếu và thời gian chiếu gọi là hiệu ứng oxy.
Hiệu ứng oxy chỉ xảy ra trong một giới hạn thay đổi nhất định của nồng độ
oxy. Khi nồng độ oxy trong môi trường chiếu lên quá 40% thì tổn thương không
tăng lên. Vai trò của oxy trong tổn thương phóng xạ có liên quan chặt chẽ với sự
tạo thành các gốc tự do của hydro peroxide và gốc tự do peroxid hữu cơ khi chiếu
xạ
¿
H* + O2 HO2 ( tác dụng gián tiếp)
¿
R* + O2 RO2 ( tác dụng trực tiếp)
Các chất bảo vệ đối với động vật có hệ số giảm liều cao nhất hiện nay là 2
7
Phản ứng oxy hoá dây chuyền nảy nhánh có thể xảy ra ở các loại lipit động
vật và thực vật. Tốc độ phản ứng dây chuyền nảy nhánh tăng lên rõ rệt dưới tác
dụng của bức xạ ion hoá, Lipid là thành phần cấu trúc chính của tế bào. Sự thay đổi
lipid có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn tại của tế bào, tác dụng của bức xạ ion hoá
lên hệ thống sống chủ yếu được xác định bởi sự biến đổi dây chuyền của các phân
tử lipid trong hệ. Ở trạng thái bình thường các phân tử lipid không bị oxy hoá vì tế
bào tồn tại rất nhiều chất chống oxy hoá. Khi bị chiếu xạ các chất này phân huỷ và
bức xạ ion hoá sẽ tạo ra những trung tâm của phản ứng oxy hoá dây chuyền. Đó là
gốc peroxide lipid
RH + hf R* + H*
R* + O2 RO2
RO2 + RH ROOH + R
ROOH RO + OH
Điểm đặc trung của cơ thể bị chiếu xạ là thời gian ủ bệnh khá lâu. Đó chính là một
đặc điểm của phản ứng dây chuyền nảy nhánh