Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 21

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCM

KHOA ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO

BÀI TIỂU LUẬN


HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

TÊN ĐỀ TÀI
Lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản
xuất vật chất và phương thức sản xuất. Liên hệ thực tiễn.

STT Họ và tên MSSV

1 Võ Phước Thắng 22146229

2 Nguyễn Khang Thiện 22146232

3 Nguyễn Đăng Thiện 22146231

4 Võ Lê Huy Thịnh 22146409

5 Nguyễn Doãn Thắng 22146227


2

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................................ 1
NỘI DUNG ............................................................................................................................................ 2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VAI TRÒ CỦA SẢN
XUẤT VẬT CHẤT VÀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT .................................................................... 2
1. Tổng quan về chủ nghĩa duy vật lịch sử .......................................................................................... 2
1.1 Khái niệm về chủ nghĩa duy vật lịch sử......................................................................................... 2
1.2 Nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử ............................................................................ 2
2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về sản xuất vật chất, phương thức sản xuất và vai
trò của chúng ......................................................................................................................................... 3
2.1 Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất .................................................................................. 3
2.1.1 Sản xuất vật chất ........................................................................................................................... 3
2.1.2 Phương thức sản xuất ................................................................................................................... 4
2.2 Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã
hội ........................................................................................................................................................... 4
2.2.1 Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội .................................... 4
2.2.2 Vai trò của phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội ........................... 5
2.3 Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất........ 6
2.3.1 Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .............................. 6
2.3.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất .................................... 7
3. Ý nghĩa phương pháp luận ............................................................................................................... 9
CHƯƠNG II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ XÃ HỘI ĐỂ CHỨNG
MINH CHO VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT ....... 10
1. Thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội nước ta ............................................................................ 10
2. Những thành tựu kinh tế nổi bật của Việt Nam hiện nay............................................................ 11
3. Một số hạn chế, tồn tại .................................................................................................................... 14
4. Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản
xuất đối với sự tồn tại và phát triển của nước ta .............................................................................. 15
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 17
1

MỞ ĐẦU
Sau khi học xong học phần triết học Mác-Lênin, chúng ta đã biết được chủ nghĩa
duy vật lịch sử không chỉ nghiên cứu những mặt riêng biệt của sinh hoạt xã hội mà còn
nghiên cứu toàn bộ xã hội như một thể thống nhất với tất cả các mặt, các quan hệ xã hội,
các quá trình có liên hệ nội tại và tác động lẫn nhau của xã hội; nghiên cứu những quy
luật chung nhất phổ biến nhất của sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử vạch
ra những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển xã hội, chỉ ra vị trí và vai
trò của mỗi mặt của đời sống xã hội, trong hệ thống xã hội nói chung, vạch ra những nét
cơ bản của các giai đoạn phát triển của xã hội loài người. Theo đó, con người và xã hội
loài người được hình thành, phát triển tất yếu trong quá trình sản xuất vật chất. Lịch sử
xã hội do vậy trước hết là lịch sử của sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất là nhằm tạo ra
của cải vật chất để duy trì sự tồn tại và phát triển của con người, đồng thời con người
sáng tạo ra toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả sự phong phú và
phức tạp của nó. Và bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với
mục đích nhất định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến
hành đó được gọi là phương thức sản xuất. Do đó, đây chính là cơ sở, nền tảng quan
trọng để khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của sản xuất vật chất và phương thức sản
xuất.

Trong giai đoạn hiện nay thì Việt Nam chúng ta đang trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, do vậy việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật là một vấn đề tất yếu và
cần thiết. Việc xây dựng đó gắn liền với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong
mối quan hệ với quan hệ sản xuất. Mà cả hai yếu tố là lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất đều là hai mặt thống nhất trong phương thức sản xuất. Mà phương thức sản xuất
thì có sự thống nhất và gắn liền với quá trình sản xuất vật chất. Nhận thức được vai trò
to lớn của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất, em xin chọn đề tài “Lý luận của
chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất.
Liên hệ thực tiễn.” để làm chủ đề bài tiểu luận của mình, qua đó làm rõ được cơ sở lý
luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản
xuất, đồng thời liên hệ thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội để chứng minh cho vai trò
của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất.
2

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ VAI TRÒ
CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT

1. Tổng quan về chủ nghĩa duy vật lịch sử

1.1 Khái niệm về chủ nghĩa duy vật lịch sử


Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống các quan điểm duy vật biện chứng về xã
hội của triết học Mác-Lênin, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã
hội và lịch sử nhân loại.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử lý giải sự tiến hóa của xã hội loài người bằng sự phát
triển của trình độ sản xuất. Trình độ sản xuất thay đổi khiến quan hệ sản xuất cũng thay
đổi dẫn đến những mối quan hệ xã hội thích ứng với những quan hệ sản xuất đó cùng
với những tư tưởng nảy sinh ra từ những quan hệ xã hội đó cũng thay đổi, kéo theo sự
thay đổi hệ thống pháp lý và chính trị. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác đã trở thành
phương pháp luận của nhiều nhà nghiên cứu trong các bộ môn như sử học, xã hội học…

1.2 Nội dung cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử
Các lực lượng sản xuất luôn luôn phát triển không ngừng, đến một giai đoạn nhất
định sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất cũ đã lỗi thời và đòi hỏi phải thay đổi các
quan hệ sản xuất ấy bằng những quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn. Trong xã hội có giai
cấp, sự thay đổi ấy được thực hiện bằng cách mạng xã hội.

Một khi cơ sở hạ tầng đã thay đổi, thì toàn bộ cấu trúc thượng tầng sớm muộn
cũng thay đổi theo. Hình thái kinh tế – xã hội cũ được thay thế bằng một hình thái kinh
tế – xã hội mới tiến bộ hơn. Chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm phát hiện ra những quy luật
chung nhất của sự vận động phát triển của lịch sử, là nguyên nhân dẫn đến sự thay thế
các hình thái kinh tế – xã hội thấp đến trình độ cao hơn, vận động theo hình xoáy ốc và
đỉnh cao của nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa, một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Cốt
lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử là học thuyết hình thái kinh tế – xã hội, theo đó, trong
3

các quan hệ xã hội, các quan hệ sản xuất là cơ sở hiện thực của mỗi xã hội nhất định,
cấu trúc hạ tầng, trên đó xây dựng lên kiến trúc thượng tầng. Mỗi hệ thống quan hệ sản
xuất của một xã hội nhất định, phụ thuộc vào tính chất và trình độ phát triển của các lực
lượng sản xuất.

2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất và vai trò của chúng

2.1 Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất

2.1.1 Sản xuất vật chất


Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng của con người. Quá trình này tác động đến
tự nhiên và tác động với nhau để tạo ra các sản phẩm vật chất, tinh thần hay chính bản
thân con người được gọi là sản xuất xã hội. Trong đó sản xuất vật chất đóng vai trò quan
trọng nhất.

Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin khẳng định rằng: sản xuất vật chất là
quá trình con người sử dụng công cụ lao động, tác động vào giới tự nhiên, nhằm biến
đổi giới tự nhiên theo nhu cầu, mục đích của con người. Và hơn cả là chúng ta tạo ra
của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu bản năng sinh tồn của con người (chính bản thân
mình) sau đó là cho xã hội để đảm bảo sự sinh tồn và phát triển.

Ví dụ: Con người tham gia trồng trọt, chăn nuôi để tạo ra lương thực – thực phẩm.
Từ đó rút ra 3 đặc trưng của sản xuất vật chất:

• Hoạt động sản xuất vật chất mang tính lịch sử xã hội, bởi hoạt động này mang
tính chất hoạt động của một tập đoàn người.

• Trong quá trình sản xuất vật chất con người không thể tách mình ra khỏi cộng
đồng xã hội. Bởi vì con người chúng ta tồn tại theo tư cách là thực thể xã hội. (Muốn đi
nhanh thì đi một mình, nhưng muốn đi xa thì phải đi cùng nhau).

• Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động có mục đích, đáp ứng nhu cầu bản
năng sinh tồn của con người, cũng như sự phát triển của xã hội. Và mang tính khách
quan.
4

2.1.2 Phương thức sản xuất


Bất cứ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành với mục đích nhất
định và được tiến hành theo những cách thức xác định. Cách thức tiến hành đó được gọi
là phương thức sản xuất. Như vậy, phương thức sản xuất chính là những cách thức mà
con người sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai đoạn lịch sử
nhất định. Phương thức sản xuất bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau là lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Mỗi xã hội ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có phương thức sản xuất của nó
với những đặc điểm riêng. Phương thức sản xuất của xã hội nguyên thủy có đặc trưng
là cách thức kỷ thuật đánh bắt tự nhiên ở trình độ hết sức thô sơ, còn phương thức sản
xuất trong xã hội hiện đại lại có đặc trưng ở trình độ kỹ xảo công nghiệp và công nghệ
cao.

Mỗi phương thức sản xuất đều có hai phương diện cơ bản là kỹ thuật và kinh tế.
Hai phương diện đó gắn bó chặt chẽ với nhau. Phương diện kỹ thuật của phương thức
sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành bằng cách thức kỹ thuật, công nghệ
nào để làm biến đổi các đối tượng của quá trình sản xuất. Phương diện kinh tế của
phương thức sản xuất chỉ ra quá trình sản xuất được tiến hành với những cách thức tổ
chức kinh tế cao.

Trong các xã hội nông nghiệp truyền thống, phương thức kỹ thuật chủ yếu của
quá trình sản xuất là các công cụ kỹ thuật thủ công với quy mô nhỏ và khép kín về
phương diện kinh tế. Còn trong các xã hội hiện đại, quá trình sản xuất lại được tiến hành
với phương thức kỹ thuật công nghiệp và tổ chức kinh tế thị trường với những quy mô
ngày càng mở rộng và không ngừng phát triển theo hướng phân tách và phụ thuộc vào
nhau giữa các khâu kỹ thuật và tổ chức kinh tế của quá trình sản xuất xã hội.

2.2 Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát
triển của xã hội

2.2.1 Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Sản xuất vật chất là cơ sở nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội bởi vì:
5

• Đời sống xã hội loài người bao gồm nhiều mặt, nhiều hoạt động: kinh tế, chính
trị, văn hóa, nghệ thuật… Xã hội càng phát triển thì các hoạt động này càng phong phú.
Các hoạt động này do con người tạo ra thông qua sản xuất vật chất.

• Con người muốn tồn tại trước hết phải đáp ứng nhu cầu: ăn, ở, mặc. Nhu cầu
này không có sẵn trong giới tự nhiên, mà phải thông qua hoạt động sản xuất. Chính lao
động sản xuất đã biến đổi các đối tượng trong giới tự nhiên thành sản phẩm thỏa mãn
nhu cầu hằng ngày của con người và xã hội.

• Không có hoạt động sản xuất vật chất thì không có sự tồn tại của con người và
xã hội loại người.

Hoạt động sản xuất vật chất là nền tảng làm nảy sinh các mối quan hệ trong đời
sống xã hội. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở hình thành, phát triển, biến đổi xã hội.
Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh, xã hội loài người đã trải qua 5 hình
thái kinh tế xã hội do hoạt động sản xuất vật chất quyết định.

2.2.2 Vai trò của phương thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
Với việc phát hiện ra vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với trình
độ phát triển của nền sản xuất xã hội và do đó, với trình độ phát triển của đời sống xã
hội nói chung, chủ nghĩa Mác-Lênin đã phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo
lịch sử thay thế và phái triển của các phương thức sản xuất. Sự thay thế và phát triển của
các phương thức sản xuất phản ánh xu hướng tất yếu khách quan của quá trình phát triển
xã hội loài người từ trình độ thấp đến trình độ ngày càng cao hơn: phương thức sản xuất
Châu Á, cổ đại, phong kiến và tư sản hiện đại…

Tính chất tuần tự trong quá trình thay thế và phát triển của các phương thức sản
xuất cũng chính là quy luật chung trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại nhưng
với mỗi cộng đồng xã hội nhất định, tùy theo điều kiện khách quan và chủ quan mà có
thể có những biểu hiện đa dạng về con đường phát triển của nó: có tính chất đan xen
giữa các phương thức sản xuất trong một thời kỳ phát triển hoặc có những bước nhỏ qua
một hay một vài phương thức sản xuất nào đó (với tư cách là phương thức sản xuất có
tính chất phổ biến, giữ vai trò chủ đạo) và tiến thẳng lên phương thức sản xuất cao hơn.
6

Đó chính là sự hiểu hiện của tính thống nhất trong tính đa dạng về con đường phát triển
của mỗi cộng đồng người nhất định, tạo nên tính chất phong phú của lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, dù lịch sử của mỗi cộng đồng người có phát triển phong phú, đa dạng
như thế nào, thậm chí có những giai đoạn phát triển phải trải qua những con đường vòng
nhưng rốt cuộc lịch sử vẫn tuân theo xu hướng chung là phát triển theo chiều hướng đi
lên từ phương thức sản xuất ở trình độ thấp lên trình độ cao hơn.

2.3 Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất

2.3.1 Khái niệm phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
• Khái niệm phương thức sản xuất:

Phương thức sản xuất là cách thức mà con người thực hiện trong quá trình sản
xuất ra của cải vật chất ở những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội loài
người. Trong quá trình sản xuất của mình, con người có những cách thức sản xuất ra
những của cải vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau ấy đã tạo ra những đặc trưng
riêng có cho mỗi kiểu xã hội nhất định. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.

• Khái niệm lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất là mối quan hệ của con người với tự nhiên hình thành trong
quá trình sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở trình độ khống chế tự
nhiên của con người. Đó là kết quả năng lực thực tiễn của con người tác động vào tự
nhiên để tạo ra của cải vật chất đảm bảo sự tồn tại và phát triển của loài người. Lực
lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, trước hết là công
cụ lao động. Do vậy, kết cấu của lực lượng sản xuất bao gồm những yếu tố cơ bản sau:

Thứ nhất là người lao động: Là con người biết sáng tạo, sử dụng công cụ lao
động để sản xuất ra những vật phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó của con người trong
đời sống xã hội. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, con
người với sức mạnh, kỹ năng, kỹ xảo của mình sử dụng những tư liệu sản xuất tác động
7

vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Người lao động được xem là yếu
quyết định của lực lượng sản xuất.

Thứ hai là tư liệu sản xuất: Tư liệu sản xuất là cái mà con người sử dụng nó
trong quá trình lao động sản xuất. Đây là yếu tố quan trọng không thể thiếu được của
lực lượng sản xuất. Nó bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động:

• Khái niệm quan hệ sản xuất:

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Quan
hệ sản xuất là do con người ta quy định với nhau nhưng nội dung của nó lại mang tính
khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một ai hay một tổ chức nào.
Quan hệ sản xuất được xem là hình thức xã hội của một quá trình sản xuất.

Quan hệ sản xuất gồm có 3 mặt: Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm
hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu (gọi tắt là quan hệ sở hữu); Quan hệ giữa người với
người trong việc tổ chức, quản lý xã hội và trao đổi hoạt động cho nhau (gọi tắt là quan
hệ tổ chức, quản lý); Quan hệ giữa người với người trong phân phối, lưu thông sản phẩm
làm ra (gọi tắt là quan hệ phân phối lưu thông)

Trong ba mặt của quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất chủ
yếu là quan hệ cơ bản và đặc trưng cho từng xã hội. Quan hệ về sở hữu quyết định quan
hệ về tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm làm ra. Ba mối quan
hệ cơ bản của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống tương đối
ổn định so với sự vận động và phát triển liên tục của lực lượng sản xuất.

Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt thống nhất trong
phương thức sản xuất, sự tác động biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất biểu hiện quy luật chung chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài
người.

2.3.2 Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
*) Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay
đổi quan hệ sản xuất:
8

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất,
chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo
thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.

Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan
hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều
đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của
nó.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực
lượng sản xuất phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất là
tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục
phát triển. Thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là
phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời thay thế.

*) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát
triển của lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất không
hoàn toàn thụ động mà tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ
sản xuất có thể tác động đến lực lượng sản xuất vì nó quy định mục đích của sản xuất,
tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao
động xã hội, đến sự phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ. Và do đó tác động đến
sự phát triển của lực lượng sản xuất.
9

Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động
lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu
hoặc tiên tiến hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay
thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để
thúc đẩy sản xuất phát triển.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là quy luật phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại. Sự thay thế
sự phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu
nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

3. Ý nghĩa phương pháp luận


Từ lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất và phương
thức sản xuất, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận như sau:

• Thứ nhất, để phân tích cơ sở cuối cùng của mọi hiện tượng xã hội, quan hệ xã
hội, cần phải xuất phát từ thực tế nền sản xuất vật chất đã làm nảy sinh ra chúng.

• Thứ hai, để cải tạo xã hội cũ lạc hậu và xây dựng xã hội mới văn minh, tiến bộ
thì mấu chốt căn bản của quá trình cách mạng ấy là cần phải cải tạo căn bản trình độ lạc
hậu của nền sản xuất cũ và xây dựng được trình độ phát triển của nền sản xuất mới.
10

CHƯƠNG II: LIÊN HỆ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CỦA LỊCH SỬ XÃ HỘI ĐỂ
CHỨNG MINH CHO VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ PHƯƠNG
THỨC SẢN XUẤT

1. Thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội nước ta


Ở Việt Nam ta, do đặc điểm đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cơ sở vật chất còn thiếu thốn nghèo
nàn, phương tiện sản xuất còn thô sơ, trình độ sản xuất còn thấp kém, muốn xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ văn minh, cần phải tiến hành đổi mới nhiều mặt. Trong đó, có đổi
mới về kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, từng bước
đưa nền kinh tế tăng trưởng bền vững tạo ra nguồn của cải vật chất dồi dào không chỉ
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Đầu tư trang thiết
bị hiện đại, đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, kết hợp phát triển kinh tế
với các vấn đề xã hội.

Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội như
nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu,
từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Mỗi bước
tiến của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một bước tăng cường cơ sở vật chất
- kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất và góp phần hoàn
thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh nhân loại về công
nghiệp hoá vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta hiện nay, Đảng ta nêu ra quan niệm
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên
sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động
xã hội cao.
11

Quan niệm nêu trên cho thấy, quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta
hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai nội dung công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong quá
trình phát triển. Quá trình ấy không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải
thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng nghành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế
quốc dân theo hướng kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Quá trình ấy không chi tuần tự trải
qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá mà còn sử dụng kết hợp kỹ thuật thủ
công truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu
có thể và mang tính quyết định.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chủ trương giải phóng mạnh mẽ hơn nữa
lực lượng sản xuất, phát huy nguồn lực toàn xã hội, mọi công dân, mọi ngành kinh tế,
phát triển, phát triển khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo, phát triển con người,
nâng cao chất lượng nguồn lực, phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển và ứng dụng kinh tế trí thức,
định hướng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển.

2. Những thành tựu kinh tế nổi bật của Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng liên tục,
chế độ bao cấp bị xóa bỏ.

“Cùng với việc thực hiện kế hoạch 5 năm (1991-1995) nước ta đã hoàn thành
vượt mức chỉ tiêu đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển
sang thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt: lao động có việc làm tăng nhanh, mỗi năm
tạo ra hàng trăm việc làm mới, GDP đầu người đạt 1.300USD/ năm (năm 2011)”.

Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, sản lượng lương thực
tăng, Việt nam từ một nước thiếu lương thực đến nay đã trở thành đứng thứ hai trên thế
giới về xuất khẩu gạo. Công nghiệp tăng liên tục do có sự đầu tư lớn ở cả trong và ngoài
nước, nhưng quan trọng là có sự đổi mới về cơ chế, chính sách quản lí của Nhà nước,
xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài… Những thành tựu đạt được là kết quả của
con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng
12

đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất để phát
triển kinh tế - xã hội hiện nay.

Thứ hai, từ Đại hội VI Đảng ta đã có những quan điểm đổi mới: Đảng coi trọng
phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Từ sự đánh giá quá trình cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế.

Đại hội VI của đảng đã chủ trương xây dựng và cũng cố quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, Có chính sách sử dụng và chỉ đạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác. Cải
tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất mới tiếp tục khẳng định tại đại hội
VII. Ngay từ đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
là đúng bởi đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất nước
ta vừa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội, nhất là xây dựng quan hệ sản
xuất một thành phần dựa trên chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như
trước đại hội VI đã từng làm là đã đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực
lượng sản xuất.

Có những thành phần kinh tế vì lợi ích của mình có thể hoạt động theo hướng tư
bản chủ nghĩa. Thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất xã hội chủ nghĩa
nhưng chưa thích nghi với cơ chế thị trường, làm ăn kém hiệu quả nên diễn ra cuộc đấu
tranh định hướng ngay gắt. Vì vậy để thực hiện được sự định hướng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của đảng và quản lý kinh
tế của nhà nước giữ vai trò quyết định. Quan điểm cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ
mô của nhà nước, của Đảng ta là quan điểm mới về kinh tế xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ
quá độ, không dị ứng mà chấp nhận kết hợp với sử dụng rộng rãi những quan hệ thị
trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ ba, vận dụng quy luật trên, tại đại hội VIII, Đảng ta khẳng định: “Mục tiêu
của công nghiệp hóa hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đến
năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Lực
13

lượng sản xuất lúc đó sẽ đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công
được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện
trong cả nước, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với
hiện nay.

Thứ tư, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được phát triển
thêm trong đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phải ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trên cả
ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Về quan hệ sản xuất, Đảng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Đảng ta xác định trong tình
hình hiện nay cần có sáu thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế
cả thể - tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng, là công cụ để nhà nước định hướng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.

Đảng ta chủ trương: “Phát triển các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn
hợp nhiều hình thức sở hữu giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và
ngoài nước, phát triển hình thức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn
đầu tư xã hội. Đồng thời nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn kết hợp với phát triển loại hình
trang trại với quy mô phù hợp từng địa bàn.

Thứ năm, tại đại hội X khẳng định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển
sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.

Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
14

chắc của nền kinh tế quốc dân. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước: nhà
nước làm tốt các chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.

Tạo ra môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn
lực của xã hội đảm bảo cho phát triển. Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân
đối kinh tế vĩ mô, các chế rủi ro và tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Thực hiện
quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm thiểu tối đa sự can thiệp hành chính vào
hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự
vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.

Cùng với việc phát triển mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ và thị trường sức lao
động thì cần phát triển bền vững và vững chắc thị trường tài chính, bao gồm thị trường
vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, cơ cấu hoàn chỉnh. Phát triển thị trường
bất động sản, phát triển thị trường khoa học công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính
sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ trở thành hàng hóa.

Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh.
Nước ta có các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá nhân,
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời tiếp tục khẳng
định các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Về chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển
kinh tế tri thức, Đại hội X nhấn mạnh: Chúng ta phải tranh thủ các cơ hội thuận lợi do
bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, phát triển mạnh các nền kinh tế và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia
tăng cao dựa vào tri thức.

3. Một số hạn chế, tồn tại


Chúng ta còn tồn tại những sai lầm, khuyết điểm vào thời kỳ trước đổi mới: Thời
kỳ trước đổi mới việc nhận thức và vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về
15

vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất còn giản đơn và phạm phải những
sai lầm gây nên những hệ quả nặng nề cho nền kinh tế và xã hội. Những sai lầm, khuyết
điểm thời kỳ trước đổi mới thể hiện tập trung ở quan điểm chính sách cải tạo quan hệ xã
hội cũ, xây dựng quan hệ xã hội mới: Chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan
bằng cách đốt cháy giai đoạn… Do đó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất,
đồng nhất và đơn giản hóa quan hệ sản xuất chỉ còn là quan hệ sở hữu và trong sở hữu
chỉ nhấn mạnh đến hình thức sở hữu cộng đồng, tập thể.

Cụ thể, đó là những sai lầm khi hợp tác hóa, đánh tư sản; hành chính hóa bộ máy
quản lý hành chính, tập trung quan liêu bao cấp, thông tin kém hiệu quả. Về phân phối
sản phẩm: Phương thức bình quân chủ nghĩa, cào bằng do đó triệt tiêu động lực của sự
phát triển là lợi ích của người lao động. Về lực lượng sản xuất tập trung ưu tiên cho việc
phát triển công nghiệp nặng, không chú ý, ít chú ý đến hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng…
Chậm trễ trong việc áp dụng thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Chưa chú trọng
đến việc nâng cao trình độ, đào tạo tay nghề cho người lao động, chưa nhận thức rõ
người lao động là yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất.

4. Một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của sản xuất vật chất và phương
thức sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của nước ta
Một là, nâng cao chất lượng, trình độ người lao động bằng cách mở các trường
lớp đào tạo ngành nghề, đầu tư phát triển giáo dục. Tập trung vào việc đào tạo các ngành
nghề có nhu cầu lớn trong xã hội, chú trọng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho
người lao động. Quan tâm, học hỏi chất lượng đào tạo nước ngoài. Đồng thời, cải tạo
các loại máy móc, dây chuyền sản xuất để nâng cao năng suất, khối lượng sản phẩm.

Hai là, thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu lại nền doanh nghiệp và
điều chỉnh chiến lược thị trường. Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng tồn tại nhiều
hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Về quản lý, trong kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chính sách… Đồng thời sử dụng
các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất.
16

Ba là, không ngừng phát triển lực lượng sản xuất thông qua việc đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng và phát triển các quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thông qua việc xây dựng và hoàn thiện
nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển đồng
bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
17

KẾT LUẬN

Như vậy, bài tiểu luận trên đã làm rõ lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai
trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất, cụ thể, tôi đã khái quát về chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đưa ra quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về sản xuất vật chất,
phương thức sản xuất và vai trò của chúng và nêu bật được ý nghĩa phương pháp luận.
Qua đó liên hệ thực tiễn phát triển của lịch sử xã hội để chứng minh cho vai trò của sản
xuất vật chất và phương thức sản xuất. Từ việc làm rõ cơ sở lý luận kết hợp với liên hệ
thực tiễn, ta thấy được vai trò và tầm quan trọng của sản xuất vật chất và phương thức
sản xuất đối với sự tồn tại và phát triển của lịch sử xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, trong đó, sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh tồn,
phát triển của con người và xã hội loài người, là hoạt động nền tảng làm phát sinh phát
triển những mối quan hệ của con người. Nó cũng chính là cơ sở của sự hình thành, biến
đổi và phát triển của xã hội loài người, và xét đến cùng là quyết định toàn bộ sự vận
động của đời sống xã hội.

Vận dụng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất
và phương thức sản xuất vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta hiện
nay, Đảng và Nhà nước đã đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho nền kinh tế xã hội nước
nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất lượng sản phẩm, khiến cho tổng sản phẩm
trong nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một nước đói kém với nền kinh tế chậm phát
triển đã vươn lên thành một nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Do đó, chúng
ta cần phải tiếp tục đổi mới các chính sách kinh tế để nhằm hạn chế triệt tiêu các tác
động kìm hãm, qua đó góp phần làm cho toàn bộ nền kinh tế của đất nước ta luôn giữ
đúng quỹ đạo độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh
diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều lĩnh vực như hiện nay thì
nhiệm vụ hàng đầu đòi hỏi chúng ta vừa phải tập trung ưu tiên phòng chống dịch, đồng
thời cần có các chính sách, giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm giảm thiểu tác động của
dịch bệnh, vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ để sớm phục hồi và đẩy
mạnh sản xuất, phát triển kinh tế xã hội. Mặc dù việc vận dụng lý luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử về vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đã đem lại cho
chúng ta những hiệu quả lớn trong sự phát triển kinh tế của đất nước nhưng nếu vận
18

dụng không đúng cách sẽ gây ra sai lầm. Do đó, mỗi sinh viên chúng ta cần phải có hiểu
biết, nắm rõ được lý luận ấy để biết áp dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn.
19

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-
Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
2. Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia, Giáo trình Triết học
Mác-Lênin, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
3. Hà Lê (19/09/2020), Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
lực lượng sản xuất và sự phát triển của đất nước, Truy cập từ
http://www.thinhvuongvietnam.com/Content/vithinhvuongvietnam0919-
395821
4. Luật sư Nguyễn Văn Dương (06/07/2022), Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lượng sản xuất. Truy cập từ
https://luatduonggia.vn/quy-luat-quan-he-san-xuat-phu-hop-voi-trinh-do-phat-
trien-cua-luc-luong-san-xuat/
5. Loigiaihay (25/07/2017), Sản xuất vật chất và vai trò của nó. Truy cập từ
https://loigiaihay.com/san-xuat-vat-chat-va-vai-tro-cua-no-c126a20200.html
6. TS. Phương Kỳ Sơn (1999), Lịch sử Triết học, Nhà xuất bản chính trị quốc gia.

You might also like