Professional Documents
Culture Documents
tài liệu tham khảo câu 2 cuộc thi tìm hiểu Hiến pháp
tài liệu tham khảo câu 2 cuộc thi tìm hiểu Hiến pháp
Nguồn: http://vov.vn/chinh-tri/quoc-hoi/diem-moi-cua-hien-phap-sua-doi-294642.vov
Một số điểm mới cơ bản của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi
Sau một thời gian tổ chức lấy ý kiến đóng góp của toàn thể quần chúng nhân dân và thông qua
quá trình tiếp thu, chỉnh lý của cơ quan soạn thảo, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được
thông qua sau 3 lần cho ý kiến tại các kỳ họp Quốc hội với tỷ lệ 97,59%. Hiến pháp nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi (sau đây gọi tắt là Hiến pháp sửa đổi) với 11 chương, 120 điều (giảm
1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật lập
hiến; bố cục hợp lý, chặt chẽ và khoa học, bảo đảm các quy định của Hiến pháp đúng tầm là đạo luật
cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất, có tính ổn định lâu dài. Những điểm mới cụ thể như:
Một là, phần Lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi xúc tích, ngắn gọn hơn so với Hiến pháp năm 1992.
Theo đó, Hiến pháp sửa đổi khẳng định: "Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, Nhân dân Việt Nam lao động cần
cù, sáng tạo, đấu tranh anh dũng để dựng nước và giữ nước, đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn
kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam. Từ năm 1930, dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Nhân dân ta tiến hành
cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân.
Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bằng ý chí
và sức mạnh của toàn dân tộc, được sự giúp đỡ của bạn bè trên thế giới, Nhân dân ta đã giành chiến thắng
vĩ đại trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ
quốc tế, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới, đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội".
Hiến pháp sửa đổi lần này đã thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng về xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và
Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh trên cơ sở phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân tộc, đề cao
được quyền con người, quyền nghĩa vụ công dân.
Hai là, Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Chương 5, nhưng
Hiến pháp sửa đổi đã đưa chế định này lên sau chương Chế độ chính trị, đặt ở Chương 2, như vậy riêng bố
cục cũng đã thể hiện tầm quan trọng của chương về quyền con người. Đồng thời, tên chương cũng đã có sự
thay đổi, cụ thể: Ở Hiến pháp năm 1946 là Chương "Nghĩa vụ và quyền lợi công dân”, từ Hiến pháp năm
1959 đến Hiến pháp năm 1992 là Chương "Quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp sửa đổi
Chương này có tên gọi là "Quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định rằng,
quyền con người là quyền tự nhiên, Nhà nước phải thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo đảm, bảo vệ quyền
con người đúng như những công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể Điều 14 quy định: "Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con
người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng".
Thay cụm từ "mọi công dân" thành "mọi người", theo đó Điều 16 nêu rõ: "Mọi người đều bình đẳng
trước pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội".
Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ.
Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật".
Ba là, Hiến pháp sửa đổi lần này vẫn tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam,
trong đó có những điểm lớn như thể hiện rõ hơn bản chất của Đảng một cách công khai. Trong Điều 4 của
Hiến pháp trước đây không nói rõ trách nhiệm của Đảng, thì lần này Hiến pháp sửa đổi đã đưa vào và nhấn
mạnh Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân. Đó là sức sống của Đảng.
Thêm vào đó, Đảng phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách
nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Nếu như quyết định không đúng, ảnh hưởng đến lợi
ích quốc gia, dân tộc, nhân dân thì Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và trước dân tộc. Đây là điểm
rất mới của Hiến pháp.
Bốn là, Hiến pháp sửa đổi phân định rõ được chức năng nhiệm vụ cơ quan lập pháp, tư pháp, hành
pháp so với Hiến pháp hiện nay[1]. Theo đó:
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn
đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước (Điều 69). Quốc hội có
những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:
- Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
- Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo
cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội
thành lập;
- Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ
thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân
sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
- Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
- Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do
Quốc hội thành lập;
- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch
Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội,
Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ
tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành
lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành
viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng
quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia;
- Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
- Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
- Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể , nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
- Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
- Quyết định đại xá;
- Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà
nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
- Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt
khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
- Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực
củađiều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của
Quốc hội;
- Quyết định trưng cầu ý dân.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội
và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (Điều 94). Chính phủ có
những nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:
- Tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước;
- Đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định
theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này; trình dự án luật, dự án ngân sách
nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường,
thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh động
viên, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính
mạng, tài sản của Nhân dân;
- Trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;
trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và
công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân
trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện
nhiệm vụ,quyền hạn do luật định;
- Bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội;
- Tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước;
quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ
điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và
công dân Việt Nam ở nước ngoài;
- Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức
chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Điều 102).
Bản Hiến pháp Quốc hội thông qua lần này là kết quả của quá trình chuẩn bị công phu, làm việc cần
mẫn, tâm huyết, tận tụy, nghiêm túc chắt lọc tinh hoa trí tuệ của toàn dân, tiếp thu ý kiến xác đáng của cử tri
trong và ngoài nước, các chuyên gia, nhà khoa học, các ngành, các cấp và cả hệ thống chính trị của các vị
đại biểu Quốc hội. Do đó, bản Hiến pháp mới thể hiện tinh thần đổi mới và thể hiện được ý Đảng, lòng dân,
phản ánh được nguyện vọng của đại đa số nhân dân[2].
Tài liệu tham khảo
1. Hiến pháp Việt Nam năm 1992.
2. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi được Quốc hội thông qua ngày
28/11/2013.
Bùi Huyền
Nguồn: http://www.moj.gov.vn/tcdcpl/tintuc/Lists/NghienCuuTraDoi/View_detail.aspx?ItemID=406
Một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi
năm 2013
TCCSĐT - Ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi năm 2013 và Nghị quyết
64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp. Hiến pháp sửa đổi năm 2013 có hiệu lực kể
từ ngày 01-01-2014 và có nhiều điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 cả về nội dung và kỹ thuật lập
hiến. Bài viết phân tích một số điểm mới về kỹ thuật lập hiến trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
[1]
GS-TS Phan Trung Lý, “Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam - Hiến pháp dân chủ, pháp quyền và
phát triển” (Bài phát biểu tại Hội nghị giới thiệu nội dung Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại Trường ĐH
Luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 18/12/2013).
Điều 6 Hiến pháp năm 2013 không quy định cụ thể các chế định của dân chủ trực tiếp thông qua đó
[2]
nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước, nhưng các quy định khác của Hiến pháp năm 2013 quy
định về quyền của cử tri trực tiếp bầu, bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và HĐND (Điều 7); quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29), trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (theo Điều 120) v.v.
PGS-TS Vũ Văn Nhiêm, Một số nội dung cơ bản của Chế độ chính trị và bộ máy nhà nước trong
[3]
Hiến pháp năm 2013 (Bài phát biểu tại Hội nghị giới thiệu nội dung Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam tại
Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 18/12/2013).
Xem thêm: GS-TS Trần Ngọc Đường, Một số nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
[4]
1992, Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992” do Trường ĐH Luật Tp. HCM và Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức ngày 01/3/2013.
[5]
Như: quyền sống (Điều 19); quyền không bị bắt, giam giữ trái luật; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể
người và hiến xác (Điều 20); quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin
riêng tư khác (Điều 21); quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (Điều 22); quyền bầu cử và ứng cử (Điều 27);
quyền được suy đoán vô tội, quyền được Tòa án xét xử trong thời hạn, được xét xử kín của người bị buộc
tội (Điều 31); nghĩa vụ nộp thuế (Điều 47).
Ở nước ta, theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, UBND xã,
[6]
phường cũng có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Hiến pháp năm 1992 có 24/34 điều quy định “công dân có quyền...”, “công dân có nghĩa vụ ...” kể cả
[7]
các quyền, các nghĩa vụ không chỉ dành cho công dân Việt Nam mà còn cho mọi cá nhân có liên quan đang
sinh sống, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, như quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 71), về chỗ ở
(Điều 73), nghĩa vụ đóng thuế (Điều 80) ...
Xem GS.TS Mai Hồng Quỳ - “Những điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số
[8]
kiến nghị” – Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 năm 2013 .
Xem thêm: GS-TS Trần Ngọc Đường, Một số nội dung cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
[9]
1992, Tlđd.
PGS-TS Bùi Xuân Hải, Chương III “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi
[10]
trường” của Hiến pháp năm 2013 (Bài phát biểu tại Hội nghị giới thiệu nội dung Hiến pháp nước CHXHCN
Việt Nam tại Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh ngày 18/12/2013).
Xem: GS-TS Mai Hồng Quỳ - “Những điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số
[11]
kiến nghị” – Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 năm 2013 .
Xem: GS.TS Mai Hồng Quỳ - “Những điểm mới cơ bản của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và một số
[12]
kiến nghị” – Tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 năm 2013 .
Xem thêm: Trương Đắc Linh, Về chương "Chính quyền địa phương" của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
[13]
năm 1992 và một số kiến nghị, Tạp chí Khoa học pháp lý, Số 2 năm 2013.
Khoản 9 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định: Quốc hội "Quyết định ... thành lập mới, nhập, chia,
[14]
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành
chính - kinh tế đặc biệt;"; khoản 8 Điều 74 quy định: Uỷ ban thường vụ Quốc hội "Quyết định thành lập mới,
nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương" không như Hiến
pháp năm 1992 quy định quyền này cho Chính phủ.
Khoản 10 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi 2001) và khoản 10 Điều 8 Luật Tổ chức Chính
[15]
phủ năm 2001 chỉ quy định: Chính phủ có quyền "Quyết định việc điều chỉnh địa giới (tác giả nhấn
mạnh) các đơn vị hành chính dưới cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương". Nhưng thực tế những năm
qua, từ 2006 đến tháng 6/2011, theo nghiên cứu của chúng tôi, Chính phủ quyết định chia tách, thành lập
mới 85 đơn vị hành chính cấp huyện; 183 đơn vị hành chính cấp xã. Trung bình mỗi tháng có hơn 3 đơn vị
hành chính cấp huyện, xã mới được thành lập. Nếu giở Công báo thời gian này sẽ thấy hầu như số nào
cũng có Nghị định của Chính phủ về chia tách, thành lập mới các đơn vị hành chính - lãnh thổ (Trương Đắc
Linh, Về chương "Chính quyền địa phương" của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và một số kiến
nghị, Tlđd).
Nguồn: http://phonggiaoducquan3.e-school.edu.vn/van-ban/phong-gddt/120-phap-che/2394-hp-
2013.html
(CATP) Hiến pháp được thông qua tại kỳ họp thứ sáu - Quốc hội khóa XIII gồm 11 chương, 120 điều
(giảm 1 chương và 27 điều so với Hiến pháp năm 1992) có hiệu lực từ ngày 1-1-2014. Hiến pháp (sửa đổi)
đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người.
Sửa đổi trong Hiến pháp đều hướng tới nhân dân, đảm bảo quyền và lợi ích của nhân dân, đổi mới tổ chức
bộ máy Nhà nước để phục vụ nhân dân tốt hơn, bước đầu xây dựng cơ chế nhằm giảm tham ô, nhũng nhiễu
người dân, đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện một cách thực chất hơn trong thực tế.
Ngay phần lời nói đầu của Hiến pháp đã được hoàn thiện, ngắn gọn hơn nhưng vẫn phản ánh
được lịch sử hào hùng của dân tộc và những mốc lịch sử quan trọng, những thành quả cách mạng đã đạt
được. Lời nói đầu của Hiến pháp đã thể hiện ý chí, quyết tâm của nhân dân ta, thể chế hóa Cương lĩnh của
Đảng, kế thừa các bản Hiến pháp trước đây, xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sau chương quy định về chế độ chính trị là chương quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Đây cũng là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong Hiến
pháp. Trong Hiến pháp 1992, vấn đề này được quy định tại chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân. Với việc ghi nhận trong Hiến pháp về quyền con người đã đảm bảo phù hợp với các điều ước quốc tế
về quyền con người mà nước ta tham gia ký kết. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của
công dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân; thể
hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta. Hai điểm mới đó là ghi nhận về quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã
hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng và mọi người có quyền sống.
Đáng chú ý, Hiến pháp mới tiếp tục khẳng định vai trò của Nhà nước và kinh tế Nhà nước trong việc
định hướng, điều tiết sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thừa nhận các
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của
nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác
đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản
hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu
hóa. Hiến pháp làm rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước trong từng lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp và
làm rõ hơn vai trò của Chủ tịch nước trong thống lĩnh lực lượng vũ trang; giữ chức Chủ tịch Hội đồng quốc
phòng và an ninh, quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô
đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân. Quy định làm cơ sở để lực lượng vũ trang tham gia vào việc bảo vệ hòa bình ở khu vực
và trên thế giới, từng bước nâng cao vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc tổ chức chính quyền địa phương gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân hiện nay đều
giống nhau ở các loại đơn vị hành chính đã tạo ra sự rập khuôn, cứng nhắc, ít phân biệt được sự khác nhau
trong quản lý hành chính Nhà nước ở đô thị, nông thôn, miền núi, hải đảo và cũng không bảo đảm được tính
tập trung cao từ trung ương xuống địa phương.
Hiến pháp sửa đổi đã tạo cơ sở cho việc quy định mở về chính quyền địa phương, cấp chính quyền
địa phương gồm có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn,
đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do luật định. Nếu coi Hiến pháp 1992 hướng tới đổi mới
chính quyền ở trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
thì Hiến pháp 2013 hướng tới đổi mới chính quyền địa phương (Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân) và
các cơ quan tư pháp ở địa phương (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) tuy chưa thật rõ nét nhưng là
những định hướng cơ bản cho việc đổi mới chính quyền địa phương sau này.
Cũng tại Hiến pháp mới, Kiểm toán Nhà nước đã và đang hoạt động, nhưng lần đầu tiên được quy
định trong Hiến pháp, thể hiện vị trí, vai trò của cơ quan này, từng bước tạo sự kiểm soát độc lập việc quản
lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Việc nâng cao vai trò Kiểm toán Nhà nước phù hợp với xu thế chung
của thế giới cũng như mong muốn góp phần giảm tham nhũng, lãng phí trong bộ máy Nhà nước.
Một cơ quan mới, lần đầu tiên thành lập là Hội đồng bầu cử quốc gia. Trước đây, mỗi khi tiến hành
bầu cử đều thành lập Hội đồng bầu cử có tính lâm thời, hoạt động trong thời gian ngắn (khoảng sáu tháng),
khi bầu cử xong thì Hội đồng bầu cử hoàn thành nhiệm vụ. Việc có Hội đồng bầu cử quốc gia hoạt động
thường xuyên, thể hiện đầy đủ, sâu sắc hơn chủ quyền nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ của mình, tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế định bầu cử.
Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã thể hiện được ý Đảng, lòng
dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ mới.
HẢI TRIỀU
Nguồn: http://congan.com.vn/?mod=detnews&catid=942&id=508857
Những điểm mới trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Kỳ họp thứ 6 (Quốc hội khóa XIII) xem xét thông
qua đã được chỉnh lý, sửa đổi, bổ sung cả về bố cục, kỹ thuật lập hiến và nội dung trong tất cả các
chương, điều. Theo đó, bản Hiến pháp mới là sự tiếp tục kế thừa những nguyên tắc, nội dung cơ
bản, tư tưởng cốt lõi của Hiến pháp năm 1992 và có những bổ sung quan trọng, đáp ứng yêu cầu
phát triển trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.
1. Bối cảnh nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Hiến pháp năm 1992 được ban hành trong bối cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra (năm 1986) và để thể chế
hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Đây là bản Hiến pháp đã tạo
cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta. Qua 20 năm thực hiện
Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, trong
giai đoạn hiện nay, trước tình hình mới, cần phải xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền
vững đất nước. Vì vậy, Đảng ta đề ra chủ trương: “Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) phù hợp với tình hình mới” 1.
Thực hiện chủ trương tại Đại hội XI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa XI), Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội khóa XIII việc triển khai nhiệm vụ nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp năm 1992. Theo đó, Quốc hội đã ra Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp năm 1992 và giao nhiệm vụ cho Ủy ban nghiên cứu, xây dựng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và với tinh thần trách nhiệm cao của mỗi công dân
Việt Nam, việc tổng kết 20 năm thi hành Hiến pháp năm 1992 đã được triển khai nghiêm túc; qua đó, đề xuất
những định hướng cơ bản trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và bản Dự thảo sửa đổi Hiến
pháp đã được xây dựng. Trên cơ sở những định hướng cơ bản và trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 4 để thảo
luận, cho ý kiến lần đầu, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã được công bố lấy ý kiến rộng rãi trong
các tầng lớp nhân dân từ ngày 02-01-2013 đến 30-3-2013 và tiếp tục cho đến 30-9-2013. Trải qua 3 kỳ họp
(lần thứ 4, 5, 6 - Quốc hội khóa XIII), trên cơ sở tiếp thu ý kiến của nhân dân, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp
năm 1992 đã được Quốc hội dành một lượng thời gian lớn để thảo luận. Với tinh thần dân chủ, khoa học, sự
quan tâm của các cơ quan, tổ chức, các cấp, các ngành và đông đảo các tầng lớp nhân dân, quá trình sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã diễn ra nghiêm túc, đúng tiến độ và được Quốc hội khóa XIII thông
qua.
Bản Hiến pháp mới ra đời đã đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu đặt ra qua tổng kết 20 năm thi hành
Hiến pháp năm 1992 và các đạo luật có liên quan; phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Đồng
thời, bám sát Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung, phát triển
năm 2011), nghị quyết của các kỳ Đại hội Đảng và các nghị quyết, kết luận của Trung ương Đảng, Bộ Chính
trị về mục đích, yêu cầu, những quan điểm cơ bản và định hướng lớn của việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992,
như: kế thừa những nội dung của Hiến pháp năm 1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp;
chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là
đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới. Hiến pháp mới là sự kết tinh
trí tuệ, tâm huyết của nhân dân, của các chuyên gia, đại biểu Quốc hội. Quá trình sửa đổi Hiến pháp đã có
hơn 27.000 hội nghị, hội thảo chuyên sâu được tổ chức và hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý. Từ đó, những gì
không được tiếp thu đều được giải thích rõ ràng để người dân hiểu rõ về ý tưởng cũng như cách thể hiện
trong nội dung Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Đây là lần sửa
đổi mang ý nghĩa lớn, quyết định nhiều vấn đề quan trọng, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp,
cả về hình thức và nội dung.
2. Những điểm mới của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013)
Về hình thức, Hiến pháp mới có 11 chương, 120 điều; so với Hiến pháp năm 1992, giảm 1 chương,
27 điều; giữ nguyên 7 điều; sửa đổi, bổ sung 101 điều và bổ sung mới 12 điều. Để bảo đảm tính ổn định lâu
dài của Hiến pháp và nâng cao chất lượng kỹ thuật lập hiến, Hiến pháp mới đã có một số thay đổi về mặt kết
cấu. Chương I, xây dựng trên cơ sở viết gọn lại tên Chương I của Hiến pháp năm 1992 thành “Chế độ chính
trị” và đưa các quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh tại Chương XI của Hiến
pháp năm 1992 vào Chương này; vì đây là những nội dung quan trọng gắn liền với chế độ chính trị của quốc
gia. Chương II, được xây dựng trên cơ sở sửa đổi, bổ sung và bố cục lại Chương V - Quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân trong Hiến pháp năm 1992 thành: “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân” để khẳng định giá trị, vai trò quan trọng của quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp. Trên cơ
sở lồng ghép Chương II: Chế độ kinh tế và Chương III: Văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ của Hiến
pháp năm 1992 thành Chương III: “Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường”,
nhằm thể hiện sự gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội với phát triển
văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Chương VIII, được đổi vị trí từ Chương X:
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân của Hiến pháp năm 1992 thành: “Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân” để thể hiện sự gắn kết giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chương IX: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Hiến pháp năm 1992 được đổi tên thành Chương:
“Chính quyền địa phương”, để làm rõ hơn tính chất của hệ thống cơ quan công quyền ở địa phương trong
mối quan hệ với trung ương, thể hiện tính gắn kết, mối quan hệ chặt chẽ giữa Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân trong chỉnh thể của chính quyền địa phương. Nội hàm của chương này không chỉ quy định về Hội
đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, mà còn quy định về việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ và mối
quan hệ giữa cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội ở địa phương. Chương X, là
chương mới, quy định về một số thiết chế hiến định độc lập gồm Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà
nước nhằm hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Về nội dung, Hiến pháp sửa đổi đã có những điểm mới:
Một là, trong Lời nói đầu, trên cơ sở kế thừa Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp mới
được sửa đổi theo hướng khái quát, cô đọng và súc tích hơn về truyền thống, lịch sử đất nước, dân tộc, lịch
sử lập hiến của nước ta; nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn mới; mục tiêu xây dựng đất nước và thể
hiện mạnh mẽ hơn ý nguyện của nhân dân ta trong việc ban hành và sửa đổi Hiến pháp. Theo đó, “Nhân
dân Việt Nam xây dựng, thi hành Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”.
Hai là, chủ thuyết “chủ quyền nhân dân” được thể hiện rõ và nhất quán trong Hiến pháp mới. Chủ
quyền nhân dân là một trong những nguyên tắc đặc biệt quan trọng của Hiến pháp - bản “khế ước xã hội”
của nhân dân - vì thế, trước hết, nó phải thể hiện rõ điều này. Toàn văn Hiến pháp mới cho thấy rõ tư tưởng
về chủ quyền nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ngay ở Chương I, có 06 điều (từ
Điều 1 đến Điều 6) khẳng định về chủ quyền nhân dân; chỉ rõ phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực
nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông
qua các cơ quan khác của Nhà nước. Chương II, bao gồm các quy định về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ của công dân, là một bước cụ thể hóa về chủ thuyết chủ quyền nhân dân khi bổ sung thêm các
quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, như: quyền được có quốc tịch, quyền được bảo đảm an
sinh xã hội, quyền được thụ hưởng giá trị văn hoá, được bảo vệ trong tiêu dùng,... Đồng thời, Hiến pháp mới
khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của
cộng đồng” (Khoản 2, Điều 14). Bên cạnh đó, Hiến pháp mới cũng nêu rõ cách thức để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình thông qua các quyền chính trị cơ bản, như: nhân dân có quyền bãi nhiệm các đại
biểu Quốc hội do họ bầu ra, đồng thời có quyền biểu quyết về những vấn đề trưng cầu ý dân, v.v.
Ba là, Hiến pháp mới quy định rõ hơn nguyên tắc phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước.Kế thừa bản chất và mô hình tổng thể của bộ máy nhà nước ta theo Hiến pháp năm 1992, thể chế
hóa các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp mới xác định rõ hơn chức năng của các
cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và điều chỉnh lại một số nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan này. Đối với các cơ quan ở Trung ương, Hiến pháp mới khẳng định: Quốc hội là cơ
quan lập pháp; Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện
quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; quy định cụ thể thẩm
quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước trong hoạt động lập pháp, thống lĩnh các lực lượng vũ trang, Chủ tịch
Hội đồng quốc phòng và an ninh, đối nội, đối ngoại. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên; quy định về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân theo định hướng cải cách tư pháp. Đối với việc phân cấp giữa Trung ương và chính quyền
địa phương, để tạo cơ sở hiến định cho việc đổi mới tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp mới không
quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cấp chính quyền địa phương mà quy định theo
hướng: “Chính quyền địa phương được tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật tại địa
phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà
nước cấp trên” (Khoản 1, Điều 112); “Nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương được xác định trên
cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương và ở mỗi cấp chính
quyền địa phương” (Khoản 2, Điều 112). Cách quy định như vậy để tạo cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới tổ
chức chính quyền địa phương và sẽ được quy định cụ thể trong luật.
Bốn là, nội dung về kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường được thể hiện theo
hướng ngắn gọn, rõ ràng và mang tính nguyên tắc, bảo đảm tính ổn định lâu dài của bản Hiến pháp. Hiến
pháp mới nêu rõ nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta là: xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện CNH,HĐH đất nước gắn với phát triển nền kinh tế tri thức,
bảo vệ tài nguyên, môi trường; khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế thông qua
các chính sách cụ thể chứ không can thiệp sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các
tổ chức, cá nhân được tự do kinh doanh, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước theo quy định của
pháp luật. Nhà nước thực hiện chính sách chống độc quyền và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong kinh doanh. Tài sản hợp pháp của tổ chức, cá nhân được Nhà nước thừa nhận, bảo hộ và không bị
quốc hữu hoá; trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng
khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, tổ chức theo giá
thị trường, thể thức trưng dụng theo luật định.
Năm là, bổ sung các thiết chế hiến định độc lập. Để đảm bảo thực thi chủ quyền nhân dân, thực hiện
tốt cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực, hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến
pháp mới đã bổ sung 2 điều (tại Chương X), quy định về thiết chế hiến định độc lập, gồm Hội đồng bầu cử
quốc gia và Kiểm toán nhà nước. Về thiết chế Hội đồng bầu cử quốc gia, thực hiện Kết luận của Hội nghị
Trung ương 5 (khóa XI) về việc “tăng cường hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu
cử”, Hiến pháp mới quy định về Hội đồng bầu cử quốc gia nhằm mục đích hoàn thiện chế độ bầu cử cũng
như thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tạo cơ chế để nhân dân thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp là việc bầu cử, ứng cử và hình thức dân
chủ đại diện thông qua đại biểu dân cử. Hội đồng bầu cử quốc gia tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo
và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Việc thành lập Hội đồng bầu cử quốc
gia đồng thời góp phần bảo đảm tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu
Hội đồng nhân dân. Về thiết chế Kiểm toán nhà nước, Hiến pháp mới quy định vai trò, địa vị pháp lý và chức
năng của Kiểm toán nhà nước để tăng cường vị thế, trách nhiệm của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Theo
đó, đây là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, có chức năng kiểm
toán việc quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính và tài sản quốc gia. Hiến pháp chỉ quy định về việc Quốc hội
bầu Tổng Kiểm toán nhà nước, còn những vấn đề cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm toán
nhà nước sẽ do luật điều chỉnh.
Có thể nói, với những điểm mới được xác định, bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được Quốc hội
thông qua đã thể hiện quan điểm đổi mới cũng như quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; bảo đảm sự đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây
dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây
dựng và bảo vệ đất nước; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế,... Vì vậy, đây là một bản Hiến pháp mới -
bản Hiến pháp thứ 5 của nước ta với tên gọi: Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01-01-2014.
Để Hiến pháp mới đi vào cuộc sống, cần khẩn trương cụ thể hóa các nguyên tắc của Hiến pháp thành
các văn bản luật. Đó là công việc hệ trọng cần phải được triển khai sớm, với trách nhiệm cao của các cơ
quan nhà nước và sự tham gia tích cực của nhân dân cũng như cả hệ thống chính trị ở nước ta.
Nguồn: http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu--trao-doi/nhung-diem-moi-trong-hien-phap-nuoc-cong-hoa-
xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-nam-2013/4676.html
Triển khai Hiến pháp 2013: Những điểm mới về Chính phủ
(Chinhphu.vn) - Lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ là
cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Đồng thời, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao,
trách nhiệm cá nhân của các Bộ trưởng được tăng cường.
Trong sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 lần này, cùng với Chương về Chế độ chính trị, kinh tế-xã
hội, quyền và nghĩa vụ công dân, Chương về Chính phủ có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng, tương đối
toàn diện, trong đó có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản.
Về tính chất, vị trí của Chính phủ, nội dung, phạm vi và cơ chế thực hiện quyền hành pháp và hành
chính của Chính phủ đều có những sửa đổi, bổ sung theo tinh thần đổi mới nhằm xây dựng Chính phủ
mạnh, hiện đại, dân chủ, pháp quyền, thống nhất quản lý vĩ mô các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước.
Trước hết, về vị trí, phạm vi và nội dung thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp năm 2013 đã điều chỉnh, phân công lại ở mức độ nhất định, làm
rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của từng thiết chế: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp
Cụ thể, đối với Chính phủ, lần đầu tiên Hiến pháp chính thức khẳng định tính chất, vị trí của Chính phủ
là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nhấn mạnh và đề cao hơn tính chất, vị trí Chính phủ là cơ quan hành
chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đồng thời, khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ, “đề xuất, xây dựng chính sách
trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn…” (khoản 2 Điều 96).
Quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và pháp
luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của
Nhân dân (khoản 3 Điều 96)…
Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung quyền ban hành văn bản pháp quy
của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập để thực hiện chức năng hành pháp tại Điều 100:
“Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái
pháp luật theo quy định của luật”.
Với những sửa đổi, bổ sung trên đây, quyền hành pháp của Chính phủ đã có bước đổi mới, hoàn
thiện, phù hợp với bản chất, chức năng của quyền hành pháp hiện đại.
Về mối quan hệ giữa Chính phủ với Quốc hội, Chủ tịch nước: Hiến pháp đã bỏ quy định về thẩm
quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhằm tạo điều kiện cho Chính phủ
chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh. Đồng thời, Hiến pháp cũng phân định rõ hơn
phạm vi chính sách và các vấn đề quan trọng do Quốc hội và Chính phủ quyết định trong một số lĩnh vực
(như Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển KTXH của đất nước,
quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia… còn Chính phủ có thẩm quyền ban hành các
chính sách cụ thể, biện pháp để quản lý, điều hành các lĩnh vực); phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký kết,
gia nhập điều ước quốc tế…
Về cơ cấu, thành phần Chính phủ: Hiến pháp sửa đổi quy định rõ “Chính phủ gồm Thủ tướng Chính
phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ” (bỏ cụm từ “các thành
viên khác” của Hiến pháp 1992); bổ sung quy định “cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ do Quốc hội quy
định” để trên cơ sở đó quy định trong luật về cơ cấu, số lượng thành viên Chính phủ.
Đề cao chế định Thủ tướng Chính phủ
Trong bản Hiến pháp mới, chế định Thủ tướng Chính phủ tiếp tục được đề cao. Tập trung thẩm quyền
Thủ tướng Chính phủ trong việc lãnh đạo, điều hành Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương:
Thủ tướng Chính phủ được Hiến pháp khẳng định rõ vị trí, vai trò là người đứng đầu Chính phủ (mới
bổ sung). Đồng thời, quy định rõ hơn trách nhiệm giải trình của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội
về hoạt động của Chính phủ và những nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Quy định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng đối với Chính phủ, nhất là đối với hệ thống
hành chính Nhà nước: Thủ tướng “Lãnh đạo công tác của Chính phủ; lãnh đạo việc xây dựng chính sách và
tổ chức thi hành pháp luật”; “Lãnh đạo và chịu trách nhiệm và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống
hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt của nền hành
chính quốc gia” (khoản 1, khoản 2 Điều 98).
Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng đã nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ
thực sự trở thành nhân tố định hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và
toàn bộ hoạt động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương tới địa phương trong
việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Tăng cường trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng
Hiến pháp mới có một số sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thể hiện rõ hơn vị trí, nhiệm vụ, trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, đồng thời là một thiết chế có trách nhiệm
quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước.
Cụ thể, về vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới quy định “Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là thành viên Chính phủ và là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ,
lãnh đạo công tác của bộ, cơ quan ngang bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được
phân công” (khoản 1 Điều 99).
Về chế độ chịu trách nhiệm, Hiến pháp mới quy định rõ ràng và đầy đủ hơn: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ
quan ngang bộ “chịu trách nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành, lĩnh
vực được phân công phụ trách” (bổ sung chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ); và “cùng các thành
viên khác của Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (mới bổ sung).
Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp sửa đổi đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ: “tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực
trong phạm vi toàn quốc” (khoản 1 Điều 99); “ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”
(Điều 100).
Một điểm mới rất quan trọng là Hiến pháp đã bổ sung quy định về trách nhiệm giải trình. Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ không chỉ chịu trách nhiệm giải trình trước Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
mà còn phải chịu trách nhiệm giải trình trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản
lý (khoản 2 Điều 99).
Nâng cao tính dân chủ pháp quyền
Nội dung sửa đổi, bổ sung quan trọng và lớn nhất về Chính phủ là về cơ chế thực hiện quyền hành
pháp phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Hiến pháp mới đã có nhiều quy định đổi mới về cơ chế thực thi quyền lực, phù hợp với tính chất, vai
trò của từng thiết chế Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng, theo hướng nâng cao hơn tính dân
chủ pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ, bảo đảm minh bạch, linh hoạt, nhanh nhạy, trách
nhiệm giải trình trong thực hiện quyền lực được trao; đồng thời, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa 3 thiết chế
trong thực hiện quyền hành pháp và hành chính được giao. Thể hiện cụ thể như sau:
Đối với Chính phủ, Hiến pháp khẳng định mạnh mẽ nguyên tắc Chính phủ làm việc theo chế độ tập
thể, quyết định theo đa số; đồng thời, xác lập mối quan hệ trách nhiệm giữa Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ;
Với thiết chế Thủ tướng: Hiến pháp mới khẳng định mạnh mẽ vị trí, vai trò của Thủ tướng với tư cách
là người đứng đầu Chính phủ, đồng thời vừa là một thiết chế độc lập tương đối với Chính phủ (đề cao vai
trò cá nhân Thủ tướng).
Theo đó, quy định toàn diện về chế độ trách nhiệm của Thủ tướng: Chịu trách nhiệm trước Quốc hội,
đồng thời nhấn mạnh chịu trách nhiệm giải trình trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước,
trước nhân dân về hoạt động của Chính phủ, về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với hoạt
động của Chính phủ và hệ thống hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống
nhất, thông suốt của nền hành chính quốc gia.
Về Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Hiến pháp mới đã bổ sung một số quy định mới: Khẳng
định rõ vị trí, vai trò của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ là người đứng đầu và lãnh đạo công tác
của Bộ, cơ quan ngang bộ; có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực được phân
công; chịu trách nhiệm cá nhân trước Chính phủ; cùng chia sẻ trách tập thể với các thành viên Chính phủ về
hoạt động của Chính phủ.
Nguyễn Phước Thọ
Nguồn: http://baodientu.chinhphu.vn/Trien-khai-Hien-phap-2013/Trien-khai-Hien-phap-2013-Nhung-
diem-moi-ve-Chinh-phu/193748.vgp