Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 76

1

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU 1

B. NỘI DUNG 2

I. Cơ sở hình thành đường lối cứu quốc và Những hoạt động quốc tế đầu 2
tiên của Nguyễn Tất Thành

1. Cơ sở hình thành tư tưởng ra nước ngoài tìm đường cứu nước của Nguyễn 2
Tất Thành

2. Cơ sở hình thành thế giới quan cách mạng và những hoạt động cách mạng 4
đầu tiên của Nguyễn Tất Thành

II. Hoạt động Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp (1917 - 1923) 8

1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong các tổ chức yêu nước người Việt tại Pháp 8
(1917 - 1920)

2. Nguyễn Ái Quốc và nỗ lực thiết lập mối quan hệ Cách mạng Việt Nam với 10
Cách mạng Pháp và các thuộc địa (1920 - 1923)

III. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô (1923 - 1924) 17

1. Những hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô 17

2. Nguyễn Ái Quốc xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với quốc 19
tế Cộng sản (1923-1924)

IV. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, châu Âu và Xiêm 20
(1924 - 1929)

1. Những hoạt động quốc tế đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu với tư 20
cách là đại diện của quốc tế cộng sản

2. Nguyễn Ái Quốc xúc tiến thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên 23

3. Nguyễn Ái Quốc với việc thiết lập quan hệ giữa Hội Việt Nam Cách mạng 28
Thanh niên với Cách mạng Trung Quốc (1924-1927)

4. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở châu Âu (1927-1928) 32

5. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh 35
niên ở Xiêm (1928-1929)
2

V. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc góp phần thành lập Đảng Cộng 41
sản Việt Nam, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách
mạng thế giới (1930-1941)

1. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập 41
Đảng Cộng sản Việt Nam

2. Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam 46
(1930-1931) - Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh

3. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (1931-1933) 49

4. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1934-1938) 53

5. Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc và hành trình tìm đường về nước trực 58
tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1938-1941)
C. KẾT LUẬN 65

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 66

PHỤ LỤC - Cảm nghĩ của nhóm đối với chuyến thực tế năm 2 - 2022 72
1

MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1980 tại làng Hoàng Trù, nay thuộc
xã Kim Liên huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Trong quãng thời gian từ khi sinh ra đến trước
khi xuất dương, Bác đã sinh sống ở nhiều nơi. Đó là quê hương Nghệ Tĩnh với truyền thống
yêu nước và đấu tranh chống Pháp kiên cường. Đó là thành Huế với bao cảnh đau lòng của
một dân tộc bị làm nô lệ, Nguyễn Tất Thành là người thanh niên vượt qua gian khó, đã sớm
bộc lộ mầm mống trí lớn của một con người mà sau này trở thành anh hùng giải phóng dân
tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Thời thanh niên, Nguyễn Tất Thành được học chữ Hán, rồi chữ Pháp của nền giáo
dục thực dân. Vốn là con người thông minh ham học hỏi, Nguyễn Tất Thành đã để ý đến câu
khẩu hiệu của nước Pháp: tự do - bình đẳng - bác ái. Và người tự hỏi, đằng sau ba chữ đó là
sự thật như thế nào. Và vì sao dân tộc ta vẫn phải chịu cảnh nô lệ lầm than. Những câu hỏi đó
cộng với lòng yêu nước, ý chí vượt khó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước. Cách
đây 112 năm, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra nước ngoài để thực hiện khát
vọng đem lại quyền tự do cho đồng bào, cho dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực
dân. Người là tấm gương mẫu mực của sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với
chủ nghĩa cộng sản, sự gắn kết giữa lực lượng cách mạng trong nước với quốc tế, giữa phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Sự nỗ lực cống hiến của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cho cách mạng thế giới
trong những năm tìm đường cứu nước có tầm ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh chung của
nhân loại tiến bộ vì nền độc lập, tự do của con người và các dân tộc thuộc địa. Bài báo cáo
này sẽ tổng hợp, phân tích những hoạt động quốc tế tiêu biểu của Nguyễn Ái Quốc ở nước
ngoài, bao gồm 5 chương:
1. Quá trình hình thành con đường cứu nước và những hoạt động quốc tế đầu tiên của
Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài (1911-1917)
2. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
3. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
4. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, châu Âu và Xiêm
(1924-1929)
5. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc góp phần thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
(1930-1941).
2

NỘI DUNG

I. Cơ sở hình thành đường lối cứu quốc và những hoạt động quốc tế đầu tiên của
Nguyễn Tất Thành
1. Cơ sở hình thành tư tưởng ra nước ngoài tìm đường cứu nước của
Nguyễn Tất Thành
1.1. Nền tảng gia đình
Cơ sở hình thành mong muốn ra nước ngoài học tập của Nguyễn Tất Thành trước hết
đến từ nền tảng giáo dục và văn hóa của gia đình cũng như các tầng lớp trí thức yêu nước
đương thời.

Nguyễn Tất Thành là một người con của đất Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra
tại làng Hoàng Trù quê mẹ, cách làng Sen quê cha tầm 2km. Cha người, Nguyễn Sinh Sắc
(1862-1929), cũng là người thầy đầu tiên của người. Mẹ người là bà Hoàng Thị Loan
(1868-1901), một người phụ nữ tảo tần, làm nông dệt vải nuôi chồng nuôi con ăn học. Người
có 3 anh chị em, Nguyễn Thị Thanh tự Bạch Liên (1884-1954), Nguyễn Sinh Khiêm
(1888-1950), Nguyễn Sinh Xin (1900-1901).

Nền tảng tri thức đầu tiên mà Nguyễn Tất Thành tiếp xúc là Nho học và chữ Hán với
sự dạy dỗ của cha mình. Khi còn ở quê nhà, Nguyễn Tất Thành cũng theo học các thầy
Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và Trần Thân.

1.2. Bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ


Đầu thế kỷ XX, chính sách khai thác thuộc địa của Pháp khiến cho Việt Nam có
những biến đổi nghiêm trọng về kinh tế - xã hội. Nổi bật nhất là sự xuất hiện của các giai cấp,
tầng lớp mới là giai cấp công nhân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Chính sách khai thác của
Pháp nhằm mục đích biến Việt Nam thành thuộc địa, là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho
Pháp. Tuy nhiên, các ngành công nghiệp ở đây không được cạnh tranh với chính quốc, nên
Pháp vẫn duy trì phương thức khai thác lạc hậu và bóc lột sức người dã man. Pháp cũng thực
hiện chính sách ngu dân; báo chí được mở mang tuy nhiên chủ yếu nhằm tuyên truyền cho
công cuộc “khai hóa văn minh” của “mẫu quốc”.

Lúc bấy giờ, Việt Nam rơi vào tình thế khủng hoảng đường lối cách mạng. Các phong
trào yêu nước lúc bấy giờ đi theo 2 ý thức hệ: ý thức hệ phong kiến và ý thức dân chủ tư sản.
Sau sự kết thúc của phong trào Cần Vương, chiến đấu yêu nước với ý thức hệ phong kiến
cũng hoàn toàn sụp đổ. Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh là 2 cái tên tiêu biểu cho phong
đấu tranh theo tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây. Lúc bấy giờ, sự lớn mạnh của Nhật Bản
từ sau Duy Tân Minh Trị khiến các nhà yêu nước Việt Nam muốn học tập và nhờ cậy sự giúp
đỡ của Nhật vì Nhật là một nước tân tiến, lại “đồng văn, đồng chủng” . Điển hình là phong
trào Đông Du, phong trào đưa các trí thức Việt trẻ sang Nhật theo học. Tuy nhiên phong trào
cũng không đạt đến thành công vì nhiều lý do, trong đó có những sự khác biệt lớn giữa tính
chất xã hội - kinh tế giữa hai quốc gia; và lý do không thể nhờ cậy nước ngoài giải phóng cho
đất nước mình. Bên cạnh đó, xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh như “chấn dân khí”,
“khai dân trí”, “hậu dân sinh” tuy rất tiến bộ, nhưng cũng không đi đến kết cục như mong
3

muốn. Như vậy, phong trào yêu nước theo tư tưởng dân chủ tư sản cũng thất bại ở nước ta.
Cho dù nhiều phong trào yêu nước lớn thất bại, dân tộc ta vẫn giương cao tinh thần yêu nước,
mảnh ghép còn thiếu duy nhất là đường lối cách mạng đúng đắn. Điều này càng nhấn mạnh
sự quan trọng của việc cần tìm ra đường lối đúng đắn, phù hợp với bối cảnh đất nước lúc bấy
giờ.

1.3. Những tiếp xúc đầu tiên với văn minh phương Tây của Nguyễn Tất
Thành
Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên tiếp xúc với khẩu hiệu: Tự do - Bình đẳng - Bác ái khi
đang theo học tại lớp dự bị (préparatoire) tại trường Tiểu học Pháp - Việt Đông Ba ở Huế.
Những hoạt động biểu tình đầu tiên của Nguyễn Tất Thành có thể kể đến cuộc biểu tình
chống thuế của nông dân Thừa Thiên vào tháng 9 năm 1907, đây cũng là lí do mà anh bị cho
thôi học ở trường Quốc học Huế lớp trung đẳng (moyen).

Nguyễn Tất Thành kế thừa tinh thần yêu nước của cha anh đi trước, và tinh thần đấu
tranh giải phóng dân tộc, Nguyễn Tất Thành cũng mong muốn ra đi tìm con đường cứu nước.
Thời gian học ở trường Pháp từ năm 1905 đến năm 1907 đã cho Nguyễn Tất Thành những
tiếp thu đầu tiên về giá trị văn minh Pháp. Người mong muốn tiếp xúc nhiều hơn với kỹ thuật
phương Tây, hiểu những điều gì đang xảy ra đằng sau hai chữ “văn minh” của Pháp và những
tư tưởng người Pháp nói. Thế nhưng ở trong nước, với chính sách ngu dân của Pháp, người
Việt Nam không được tiếp thu tri thức thực thụ, không được đọc sách. Vì vậy, người đã quyết
tâm bằng mọi cách phải đi ra nước ngoài, để tiếp xúc với tri thức, để tìm hiểu các nước “văn
minh”. [Phỏng vấn] Điều mà Bác sớm nhận định được và cũng là kim chỉ nam cho công cuộc
tìm đường cứu nước của người đó chính là: “nguồn gốc những đau khổ và áp bức dân tộc ở
ngay tại “chính quốc”, ở nước đế quốc đang thống trị mình” và vì vậy một trong những điều
tiên quyết để đánh đuổi được giặt là phải thấu hiểu chính đế quốc đó.

Vì vậy, Nguyễn Tất Thành dù rất khâm phục nhưng lại không dễ dàng tán thành con
đường cứu quốc của các cụ Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. Với người,
dân tộc Việt Nam cần một đường lối khác, mà đường lối đó phải ra nước ngoài học hỏi và sau
đó trở về giúp đồng bào mình. Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi ở tuổi 21, với hành
trang không có gì ngoài vốn kiến thức ít ỏi và tiềm lực tài chính vô cùng hạn chế, nhưng với
quyết tâm cao “làm bất cứ việc gì để sống và để đi” cùng lòng yêu nước, thương dân mãnh
liệt.

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành vào làm phụ bếp trên con tàu Amiral Latouche
Tréville với mức lương được ghi rõ trong sổ lương của thủy thủ là 45Fr với tên gọi Văn Ba.
Tàu Amiral Latouche Tréville chạy tuyến đường Pháp - Đông Dương, mở bởi công ty tàu
biển Compagnie des Chargeurs Réunis (còn gọi là “Năm Sao). Con tàu đã hạ thủy được 8
năm, có trọng tải 5572 tấn, dài 124m, là tàu chở cả hàng và khách.

Công việc phụ bếp vô cùng vất vả “đẫm nước hơi và mồ hôi, mình đầy bụi than…
phải dùng hết tinh thần và sức lực để làm cho xong công việc”. Tuy vậy, thời gian ở trên tàu
4

cũng là lúc để người thanh niên giao du cùng những người bạn Pháp - 2 người lính trẻ tuổi
được giải ngũ về nước - họ cùng nhau lao động và học tập ngoại ngữ.

Ngày 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville tại bến cảng Sài Gòn, đánh dấu
bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Tất Thành và vận mệnh của
dân tộc. Từ đây, Nguyễn Tất Thành tiếp xúc với cả nền văn hóa Đông phương và Tây
phương, làm nền tảng quan trọng để tiếp thu chân lý cách mạng, và cũng là nhân tố đầu tiên
của quá trình hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế người sau này. Sự kiện Nguyễn Tất
Thành từ bến cảng ra đi tìm đường cứu nước còn đánh dấu một phong trào cách mạng của
một dân tộc yêu nước nữa trong bức tranh thế giới. Vì vậy, đây được xem là một trong những
sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ XX, tạo cơ sở cho những phong trào giải phóng dân tộc,
cách mạng xã hội chủ nghĩa khác ở Việt Nam và trên toàn thế giới.

Có thể thấy, với nền tảng hiếu học của gia đình, cùng bối cảnh khủng hoảng đường lối
cách mạng của dân tộc, cùng với những tiếp xúc đầu tiên với văn minh phương Tây, đã góp
phần hình thành nên tư tưởng cứu quốc của Nguyễn Tất Thành với hai quan điểm quan trọng:
phải tự giải phóng cho dân tộc mình và phải hiểu rõ kẻ thù. Đó là cơ sở để người quyết tâm ra
nước ngoài học tập nhằm tìm ra được đường lối phù hợp, và về giúp đồng bào mình.
2. Cơ sở hình thành thế giới quan cách mạng và những hoạt động cách
mạng đầu tiên của Nguyễn Tất Thành
2.1. Ý thức về tính toàn cầu của sự thống khổ cũng như tinh thần đấu
tranh của người lao động
Trong hành trình đến nước Pháp, Nguyễn Tất Thành được ghé qua nhiều châu lục;
Nguyễn Tất Thành ý thức được cuộc sống cơ cực của nhân dân lao động ở những thuộc địa
ngoài Đông Dương cũng như ý thức điểm chung của các dân tộc và thuộc địa.

Khi tàu Amiral Latouche Tréville của Hãng Vận tải Hợp nhất đi qua Singapore,
Ceylan, Ai Cập lúc này đều là thuộc địa của thực dân Anh và cuộc sống của những người dân
thuộc địa ngoài Đông Dương cũng khốn khổ không khác gì dân tộc ta phải chịu dưới ách
thống trị của thực dân Pháp. Những quan sát này đã bổ sung kiến thức ban đầu cho Nguyễn
Tất Thành về sự khốn cùng và bị bóc lột thậm tệ của các nước thuộc địa, đó là tình hình
chung trên toàn thế giới chứ không riêng gì dân tộc Việt Nam.

Khi đến Pháp năm 1911, tàu phải dừng lại ở cảng Marseille, miền Bắc nước Pháp để
sửa chữa. Lúc này, khi đang sống bằng nghề làm vườn ở thị trấn Saint Adresse, anh chứng
kiến cảnh khốn cùng của những người lao động Pháp. Anh nhận ra rằng không chỉ có nhân
dân lao động nghèo ở các nước thuộc địa phải chịu cảnh lầm than mà người lao động Pháp
cũng khổ cực không kém. Họ cũng là tầng lớp bị bóc lột, và là của dân tộc Việt Nam. Chỉ có
tư bản Pháp mới được hưởng giàu sang phú quý. Nguyễn Tất Thành đã tâm sự với một người
bạn “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của họ trước khi “khai hóa” chúng ta”1.

1
Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr. 18). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
5

Với tinh thần ham học hỏi, ngày 15-9-1911, Nguyễn Tất Thành đã gửi đơn xin vào
học Trường Thuộc địa (Ecole Coloniale) cho Tổng Thống và Bộ trưởng Bộ thuộc địa. Tuy
nhiên lá đơn đã bị từ chối vì trường chỉ nhận học sinh người bản xứ do Toàn quyền Đông
Dương gửi đến, theo Điều 1 trong Nghị định của Bộ Thuộc địa Pháp ngày 30-2-1910. Điều
kiện này ngấm ngầm chỉ rằng học sinh Đông Dương sau này phải ra phục vụ chính quyền
Pháp, nằm dưới sự bảo hộ của Pháp. Toàn văn là thư của Nguyễn Tất Thành như sau:
“Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng hảo tâm của ông ban cho tôi đặc ân được nhận
vào học nội trú Trường Thuộc Địa. Tôi hiện đang làm công trong công ty Chargeurs
Réunis để sinh sống (trên tàu Amiral Latouche Tréville). Tôi hoàn toàn không có chút
tài sản nào, nhưng rất khao khát học hỏi. Tôi ước mong trở nên hữu ích cho nước
Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền
học vấn…” 2
Trong thư, Nguyễn Tất Thành nêu rõ lý do muốn vào học là bởi “khát khao học hỏi”
và mong muốn giúp cho đồng bào mình tiếp thu tri thức thực thụ “làm thế nào cho họ hưởng
được ích lợi của nền học vấn…” Hơn nữa, việc tìm một trường học bây giờ còn là vấn đề tìm
chỗ ăn, chỗ ở cho Nguyễn Tất Thành tại Pháp.

Tuy nhiên, bởi lá thứ bị từ chối, Nguyễn Tất Thành tiếp tục làm thuê trên các con tàu,
lần này là tàu Chargeur Réuni cũng của Hãng Vận tải Hợp nhất. Con tàu này chạy vòng
quanh bờ biển châu Phi. Chuyến đi ghé qua nhiều quốc gia khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, các nước châu Phi như Algérie, Tunisie,... đã cho Nguyễn Tất Thành những thực chứng
quý giá về cuộc sống cơ cực của những thuộc địa cũng như tội ác của thực dân trên toàn thế
giới. Đây chính là những tư liệu chân thực ban đầu để Nguyễn Ái Quốc viết những bản cáo
trạng tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân ở châu Phi và trên toàn thế giới. Hành trình này đã
nâng cao nhận thức, tình cảm về sự đồng cảm và tinh thần đoàn kết quốc tế của Nguyễn Ái
Quốc sau này. Ý thức và tình cảm ấy bắt đầu lớn dần thành quan điểm vững chắc vì tính toàn
cầu của sự thống khổ của các dân tộc thuộc địa cũng như tội ác của chủ nghĩa thực dân, để
điều đó được hiện rõ trong Bản án chế độ thực dân Pháp và việc thành lập Hội Liên hiệp
Thuộc địa.

Nguyễn Tất Thành đến Hoa Kỳ vào cuối năm 1912, đầu năm 1913. Ở đây, Nguyễn
Tất Thành đi làm vườn thuê cho một gia đình nông dân trồng nho ở Brooklin. Thời gian ở
đây, người vừa lao động, vừa kiếm tiền, vừa dành thời gian rảnh học tập và tìm hiểu đời sống
người dân lao động nơi đây. Người từng kể với nhà báo David Dellinger người Mỹ vào năm
1966 rằng “...Tôi đã đi ở cho người ta ở Brooklin với lương tháng 40 dollar, tôi làm việc
không đến nỗi vất vả lắm và tôi dùng một số thời gian rảnh rỗi để học tập và đi thăm những
khu vực khác trong thành phố”. Người có những trải nghiệm quý giá trên đất nước, đặc biệt
là chứng kiến cuộc sống nghèo khổ của người Mỹ da đen. Người được biết đến những sự
kiện hãi hùng như “hành trình kiểu Lynch”, hoạt động của đảng 3K (Đảng Ku-Klux-Klan) và
bày tỏ niềm thương xót vô cùng. Sau này, Người đã phản ánh lại sự kiện trong bài báo năm
1924 “Hành trình kiểu Lynch, một phương diện ít người biết đến của nền văn minh Mỹ, Đảng
Ku-Klux-Klan”. Bài báo tố cáo hiện trạng phân biệt chủng tộc dã man mà người da đen phải

2
Đặc san Đường mới, số 1, Pari, tt 8-25.
6

gánh chịu, cũng như bày tỏ nỗi thương xót và đồng cảm vô hạn với người da đen.3 Người đã
đến thăm tượng Nữ thần Tự do và viết rằng:
“Ánh sáng trên đầu Thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân Tượng Thần
Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với
người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ
được bình đẳng với nam giới?” 4
Người không bị choáng ngợp bởi hào quang, mà nhìn nhận được những đau khổ mà người
lao động Mỹ, người da đen phải chịu đựng cho sự hào nhoáng của quốc gia này.

Thời gian đến Mỹ, đất nước có tuyên ngôn về những quyền cơ bản của con người “tạo
hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền
được tự do và mưu cầu hạnh phúc”5 lại không thể thực hiện quyền đó cho toàn thể người dân
sau tận 150 năm. Nạn phân biệt chủng tộc với người da đen và những cuộc chiến tranh xâm
lược các nước khác vẫn cứ tiếp tục.

Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành rời Mỹ đến Anh. Người làm đủ mọi nghề để kiếm
sống. Tuy vậy, công việc đầu rất khổ cực, người không thể chống chọi được cái giá lạnh của
công việc dọn tuyết tại một trường đại học nên đã phải làm than nhưng công việc này cũng
vô cùng vất vả vì phải ở trong hầm tối, nóng khủng khiếp từ ban ngày đến đêm khuya. Sau đó
người vào làm phụ bếp ở khách sạn Carlton tại Haymarket và dành thời gian rảnh để học
tiếng Anh.

Như vậy, thời gian này, qua những trải nghiệm ở nhiều quốc gia khác nhau, Nguyễn
Tất Thành đã dần có những nhận thức đầy đủ và hoàn thiện hơn về sự thống khổ của người
dân lao động, người dân thuộc địa trên toàn thế giới; cũng như tội ác của giai cấp tư bản và
các nước thuộc địa. Đây cũng là cơ sở để Nguyễn Tất Thành hình thành nên quan điểm rằng
trong bối cảnh thế giới bây giờ, nhân loại chỉ có thể được phân chia thành 2 hạng người
“giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”, bất kể quốc gia dân tộc.
2.2. Ý thức về tư tưởng cấp tiến và những tiến bộ kỹ thuật của các quốc
gia trên thế giới
Ngoài việc hiểu về tính hệ thống của sự thống khổ của người dân và tội ác của chủ
nghĩa thực dân cũng như giai cấp thống trị; chuyến hành trình đến nhiều nước trên thế giới
cũng giúp Nguyễn Tất Thành hiểu hơn về những tư tưởng cấp tiến và tiến bộ kĩ thuật.

Khi làm công việc chăm bón hoa cho một gia đình Pháp khi tàu Tréville ghé cảng
Marseille vào năm 1911, người nhận ra cũng có những người Pháp tốt bụng. Không phải
người Pháp nào cũng là những kẻ bóc lột, thô lỗ và tàn nhẫn. Việc người xin vào học tại
trường thuộc địa vào tháng 9 năm 1911, cũng thể hiện ý thức của Nguyễn Tất Thành về
những tri thức và tiến bộ của nước Pháp và Người muốn học hỏi.

3
Nguyễn Ái Quốc. (1924). Hành trình kiểu Linsơ. Nhật báo Dieweltribune.
4
Phan Ngọc Liên (1993), Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh với thời đại, Nxb Lao Động, tr. 83.
5
Bản Tuyên ngôn Độc lập Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. National Archives.
7

Thời gian người ở Mỹ, từ cuối năm 1912 đến đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành cũng
đã có cơ hội tiếp tìm hiểu về cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Bắc Mỹ cũng như
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản Tuyên ngôn nhấn mạnh rằng tạo hóa
cho con người quyền cơ bản, quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Đây là
những tư tưởng vô cùng tiến bộ, đã có tác động mạnh mẽ đến quan điểm của Hồ Chí Minh
sau này.
2.3. Các hoạt động cách mạng đầu tiên ở nước ngoài
Những hoạt động cách mạng đầu tiên của Nguyễn Tất Thành cũng đáng được ghi
nhận, vì đây chính là những tiền đề cho những hoạt động bài bản, có tổ chức, có sức ảnh
hưởng hơn của Người sau này.

Trải nghiệm đi vòng quanh châu Phi, đến các nước thuộc địa châu Phi, chứng kiến
cảnh lầm than của người dân châu Phi đã là những tư liệu quý giá, là động lực để Nguyễn Tất
Thành viết những bài viết tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân ở châu Phi và cả các quốc gia
khác trên thế giới.

Các hoạt động cách mạng đầu tiên ở nước ngoài của Người có thể kể đến các hoạt
động trên đất Mỹ trong thời gian từ cuối năm 1912 đến đầu năm 1913. Người đã tham gia
đều đặn các cuộc họp của Hội tin tưởng cải thiện người da đen của thế giới - UNIP
(Universal Nergo Improvement Trust) ở thời điểm đó. Được biết, Hồ Chí Minh còn dốc tất cả
tiền túi của mình để ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của người da đen. Điều này thể hiện
sự ủng hết mình với các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.

Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành đến Anh. Trong thời gian sinh sống tại đất nước
sở hữu nhiều thuộc địa nhất này, Nguyễn Tất Thành đã tranh thủ thời gian học tiếng Anh và
tham gia vào Hiệp hội công nhân nước ngoài - hiệp hội được lập ra với mục đích cải thiện
điều kiện làm việc ở các nhà máy của Anh. Ngoài ra, Người cũng tìm hiểu cuộc đấu tranh
cũng như cuộc sống lầm than của nhân dân lao động Anh và các dân tộc bị thực dân Anh
thống trị. Trong thời gian sinh sống ở Anh, Người đã có cơ hội thấu hiểu hơn về chính sách
cai trị của Anh đối với Trung Quốc, Ấn Độ và Sudan. Người cũng đã tiếp xúc với tổ chức
chính trị Hội những người lao động Trung quốc ở hải ngoại. Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ
thái độ ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Ireland, đồng thời tham gia hoạt động của Công
Đoàn Hải ngoại và cùng Công đoàn Anh biểu tình đòi tự do, đình công. Hoạt động của
Nguyễn Tất Thành hăng hái hơn, khi anh tham dự nhiều cuộc diễn thuyết ngoài trời của các
chính trị gia và triết gia khi tham gia Hooij những người lao động hải ngoại.

Khi nhà đại ái quốc người Ireland, ông Terence MacSwiney, Thị trưởng thành phố
Cork bị bắt vì đấu tranh chống đế quốc Anh, người đã bày tỏ lòng tiếc thương vô hạn. Người
đã có những lời bày tỏ sự xúc động và cảm phục trước tinh thần yêu nước dũng cảm của ông
“Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân tộc có những người như ông Cúc sẽ không
bao giờ đầu hàng.” Từ đây, Nguyễn Tất Thành cũng đã đưa ra những quan điểm về những
người dám đứng lên đi đầu, đấu tranh vì dân tộc “Cái chết của họ sẽ làm cho Tổ quốc họ sống
lại, lòng can đảm của họ bất diệt.”
8

Có thể thấy, trong những năm đầu ra đi tìm đường cứu nước, bằng những tiếp xúc với
nhiều quốc gia thuộc châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ, nhận thức của Nguyễn Tất Thành về tội
ác của chủ nghĩa thực dân đã đầy đủ, đa dạng và vững chắc hơn. Bên cạnh đó, Người cũng có
cái nhìn cụ thể và rõ ràng hơn về các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Đây chính là cơ sở để Người có cái nhìn sâu sắc hơn về những diễn ngôn tiên tiến mà phương
Tây rao giảng. Những diễn ngôn “Tự do - Bình đẳng - Bác ái” thực ra lại ẩn chứa đằng sau
những sự thật đen tối, đó là máu, mồ hôi và nước mắt của người dân lao động. Đồng thời,
Người cũng đưa ra những nhận xét khái quát nhất về mối quan hệ giữa con người, giữa các
quốc gia dân tộc, đó chính là cơ sở để Người hình thành quan điểm cơ bản đầu tiên về nhân
sinh quan, thế giới quan cách mạng, mà nổi bật chính là nhận thức nhân loại trên thế giới có
thể chia thành 2 hạng người “giống người bóc lột và giống người bị bóc lột”.

Những thu hoạch Người có được trong hành trình đến các quốc gia khác này chính là
tiền đề cho những hoạt động sau này của Nguyễn Tất Thành trên đất Pháp nói riêng và trên
trường quốc tế nói chung.
II. Hoạt động Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp (1917 - 1923)
1. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong các tổ chức yêu nước người Việt tại
Pháp (1917 - 1920)
Sau nhiều năm bôn ba trên con tàu Amiral La Touche De Tréville, vào khoảng năm
1917, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp và quyết định dừng chân tại đây. Từ năm 1917 đến năm
1923, bằng nghề rửa và phóng ảnh, sơn vẽ giả đồ cổ Trung Quốc, người thanh niên Nguyễn
Tất Thành đã sống và hoạt động ở Paris. Trên thực tế, mục đích của người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành trên đất Pháp chính là tìm hiểu rõ hơn về chính đất nước của bọn
thực dân đang đô hộ nước ta và hơn hết chính là nêu lên tội ác của chúng. Tại Đại hội lần thứ
hai Hội nhà báo Việt Nam ở Hà Nội (19/4/1959), Bác đã tâm sự “Các báo đăng bài của mình
đều là báo phái “tả”, đều nghèo không thể trả cho mình đồng tiền nào. Mình ngày thì đi làm,
tối đi mít tinh, tuy khá vất vả nhưng vẫn cố gắng viết để nêu tội ác của bọn thực dân”. Vì thế,
bên cạnh các công việc Bác làm để kiếm chi phí sinh hoạt hằng ngày, Người còn tham gia
viết bài cho các báo L’Humanité (Nhân đạo), La Vie Ouvrière (Đời sống nhân dân), làm chủ
nhiệm kiêm Chủ bút tờ Le Paria (Người cùng khổ).
Vào thời điểm đó, do nhu cầu cao về lao động nhằm phục vụ cho việc khôi phục nền
kinh tế sau chiến tranh đã thu hút nhiều lao động từ các nước đến Pháp, trong đó có Việt
Nam. Số lượng người Việt sinh sống và định cư tại Pháp lúc đó khá đông, trong đó có tới
80.000 binh lính người Việt trong quân đội Pháp hoặc đang lao động tại các xí nghiệp phục
vụ quốc phòng… Ban đầu, những người Việt này cũng có thành lập một tổ chức có tên là Hội
đồng bào thân ái để giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, do trong thời gian dài không có nhiều hoạt
động và cũng không có người đứng đầu, tổ chức chỉ là nơi cho người Việt liên lạc với nhau.
Thêm vào đó là vào năm 1914, sự kiện Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường bị bắt đã khiến
cho không lâu sau đó, tổ chức ngừng hoạt động.
Năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã tham gia vào Hội những người Việt Nam yêu nước
và trở thành một trong những nhân vật nòng cốt của tổ chức. Năm 1918, Chiến tranh thế giới
lần thứ nhất kết thúc. Đến đầu năm 1919, Hội nghị Hòa bình diễn ra tại lâu đài Versailles ở
9

ngoại ô Paris với sự tham gia của 27 quốc gia thắng trận, trong đó có Pháp.6 Hội nghị được
triệu tập với mục đích bàn thảo chia lợi nhuận và sắp đặt trật tự quan hệ quốc tế mới. Tại Hội
nghị, tuyên bố của Tổng thống Mỹ Wilson về việc thành lập Liên minh các dân tộc để đảm
bảo độc lập cho tất cả các dân tộc trên thế giới, dù lớn dù nhỏ đã thu hút sự quan tâm của
người dân ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, vào ngày
18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước gửi đến Hội nghị
Bản yêu sách của nhân dân An Nam để tố cáo chính sách của thực dân Pháp và đòi Chính
phủ Pháp phải thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng, tự quyết của dân tộc
Việt Nam. Bản yêu sách được viết bằng ba thứ tiếng Pháp, Việt và Hán cùng với một nội
dung và ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Bằng sự kiên định, công khai và hợp pháp, Nguyễn Ái
Quốc là người đầu tiên đưa chính trị Việt nam ra quốc tế, đòi những quyền cơ bản, chính
đáng cho Việt Nam.
Bản yêu sách của nhân dân An Nam và cái tên Nguyễn Ái Quốc đã đánh động sự chú
ý đặc biệt của chính quyền Pháp. Bản yêu sách gồm 8 điểm như sau:
1. Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng được
hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu châu; xóa bỏ hoàn toàn
các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung
thực nhất trong nhân dân An Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận;
4. Tự do lập hội và hội họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các
tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Có đại biểu thường trực của người bản xứ bầu ra tại Nghị viện Pháp để giúp
Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ.7
Tuy nhiên, thư của Bác đã không được hồi đáp bởi các đoàn đại biểu các nước tham
gia hội nghị. Điều này cùng với những diễn biến tiếp theo của hội nghị khiến Người hiểu rõ
rằng “Chủ nghĩa Wilson được che đậy bằng những lời lẽ mị dân về “dân chủ” và “quyền dân
tộc tự quyết” nhưng thực chất đó chỉ là một trò bịp bợm” và “Dân tộc Việt Nam cũng như
các dân tộc khác đã bị mê hoặc theo những lời tuyên bố rộng rãi của Wilson”.
Tuy đã không còn bất cứ niềm tin nào vào chủ nghĩa Wilson nhưng trong suốt quá
trình hoạt động cách mạng, Bác vẫn luôn phân biệt rất rõ cách mạng Mỹ, nhân dân tiến bộ
Mỹ và chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Người trân trọng những đóng góp của người dân Mỹ vào nền
văn minh của nhân loại, đề cao đường lối cách mạng của Mỹ trong một số cuộc chiến tranh,
chính vì thế mà trong tác phẩm Đường Kách Mệnh (1972), viết về đường lối cách mạng Việt
Nam, Người đã nêu tóm tắt lịch sử cách mạng Mỹ và còn ca ngợi cuộc chiến tranh năm 1776
của Mỹ vì thực chất đó là cuộc chiến tranh giải phóng. Người xem cách mạng Mỹ là một
trong ba cuộc cách mạng điển hình trên thế giới để phân tích và rút kinh nghiệm để làm cách
mạng Việt Nam “học Mỹ mà làm cách mạng”.

6
(Thư viện tỉnh Đồng Nai, 2011)
7
(Thành & Mai, 2019)
10

Bản Yêu sách của nhân dân An Nam đã được Nguyễn Ái Quốc cho in thành 6.000
bản rồi đem gửi cho nhiều nhà hoạt động chính trị ở Pháp, phân phát ở các cuộc mít tinh ở
Paris và cả những thành phố khác. Bên cạnh đó, Người còn gửi qua bưu điện hoặc các anh
em thủy thủ người Việt mang về nước.
Bản yêu sách không đặt vấn đề đòi độc lập, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của
chủ nghĩa thực dân mà chỉ đòi những quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Dù yêu sách không
nhận được sự chấp thuận nhưng đã để lại tiếng vang lớn, thậm chí gây hoang mang giới cầm
quyền ở Pháp. Chỉ 4 tháng sau khi bản yêu sách của nhân dân An Nam được gửi đến Hội
nghị Versailles, ngày 17/10/1919, Bộ trưởng Bộ Thuộc địa đã gửi một báo cáo đến Bộ trưởng
Bộ Nội vụ về tình hình người Đông Dương tại Pháp. Mật báo ghi rõ “Thời gian gần đây, một
số người Đông Dương ở Pháp biểu lộ trạng thái tư tưởng đáng lo ngại mà chúng ta cần lưu ý
đặc biệt. Báo cáo khẳng định tính chất khẩn cấp và cho biết đã có các thư tín nhằm truyền bá
về Đông Dương với ý đồ lật đổ chính quyền thuộc địa”.

2. Nguyễn Ái Quốc và nỗ lực thiết lập mối quan hệ Cách mạng Việt Nam với
Cách mạng Pháp và các thuộc địa (1920 - 1923)
2.1. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong Đảng Xã hội Pháp
Sinh sống và hoạt động một thời gian dài ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã có cái nhìn
tổng quan về diễn biến chính trị xã hội Pháp. Bên cạnh đó, Người cũng liên hệ mật thiết với
những người Pháp, người Việt có tư tưởng tiến bộ. Sau quá trình đó, Người nhận thấy Đảng
Xã hội Pháp là Đảng tiến bộ nhất. Do đó, vào năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã chính thức xin
gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Người là thành viên có đóng góp rất tích cực trong các buổi sinh
hoạt, Người ngộ ra những điều có thể coi là điểm xuất phát của những lập trường của Người
về Đảng sau này: Đảng Xã hội Pháp là một Đảng chân chính và không chỉ có người dân ở các
nước thuộc địa mà chính những người lao động ở chính quốc cũng mong muốn có cách mạng
xã hội, thay đổi chế độ đương thời. Trong quá trình học tập và miệt mài sách vở của mình,
Người đã luôn biết đến nước Pháp là quê hương của Đại cách mạng với tư tưởng “Tự do,
bình đẳng, bác ái” nên khi được hỏi là tại sao lại quyết định xin gia nhập Đảng Xã hội Pháp,
Người trả lời rằng: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy
nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do - Bình đẳng - Bác ái”.8
Ở Pháp, có nhiều khuynh hướng phát triển khác nhau nhưng Đảng Xã hội Pháp là tổ
chức duy nhất ở Pháp lúc bấy giờ theo chủ nghĩa xã hội, chống lại chủ nghĩa đế quốc và cả
chế độ cai trị thuộc địa hà khắc của nó. Nguyễn Ái Quốc tại thời điểm đó tuy còn rất trẻ
nhưng người đã có tầm nhìn rất sâu rộng khi chọn gia nhập vào Đảng Xã hội Pháp. Về lý do
cho sự lựa chọn của Người, đầu tiên có thể nói đến là vì lòng yêu nước và mong muốn đoàn
kết với lực lượng cách mạng trên thế giới để giải phóng dân tộc. Người nhìn thấy được tư
tưởng tiến bộ, tích cực trong quan điểm của Đảng Xã hội Pháp ở nhiều vấn đề, nhất là về vấn
đề thuộc địa. Và cũng từ đó, trong tâm trí Người đã hình thành nên ý định gắn kết cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam với phong trào cách mạng trên thế giới, trước hết là ở
chính quốc. Tuy nhiên bên cạnh những điểm tiến bộ, Người cũng đã nhận ra những chỗ còn
hạn chế của Đảng này. Đảng Xã hội Pháp cho rằng bản thân nhân dân nước thuộc địa không

8
(Nguyễn, 2019)
11

thể tự giải phóng, mà phải nhờ tới sự giúp đỡ của vô sản ở chính quốc khi vô sản ở chính
quốc đã nắm được chính quyền.
Quan điểm và đường lối của Đảng Xã hội Pháp lúc này là ủng hộ cách mạng Nga,
chống đế quốc, bênh vực các nước thuộc địa và chống lại Hiệp ước hòa bình Versailles, đi
theo con đường của Quốc tế Cộng sản. Vì thế, các hoạt động tuyên truyền của Nguyễn Ái
Quốc cũng được Đảng Xã hội Pháp hỗ trợ, cụ thể như các trụ sở của Đảng Xã hội Pháp cũng
được dùng làm nơi diễn thuyết của Hội Những người Việt Nam yêu nước hay một số bài viết
ủng hộ hoạt động của Hội Những người Việt Nam yêu nước cũng được đăng trên tờ báo Le
Libertaire. Việc hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp là cơ sở để Nguyễn Ái Quốc có sự lựa
chọn quyết định dứt khoát đứng về phía Quốc tế Cộng sản và Người cũng là người Việt Nam
đầu tiên tham gia một chính đảng có xu hướng tiến bộ, cách mạng.
Trong suốt thời gian hoạt động trong Đảng Xã hội Pháp, quan hệ của Nguyễn Ái
Quốc ngày càng rộng rãi. Người có thêm nhiều cơ hội tiếp xúc với các nhà chính trị nổi tiếng
lúc bấy giờ như Marcel Cachin, Paul Vaillant Couturier, Gaston Monmousseau… cùng nhiều
chính khách từ các nước Á, Phi đến Pháp sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc.
Trong quá trình hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ đến từ
Đảng Xã hội Pháp. Cụ thể là sau khi Người trở thành đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, Đảng
đã tìm cách thu xếp chỗ ở và cả giấy tờ hợp pháp cho Người. Ngoài sự hỗ trợ đắc lực của
Đảng Xã hội Pháp, Người cũng đã nhận được rất nhiều sự hỗ trợ nhiệt thành của nhóm những
người Triều Tiên. Họ đã cung cấp nhiều sách báo về vấn đề thuộc địa bằng tiếng Anh cho
công tác biên soạn và viết bài của Người. Người đã tham dự vào cuộc họp của Hội Địa dư
Pháp, thảo luận về quyền tự quyết của người Triều Tiên. Trong cuộc họp này, Người đã đề
cập đến vấn đề Đông Dương. Văn phòng thông tin của Cộng hòa Triều Tiên cho phép
Nguyễn Ái Quốc sử dụng tất cả những tư liệu của sinh viên Triều Tiên được xuất bản từ
tháng 10/1919 ở Mỹ và rất phổ biến ở Paris.
Một trong những sự kiện lớn, có tính chất thời đại, ảnh hưởng quan trọng đến sự
nghiệp đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc đó là Cách mạng tháng Mười Nga 1917 thành công,
mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử loài người. Nguyễn Ái Quốc, nhờ vào sự nhạy cảm chính trị
và được rèn luyện trong cuộc sống lao động cùng những hoạt động thực tiễn, đã nhận thấy sự
kiện này là một biến cố lớn. Từ nhận thức ban đầu “có sức lôi cuốn kỳ diệu vô cùng”, Người
đã tìm hiểu thêm về Cách mạng tháng Mười Nga và đã có cảm tình với nhân dân Nga, đặc
biệt là với lãnh tụ Lênin.
Trong thời gian hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã đọc nhiều tác phẩm của nhiều
nhà cách mạng trên thế mà trong đó, tác phẩm quan trọng và có vai trò vĩ đại nhất phải kể đến
chính là bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
được đăng trên tờ L’Humanité của Pháp, số ngày 16 và 17/7/1920. Luận cương của Lênin phê
phán những sai lầm của tư tưởng sô vanh, dân tộc hẹp hòi, bên cạnh đó nhấn mạnh sự đoàn
kết quốc tế giữa những người Cộng sản và nhân dân thuộc địa trong quá trình đấu tranh
chống lại kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Luận cương cũng nêu ra giải đáp cho những
vấn đề lớn của thời đại sau Cách mạng tháng Mười, đó là những vấn đề cấp thiết và toàn
diện, vạch ra chiến lược cho cuộc đấu tranh giành quyền tự quyết của dân tộc, phát huy sức
mạnh của liên minh giữa công nhân và nông dân trong cuộc đấu tranh chống thuộc địa phong
kiến nhằm thực hiện cách mạng ruộng đất. Và đặc biệt hơn hết, bản Sơ thảo lần thứ nhất
12

những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đã nâng cao nhận thức của Nguyễn Ái
Quốc về con đường giải phóng dân tộc mình cũng như các dân tộc bị áp bức khác.
Người đã chăm chú đọc văn kiện này rất nhiều lần. Về sau, “người học trò nhỏ của
Lênin” nói: “Trong luận cương ấy có những chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi đọc lại
nhiều lần cuối cùng tôi cũng hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm
động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta!” Từ đó tôi hoàn toàn tin tưởng Lênin, tin theo
Quốc tế thứ III”.9

2.2. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong Đảng Cộng sản Pháp
Vào khoảng cuối năm 1919, Ủy ban Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp hoạt động với
mục đích vận động Đảng gia nhập Quốc tế III và bảo vệ cách mạng Nga đang bị quân đội 14
nước đế quốc vũ trang can thiệp. Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ tham dự vào tất cả các cuộc
họp của Ủy ban, tham gia quyên góp tiền ủng hộ nhân dân Nga vượt qua khó khăn, phân phát
truyền đơn ủng hộ và bảo vệ Cách mạng tháng Mười, kêu gọi nhân dân Pháp lên án sự can
thiệp vũ trang vào nước Nga Xô-viết.
Ngày 14/1/1920, Nguyễn Ái Quốc nói chuyện với khoảng 70 đồng chí thanh niên
“nhóm 14” về “Sự tiến triển trong xã hội của những dân tộc vùng châu Á và những lời yêu
cầu của xứ An Nam”. Trong tất cả các cuộc nói chuyện, Nguyễn Ái Quốc bao giờ cũng tìm
cách giới thiệu tình hình Việt Nam gắn với cuộc đấu tranh giải phóng cho các dân tộc bị áp
bức. Những kết quả của hoạt động thực tiễn và những hiểu biết lí luận ban đầu ngày càng làm
sáng tỏ hơn con đường giải phóng dân tộc mà Người đã lựa chọn. Người liên tục tích cực
hoạt động trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc theo con đường cách
mạng vô sản.
Sau khi đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia tích cực hơn trong các hoạt động
nhằm đưa Đảng Xã hội Pháp gia nhập Quốc tế III. Người còn viết thư bằng tiếng Pháp gửi
đến Quốc tế Cộng sản để nói về ảnh hưởng to lớn của Luận cương về các vấn đề dân tộc và
thuộc địa đối với sự hình thành thế giới quan của mình và quyết tâm đi theo Quốc tế III.
Một sự kiện vô cùng quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại
Pháp đó là vào ngày 25/12/1920, Người tham gia Đại hội đại biểu lần thứ XVIII Đảng Xã hội
Pháp (Đại hội Tours) với tư cách là đại biểu Đông Dương duy nhất trong đoàn đại biểu các
đảng bộ thuộc địa. Trong phiên họp vào chiều ngày 26/12/1920, sau lời mời của Chủ tịch Đại
hội Goude, Nguyễn Ái Quốc đã lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Bằng những dẫn chứng cụ
thể và xác thực, lập luận sắc bén, Người đã tố cáo bộ mặt tàn ác mà thực dân Pháp gây ra ở
Đông Dương. Người cho rằng “Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng
hộ những người bản xứ bị áp bức”. Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài phát biểu được cả đại hội
hoan nghênh bằng lời kêu gọi vô cùng thống thiết: “Nhân danh toàn thể loài người, nhân
danh tất cả đảng viên xã hội, cả phái tả lẫn phái hữu, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy
cứu chúng tôi”.10

9
(Trương, 2021)
10
(Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng, 2021)
13

Vào 22 giờ ngày 29/12/1920, tại Đại hội Tours, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành Quốc tế thứ III. Việc làm này của Người có ý nghĩa rất lớn: thứ nhất, lần đầu tiên xuất
hiện một người đại diện dân tộc thuộc địa, một người bản xứ tham gia đại hội góp phần quyết
định sự chuyển hướng cơ bản của một chính đảng lớn, và hơn thế nữa là ở chính nước đế
quốc đang áp bức dân tộc mình. Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Điều này nghĩa là giai
cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam bắt tay với công nhân Pháp hợp thành một
mặt trận chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản Pháp.
Vào 14 giờ 30 phút ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương
gia nhập Quốc tế III tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản. Vậy là kể từ giờ
phút này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Điều này cũng có nghĩa là quá trình đi tìm con đường cứu nước của người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã được xác định rõ, đó là đi theo con đường
cách mạng vô sản. Đại hội lần thứ XIX Đảng Cộng sản Pháp năm 1970 đã khẳng định đồng
chí Hồ Chí Minh là một trong những người sáng lập Đảng, giúp cho Đảng Cộng sản Pháp đi
theo phương hướng chống chủ nghĩa thực dân, xây dựng truyền thống đoàn kết của Đảng với
nhân dân thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc hoạt động với tư cách là “Ủy viên Ban Nghiên cứu thuộc địa” từ khi
than gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành đảng viên Cộng sản. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Ái Quốc với tư cách một chiến sĩ quốc tế là đấu tranh cho
vấn đề thuộc địa. Người xác định nhiệm vụ của mình là tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản tại
các thuộc địa, trong đó có Việt Nam và tập trung nghiên cứu các vấn đề ở thuộc địa, cung cấp
thông tin cho Đảng Cộng sản Pháp.
Trong bản báo cáo chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp,
Nguyễn Ái Quốc đã bác bỏ mọi kiến nghị về kinh tế, chính trị, mang tính cải lương. Bên cạnh
đó, Người cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa trong các công tác của
Đảng. Người chỉ ra rằng đó là “bộ phận không thể tách rời các đề cương đưa lên Quốc tế
Cộng sản”.11 Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Marseille từ ngày 25 đến
ngày 30/12/1921. Nguyễn Ái Quốc cũng đã tham dự vào đại hội với tư cách là đại biểu chính
thức. Buổi sáng của phiên họp thứ IX, Nguyễn Ái Quốc đã đọc lời phát biểu đầu tiên, nhấn
mạnh ý nghĩa của việc đại biểu bản xứ được tham dự và bàn công việc của Đại hội. Còn vào
buổi chiều của phiên họp thứ X, Người đã đọc Dự án nghị quyết về chủ nghĩa Cộng sản và
các thuộc địa, trong đó nêu lên những đề nghị quan trọng. Sau Đại hội, tờ báo L’Humanité
lập ra mục “L’Humanité với thuộc địa”, chiếm phần lớn trang ba của báo. Tại mục này,
Nguyễn Ái Quốc cùng Ulisse Leriche - Ủy viên Đảng Cộng sản Pháp thường xuyên phản ánh
những cuộc đấu tranh ở các thuộc địa của Pháp. Người cũng đã tranh thủ sử dụng các phương
tiện sẵn có của các tổ chức chính trị cánh tả Pháp để hoạt động. Người tiếp tục duy trì các
mối quan hệ sẵn có với báo chí cánh tả Pháp, đặc biệt là những tờ báo, tạp chí có lập trường
dứt khoát theo đường lối của Quốc tế Cộng sản. Nguyễn Ái Quốc đã tập trung toàn lực vào
hai tờ báo có ảnh hưởng rộng lớn nhất trong công nhân, những người lao động Pháp và cả
những người hải ngoại là tờ L’Humanité và tờ La Vie Ouvrière. Tính từ năm 1921 đến hết
tháng 2/1923, Người đã có ít nhất 20 bài được đăng trên hai tờ báo này và một bài trên tờ

11
(Nguyễn, 2021)
14

Journal du Peuple. Ngoài công việc chính là viết bài cho các tờ báo chính trị, Nguyễn Ái
Quốc cũng đã tiến hành vận động những người cộng sản Pháp và những nhà yêu nước của
các dân tộc thuộc địa sống ở Paris ủng hộ kế hoạch truyền bá của mình.
Sau khi tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục hoạt
động rất sôi nổi và đa dạng trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn. Một cái tên không thể
không nhắc đến khi nói về cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khi ở Pháp chính là Câu
lạc bộ Faubourg. Từ ngày 14/7/1921, Nguyễn Ái Quốc chuyển đế ở tại số nhà 9 ngõ
Compoint, quận 17. Và cũng từ nơi đây, Người đã có những hoạt động đáng chú ý khi tham
gia và làm việc tại Câu lạc bộ Faubourg.
Câu lạc bộ Faubourg tập trung rất đa dạng thành phần từ các nhà bác học, toán học,
cựu bộ trưởng, nghị viên cho đến nhà thơ, thợ thuyền, thợ buôn, người già, người trẻ tuổi
quan tâm đến thời cuộc… Ở đây, mọi người tranh luận, thảo luận về các vấn đề đặt ra trên cơ
sở dân chủ. Các cuộc họp thường diễn ra theo cách: Có ông nọ bà kia, họ thảo luận những
vấn đề thời sự đã có sự chuẩn bị từ trước. Sau đó, mọi người tự do phát biểu ý kiến. Các cuộc
thảo luận luôn sôi nổi nhưng rất thân mật. Trong hầu hết các cuộc bàn luận, anh Nguyễn (tức
Bác Hồ) luôn tìm cách để lái vấn đề sang câu chuyện của mình, lên án chế độ thực dân. Sau
đây là một ví dụ: Trong một cuộc thảo luận về “thôi miên”, có người bảo tin, có người bảo
chưa tin. Nhưng riêng anh Nguyễn, anh phát biểu rằng: “Tin cũng được, không tin cũng
được. Nhưng tôi xin mạn phép nói thật rằng bác sĩ Cu-ê (người thạo giỏi thuật “thôi miên)
chưa giỏi bằng thực dân Pháp. Mỗi năm, với hàng nghìn tấn thuốc phiện, chúng đang làm cho
hàng triệu người Việt Nam ngủ say đến nỗi quên mình là vong quốc nô”.12 Với thái độ khiêm
tốn và lời lẽ gọn gàng, anh Nguyễn - người Việt Nam duy nhất ở Pháp dám lên tiếng chống
thực dân Pháp đã được mọi người trong câu lạc bộ rất hoan nghênh. Và kết quả đáng mừng là
nhiều người trong câu lạc bộ đã đồng tình với anh và chính anh đã trở thành người tuyên
truyền cho cách mạng Việt Nam.
Trong thời gian này, nhằm tuyên truyền về chính sách khai thác thuộc địa của mình,
năm 1922, thực dân Pháp đã đưa vua bù nhìn Khải Định sang dự hội chợ tại Marseille. Nhân
dịp này, Nguyễn Ái Quốc đã viết vở kịch Con rồng tre để vạch trần bộ mặt bán nước của bọn
vua quan phong kiến phản động, làm tay sai cho thực dân Pháp. Nội dung của vở kịch nói về
một gốc tre có thân hình cong queo, nhưng những người chơi đồ cổ đã lấy về và gọt đẽo
thành con rồng. Tuy khúc tre mang hình dáng một con rồng nhưng nó vẫn chỉ mãi là khúc tre
mà thôi. Nhưng nó lại hãnh diện về tên gọi và hình dáng của mình. Vở kịch này tuy bị Chính
phủ Pháp cấm, nhưng Câu lạc bộ Faubourg đã đem diễn và còn được các nhà phê bình khen
ngợi.
2.3. Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, xây
dựng liên minh đoàn kết đấu tranh giữa Việt Nam với các thuộc địa
Khác biệt so với nhiều lần hoạt động trong phong trào giải phóng dân tộc khác, điểm
nổi bật trong con đường Người chọn chính là đấu tranh vì sự đoàn kết quốc tế giữa nhân dân
các nước thuộc địa, giữa vô sản chính quốc và nhân dân thuộc địa. Đúc kết được kinh nghiệm
từ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất rằng các cường quốc tham chiến huy động một lực
lượng rất lớn người dân bản xứ đi chết thay cho chúng, dùng vô sản các nước chém giết lẫn
nhau để đem lại lợi ích cho tư bản, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức rõ yêu cầu cấp thiết của sự

12
(Kim, 2012)
15

đoàn kết. Vì vậy, Người nhận thấy cần thành lập nên một tổ chức đoàn kết nhân dân các
thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc sau khi được sự đồng tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp đã
vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Đây là hình thức liên minh giữa các dân tộc bị
chủ nghĩa đế quốc thống trị, xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử đấu tranh giải phóng của
nhân dân các nước thuộc địa. Vào ngày 26/6/1921, sau nhiều cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa
các chiến sĩ yêu nước chống chủ nghĩa thực dân Pháp đến từ nhiều dân tộc, Nguyễn Ái Quốc
đã họp cùng với một số chiến sĩ yêu nước đến từ Algeria, Morocco… đi đến quyết định thành
lập Hội và bàn về tuyên ngôn, chương trình, điều lệ cũng như bầu ra Ban Chấp hành Hội.
Như vậy, Hội Liên hiệp thuộc địa chính thức được thành lập vào ngày 29/6/1921 và Nguyễn
Ái Quốc được cử vào Ban Chấp hành và là Ủy viên Thường trực của Ban Chấp hành. Tuyên
ngôn của Hội được Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại Hội đồng nghiên cứu vấn
đề thuộc địa của Hội. Tuyên ngôn nêu rõ mục đích của Hội là tập hợp người dân thuộc địa
đang sống trên đất Pháp cùng nhau tố cáo những tội ác của bọn thực dân đối với nhân dân
thuộc địa về các mặt chính trị, kinh tế, xã hội và khẳng định học chỉ còn con đường đấu tranh
để được giải phóng. Chủ trương các dân tộc thuộc địa phải tự giải phóng bằng sự nỗ lực của
bản thân, đồng thời đoàn kết quốc tế với vô sản chính quốc và nhân dân các thuộc địa khác là
ý kiến quan trọng của Nguyễn Ái Quốc được Hội tán thành và xem là cơ sở quan trọng để
Hội hoạt động. Thời gian đầu khi mới thành lập, Hội có gần 100 hội viên, sau tăng lên 300.
Hội viên là những người dân thuộc địa đang sinh sống tại Pháp. Mặc dù đây là con số không
lớn nhưng cũng đủ để đại diện cho hầu hết các dân tộc bị thực dân Pháp thống trị trên ba lục
địa lớn - Á, Phi và Mĩ Latinh.
Như vậy, Nguyễn Ái Quốc không chỉ hoạt động với tư cách là một chiến sĩ cách mạng
Việt Nam mà còn xuất hiện trên vũ đài chính trị như một chiến sĩ quốc tế, đấu tranh cho độc
lập, tự do của các dân tộc thuộc địa. Phạm vi hoạt động của Nguyễn Ái Quốc được mở rộng
trong cộng đồng những người dân thuộc địa đang sinh sống tại Pháp tạo nên sự đoàn kết gắn
bó với nhau. Chính sự đoàn kết quốc tế này đã tác động tích cực và lâu dài đến cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam cho độc lập, tự do, và cũng chính sự ủng hộ quốc tế của nhân
dân lao động các nước là một trong những nhân tố quan trọng đưa đến thắng lợi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân Việt Nam ta sau này.
Tháng 6/1921, Đảng Cộng sản Pháp thành lập Ban nghiên cứu vấn đề thuộc địa trực
thuộc Đảng. Từ năm 1922, Đảng Cộng sản Pháp đã ban hành nhiều văn kiện liên quan đến
vấn đề thuộc địa. Chương trình hành động của Hội Liên hiệp thuộc địa được Đảng Cộng sản
Pháp giúp đỡ xây dựng. Công tác tuyên truyền với mục tiêu là phát hành báo chí tại Pháp và
các thuộc địa được Đảng Cộng sản Pháp nhấn mạnh. Với mục tiêu như trên, Đảng Cộng sản
Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc đăng bài trên tạp chí Cộng sản - một tạp chí rất uy tín với
những cây bút nổi tiếng, trong đó có Lênin. Ngay đầu năm 1922, trong tờ L’Humanité đã xuất
hiện một loạt bài đả kích chính sách thực dân ở các thuộc địa do Vaillant Couturier viết. Cho
đến mùa xuân năm 1922, báo L’Humanité đã mở mục “Nhân đạo ở thuộc địa” do Charles
Lussy phụ trách và thường xuyên có bài của Nguyễn Ái Quốc. Trong tháng 4, tờ L’Humanité
đã có những bài viết với tựa đề “Bọn cá mập thực dân” của Victor Méric, “Đế quốc Nhật ở
vùng cực Đông” của Vaillant Couturier… Hàng loạt các bài báo như vậy đã gây ra nhiều suy
nghĩ cho những ai để tâm đến chính trị thuộc địa và gây căm phẫn cho những ai là người dân
thuộc địa.
16

Năm 1922, tờ báo Le Paria (Người cùng khổ) được xuất bản nhằm đẩy mạnh việc
giáo dục nhân dân, đồng thời truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin sâu rộng hơn, thích hợp hơn
với điều kiện và trình độ của nhân dân các nước thuộc địa. Tờ báo chính là diễn đàn của nhân
dân thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc là một trong những người sáng lập, là chủ nhiệm kiêm chủ
bút của tờ báo. Các công việc từ chỉ đạo biên tập, sửa chữa bài, quyết định đưa bài lên báo,
viết bài đến trình bày các trang phát hành đều do Người đảm nhận. Le Paria số 1 ra vào ngày
1/4/1922, số cuối cùng là số 38 ra vào tháng 4/1926. Báo được ra đều đặn vào ngày mồng 1
hằng tháng với “lời kêu gọi” được đăng ở số thứ nhất được xem như bản tuyên ngôn của báo.
Bản tuyên ngôn này nêu rõ: “Trong lịch sử phong trào quần chúng bản xứ ở các nước thuộc
địa của Pháp, chưa bao giờ có một tờ báo được lập ra để nói lên nỗi đau khổ và khốn cùng
của họ, bất kể là họ thuộc đất nước và giống nòi nào. Le Paria ra đời do sự đồng cảm sâu sắc
của các đồng chí ở Bắc Phi, Tây Phi thuộc Pháp, Madagascar, Đông Dương, Ăngti và ở
Guyana. Báo ra đời chính là vì lười hứa hẹn dối trá về tự do và công lý được đưa ra trong quá
trình cuộc chém giết khủng khiếp những năm 1914 - 1918, nhưng hoàn toàn không được thực
hiện sau khi cơn giông tố qua đi”.13
Sự ra đời của tờ Le Paria chính là sự biểu thị ý chí tập thể của những người vô sản
bản xứ. Le Paria thực sự trở thành diễn đàn của nhân dân các nước thuộc địa. Hơn hết, tờ báo
còn vạch trần những tội ác, thủ đoạn của bọn thực dân Pháp và các đế quốc khác đối với nhân
dân thuộc địa, giúp nhân dân tìm thấy con đường giải phóng đúng nhất, chính là con đường
cách mạng vô sản. Mặc cho sự cấm đoán, ngăn cản của bọn cầm quyền thực dân ở các nước
thuộc địa trong việc phát hành, tờ báo vẫn được lưu hành bí mật trong đông đảo nhân dân
Việt Nam và cả những dân tộc thuộc địa khác. Đây có thể nói là một bước chuẩn bị tư tưởng
cho việc phát triển phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở mức cao hơn.
Có thể thấy rõ rằng những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Pháp
trong giai đoạn từ năm 1921 đến năm 1923 không chỉ vì độc lập của dân tộc Việt Nam mà
còn vì thắng lợi chung của phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phong trào
Cộng sản quốc tế. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc khiến cho bọn thực dân vô cùng lo
sợ đến mức vào năm 1919, chính quyền thực dân Pháp đã quyết định chi một số tiền lớn để
thành lập một cơ quan đặc biệt với tên gọi Cơ quan Kiểm soát và hỗ trợ người thuộc địa nhập
cư có nhiệm vụ theo dõi mọi hành động của người An Nam tại Pháp và các mối quan hệ của
họ với người trong nước.14
Vào khoảng tháng 6/1922, Albert Sarraut - Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp đã có cuộc
nói chuyện với Nguyễn Ái Quốc. Cuộc gặp gỡ giữa Người và Bộ trưởng đã chứng tỏ khí
phách kiên cường của một nhà yêu nước, một chiến sĩ quốc tế đấu tranh cho độc lập, tự do
của dân tộc mình và cả các dân tộc thuộc địa khác. Albert Sarraut đã lấy tay vẽ lên bàn và nói
về “một đường dây”, hắn ta muốn ám chỉ rằng mọi nhất cử nhất động của Người hắn đã nắm
hết. Trước những lời lẽ khiêu khích và đe dọa của Albert Sarraut, Người đã bình tĩnh, sáng
suốt, mỉm cười nhanh chóng kết thúc câu chuyện bằng câu: “Cảm ơn ngài! Cái mà tôi cần
nhất trên đời là: Đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập…”15 Có thể xem đây là
lời tuyên chiến trực tiếp của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành với kẻ thù về mục
tiêu cuộc chiến đấu này.
13
(Phạm, 2022)
14
(VTV4, 2022)
15
(Tạp chí Cộng sản, 2021)
17

Sau thời gian dài hoạt động ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc luôn muốn mở rộng phạm vi
hoạt động cũng như trau dồi, nâng cao nhận thức chính trị của bản thân. Vì vậy mấy tháng
đầu năm 1923, Người tìm kiếm, thăm dò đường sang nước Nga. Một đồng chí công nhân làm
đầu máy xe lửa Paris - Berlin đã nhận lời giúp đỡ Người. Trong thời gian đó, Người vội
chuẩn bị công việc để sau khi ra đi, tờ báo Le Paria vẫn có thể phát hành, Hội Liên hiệp thuộc
địa vẫn có thể hoạt động.
Việc Nguyễn Ái Quốc đi Liên Xô là nỗi lo sợ của thực dân Pháp đối với những người
yêu nước ở các thuộc địa đang hướng về đất nước Xô - Viết, nơi mà các dân tộc bị áp bức
trong đế quốc Nga hoàng cũ đã được giải phóng. Trong quá trình tìm cách an toàn để đến với
đất nước Nga, Người đã được Đảng Cộng sản Pháp báo tin vui rằng Đại hội lần thứ V của
Quốc tế Cộng sản sẽ họp ở Moskva và Nguyễn Ái Quốc được mời đến dự với danh nghĩa là
đại biểu của các dân tộc thuộc địa. Đây chính là một cơ hội tốt để Người thực hiện kế hoạch
của mình.
Tối ngày 13/6/1923, Nguyễn Ái Quốc lên xe buýt đi tham gia cuộc mít tinh ở ngoại ô
Paris. Như thường lệ, hai tên mật thám Pháp bám theo Người. Tuy nhiên, sau khi nhận thấy
không có biểu hiện gì đáng nghi, chúng đã bỏ đi làm việc riêng. Nhưng sau đó, Nguyễn Ái
Quốc đã vòng tới ga xe lửa. Một đồng chí đã đợi sẵn ở ga cùng với hành lý và chiếc vé tàu ở
khoang hạng nhất đi từ Pháp sang Đức. Và cuối cùng, vào ngày đầu tháng 7/1923, Người đã
đặt chân đến Moskva - trung tâm của thế giới mới được mở từ sau Cách mạng tháng Mười
năm 1917.
III. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
1. Những hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô
Ngay từ những ngày đầu, Nguyễn Ái Quốc đã làm quen được rất nhiều bạn bè, đặc
biệt là cán bộ Liên Xô và các nước làm việc trong cơ quan của Quốc tế Cộng sản. Các đồng
chí đều quý mến Người, nhận thấy ở Người có sức hấp dẫn, có vốn hiểu biết sâu rộng và dễ
gây được cảm tình vs những người tiếp xúc.
Trong thời gian ở Liên Xô (1923 - 1924), Nguyễn Ái Quốc có rất nhiều hoạt động
quốc tế rất sôi nổi, qua đó góp phần xây dựng mối quan hệ rộng rãi; đồng thời Người tranh
thủ học tập, trau dồi kiến thức nên đã nhanh chóng trưởng thành về nhận thức chính trị và lý
luận. Một trong những sự kiện quan trọng mà Nguyễn Ái Quốc tham gia đó là Hội nghị lần
thứ nhất của Quốc tế Nông dân.
Nguyễn Ái Quốc tham dự Hội nghị với tư cách đại biểu chính thức của nông dân
Đông Dương. Đây được xem là cơ hội tốt để Người gặp gỡ đại biểu nông dân các nước, đồng
thời lắng nghe ý kiến của các đại biểu về tình cảnh nông dân ở các quốc gia khác nhau trên
thế giới. Qua đó, Người càng hiểu rõ rằng ở đâu nông dân cũng khổ cực như nhau.
Tại Hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu ý kiến của mình, không chỉ tố cáo tội ác
của thực dân mà còn xác định vai trò to lớn của giai cấp nông dân thuộc địa, của liên minh
công nông và đặc biệt vai trò lãnh đạo của công nhân trong cuộc đấu tranh chống tư bản đế
quốc. Trong bài phát biểu thứ hai tại hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã so sánh tình cảnh của
người nông dân Nga với nông dân Việt Nam nói riêng và nông dân Đông Dương nói chung.
Người vạch trần những thủ đoạn của bọn thực dân để mê hoặc, bóc lột nông dân. Người nêu
nguyên nhân làm cho các nước thuộc địa không thể thoát khỏi chế độ nô lệ thuộc địa. Bên
cạnh đó, Người cũng nhấn mạnh đến vai trò của Quốc tế Nông dân trong việc tập hợp nông
dân, nhân dân bị áp bức khắp thế giới để đoàn kết đấu tranh. Nguyễn Ái Quốc cũng đã đề
18

nghị Quốc tế Nông dân ra tờ báo riêng của mình để làm cơ quan ngôn luận chính thức. Đề
nghị này được Quốc tế Nông dân chấp thuận và quyết định ra tạp chí Quốc tế Nông dân.
Có thể nói , những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị lần thứ nhất của Quốc
tế Nông dân là sự vận dụng sáng tạo khẩu hiệu chiến đấu “Vô sản và nhân dân lao động các
nước đoàn kết lại!”. Nguyễn Ái Quốc vừa hiểu rõ vai trò, vị trí của nông dân trong xã hội các
nước thuộc địa và phụ thuộc - chiếm đa số trong nhân dân lao động - vừa nắm vững các đặc
điểm nổi bật của nông dân - nhân dân - phân tán, không thể tự giải phóng mình - nên cần có
tổ chức liên kết họ trong phạm vi một nước, trên thế giới và đặt họ dưới sự lãnh đạo của giai
cấp công nhân.
Tại đây, Nguyễn Ái Quốc được Hội nghị lần thứ nhất của Quốc tế Nông dân bầu vào
Hội đồng Quốc tế Nông dân gồm 52 ủy viên. Sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng,
Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng gồm 11 ủy viên. Với sự kiện này, Nguyễn
Ái Quốc được xác định là một chiến sĩ quốc tế xuất sắc, được giao trách nhiệm tham gia lãnh
đạo cuộc đấu tranh giải phóng nhân dân bị áp bức ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mà
nông dân chiếm đa số.
Lưu lại Liên Xô trong vòng một năm rưỡi, vượt quá dự kiến ban đầu (3 tháng); tuy
nhiên, Nguyễn Ái Quốc đã không bỏ phí thời gian. Người đã chủ động tiếp xúc với những
người Trung Quốc ở Moskva, chủ động nghiên cứu về Trung Quốc, chuẩn bị điều kiện đi
Trung Quốc vào thời điểm thích hợp.
Vào cuối năm 1923, Người đã theo học lớp ngắn hạn tại Trường Đại học Phương
Đông để nâng cao lý luận cách mạng một cách có hệ thống. Thực tế, Nguyễn Ái Quốc đến
Liên Xô để tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng vì V.I. Lênin đang ốm nặng, đại hội
phải hoãn họp nên Người đã tranh thủ vào học lớp ngắn hạn của trường. Tại trường Đại học
Phương Đông, Người được trang bị những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin,
phương pháp tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh cách mạng. Trong thời gian học tập,
học viên phải học các môn quan trọng như chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, kinh tế chính trị, lịch sử phong trào công nhân quốc tế,...
Trong quá trình theo học ở đây, Người đã cùng hợp tác với một nhóm sinh viên Trung
Quốc tại trường biên soạn cuốn sách Trung Quốc và thanh niên Trung Quốc. Cuốn sách viết
bằng tiếng Pháp do Nguyễn Ái Quốc làm chủ biên, Petrova Sur dịch ra tiếng Nga. Nội dung
cuốn sách giới thiệu khái quát về địa lí, lịch sử, tình hình kinh tế - xã hội Trung Quốc sau khi
bị chủ nghĩa tư bản xâm nhập, phong trào đấu tranh cách mạng của các tầng lớp nhân dân
Trung Quốc, đời sống thanh niên Trung Quốc và phong trào thanh niên…
Ngày 21-1-1924, Nguyễn Ái Quốc được tin V.I. Lênin từ trần. Ngày 24-1-2924,
Người cùng một số học sinh Trường Đại học Phương Đông đến viếng linh cữu Lênin và tham
dự lễ tang do Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức. Ngày 27-1-1924, Người đã đến dự lễ an táng
Lênin tại quảng trường Đỏ. Với niềm xúc động mạnh mẽ và lòng biết ơn vô hạn, Người đã
viết bài Lênin và các dân tộc thuộc địa đăng trên báo Pravđa (Sự thật) số ra ngày 27-1-1924.
Nội dung bài báo nói lên tình cảm không chỉ riêng Nguyễn Ái Quốc mà của tất cả nhân dân
các nước thuộc địa, đồng thời thể niệm niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp đấu tranh theo
ngọn cờ của Lênin. Về sau, Nguyễn Ái Quốc còn viết nhiều bài báo trên báo Pravđa nói về
công lao và sự nghiệp của Lênin đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa
như: Lênin và các dân tộc phương Đông, Lênin và các dân tộc thuộc địa (số tháng 2-1925),
Lênin và phương Đông (số ra ngày 21-1-1926).
19

2. Nguyễn Ái Quốc xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với
quốc tế Cộng sản (1923-1924)
Sau một thời gian hoạt động, ngày 14-4-1924, Nguyễn Ái Quốc nhận được quyết định
của Ban phương Đông - Quốc tế Cộng sản nhận vào làm cán bộ ngoài biên chế của Ban. Sự
kiện này đã tạo thuận lợi rất lớn cho Nguyễn Ái Quốc hoạt động với tư cách một chiến sĩ
cách mạng quốc tế trong Quốc tế Cộng sản.
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc tham dự nhiều đại hội của các tổ chức
quốc tế (Công hội, Thanh niên, Phụ nữ, đại hội của Quốc tế Cộng sản), dự và tham gia Đoàn
chủ tịch cuộc mít tinh vì hòa bình, tổ chức tại Moskva năm 1924. Người cũng được vinh dự
mời dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động tổ chức ở quảng trường Đỏ (Moskva) vào ngày
30-4-1924. Tuy nhiên, sự kiện quan trọng nhất là việc Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần
thứ V của Quốc tế Cộng sản.
Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản có 504 đại biểu của 49 Đảng Cộng sản, Đảng
Công nhân và 10 tổ chức quốc tế trên thế giới tham dự. Đây là lần đầu tiên Đại hội Quốc tế
Cộng sản có đại biểu người Đông Dương và cũng là đại biểu cho các nước thuộc địa của đế
quốc Pháp. Đại hội họp trong hoàn cảnh Quốc tế Cộng sản không còn dưới sự lãnh đạo của
Lênin. Song vấn đề giải phóng dân tộc và cuộc đấu tranh của nhân dân ở các nước thuộc địa
vẫn là một vấn đề quan trọng được bàn đến ở Đại hội.
Nguyễn Ái Quốc đã tham dự tất cả các phiên họp toàn thể và ở tiểu ban của Đại hội.
Người chăm chú lắng nghe tất cả các vấn đề được nêu ra và thảo luận của đai biểu các Đảng
Cộng sản ở các nước tư bản có thuộc địa; song đặc biệt quan tâm đến vấn đề phong trào giải
phóng dân tộc và cuộc đấu tranh ở các nước thuộc địa. Đây là một trong những vấn đề quan
trọng trong chương trình làm việc của Đại hội với đề mục “Vấn đề dân tộc và thuộc địa”.
Nguyễn Ái Quốc - với tư cách đại biểu tư vấn - không chỉ đọc một bản tham luận mà còn
nhiều lần phát biểu ở những phiên họp khác nhau. Để chuẩn bị cho các tham luận và phát
biểu của mình, Người đã nghiên cứu và đưa ra nhiều dẫn chứng chứng minh rằng giai cấp tư
bản cầm quyền ở các nước đó đã làm nhiều việc, bằng mọi thủ đoạn để siết chặt ách áp bức
thống trị các dân tộc thuộc địa. Trong khi đó, Người chưa thấy các Đảng Cộng sản, các đảng
công nhân ở các nước chính quốc đề ra được một chính sách thật tích cực trong vấn đề thuộc
địa. Trong các phiên họp vào ngày 17 và 23-6, ngày 1 và 3-7-1924, Nguyễn Ái Quốc đã kiến
nghị một số việc nên làm, đặc biệt nêu lên trách nhiệm của Quốc tế Cộng sản trong việc giúp
đỡ phong trào cách mạng ở các thuộc địa.
Tinh thần kiên quyết, ý kiến đúng đắn, cách nói khúc chiết của Nguyễn Ái Quốc đã
gây sự chú ý ở Đại hội. Thoạt đầu, ở Moskva còn nhiều người chưa biết đến Việt Nam nằm ở
địa điểm cụ thể nào trên trái đất, còn nhìn Nguyễn Ái Quốc như nhìn một thanh niên châu Á
ít tuổi đời và ít kinh nghiệm trong hoạt động cách mạng. Đến sự kiện này, một số cơ quan
quốc tế và báo chí ở Moskva đã mời Nguyễn Ái Quốc đến nói chuyện và viết bài. Nhà thơ
Xô-viết Ôxíp Manđenxtam đã lắng nghe và qua “cử chỉ cao thượng cùng tiếng nói trầm lắng
của Bác Hồ như thấy một dân tộc Việt Nam giản dị, lịch sự, thấy được một nền văn hóa của
tương lai”. Những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc trình bày tại diễn đàn Đại hội Quốc tế Cộng
sản tập trung vào những ý lớn sau:
Thứ nhất, tình trạng của các nước thuộc địa thật vô cùng bi thảm. Thực tế Đông
Dương mà người biết rất rõ - cũng như của các thuộc địa khác của Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Italia, Bồ Đào Nha,... ở châu Á hay châu Phi, với mức độ khác nhau, chứng tỏ rằng: nhân dân
20

thuộc địa đều bị cướp đất, đói khổ, lạc hậu. Thứ hai, cần phải có quan điểm đúng về vấn đề
thuộc địa mà Lênin đã dạy. Đó là việc liên hệ chặt chẽ giữa phong trào giải phóng dân tộc ở
thuộc địa với cách mạng vô sản ở chính quốc và vấn đề dân tộc. Nguyễn Ái Quốc đã thẳng
thắn phê bình các Đảng Cộng sản của Pháp, Anh, Hà Lan, Bỉ và của nhiều nước khác hàu
như chưa làm gì trong việc giáo dục giai cấp công nhân nước mình hiểu biết về thuộc địa, có
tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính…; trong khi đó thì giai cấp tư sản hiểu rất rõ rằng vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa không thể tách rời nhau. Người nêu nguyên tắc gắn hành động
với lời nói trong thực hiện chính sách đúng đắn về vấn đề thuộc địa và đề xuất những biện
pháp rất cụ thể, thiết thực trong việc tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, tổ chức. Những ý kiến
nêu trên của Người đã trình tại Đại hội Cộng sản Pháp; song ở Đại hội V Quốc tế Cộng sản,
những ý kiến này được trình bày một cách sâu sắc, đầy đủ, có hệ thống hơn. Tại Đại hội lần
thứ V của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chứng tỏ sự trưởng thành về nhận thức
chính trị, sự vững vàng trong lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là
vấn đề dân tộc và thuộc địa. Người xứng đáng là đại biểu cho nhân dân các nước thuộc địa,
đấu tranh kiên quyết cho quyền lợi và con đường giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Sau
khi Đại hội kết thúc, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Ủy viên Ban phương Đông của Quốc tế
Cộng sản, phụ trách Cục phương Nam. Như vậy, kể từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một
thành viên chính thức của Quốc tế Cộng sản. Sự kiện này mở ra một bước ngoặt mới trong
cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.

IV. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc, châu Âu và Xiêm
(1924-1929)
1. Những hoạt động quốc tế đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu
với tư cách là đại diện của quốc tế cộng sản

Để mở rộng tầm ảnh hưởng của mình, Quốc tế Cộng sản thành lập những trung tâm
truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin cho các nước phương Đông trong đó có Quảng Châu- Trung
Quốc. Tại đây, Nguyễn Ái Quốc xây dựng tổ chức cách mạng theo từng bước - từ tiếp xúc
với những người Việt Nam yêu nước đến việc thành lập Cộng sản đoàn làm hạt nhân, cuối
cùng là thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội và đặt nó trong mối liên hệ
với cách mạng Đông Nam Á, tức là thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông
(năm 1925). Các tổ chức này đã có nhiều công lao trong việc tổ chức tuyên truyền chủ nghĩa
Mác-Lênin vào Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu vào lúc cách mạng Trung Quốc do Tôn Trung Sơn
lãnh đạo đang phát triển. Tháng 1-1924, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Quốc
dân đảng họp, với sự tham gia của một số đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đại hội
thông qua cương lĩnh, điều lệ mới, đặt cơ sở cho sự hợp tác Quốc - Cộng. Trong thời gian
này, Quảng Châu được gọi là “Moskva của Trung Quốc” - trung tâm cách mạng của Trung
Quốc. Bên cạnh đó, Quảng Châu còn là nơi nhiều nhà yêu nước Việt Nam từng tham gia các
phong trào chống Pháp sang cư trú để tìm cách tập hợp lực lượng đấu tranh, như Tôn Thất
Thuyết, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Bội Châu, Hồ Ngọc Lâm… Vào đầu thế kỷ XX, một số
thanh niên giàu nhiệt huyết sang Quảng Châu, tổ chức ra nhóm Tâm tâm xã (còn có tên là
Tân Việt Thanh niên đoàn). Tuy giàu lòng yêu nước nhưng vì chưa có đường lối đúng đắn,
21

không có người hướng dẫn, lãnh đạo nên họ chưa biết làm gì ngoài việc tổ chức ám sát cá
nhân, điển hình như vụ tiếng bom Sa Diện (Phạm Hồng Thái ném bom mưu sát Toàn quyền
Đông Dương Merlin). Nhận thấy phong trào yêu nước đang cần có người lãnh đạo, tổ chức,
nên Nguyễn Ái Quốc đã xin sớm về Quảng Châu.
Ở đây, ngoài việc liên hệ với những người Việt Nam yêu nước để tổ chức, đào tạo cán
bộ, chỉ đạo trực tiếp phong trào đấu tranh trong nước; Người còn đảm nhiệm công việc của
Quốc tế Cộng sản giao như: theo sát phong trào cách mạng Trung Quốc, tìm hiểu âm mưu
các nước đế quốc đối với Trung Quốc và các nước phương Đông, tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin trong quần chúng nhân dân nơi đây, tổ chức lại các chính đảng của những người
yêu nước Việt Nam.

Trong những ngày đầu ở Quảng Châu, Bác Hồ lấy danh nghĩa một người Trung Quốc,
với tên gọi là Lí Thụy và ở trong biệt thự của cố vấn Mikhail Markovich Borodin (được gọi
là “Biệt thự họ Bào”). Công việc của Bác Hồ vừa mang tính công khai (phiên dịch cho phái
đoàn Borodin), vừa mang tính bí mật (với tư cách là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội Quốc tế
Nông dân), được phép liên hệ, tiếp xúc với Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng với tư cách cá
nhân chứ không phải do Quốc tế Cộng sản giới thiệu. Do kinh phí eo hẹp, Người phải làm
thêm nhiều việc khác để kiếm sống và góp phần nuôi dưỡng phong trào. Trong giai đoạn này,
để phục vụ công tác “phiên dịch”, Người đã vận dụng tối đa khả năng về tiếng Pháp, tiếng
Anh, tiếng Quảng Đông và cả tiếng Nga.

Với tư cách là đại diện của Quốc tế Cộng sản, ngoài nhiệm vụ riêng đối với dân tộc,
trong thời gian ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc còn phải hoàn thành những nhiệm vụ do
Quốc tế Nông dân phân công phụ trách - vận động nông dân các nước phương Đông. Bên
cạnh đó, một công việc cũng rất quan trọng của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Quảng
Châu là hoạt động thực tiễn góp phần đáng kể vào phong trào cách mạng Trung Quốc và các
nước thuộc địa ở châu Á.

Ngày 19-6-1925, một cuộc đình công lớn của công nhân Hương Cảng - Quảng Châu
đã nổ ra để ủng hộ Phong trào 30-5. Trong cuộc đình công này, hơn 10 vạn công nhân từ các
ngành nghề khác nhau ở Hương Cảng cũng như những công nhân từ các nhà máy của các
nước đế quốc trong các tô giới, đã đình công và kéo về Quảng Châu. Biết tin này, chiều ngày
13-7-1925, Nguyễn Ái Quốc - mang bí danh Lý Thụy - đến Ủy ban bãi công Cảng Tỉnh đề
nghị tham gia đội diễn thuyết với danh nghĩa là hội viên của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức Á Đông.

Người đăng ký tham gia diễn thuyết với chủ đề “Quan hệ giữa công nhân Trung Quốc
với các dân tộc bị áp bức và sự cần thiết phải liên hiệp lại đánh đổ đế quốc”. Ủy ban bãi công
đã hoan nghênh và chấp nhận đề nghị của Nguyễn Ái Quốc đồng thời giới thiệu Người đi báo
cáo ở một số nơi khác. Trong các buổi diễn thuyết, Người đã nói thẳng với đông đảo người
nghe bằng tiếng Trung Quốc.

Sau một thời gian chuẩn bị, ngày 9-7-1925, Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí
Trung Quốc thành lập tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông. Hội viên gồm
22

người Việt Nam, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Indonesia, Miến Điện… Phương châm của
Hội là “liên lạc với các dân tộc đó cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc”. Tại Đại hội
thành lập, các đại biểu đã thông qua tôn chỉ, Tuyên ngôn và bầu ra Ban lãnh đạo Hội. Nguyễn
Ái Quốc được giao soạn thảo Tuyên ngôn của Hội. Tuyên ngôn tố cáo sự áp bức bóc lột của
thực dân đế quốc, kêu gọi nhân dân các thuộc địa đoàn kết, liên minh với công nhân thế giới
để đấu tranh.

Sự ra đời của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông đánh dấu sự thức tỉnh của
nhân dân châu Á. Hội là một tổ chức quốc tế giống như Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pháp năm
1922, cũng do Nguyễn Ái Quốc thành lập, nhưng được mở rộng một cách có hệ thống. Hội
Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông không chỉ tập hợp nhân dân các nước thuộc địa của
Pháp mà cả nhân dân của các nước thuộc địa của các đế quốc khác để cùng nhau khởi nghĩa.

Trước tình hình cách mạng phát triển, đầu năm 1926, Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp
bức Á Đông quyết định đổi mới phương thức lãnh đạo và mở rộng tổ chức. Trong ban lãnh
đạo mới, Nguyễn Ái Quốc được bầu làm Bí thư kiêm Ủy viên phụ trách tài chính của Hội.
Ngoài nhiệm vụ trực tiếp là lãnh đạo chi hội Việt Nam; do Nguyễn Ái Quốc thông thạo nhiều
ngoại ngữ nên có thể viết các bức điện, thư đi thăm các tổ chức, các nước trên thế giới theo
yêu cầu. Ngày 14-5-1926, Người thay mặt Hội soạn thảo Bản tuyên ngôn của Hội ủng hộ
cuộc bãi công của công nhân Anh, soạn thảo các bức điện động viên, ủng hộ các phong trào
cách mạng ở Syria, Morocco, Triều Tiên, Việt Nam. Chính những hoạt động tích cực của
Nguyễn Ái Quốc đã góp phần giúp Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông nâng cao uy
tín và mở rộng ảnh hưởng ra ngoài Trung Quốc.

Đầu năm 1926, Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ hai của Quốc dân đảng Trung Quốc, tổ chức tại Quảng Châu. Theo yêu cầu của Nguyễn
Ái Quốc, tại phiên họp thứ 9 của Đại hội (ngày 14-1-1926), Chủ tịch phiên họp là Uông Tinh
Vệ - Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền của Trung ương Quốc dân Đảng Trung Quốc, đã mời
Nguyễn Ái Quốc lên phát biểu và mới Lý Phú Xuân làm phiên dịch (vì Người phát biểu bằng
tiếng Pháp).

Sau lời chào mừng và cảm ơn sự hoan nghênh của đại hội, Nguyễn Ái Quốc (lúc này
mang bí danh là Vương Đạt Nhân), đã đưa ra rất nhiều sự thật để tố cáo tội ác của thực dân
Pháp đối với nhân dân Việt Nam trong hơn 60 năm qua và đối với Hoa kiều ở Việt Nam.
Chúng đàn áp dã man cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng sợ ảnh hưởng của cách mạng
Trung Quốc nên tìm mọi cách tấn công, phá hoại Chính phủ cách mạng Quảng Châu. Bài
phát biểu của Nguyễn Ái Quốc đã được đại hội hoan nghênh nhiệt liệt.

Ngày 18-8-1925, Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân chính thức giao cho Nguyễn Ái
Quốc “phụ trách công tác vận động người dân ở Trung Quốc và các thuộc địa Đông Dương,
Miến Điện, Xiêm, Đài Loan và quần đảo Philippin…”. Như vậy, nhiệm vụ quốc tế của Người
được xác định rõ ràng, cụ thể hơn. Mối quan hệ giữa Quốc tế Nông dân với Nguyễn Ái Quốc
cũng từ đó được củng cố. Có thể nói, thời gian ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia
23

vào các hoạt động của phong trào nông dân của Trung Quốc, qua đó nắm rõ được tình hình
của nông dân Trung Quốc.

2. Nguyễn Ái Quốc xúc tiến thành lập hội Việt Nam cách mạng thanh niên
Trong thời gian ở Quảng Châu, hoạt động chính của Nguyễn Ái Quốc tập trung chủ
yếu vào việc mở lớp huấn luyện về chủ nghĩa Mác - Lênin để đào tạo cán bộ đưa về nước
hoạt động, thành lập tổ chức “Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên” (hay còn gọi là “Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội”), để tiến tới xây dựng một Đảng Cộng sản ở
Đông Dương.

Với mong muốn tập hợp những thanh niên Việt Nam ưu tú, giàu lòng yêu nước, đang
khát khao tìm đến con đường cứu nước đúng đắn, để xây dựng một tổ chức cách mạng, tại
Quảng Châu, ngay sau khi được tiếp xúc với Phan Bội Châu và nhận được danh sách do
Đồng chí thân cận của cụ chuyển cho, Nguyễn Ái Quốc quyết định lập ra một nhóm bí mật
làm hạt nhân cho một số rộng lớn sau này, thông qua một lớp huấn luyện về phương pháp tổ
chức trong khoảng thời gian 3 tháng.

Từ tháng 12-1924 cho đến tháng 2-1925, Nguyễn Ái Quốc hoạt động chặt chẽ với
nhóm thanh niên trong tổ chức Tâm tâm xã. Người thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm
trong ý thức và hành động của nhóm này đồng thời bày tỏ sự khâm phục tinh thần yêu nước
của những chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi. Dưới hình thức những lớp bồi dưỡng nhỏ, phân tán,
Nguyễn Ái Quốc đã giới thiệu cho anh em Cách mạng tháng Mười Nga, Quốc tế Cộng sản,
chủ nghĩa xã hội khoa học, học thuyết Mác - Lênin.

Lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương tổ chức nhóm bí mật. Tuy về quy mô chỉ là
nhóm đầu tiên nhưng có đầy đủ chương trình, điều lệ… Nhóm bí mật 9 người do Nguyễn Ái
Quốc xây dựng chính là tiền thân của tổ chức cách mạng mà Người đã ấp ủ từ lâu.

Để truyền bá tư tưởng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin vào giai cấp
công nhân và các nhân dân yêu nước Việt Nam, trước hết, Nguyễn Ái Quốc dựa vào thanh
niên, đó là những thanh niên có lòng yêu nước, căm thù giặc, hiếu chiến, hăng hái cách mạng,
nhạy bén với cái mới, được Người rèn luyện, học tập lý luận giải phóng dân tộc và phương
pháp tổ chức quần chúng.16 Từ những kết quả bước đầu, với tư duy và tài tổ chức hết sức
sáng tạo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã xin phép Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản cho phép

16
(2014). Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
https://123docz.net/document/1908466-doan-thanh-nien-cong-san-ho-chi-minh-ppt.htm.
24

“Gửi sinh viên Việt Nam sang học trường Đại học Cộng sản ở Mát-xcơ-va” và Người yêu cầu
“nói rõ hơn cho tôi biết là có thể gửi bao nhiêu sinh viên Việt Nam sang”.

Sự ra đời của một nhóm cách mạng trẻ gồm 9 người tuy còn quá nhỏ bé trên con
đường dài xây dựng Đảng, xây dựng Đoàn, tập hợp thanh niên nhưng lại là sự ra đời của một
thế hệ thanh niên có chí hướng đấu tranh với xu hướng đấu tranh mới đã làm cho thực dân
Pháp và bọn cầm quyền run sợ.

Việc thành lập Đoàn viên Thanh niên Cộng sản Việt Nam đầu tiên này là một sự kiện
đặc biệt quan trọng, tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển của các tổ chức thanh niên
cách mạng theo cộng sản chủ nghĩa cũng như sự phát triển của Đoàn viên Thanh niên Cộng
sản và các hội thanh niên yêu nước trong tương lai của đất nước.17

Tháng 6 năm 1925, trên cơ sở hạt nhân là Cộng sản Đoàn, Người thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua Chính cương, Điều lệ và Chương trình hành động
của Hội, được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Như Lênin
đã căn dặn: “Không có lí luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ cốt cán thực hiện nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa cộng sản cho cách mạng
Việt Nam, cuối năm 1925, lớp huấn luyện chính trị chính thức được mở tại Quảng Châu,
Trung Quốc. Học viên được nghiên cứu về tình hình thế giới, Quốc tế Cộng sản, các hình
thức tổ chức của Đảng, hình thức tuyên truyền và cổ động, công tác vận động, tổ chức quần
chúng … Sau khi kết thúc khóa đào tạo, họ bí mật trở về nước truyền bá lí luận, giải phóng
dân tộc và tổ chức nhân dân đấu tranh.

Học viên mặc dù là những người có trình độ văn hóa (phần lớn là học sinh, giáo viên)
nhưng họ vẫn còn rất bỡ ngỡ với những khái niệm chính trị, triết học… lần đầu tiên được
nghe.18 Tất cả những điều mới mẻ ấy có sức hấp dẫn kì lạ đối với những người trẻ đang khao
khát lí tưởng, tìm đường cứu nước, cứu dân. Ngoài việc mở trường đào tạo cán bộ thanh niên
ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản và Quốc tế Thanh niên
Cộng sản cử một số thanh niên Việt Nam sang học tại trường Đảng Liên Xô. Nguyễn Ái
Quốc cũng đã trực tiếp viết thư cho Ủy ban Trung ương Đội Thiếu niên Tiền phong trực
thuộc Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin đề nghị đào tạo thanh niên Việt Nam để

17
(2013). Lịch sử Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào Thanh niên Việt Nam (1925-2004).
https://123docz.net/document/528391-lich-su-hoi-lhtn-viet-nam.htm.
18
(2014). Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
https://123docz.net/document/1908466-doan-thanh-nien-cong-san-ho-chi-minh-ppt.htm.
25

trở thành những cán bộ Đoàn trong tương lai.19 Đề nghị trên được Trung ương Đoàn Thanh
niên Cộng sản Lênin đáp ứng một cách nồng nhiệt, nhưng do tình hình chính trị không tốt
nên chủ trương cử các thanh niên nói trên sang đào tạo ở Moskva không thực tế.20

Đến năm 1929, hệ thống tổ chức Hội đã hoàn chỉnh từ trung ương đến cơ sở (5 cấp).
Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam và chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức sau này cho
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Để có tiếng nói rộng rãi trong quần chúng nhân dân, ngày 21 tháng 6 năm 1925, Báo
Thanh niên - cơ quan ngôn luận của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra đời, do Nguyễn
Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt. Những bài viết của Báo
Thanh niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những vấn đề
chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải lương; thực tiễn của cách mạng Việt Nam;
Đảng Cách mạng và Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới; cách mạng
và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin … Báo ra hằng tuần
bằng tiếng Việt, in tại Quảng Châu - Trung Quốc, tên báo viết bằng hai chữ Việt và Hán, đầu
trang bên trái có hình ngôi sao 5 cánh, giữa ngôi sao là số của tờ báo. Báo ra mỗi kỳ 2 trang,
có lúc 4 trang, khổ giấy 13x19, với các mục: xã luận, bình luận, diễn đàn phụ nữ, phê bình,
tin tức, thơ ca, vấn đáp, trả lời bạn đọc, việc làm.21

Thông qua Báo Thanh niên, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thống
nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và ngoài hội, góp phần
quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính trị, tư
tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.
Những số báo Thanh niên đầu tiên nhấn mạnh về sự đoàn kết nội bộ, nhờ đó mà đoàn thể có
sức mạnh và những cá nhân trong đoàn thể làm việc có kết quả hơn. Đồng thời báo cũng kích
thích tinh thần độc lập dân tộc và lòng yêu nước mà người Việt Nam lúc bấy giờ đang háo
hức, chờ dịp để thi thố. Sau đó, tờ báo giúp độc giả nhận định về tình hình thế giới, đặc biệt

19
(2015). Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
https://123docz.net/document/2719091-lich-su-doan-tncs-ho-chi-minh-1-doc.htm.
20
(2013). Lịch sử Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào Thanh niên Việt Nam (1925-2004).
https://123docz.net/document/528391-lich-su-hoi-lhtn-viet-nam.htm.
21
(2013). Một số tờ báo tiêu biểu từ khởi thủy đến năm 1945.
https://tailieu.vn/doc/mot-so-to-bao-tieu-bieu-tu-khoi-thuy-den-nam-1945-1576946.html.
26

là những biến chuyển vừa xảy ra trong lịch sử các cường quốc.22 Người viết bài đã cố gắng
dùng những danh từ Việt Hán quen thuộc để phiên dịch lại vài danh từ Tây phương, giúp
người đọc hiểu lần hồi lí thuyết Cộng sản. Tờ báo hướng dẫn từ từ cho ai nấy hiểu rằng hiện
giờ ở thế giới đã có nước Nga theo chế độ Xô-viết, dân ở nước ấy sống trong tự do, hạnh
phúc. Nguyễn Ái Quốc, người chủ biên của tờ Thanh niên tỏ ra kiên nhẫn, suốt 60 số báo đầu
tiên để cho độc giả chuẩn bị tinh thần và tình cảm và sau rốt, ông mới phơi bày công khai chủ
trương của mình: chỉ riêng Đảng Cộng sản mới có thể đem lại hạnh phúc cho dân tộc Việt mà
thôi! Điều đáng chú ý là tờ Thanh niên được những người có chân hoặc không có chân trong
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đọc tới. Nhiều người có cảm tình với đường lối của Hội
đã chịu khó chép đi chép lại nhiều lần để phổ biến rộng rãi hơn. Vì vậy, tuy số ấn hành ít ỏi,
tờ báo vẫn tạo được ảnh hưởng to lớn.

Bên cạnh việc ra báo Thanh niên, trong năm 1927, một sự kiện có ảnh hưởng tích cực
đến phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam và nhân dân các thuộc địa là việc
xuất bản cuốn Đường Kách Mệnh. Nội dung cơ bản của cuốn sách bao hàm những vấn đề cơ
bản của cách mạng: cách mạng là gì, các loại cách mạng trên thế giới và cách mạng Việt
Nam, lực lượng cách mạng và nhân tố bảo đảm cho cách mạng thành công là phải có đảng
cách mạng. Đường Kách mệnh chứa đựng những luận cương cơ bản về con đường giải phóng
và phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới, đó là sự vận dụng và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa. Đề cập các nhân tố thành công
của cách mạng, Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân, nhưng phải biết làm cho dân giác
ngộ, hiểu lý luận, phải hướng dẫn sách lược cho dân; và Người nêu bật yếu tố quan trọng
nhất đưa cách mạng đến thành công là phải có đảng cách mạng.

Cuốn Đường Kách Mệnh là sự tiếp nối logic Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản ở
Pháp năm 1925. Nếu Bản án chế độ thực dân Pháp chủ yếu tố cáo tội ác của thực dân Pháp và
các nước đế quốc khác đối với nhân dân thuộc địa và sự vùng dậy đấu tranh của những người
“nô lệ thức tỉnh” (tên một chương trong Bản án chế độ thực dân Pháp) thì quyển Đường Kách
Mệnh chỉ rõ con đường và những biện pháp cụ thể để nhân dân các nước thuộc địa noi theo
đấu tranh giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Có thể xem trong lịch sử cách
mạng Việt Nam, cuốn Đường Kách Mệnh có vai trò như cuốn Làm gì? của V.I. Lênin đối với
cách mạng Nga. Bởi vì, Đường Kách Mệnh không chỉ tiếp tục truyền bá chủ nghĩa

22
(2015). Bài học kinh nghiệm từ báo chí Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
https://123docz.net/document/2495638-bai-hoc-kinh-nghiem-tu-bao-chi-viet-nam-truoc-cach-mang-thang-tam-n
am-1945.htm.
27

Mác-Lênin vào Việt Nam mà Bản án chế độ thực dân Pháp đã làm, nó còn “đóng góp vào
việc vạch ra cương lĩnh của Đảng sau này…”.

Phần đầu tác phẩm Đường Kách Mệnh xác định chuẩn mực đạo đức cách mạng của
người chiến sĩ cộng sản đó là cần, kiệm, vi công vô tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, lời
nói đi đôi với việc làm, giữ vững ý chí, lí tưởng sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng, ít lòng ham
muốn vật chất, đối với mọi người thì phải nghiêm chỉnh, giúp đỡ lẫn nhau; trực mà không táo
bạo, dũng cảm, quyết đoán nhưng không phiêu lưu mạo hiểm, phải phục tùng đoàn thể.
Đường Kách Mệnh đã so sánh các cuộc cách mạng trong lịch sử loài người và kết luận: mặc
dù có ý nghĩa to lớn trong lịch sử nhân loại song các cuộc cách mạng tư sản không triệt để
“không đến nơi đến chốn”.

Đường Kách Mệnh giới thiệu sơ lược lịch sử Quốc tế Cộng sản, chỉ rõ sự nghiệp cách
mạng là của toàn dân tộc chứ không phải của riêng một vài cá nhân, khẳng định chuẩn mực
và lực lượng cách mạng: trong đó lấy công nông là gốc. Đường Kách Mệnh xem Đảng Cộng
sản là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, đồng thời khẳng định đoàn kết là nhân tố
bảo đảm thắng lợi cho cách mạng; trong đó, công nông Việt Nam với công nông Pháp đoàn
kết cùng làm cách mạng thì mau thành công.

Cuốn sách không chỉ góp phần quan trọng vào việc phát triển tư tưởng chính trị của
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ mà còn ảnh hưởng đến nhiều nước thuộc địa khác, bởi vì
trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, sách đã chỉ cho nhân dân Việt Nam
cũng như nhân dân các nước thuộc địa khác con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc, khắc
phục tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng lúc bấy giờ. Những vấn đề then chốt
được trình bày trong “Đường Kách Mệnh” có tác dụng lớn đối với cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.

Bằng những phân tích sâu sắc, trên cơ sở những tư liệu lịch sử chính xác, Nguyễn Ái
Quốc đã chỉ rõ cho nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân nhiều nước thuộc địa thấy rằng
muốn giải phóng dân tộc một cách triệt để, không thể đi theo con đường cách mạng tư sản.
Con đường đúng, theo Nguyễn Ái Quốc, là con đường Cách mạng tháng Mười Nga, vì nó “đã
đuổi được vua, tư bản địa chủ rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân tộc bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đạp đổ tất cả các đế quốc chủ nghĩa và tư sản trong thế giới”.23

23
(2015). Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ khi gặp CN Lênin đến năm 1930.
https://123docz.net/document/3190107-tu-tuong-cach-mang-cua-nguyen-ai-quoc-tu-khi-gap-cn-lenin-den-nam-
1930.htm.
28

Tác giả “Đường Kách Mệnh” thuyết phục người đọc bằng sự thực lịch sử. Quá khứ và hiện
tại được khôi phục, miêu tả, giải thích một cách đúng đắn, dễ hiểu, giúp cho nhân dân nhận
thức dễ dàng, từ đó tự giác chọn con đường cách mạng phải đi.

Cùng với Đường Kách mệnh và Báo Thanh niên, các tờ báo và nguyệt san bí mật
được chuyển về Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng và con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Những sự kiện trên
chứng tỏ Nguyễn Ái Quốc hoạt động không phải chỉ riêng cho cách mạng Việt Nam - tuy
mục đích chủ yếu là phục vụ cách mạng Việt Nam - mà những hoạt động của Người còn có
tác dụng không nhỏ đến cách mạng các nước thuộc địa và phụ thuộc - nơi mà Người chịu
trách nhiệm với cương vị một cán bộ của Quốc tế Cộng sản. Trong thời gian ở Quảng Châu,
Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng một cách sáng tạo những điều đã được học tập, nghiên cứu
trước đó, đặc biệt trong thời hoạt động ở Liên Xô. Qua quá trình hoạt động ở Trung Quốc, có
thể nhận thấy Nguyễn Ái Quốc đã tỏ ra am hiểu tình hình các nước thuộc địa và phụ thuộc ở
châu Á và nêu lên những lời chỉ dẫn có giá trị, làm giàu thêm cơ sở lí luận cho cách mạng
Việt Nam.24

3. Nguyễn Ái Quốc với việc thiết lập quan hệ giữa Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên với Cách mạng Trung Quốc (1924-1927)
Sau khi thành lập, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã chủ trương lợi dụng địa
bàn Quảng Châu, nơi có nhiều thuận lợi cho cách mạng Việt Nam để triển khai hoạt động.
Thực chất của việc làm này là lợi dụng địa bàn Quảng Châu để tiến hành công tác truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin và xây dựng các tổ chức cách mạng trong cả nước.

Từ 1925 đến 1927, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu đã sử dụng
các mối liên hệ từ các tổ chức trước đó để hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin liên lạc
về Việt Nam. Hệ thống này bảo đảm việc đưa đón cán bộ, vận chuyển tài liệu, sách báo về
nước ngày càng phát triển về quy mô và mức độ khi phong trào cách mạng nước nhà ngày
càng phát triển.

Được sự hỗ trợ của chính phủ Trung Quốc, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã
tiến hành hai phương thức đào tạo cán bộ trở về: đào tạo tại chỗ và đào tạo hợp tác. Hội đã

24
Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM. (2021). Nguyễn Ái Quốc với việc
thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trang tin điện tử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nguyen-ai-quoc-voi-viec-thanh-lap-hoi-viet-nam-cach-mang-thanh-nien-149
1879067.
29

mở khóa đào tạo đầu tiên với sự hỗ trợ của chính quyền Quảng Châu. Trụ sở của công hội
dọc theo đường phố Quảng Châu đã được chính phủ Trung Quốc cho mượn để dạy và học.
Cuối năm 1925, đầu năm 1926, được sự hỗ trợ của Chính phủ Tôn Trung Sơn và phái đoàn
cố vấn Liên Xô, trường “Huấn luyện chính trị” được thành lập.

Trường “Huấn luyện chính trị” của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được Chính
phủ Tôn Trung Sơn coi như một chi nhánh của Trường Quân chính Hoàng Phố và trên thực tế
hoạt động dưới sự giúp đỡ của Chính phủ Quảng Châu và đoàn cố vấn Lin Xơ. Nhờ đó, hoạt
động của trường gặp nhiều thuận lợi như: tránh được sự chú ý của mật vụ quốc tế và phái hữu
trong Quốc dân đảng - lực lượng chống cộng điên cuồng trong Chính phủ Quảng Châu; đồng
thời tranh thủ sự ủng hộ của giáo viên, cố vấn quân sự, chính trị Lin Xơ của Trường Quân
chính Hoàng Phố. Bên cạnh đó, trước khí thế chung của quần chúng cách mạng ở Quảng
Châu, bọn mật thám Pháp, Hán gian phản động không dám ra mặt phá hoại. Trong khi đó,
nếu tình hình Quảng Châu bất lợi, cán bộ cách mạng có thể rút về Hồng Kông, nơi luật
Hoàng gia Anh không cấm hoạt động chính trị - miễn là không chống Anh.

Hầu hết các học viên sau khi học xong đều được kết nạp vào Hội và được cử về nước
hoặc đến Xiêm để hoạt động. Họ trở thành những người tuyên truyền và tổ chức các hoạt
động cách mạng trong nước và trong cộng đồng Việt kiều đang sinh sống ở Xiêm. Ngoài ra,
một số học viên được gửi tiếp tục học tại Trường Quân chính Hoàng Phố và Trường Đại học
Phương Đông. Có thể nói, lực lượng này là một vốn quý mà Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên đã chuẩn bị cho cách mạng Việt Nam trong tương lai.

Ngoài việc tự đào tạo, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thực hiện kế hoạch liên
tịch để huấn luyện cán bộ trong thời kỳ này. Hai trường có quan hệ chặt chẽ nhất và giúp đỡ
nhiều nhất là Trường đại học Cộng sản của những người lao động Phương Đông (hay Trường
Đại học Phương Đông) và Trường Quân chính Hoàng Phố. Chính nhờ sự liên kết này mà Hội
vừa giảm được rất nhiều kinh phí đào tạo vừa có thể cung cấp cho học viên những kiến thức,
nội dung mới mà ở trường chính trị ngắn hạn ở Quảng Châu không thể có được. Với phương
thức này, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã liên hệ chặt chẽ với Quốc tế Cộng sản và
phong trào cách mạng Trung Quốc. Thực ra, việc gửi học viên sang Trường Đại học Phương
Đông là bước tiếp nối công việc mà Nguyễn Ái Quốc đã triển khai khi còn ở Moskva.

Bên cạnh Trường Đại học Phương Đông, Trường Quân chính Hoàng Phố có mối liên
hệ đặc biệt với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trường Quân chính Hoàng Phố - tên
chính thức là Học viện Sĩ quan Lục quân Trung Hoa Dân quốc - một trường đào tạo sĩ quan
30

lục quân của Quốc dân đảng có cơ sở ban đầu đặt ở khu Hoàng Phố trên đảo Trường Châu,
thành phố Quảng Châu. Tại đây, cố vấn Liên Xô giảng dạy nội dung chính. Trường được
Chính phủ Trung Quốc giao nhiệm vụ đào tạo sĩ quan cho quân đội cách mạng Trung Quốc
và bắt đầu từ tháng 3-1925, được giao thêm nhiệm vụ đào tạo cán bộ quân sự cách mạng cho
các nước láng giềng như Triều Tiên, Việt Nam. Do vậy, học viên được tuyển từ khắp các
miền của Trung Quốc và các nước lân cận.

Trường Quân chính Hoàng Phố25

Nhìn chung, tại Quảng Châu, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Nguyễn Ái
Quốc đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình về tinh thần của công nhân, binh lính và nhân dân
Quảng Châu; sự hỗ trợ về vật chất của Chính phủ Tôn Trung Sơn và phái đoàn M.M.
Borodin. Vì vậy, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tiến hành nhiều hoạt động chủ yếu
là đào tạo cán bộ cách mạng, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin ở trong nước và chuẩn bị lực
lượng cho việc thành lập Đảng Cộng sản.

Giữa lúc công việc của Nguyễn Ái Quốc đang tiến triển tốt thì gặp phải trở ngại vì
tình hình Trung Quốc có những biến đổi lớn, không có lợi cho cách mạng. Cuộc đảo chính
ngày 12-4-1927 của Tưởng Giới Thạch khởi đầu từ Thượng Hải, với một chiến dịch khủng
bố quy mô lan tràn khắp nơi: Giang Tô, Chiết Giang, An Huy, Phúc Kiến, Quảng Tây, Tứ
Xuyên… đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng đối với phong trào lao động cánh tả ở những
địa phương này và Đảng Cộng sản Trung Quốc buộc phải rút vào hoạt động bí mật. Ngày
11-12-1927, cuộc khởi nghĩa Quảng Châu do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo nổ ra,

25
https://tourdanhhang.com/di-choi-quang-chau/truong-quan-su-hoang-pho-n25
31

thành lập Quảng Châu công xã. Các chiến sĩ cách mạng chiến đấu rất dũng cảm song do lực
lượng có sự chênh lệch lớn nên đã thất bại. Sau đó, những người lãnh đạo Quốc dân Đảng
Trung Quốc cũng tiến hành bắt bớ, giam cầm những người cách mạng Việt Nam ở Quảng
Châu. Tình hình trên buộc Nguyễn Ái Quốc phải rời khỏi đây.

Giai đoạn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng Châu từ 1924 -
1927 không chỉ có tác động trực tiếp đến phong trào cách mạng của Việt Nam mà còn góp
phần quan trọng trong phong trào cách mạng Trung Quốc cũng như Quốc tế Cộng sản.

Đối với cách mạng Trung Quốc, từ trước đều là mối quan hệ tương hỗ với cách mạng
giai cấp vô sản quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng Châu, một mặt tiến hành làm công
tác tuyên truyền và tổ chức cho phong trào cách mạng Việt Nam, chuẩn bị tốt cho việc thành
lập chính đảng của giai cấp vô sản Việt Nam. Một mặt, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng
chí của mình trực tiếp tham gia phong trào của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đấu tranh cách
mạng của nhân dân Trung Quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp cho cách mạng
Trung Quốc khi đó. Đồng thời, trong thời gian đó Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặt nền móng
vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh giữa nhân dân hai nước Việt
Nam - Trung Quốc qua các thời kỳ.

Trên tinh thần đó, đây cũng là cơ sở để mối tình hữu nghị được phát huy trong các
cuộc kháng chiến chống Nhật hay cuộc chiến tranh giải phóng của Trung Quốc, hoặc trong
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của Việt Nam.

Đối với Quốc tế Cộng sản, những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Quảng
Châu trong giai đoạn 1924 - 1927 đã làm phong phú hơn về mặt lý luận và thực tiễn của
Quốc tế Cộng sản trong việc lãnh đạo cách mạng giai cấp vô sản toàn thế giới.

Trong vai trò là thành viên của Quốc tế Cộng sản khu vực phương Đông và đại diện
của Hội Nông dân quốc tế, một mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh tích cực tham gia hoạt động của
Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Quảng Châu, liên lạc, tổ chức kết nối các nhà hoạt động cách
mạng từ các quốc gia bị áp bức tại Quảng Châu cùng đấu tranh, đưa vào thực tiễn tôn chỉ
Quốc tế Cộng sản trong việc liên kết cùng đấu tranh giai cấp vô sản trên toàn thế giới. Mặt
khác, ở Quảng Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể tìm hiểu được tình hình phong trào cách
mạng Trung Quốc, tình hình hoạt động của Người và các đồng chí của Người ở Quảng Châu,
tình hình của các nhà hoạt động cách mạng đến từ các quốc gia, các dân tộc bị áp bức, tình
32

hình thực tế của bản thân cũng như cách phân tích, đánh giá để báo cáo với Quốc tế Cộng sản
hoặc viết thành các bài viết đăng trên tạp chí "Thông tin quốc tế" của Quốc tế Cộng sản.

Điều này sẽ gia tăng ảnh hưởng, tăng cường mối liên hệ giữa Quốc tế Cộng sản và các
phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng
giai cấp vô sản trên phạm vi toàn thế giới.26

4. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc ở châu Âu (1927-1928)


Vào một đêm khuya đầu tháng 5-1927, Trương Hồng Lĩnh - một nhân viên đang làm
việc cho Sở Công an của chính quyền Quốc dân Đảng đã đến báo tin cho Nguyễn Ái Quốc
rằng chính quyền Tưởng Giới Thạch đang chuẩn bị bắt Người. Ngay sau đó, Nguyễn Ái
Quốc đã bí mật rời khỏi Trung Quốc. Người đến Hồng Kông, đi Thượng Hải, sau đó đáp tàu
sang Nga vào mùa hè năm 1927. Cuối năm 1927, do sức khỏe không được tốt, Nguyễn Ái
Quốc đã được tổ chức bố trí đi nghỉ ngơi và dưỡng bệnh ở khu an dưỡng của Quốc tế Cộng
sản tại Crưm (Liên Xô).

Trong quá trình nghỉ ngơi tại Liên Xô, từ những suy nghĩ đã nung nấu trong những
ngày hoạt động ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc bắt tay và viết cuốn sách nhỏ mang tên
Công tác quân sự của Đảng trong nông dân. Cuốn sách đã trở thành giáo trình dùng trong
Trường Quân sự của những người cộng sản Đức ở Moskva. Trong tác phẩm có giá trị cả về
thực tiễn và lí luận này, xuất phát từ thực tế cách mạng sôi động ở miền Nam Trung Quốc,
Người đã rút ra những nhận xét về sự non kém của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong nông
dân, bước đầu nêu lên những tư tưởng về xây dựng căn cứ địa, về thời cơ khởi nghĩa, về liên
minh công nông, về xây dựng lực lượng vũ trang - các đội du kích trong nông dân ở những
nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp.

Cũng trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc với bút danh Wang (Vương), đã viết bài
Những tội ác kinh khủng của chủ nghĩa đế quốc Pháp ở Đông Dương. Trong bài viết, Người
đã phân tích những tội ác mà chủ nghĩa đế quốc Pháp đã gây ra không chỉ cho nhân dân Đông
Dương mà cả những thuộc địa khác bằng việc “mộ phu”, mua bán nô lệ, cho vay nặng lãi, tổ
chức bắt cóc người.

26
Hà Thắng. (2016). Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn Trung Quốc để hoạt động cách mạng năm 1924? Báo điện tử
Đài Tiếng nói Việt Nam.
https://vov.vn/chinh-tri/vi-sao-nguyen-ai-quoc-chon-trung-quoc-de-hoat-dong-cach-mang-nam-1924-517052.vo
v.
33

Tháng 11-1927, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản cử sang Pháp hoạt động. Từ
Pháp, theo sự phân công của Quốc tế Cộng sản, Người đi dự cuộc họp Đại hội đồng của Liên
đoàn chống đế quốc (Grand conseil général de La ligue anti impérialistes) được tổ chức từ
ngày 9 đến ngày 12-12-1927 tại Brussels. Nội dung chính là quyết định thành lập các phân bộ
của Liên đoàn ở các nước, bàn về chống chiến tranh thế giới mới, thông qua nghị quyết về
Trung Quốc, Ấn Độ, Nicaragua, Indonesia, Đông Dương, Iran; về mối quan hệ của Liên đoàn
chống đế quốc với Quốc tế II trong vấn đề thuộc địa. Trong thời gian dự họp, Người đã tranh
thủ viết một tài liệu về cuộc đấu tranh của nhân dân Công - một thuộc địa của Bỉ, nơi Người
đã từng đến sống và lao động những ngày tìm đường cứu nước.

Tại cuộc họp Đại hội đồng của Liên đoàn, Nguyễn Ái Quốc đã có dịp gặp gỡ, làm
quen và trao đổi với nhiều nhân vật nổi tiếng như: Sukarno, Tống Khánh Linh,... và đặc biệt
là nhà yêu nước Ấn Độ Motilal Nehru (thân sinh cố Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru).
Đây là điểm khởi đầu cho một xu hướng mới. Sau đó, trong nửa đầu năm 1928, Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt tập trung vào nghiên cứu về Ấn Độ. Đối với Nguyễn Ái Quốc, đó là “quê
hương của một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới. Liên tiếp trong nhiều thế kỷ,
tư tưởng Phật giáo, nghệ thuật và khoa học Ấn Độ lan khắp thế giới” và trong hiện tại, trên
đất nước này đang diễn ra phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc mạnh mẽ.

Vấn đề chủ yếu được Nguyễn Ái Quốc tập trung nghiên cứu là tình cảnh của nông
dân và công nhân Ấn Độ dưới ách thống trị của thực dân Anh và phong trào đấu tranh của
nhân dân Ấn Độ (cũng giống như tình cảnh nhân dân các nước thuộc địa khác). Người cũng
nhận thấy sức mạnh của họ trong cuộc đấu tranh chống thực dân Anh để giành lại độc lập cho
dân tộc. Đối với đế quốc Anh, cũng như thực dân Pháp đang đô hộ đất nước mình, Nguyễn
Ái Quốc đã tập trung ngọn bút tố cáo chính sách cai trị của chúng. Người kịch liệt lên án cái
gọi là “Đạo luật phòng thủ Ấn Độ” của đế quốc Anh. Theo Người, thực chất của đạo luật tàn
bạo đó là tạo ra những cơ sở pháp lí cho “tất cả những viên chức và cảnh sát người Anh, từ
cấp thanh tra trở lên, đều có quyền bắt bớ và giam giữ những người Ấn Độ bị tình nghi,
không làm thủ tục cũng chẳng cần xét xử gì cả”. Trong số những lực lượng cách mạng Ấn
Độ, Nguyễn Ái Quốc tập trung nghiên cứu phong trào công nhân và nông dân. Điều đó thể
hiện trong một loạt bài viết trên tờ Inprekorr (bản tiếng Pháp) của Người.

Qua tìm hiểu về phong trào công nhân ở Ấn Độ, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng: từ
nửa sau những năm 20, “dấu hiệu phục hồi của phong trào công nhân” với nhiều cuộc bãi
công chính trị, những cuộc đình công liên tiếp nổ ra, không riêng ở một ngành, mà ở nhiều
34

ngành yêu sách kinh tế kết hợp chặt chẽ với yêu cầu về chính trị… Nhận xét chung về phong
trào công nhân và nông dân mới đây ở Ấn Độ, Người nhận thấy có tín hiệu của thời đại.
Những bài viết của Nguyễn Ái Quốc không chỉ góp phần động viên, cổ vũ và nêu lên phương
hướng đấu tranh của nhân dân Ấn Độ mà còn là một trong những cơ sở góp phần xây dựng
tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Việt - Ấn.

Ít lâu sau, Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với đại diện Ban Chấp hành Đảng Cộng sản
Pháp. Trong những cuộc tiếp xúc, Người đã trao đổi nhiều ý kiến với Ban lãnh đạo Đảng và
đã thẳng thắn phê bình về tình trạng hoạt động kém cỏi của Ban Nghiên cứu Thuộc địa, đồng
thời đưa ra những kiến nghị cụ thể và sát hợp đối với việc khôi phục các hoạt động của Ban.
Mặc dù đã hết sức giữ bí mật nhưng cuối cùng mật thám Pháp cũng đã phát hiện được sự có
mặt của Người. Trước tình hình đó, Người quyết định thay đổi hành trình, quay lại Đức vào
trung tuần tháng 12-1927.

Hoạt động tích cực trong phong trào cách mạng thế giới, nhưng lúc nào Nguyễn Ái
Quốc cũng tha thiết được trở về hoạt động ở Đông Dương, dù Người biết rằng mình đang bị
thực dân Pháp lùng bắt ráo riết. Ngày 25-4-1928, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra quyết
định cho phép Nguyễn Ái Quốc trở lại Đông Dương hoạt động theo nguyện vọng. Trong lúc
chờ đợi ngày lên đường, Nguyễn Ái Quốc làm phóng viên cho tờ báo Đức Die Welt (Thế
giới) ở Berlin. Người viết sách Những ký ức của tôi kể về phong trào nông dân, chủ yếu là
phong trào Hải - Lục Phong (Trung Quốc) đã thành lập các Xô-viết nông dân.

Ngày 21-5-1928, Nguyễn Ái Quốc viết thư cho Ban phương Đông báo tin về việc
chuẩn bị lên đường và báo cáo những chuyến công cán bí mật trong 45 ngày của Người, đặc
biệt là những nhận xét của Người về Ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp và những kiến
nghị đối với hoạt động của Ban này. Cuối thư, Nguyễn Ái Quốc tha thiết đề nghị các đồng chí
Liên Xô quan tâm, giúp đỡ học sinh Việt Nam đang học tập ở Moskva.

Đầu mùa hè năm 1928, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu chuyến hành trình đến Xiêm (Thái
Lan), đi qua các nước Đức, Thụy Sĩ, Ý. Trong cuộc hành trình này, Người có dịp hiểu thêm
về các nước tư bản, đế quốc, bổ sung cho vốn kiến thức thực tế đã thu được trong cuộc hành
trình những năm 1911-1917.

Đến phía bắc Ý, Nguyễn Ái Quốc ghé vào xem hội chợ ở Milan, một thành phố buôn
bán phồn thịnh nhất nước Ý. Khi đi xem phong cảnh thủ đô Roma, Người bị hỏi giấy tờ và bị
35

đưa về Sở công an.27 Thế nhưng, bằng sự nhanh trí và khéo léo của người chiến sĩ cách mạng,
Người đã “qua mặt” bọn mật thám một cách dễ dàng để tiếp tục cuộc hành trình. Cuối tháng
6-1928, Nguyễn Ái Quốc từ cảng Napoli đáp tàu Nhật Bản đi Xiêm. Trên đường đi, Người
dừng lại ở Ceylan (nay là Srilanka) ít ngày rồi sang tàu khác đi Xiêm, mở ra một trang mới
của cuộc hành trình đi tìm đường cứu nước.

5. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ở Xiêm (1928-1929)
5.1. Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm
Đầu tháng 7/1928 Nguyễn Ái Quốc đến Xiêm lấy bí danh Thầu Chín (tiếng Thái
“thầu” - ông già), do bị truy lùng ông phải lánh nhờ cửa Phật, cắt tóc làm sư Pháp danh Hạnh
Đa. Địa phương đầu tiên người đến là vùng Bản Đông, thuộc huyện Phi Chít, tỉnh
Phítxanulốc, miền Trung nước Xiêm. Đây là một làng Việt kiều với khoảng 20 gia đình đang
sinh sống. Thời gian tại xứ chùa vàng Thầu Chín “tàng hình” giữa “rừng” Việt kiều, về sau bà
con Việt kiều ngộ rằng, con đường cứu nước của Thầu Chín giống đường đi của Đức Phật
Thích Ca 2.500 năm trước, mục đích tu hành để tìm ra chân lý cứu độ chúng sinh. Từ năm
1926, nơi đây đã có những cơ sở của các tổ chức cách mạng như Việt Nam Cách mạng Thanh
niên, Hội hợp tác, Hội Việt kiều thân ái…28

Giữa tháng 7-1928, Người rời Bảng Đông đi Uđon (Đông Bắc Xiêm), nơi có nhiều
Việt kiều sinh sống lại tiện đường liên lạc với Nongkhai, Sakon, Nakhon, Thạt Phannôm…
Uđon là trung tâm phong trào yêu nước của Việt kiều ở Xiêm, được nhân dân Xiêm ủng hộ.
Tại đây, Người nhắc nhở kiều bào phải làm cho người Xiêm có cảm tình với người Việt Nam
và cách mạng Việt Nam, phải học chữ Xiêm, tôn trọng phong tục, tập quán của nhân dân
nước bạn. Thầu Chín đào giếng, cuốc đất làm vườn như mọi dân bản, ông sống kham khổ,
nhiều bữa thức ăn chỉ rau sam hoặc rau lang luộc chấm muối. Buổi tối Thầu Chín tổ chức nói
chuyện làm ăn rồi dẫn dắt đến chuyện chính trị, chuyện hấp dẫn thiết thực đã cuốn hút cả
người Thái bản địa. Thầu Chín chủ trương Thái - Việt đoàn kết tối lửa tắt đèn có nhau, từ đó
người Thái thiện cảm hơn với Việt kiều và với cách mạng Việt Nam. Thầu Chín mở lớp dạy
chữ quốc ngữ cho bà con Việt kiều, khuyên bà con “nhập gia tùy tục” cần học chữ Xiêm
tiếng Xiêm để mở rộng khả năng giao lưu, hòa nhập, luôn tôn trọng phong tục tập quán của
cư dân bản địa.

27
T.Lan. (2008). Vừa đi đường vừa kể chuyện. Nxb Chính trị quốc gia.
28
Giao Hưởng. (2020). Nguyễn Ái Quốc - sư Hạnh Đa trên đất Xiêm: Bài 1: “Tàng hình” giữa đại ngàn nhân
sinh. Báo Kinh tế đô thị.
https://kinhtedothi.vn/nguyen-ai-quoc-su-hanh-da-tren-dat-xiem-bai-1-tang-hinh-giua-dai-ngan-nhan-sinh.html.
36

Bên cạnh công tác chấn chỉnh, xây dựng tổ chức, Người còn dành nhiều thời gian để
dịch sách lí luận làm tài liệu tuyên truyền và huấn luyện cho cán bộ Việt Nam hoạt động ở
Xiêm. Người đã dịch hai cuốn Nhân loại tiến hóa sử và Cộng sản A.B.C. Thời gian ở Uđon,
Bác Hồ đã đến Nongkhai gặp gỡ một số cán bộ từ Viêng Chăn (Lào) sang để tìm hiểu tình
hình phong trào ở Lào và khả năng đặt mối liên hệ với Xiêm nhằm đẩy mạnh cuộc vận động
cách mạng ở Việt Nam.

Đến khoảng đầu năm 1929, Nguyễn Ái Quốc từ Uđon đến Sacôn, nơi có nhiều Việt
kiều sinh sống, đông hơn Uđon và tổ chức cách mạng đã ra đời từ lâu. Việt kiều ở Sacon phần
lớn theo đạo Phật, một số theo đạo Thiên Chúa, một số thờ Đức thánh Trần. Ở Sacôn, Người
tiếp tục củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng để mở rộng phong trào. Ngoài việc dịch sách
và huấn luyện thanh niên, hàng ngày Người còn tổ chức cho cán bộ cốt cán học tập lí luận
chính trị và phương pháp công tác. Người còn tranh thủ học nghề thuốc ở hiệu thuốc của cụ
Đặng Văn Cáp. Thỉnh thoảng, Người cùng với một số cán bộ cũng “khăn gói đi buôn” để gây
quỹ tổ chức.

Từ tháng 7 đến tháng 10-1929, cùng với một số cán bộ như Võ Tòng, Người tiếp tục
đi đến những nơi ở có Việt kiều sinh sống như Mụcđahan, Noọngkhai… để tuyên truyền,
giáo dục và tổ chức họ.

Nhà hợp tác tại Nakhon Phanom29

29
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:House_HoChiMinh_stayed@NakhonPhanom.jpg.
37

Cùng kiều bào, Người xây dựng một ngôi trường “để con cái chúng ta học ở mái
trường này không bị đầu độc bởi những văn hóa ngu dân”. Năm 1947, để tưởng nhớ công lao
của Bác, kiều bào đã đặt tên cho ngôi trường này là trường “Minh lập”, nghĩa là trường do
Bác Hồ Chí Minh lập nên.

Trong thời gian hoạt động cách mạng ở Xiêm (từ mùa thu năm 1928 đến cuối năm
1929), Nguyễn Ái Quốc đã đi thăm và nắm bắt tình hình đời sống của kiều bào ta ở nhiều
nơi. Đi đến đâu, Người cũng mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ cách mạng, nói
chuyện tình hình thế giới, trong nước; tuyên truyền giác ngộ đồng bào, đặc biệt là tổ chức các
buổi sinh hoạt văn hóa, biểu diễn văn nghệ.

Sân biểu diễn văn nghệ rất đơn giản, bà con Việt kiều thường tập trung tại sân trường,
ngồi thành vòng tròn, hát những bài ca yêu nước, nghe các cụ già đọc truyện, ngâm thơ. Từ
năm 1928, nhân vật chính trong những buổi sinh hoạt văn hóa, văn nghệ ấy là Thầu Chín.
Người thường đọc báo, ngâm thơ cổ, viết kịch bản, đạo diễn và tham gia biểu diễn kịch với
nội dung xoay quanh chủ đề về lịch sử Việt Nam.

Tháng 6-1929, kỷ niệm ngày mất của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, Bác đã viết, đạo diễn và
tự đóng vai chính vở “Đề Thám”. Ngoài ra, Người còn viết một số vở kịch ngắn với nội dung
đả kích bọn Việt gian bán nước, chống mê tín, dị đoan như: Lê Hoan, Hoàng Cao Khải…
Nhận thấy Kiều bào thường đi lễ Đức thánh Trần, Người biên soạn Bài ca Trần Hưng Đạo ca
ngợi tinh thần yêu nước của Trần Hưng Đạo và tổ tiên ta nhằm khích lệ ý chí quật cường, tinh
thần đánh giặc, cứu nước của kiều bào: “Một người Việt hãy đương còn, Thì non sông Việt
vẫn non sông nhà”. Bài ca Trần Hưng Đạo giúp nhiều kiều bào ta giác ngộ, tham gia Hội
Thân ái và những hoạt động yêu nước khác. Những hình ảnh bình dị, thân thiện của Nguyễn
Ái Quốc đã tạo sự yêu mến và kính trọng của Việt kiều ta ở Xiêm đối với Người. Có thể nói,
những hoạt động trong thời kỳ 1928-1929 đã tạo cơ hội để những cống hiến sau này của
Nguyễn Ái Quốc cho cách mạng Xiêm và các nước Đông Nam Á khác có hiệu quả hơn.

Một chiều cuối Thu năm 1929 “sư” Thầu Chín bí mật rời xứ chùa vàng, bà con Việt
kiều không biết thầy đi đâu. Hôm sau liên quân cảnh sát Xiêm - Anh đến sục sạo khám xét
từng nhà dân Việt kiều vùng Đông Bắc Xiêm, bấy giờ bà con mới biết Thầu Chín - sư Hạnh
Đa là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Thời gian trên đất Xiêm 16 tháng, Thầu Chín thổi vào phong
trào Việt kiều yêu nước, thổi vào đời sống nhân văn của bà con Việt kiều và người Thái bản
địa một luồng sinh khí mới thấm đẫm đạo lý tình người. Tháng 11/1929 Thầu Chín bí mật rời
đất Xiêm đến Trung Quốc. Ngôi trường thầy dựng tại bản Noong Ổn tiếp tục được trân trọng
38

phát huy, sau năm 1945 bà con đặt tên trường Tiểu học Nguyễn Ái Quốc, đây là ngôi trường
đầu tiên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam mang tên Nguyễn Ái Quốc.

Mùa thu năm 1928, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm sang Pắcxế (Lào), lên Savanakhet, đến
Xiêngvang để trực tiếp tìm hiểu đời sống nhân dân Lào. Những hoạt động này của Nguyễn Ái
Quốc đã góp phần phát triển cách mạng Lào: từ các tổ chức quần chúng cách mạng thời kỳ
1928 -1929, đến năm 1930 đã hình thành 6 chi bộ Cộng sản ở Viêng Chăn, Pắcxế, Thakhet,
Savanakhet, Phôngtiu, Bôneng.

5.2. Nguyễn Ái Quốc lãnh đạo hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên ở Xiêm
Trong lịch sử, Việt Nam và Xiêm có mối quan hệ thân thiết từ lâu. Từ năm 1926, Hội
đã cử Hồ Tùng Mậu sang gây dựng cơ sở tại đây. Trong Báo cáo gửi đoàn chủ tịch Quốc tế
Cộng sản ngày 19-2-1926, Nguyễn Ái Quốc viết “thiết lập các cơ sở giao thông”, trong đó
nhắc đến một số địa điểm ở Xiêm: ở Băng Cốc, Tíchkho, Lạcphách. Hơn nữa, ở Xiêm, Hồ
Tùng Mậu và Đặng Thúc Hứa đã tổ chức chi bộ thanh niên đầu tiên ở Phìchịt, lúc đó gọi là
“đệ nhất chi bộ” và xây dựng các trạm liên lạc đóng vai trò như những trạm trung chuyển
giữa Quảng Châu và trong nước. Lúc này, ở Xiêm đã có một cơ sở yêu nước của người Việt -
đó là Hội Việt kiều Thân ái do Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên thành lập năm 1926.

Hội Việt kiều Thân ái là tổ chức quần chúng rộng có quy mô lớn, mang tính chất mặt
trận của người Việt Nam, trong đó Hội hợp tác làm trụ cột. Hội Việt kiều thân ái lần lượt
được tổ chức tại những nơi có đông kiều bào sinh sống như Uđôn, Sakon, Nakhon, Phanom.
Ở những nơi đó, Hội hợp tác cũng được thành lập.

Thanh niên Việt Nam sang Xiêm được tổ chức lại thành Hội hợp tác. Họ vỡ hoang,
làm ruộng hoặc làm thợ. Hội viên hợp tác có gần một nghìn người. Hội hợp tác tuy chưa thiết
lập nguyên tắc tự nguyện, quản lí dân chủ, nhưng có thể nói đã mang nội dung xã hội chủ
nghĩa. Nhờ có tổ chức và phân phối hợp lí, có tinh thần đoàn kết cao, cần kiệm, liêm chính vì
cách mạng nên các hội viên tích cực hoạt động. Số thu hoạch của các Hội hợp tác là tài sản
chung.

Bên cạnh đó, ở Xiêm còn có các tổ chức quần chúng yêu nước khác như Hội Phụ nữ,
Hội Thiếu nhi. Các hội này đều có hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên giúp
đỡ, hướng dẫn và được nhà chức trách Xiêm đồng tình, giúp đỡ, nhân dân Xiêm ủng hộ. Trên
39

cơ sở đó, Nguyễn Ái Quốc nhận thức rằng, Trung Quốc và Xiêm là hai nước có thể tạo điều
kiện, cơ sở cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của Việt Nam.

Như vậy, Xiêm là cơ sở thứ hai của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên sau khi cơ
sở ở Quảng Châu ngừng hoạt động. Tuy nhiên, điều kiện ở Xiêm không cho phép Hội mở các
lớp huấn luyện với quy mô và mức độ như ở Trung Quốc. Căn cứ vào những điều kiện cụ thể
ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc đã cùng các hội viên tổ chức đào tạo cán bộ dưới ba hình thức: mở
trường giảng dạy cho thiếu niên, huấn luyện cán bộ thông qua thực tế của công tác dân vận,
mở các lớp “diễn giảng” chính trị ngắn hạn.

Năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên xin phép Chính phủ Xiêm thành lập
trường dạy con em Việt kiều, khuyến khích mọi người học tiếng Xiêm, mở rộng việc học chữ
Quốc ngữ. Bên cạnh việc tổ chức trường lớp, Nguyễn Ái Quốc cùng Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên mở các lớp “diễn giảng” chính trị ngắn hạn để đào tạo cán bộ. Đây cũng là
cách lúc đó đối phó với tình trạng khó khăn, thiếu thốn về vật chất ở Xiêm.

Trong thời gian học tập, nhận thấy nhiều anh em trong Hội hợp tác có biểu hiện nhụt
chí vì không nhìn thấy tương lai của cách mạng, Nguyễn Ái Quốc thường nhấn mạnh đến
tinh thần cách mạng lâu dài. Trong thời gian ở Xiêm, dưới sự dìu dắt của Người, anh em tích
cực lao động, làm được nhiều nghề: thợ cưa, thợ mộc, thợ nề… Ở Xiêm lúc bấy giờ, thủ công
nghiệp chưa phát triển nên anh em cũng dễ tìm việc làm và kiếm thu nhập. Nhưng nghe
Nguyễn Ái Quốc, các anh sống rất tiết kiệm vì còn phải nuôi con em Việt kiều và thanh niên
trong nước mới sang học tập (trong số thiếu niên này, có nhiều người đã trở thành cán bộ cốt
cán), phải lo xây dựng nhà trường cơ sở, phải đề phòng khi có đồng chí ra vào…

Một lĩnh vực công tác khác được Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên chú trọng là giáo dục cán bộ về công tác vận động quần chúng. Công tác vận
động quần chúng ở Xiêm thời kỳ này rất khó khăn vì phần lớn kiều bào có trình độ văn hóa
thấp. Hội đã vận động, giáo dục kiều bào yêu nước, đoàn kết, chống mê tín dị đoan, chữa
bệnh, chăm lo việc học hành của con em. Nhờ tổ chức rộng rãi, giáo dục bằng nhiều hình
thức nên trong một thời gian ngắn, không những tinh thần yêu nước của kiều bào được hun
đúc, nâng cao mà đời sống văn hóa cũng được đổi mới. Việt kiều được nhân dân và chính
quyền địa phương quý mến.
40

Bên cạnh việc mở trường, lớp để đào tạo cán bộ, trong thời gian hoạt động ở Xiêm,
Nguyễn Ái Quốc cũng chủ trương xuất bản báo Thân ái và dịch các tài liệu để tuyên truyền
chủ nghĩa Mác - Lênin tại đây.

Trước hết, Nguyễn Ái Quốc chủ trương đổi tên báo Đồng thanh (của Hội thân ái) mới
ra 2 số thành báo Thân ái. Về hình thức, báo Thân ái cũng giống như các tờ báo khác xuất
bản trong thời kỳ bí mật, được in litô, có hai trang, khổ 38,5-53,5. Hội chủ trương rằng nội
dung của tờ báo Thân ái phải phong phú và rõ ràng, các chương phải ngắn gọn và dễ hiểu và
tờ báo phải được phát hành càng rộng rãi càng tốt. Tờ Thân ái là cơ quan ngôn luận của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Xiêm để tập hợp lực lượng, tuyên truyền cách mạng
trong kiều bào.

Ngoài xuất bản báo, thời gian ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc còn viết kịch Đề Thám, Bài
ca Trần Hưng Đạo, đặc biệt Người đã dịch một số tác phẩm của các nhà kinh điển như Nhân
loại tiến hóa sử, Chủ nghĩa Cộng sản ABC, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Balê công xã…
Từ thời kỳ hoạt động ở Quảng Châu cho đến khi sang Xiêm hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã
bắt đầu có ý thức dịch và phổ biến các tác phẩm của các nhà sáng lập chủ nghĩa cộng sản
khoa học và các tác giả nổi tiếng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Một trong những thành tựu quan trọng của Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên đối với cách mạng Xiêm là việc góp phần thành lập Đảng Cộng sản Xiêm.
Hầu hết các đảng viên của Đảng Cộng sản Xiêm đều là đồng chí trong Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên. Có thể thấy, Đảng Cộng sản Xiêm được thành lập từ năm 1930, tổ chức
chủ yếu là người Việt Nam hoạt động tích cực trong phong trào Việt kiều yêu nước. Do được
phát triển từ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nên về tổ chức, Đảng Cộng sản Xiêm có
quan hệ trực tiếp với Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau một thời gian dài đấu tranh, Đảng
Cộng sản Xiêm đã từng bước thay đổi về tổ chức, hình thức hoạt động, mục tiêu, đối tượng
cho phù hợp với tình hình cách mạng, theo hướng gắn bó với phong trào cách mạng trong
nước.

Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc dù đã hết sức cẩn thận vẫn không thể hoàn
toàn giữ kín được. Thực dân Pháp sinh nghi, tung mật thám dò tìm. Người bị theo dõi ráo
riết. Gặp khi nguy hiểm quá, thậm chí Người đã phải lánh vào chùa, tạm cắt tóc đi tu để tiếp
tục hoạt động.
41

Tháng 11-1929, trong lúc đang hoạt động tại Xiêm Nguyễn Ái Quốc được báo cáo về
tình hình không thống nhất giữa các tổ chức cộng sản ở trong nước, nên Người đã cấp tốc trở
lại Trung Quốc, tích cực chuẩn bị cho việc hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam thành
một chính đảng duy nhất.

V. Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc góp phần thành lập Đảng Cộng sản Việt
Nam, xây dựng mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
(1930-1941)
1. Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chỉ đạo hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1. Tình hình trong nước - sự ra đời và phân tán của 3 tổ chức cộng
sản lúc bấy giờ
Nửa cuối năm 1929, đầu năm 1930, ở Việt Nam xuất hiện 3 tổ chức cộng sản là Đông
Dương Cộng sản Đảng (thành lập tháng 6/1929), An Nam Cộng sản Đảng (thành lập tháng
10/1929) và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (thành lập tháng 1/1930). Sự ra đời của 3 tổ
chức cộng sản đã chứng minh sự thắng thế của xu hướng cộng sản trong phong trào cách
mạng Việt Nam. Ba tổ chức cộng sản ra đời tiếp tục thúc đẩy phong trào công nhân và phong
trào yêu nước phát triển mạnh mẽ. Các chi bộ của các tổ chức cộng sản đã trực tiếp lãnh đạo
các cuộc đấu tranh của quần chúng ở nhiều xí nghiệp, đồn điền. Từ tháng 4/1929 đến tháng
4/1930 có 43 cuộc bãi công của công nhân. Phong trào đã có sự phối hợp hành động thống
nhất giữa các cuộc đấu tranh, giữa các địa phương trong cả nước. 30
Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản sản ở ba miền đều tuyên bố ủng hộ Quốc
tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng
cách mạng chân chính. Điều này đã dẫn đến một điều khó tránh khỏi, đó là phân tán về lực
lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước 31. Ba tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng
rẽ, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, không có lợi cho cách mạng. Trong Báo cáo gửi Quốc tế
Cộng sản về phong trào cách mạng ở An Nam, ngày 5/3/1930, Nguyễn Ái Quốc đã viết:
“Khoảng tháng 5/1929, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên họp hội nghị toàn quốc. Đại
biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức ngay một Đảng Cộng sản. Các đại biểu khác đề nghị sau này
hãy tổ chức. Nhóm Bắc Kỳ bỏ hội nghị ra về và tổ chức một đảng (Đông Dương). Một số
khác, sau đó đã tổ chức một đảng khác (An Nam). Đó là mối bất hoà đầu tiên. Nhóm Bắc Kỳ
tìm hết cách để phá hoại Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên vì họ cho rằng: hội đó quá

30
Thuận, L. (2021, Freb 2). Vai trò của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
tuyengiao.vn. Truy xuất từ
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/vai-tro-cua-nguyen-ai-quoc-tai-hoi-nghi-hop-nhat-cac-to-chuc-cong-san
-o-viet-nam-132006
31
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị (tr.60).
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
42

đông và cơ hội chủ nghĩa nên nó có thể làm lu mờ ảnh hưởng và công tác của Đảng Cộng sản
trong quần chúng. Nhóm An Nam ra sức giữ cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tiếp
tục hoạt động vì họ cho rằng: Hội có thể lợi dụng để tập họp tầng lớp trí thức và giai cấp tiểu
tư sản. Đó là mối bất hoà thứ hai. Cả hai đều cố thống nhất nhau lại, nhưng càng cố gắng bao
nhiêu thì càng hiểu lầm nhau bấy nhiêu và hố sâu ngăn cách ngày cũng rộng ra bấy nhiêu”. 32
Sự chuyển biến mạnh mẽ các phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày
càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng
toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên
bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. 33

1.2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam
Có thể nói, trên hành trình ra đi tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đến Trung
Quốc nhiều lần. Cuối thu năm 1929, dù hoạt động ở Xiêm, Nguyễn Ái Quốc vẫn nắm được
tình hình trong nước. Sau khi nhận được tin tức về sự chia rẽ của cách mạng Việt Nam, mặc
dù chưa nhận được Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, song Nguyễn Ái Quốc đã chủ động lên
đường đi Trung Quốc, viết thư gửi các tổ chức cộng sản để bàn về vấn đề hợp nhất. Trong
báo cáo gửi Quốc tế cộng sản ngày 18/2/1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Tôi đi Trung Quốc, tới
đó vào ngày 23/12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của 2 nhóm Đông Dương và An Nam,
34
chúng tôi họp vào ngày 6/1… Các đại biểu trở về An Nam ngày 8/2”.
Cuối năm 1929, khi ở nhà tù Quốc dân Đảng ra, Hồ Tùng Mậu đã cấp tốc gửi thư cho
Nguyễn Ái Quốc khi Người đang ở Xiêm, đề nghị Người về Hồng Kông gấp. Trước tình hình
cấp bằng của phong trào cách mạng trong nước, tháng 11/1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm đi
Hồng Kông. Ngày 23/12/1929, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Người đến
Trung Quốc và gặp gỡ những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây để tìm hiểu
tình hình.
Đầu tháng 1/1930, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải (Trung Quốc) hẹn gặp Nguyễn
Lương Bằng. Người liên lạc với các cơ quan của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Hồng Kông
và nhận được sự giúp đỡ của các đồng chí Trung Quốc. Khoảng đầu 1/1930, tại cơ quan bí
mật của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc tiếp Nhiêu Vệ Hoa (đảng viên Đảng
Cộng sản Trung Quốc) , hiện đang công tác ở Tỉnh uỷ Quảng Đông và được cử đến giúp đỡ

32
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, t.2, tr.34-35.
33
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị
(tr.60-61). NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
34
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.3, tr.12-13, 3.
43

Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người thông báo về mục đích của chuyến công
tác lần này là để thống nhất các tổ chức cộng sản của Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản.
Mọi công tác chuẩn bị cho cuộc họp đã hoàn tất. Lúc đầu hội nghị được tiến hành trong căn
phòng của một công nhân nghèo. Sau đó, Người triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản
Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đến họp tại Cửu Long (Hồng Kông) để tiến hành hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. 35
Hội nghị diễn ra từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, các tổ
chức Cộng sản ở Đông Dương đã có mặt tại Cửu Long để họp dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc. 36
Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, ngày 18/2/1930, Nguyễn Ái Quốc viết: “Chúng
tôi họp vào ngày mồng 6/1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ
biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng
nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản … Các đại biểu
37
trở về An Nam ngày 8/2”.
Tham dự hội nghị bao gồm: 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Nguyễn
Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu), 2 đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm,
Nguyễn Thiệu) và 2 đại biểu hoạt động ở nước ngoài (Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu).
Tại đây, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất:
“1. Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản
Đông Dương;
2. Định tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam;
1. Thảo Chính cương và Điều lệ sơ lược của Đảng;
2. Định kế hoạch thực hiện việc thống nhất trong nước;
3. Cử một ban Ban Trung ương lâm thời …” 38
Nguyễn Ái Quốc thông qua các văn kiện quan trọng do Người soạn thảo: Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều
lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

35
TS. Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr.201-202). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
36
TS. Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr.203-204). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
37
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.19-20.
38
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2.
44

Hội nghị xác định mục đích của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Namtổ chức ra để lãnh
đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản để quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản”. 39

Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 1930

( Ảnh vẽ của họa sĩ Phan Kế An) 40


Đến ngày 24/2/1930, việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy
nhất được hoàn thành với Quyết định của Lâm thời chấp uỷ Đảng Cộng sản Việt Nam, chấp
nhận Đông Dương Cộng sản Liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc có giá trị như một Đại hội Đảng. Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi nhân
dịp thành lập Đảng. Mở đầu Lời kêu gọi, Người viết: “Nhận chỉ thị của Quốc tế Cộng sản giải
quyết vấn đề cách mạng nước ta, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ.”

1.3. Nội dung bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Có hai văn kiện do lãnh tụ Nguyễn ái Quốc soạn thảo được thông qua tại Hội nghị
thành lập Đảng bao gồm “Chánh cương vắn tắt của Đảng” và “Sách lược vắn tắt của Đảng”
phản ánh đường hướng phát triển và chiến lược cơ bản và sách lược của cách mạng Việt
Nam. Hai văn kiện trên là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.

39
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr7,8.
40
Dũng, T., Duyên, N. Kỳ 4: Bông hoa “không thể hái” trên đất Hồng Kông. qdnd.vn. Truy xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-4-bong-hoa-khong-the-hai-tren-dat-hong-kong-661550
45

Cương lĩnh chính trị đầu tiên xác định mục tiêu chiến lược cách mạng Việt Nam: phân
tích mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam - xã hội nửa thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn giữa
dân tộc Việt Nam gồm công nhân, nông dân với đế quốc, xác định đường lối chiến lược của
cách mạng Việt Nam là cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng vô sản.
Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là chống đế quốc và chống phong kiến được đặt lên hàng
đầu, giành độc lập và ruộng đất cho dân cày.
Về phương diện xã hội, Cương lĩnh xác định rõ:
“a) Dân chúng được tự do tổ chức;
b) Nam nữ bình quyền
c) Phổ thông giáo dục theo công nông hoá” 41
Về phương diện kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản
đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; thâu hết ruộng đất
của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thế cho dân cày nghèo;
mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi hành luật ngày làm tám giờ … Những nhiệm vụ
vừa phản ánh đúng thực trạng, vừa thể hiện tính cách mạng, toàn diện là triệt để xoá tận gốc
ách thống trị, bóc lột hà khắc của ngoại bang, nhằm giải phóng dân tộc.
Xác định lực lượng cách mạng: phải đoàn kết công-nông - lực lượng cơ bản, trong đó
giai cấp công nhân lãnh đạo, đồng thời chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp, các lực lượng
tiến bộ yêu nước để tập trung chống đế quốc và tay sai.
Về phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, Cương lĩnh khẳng định phải
bằng con đường bạo lực cách mạng của quần chúng, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không
được thoả hiệp, “không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con
đường thoả hiệp”, “bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng lập hiến, …) thì phải đánh
đổ”. 42
Xác định tinh thần đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của các dân tộc bị áp bức và
giai cấp vô sản trên thé giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp. 43
Xác định vai trò lãnh đạo của Đảng: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải
thu phục cho được đại bộ phận giai cấp của mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được
dân chúng.” “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công
nhân và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. 44

41
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.2.
42
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.3, tr.3.
43
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị
(tr.66-67). NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
44
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2, tr.4, 6.
46

Trước yêu cầu của lịch sử, cách mạng Việt Nam, với uy tín chính trị và phương thức
hợp nhất phù hợp, Nguyễn Ái Quốc đã kịp thời triệu tập và chủ trì hợp nhất các tổ chức cộng
sản. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cứu nước,
đưa cách mạng Việt Nam sang bước ngoặt lịch sử vĩ đại. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phòng trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Như Hồ Chí Minh đã tiên đoán: “Ngày nay các nhóm cộng
sản đã thống nhất vào một đảng, hoạt động nhất định sẽ tốt hơn trước nhiều … Chúng ta có
thể tin tưởng chắc chắn rằng với kinh nghiệm và lòng hi sinh, với quần chúng ở bên cạnh,
45
những người cộng sản nhất định sẽ chiến thắng.” Đó là kết quả của sự vận động phát triển
và thống nhất của phong trào cách mạng trong cả nước, sự chuẩn bị tích cực, sáng tạo, bản
lĩnh của lãnh lãnh tụ Nguyễn Ái quốc, sự đoàn kết, nhất trí của những chiến sĩ cách mạng tiên
phong vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.

2. Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam
(1930-1931) - Phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Nguyễn Ái Quốc dù ở nước ngoài
nhưng vẫn luôn tìm cách thiết lập mối quan hệ với cách mạng các nước, các đảng, các tổ
chức cách mạng ở Châu Á, với Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Pháp để phối hợp hoạt
động và giúp đỡ lẫn nhau. Nguyễn Ái Quốc tích cực nỗ lực đề nghị kết hợp chặt chẽ những
hoạt động phong trào cách mạng cùng những kiến nghị để các đồng chí An Nam có thể làm
việc với Singapore và các đồng chí Trung Quốc.
Tại Việt Nam, Cao trào cách mạng 1930 - 1931 được mở đầu ở Nam Kỳ, lan rộng đến
Trung Kỳ, Bắc Kỳ và phát triển về số lượng cuộc đấu tranh, quy mô, hình thức đấu tranh
trong cả nước, mà đỉnh cao là phong trào công nông ở Nghệ Tĩnh. Đã có 31 tỉnh thành trong
cả nước có phong trào đấu tranh với 262 cuộc đấu tranh, chính phong trào cả nước, mà trong
đó phong trào của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã góp phần quan trọng vào bản hùng ca
mở đầu thời dựng Đảng. Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân (gọi tắt là công nông)
toàn quốc những năm 1930 - 1931 nổ ra là kết quả của những mâu thuẫn không thể giải quyết
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam, chủ yếu là giai cấp công nông với thực dân Pháp xâm lược
và mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với tư sản mại bản. Các mâu thuẫn này vốn âm ỉ và
bùng lên liên tiếp trong nhiều năm; tuy nhiên chỉ đến năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt

45
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.37-38.
47

Nam ra đời thì phong trào đấu tranh của công nông mới có những định hướng, quy mô và
diễn ra thành một cao trào. 46
Khi phong trào cách mạng trong nước (1930 - 1931), đỉnh cao là Xô viết Nghệ - Tĩnh
nổ ra, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đang ở nước ngoài (Trung Quốc). Người không chỉ đạo phong
trào nhưng Người luôn theo dõi sát diễn biến của phong trào, nắm rõ các cuộc đấu tranh của
từng địa phương của Nghệ An - Hà Tĩnh. Khi nói về các cuộc biểu tình của nông dân Nam
Đàn, Thanh Chương, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã miêu tả cụ thể nội dung đấu tranh: “Trong
lúc biểu tình, 3 nghìn nông dân Nam Đàn đã vây chặt văn phòng viên quan huyện, phá nhà tù
và giải thoát tù nhân. Ở Thanh Chương, 20 nghìn người đã tham gia vào cuộc biểu tình của
nông dân”. Đặc biệt, khi chính quyền thực dân, phong kiến chuẩn bị lực lượng để đàn áp,
khủng bố phong trào cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã viết bài: “Phong trào cách mạng ở
Đông Dương”, trong đó, Người cảnh báo: “Chính quyền Pháp ở Đông Dương đang chuẩn bị
ráo riết một chiến dịch khủng bố nông dân Nghệ An nói chung và nông dân Thanh Chương
nói riêng”. Người kêu gọi các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ phong trào
đấu tranh của nhân dân Việt Nam: “Hỡi những người công nhân và nông dân toàn thế giới!
Những người anh em! Hãy giúp đỡ công nhân và nông dân Đông Dương, những người đang
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc Pháp!”.
Sau khi các cuộc biểu tình, đấu tranh của nhân dân Nghệ -Tĩnh bị thực dân Pháp đàn
áp đẫm máu, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo tội ác dã man của chính quyền thực dân: “Đế
quốc Pháp khủng bố phong trào nông dân dữ dội chưa từng thấy. Như ở Nghệ An chỉ trong
một cuộc biểu tình ở phủ Hưng Nguyên, máy bay thả bom giết chết 171 nông dân. Ở Thanh
Chương (một huyện khác ở Nghệ An), 103 người bị bắn chết trong một lúc. Riêng tỉnh Nghệ
An đã có 393 người bị giết trong 7 cuộc biểu tình, nhiều làng đỏ bị triệt hạ và đốt trụi”. 47
Trước tình hình khủng bố trắng của địch đối với nhân dân Nghệ - Tĩnh, Nguyễn Ái
Quốc gửi thư cho đại diện Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản (ở Thượng Hải), nêu rõ: “Khủng
bố trắng đang hoành hành dữ dội. Nhiều bà con nông dân bị hy sinh, nhiều chi bộ bị phá vỡ,
đa số các đồng chí chúng ta bị bắt và gặp khó khăn nghiêm trọng”. Người đề nghị Quốc tế
Cộng sản và các tổ chức trực thuộc, các Đảng anh em, giai cấp công nhân thế giới quan tâm
hơn nữa tới phong trào cách mạng Việt Nam, giúp đỡ về tinh thần và vật chất, làm hậu thuẫn
vững chắc cho cuộc đấu tranh của nhân dân Đông Dương nói chung và nhân dân Nghệ Tĩnh

46
(2021, Sept 12). Dấu ấn của nhân dân Nam Kỳ trong cao trào 1930 – 1931 và đỉnh cao Xô Viết Nghệ Tĩnh.
hcmcpv.org.vn. Truy xuất từ
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dau-an-cua-nhan-dan-nam-ky-trong-cao-trao-1930-–-1931-
47
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.3, tr.55-81.
48

nói riêng. Nguyễn Ái Quốc viết: “Nhiệm vụ cấp thiết của giai cấp vô sản thế giới - đặc biệt là
giai cấp vô sản Pháp - là chìa bàn tay hữu nghị anh em và giúp đỡ tới Đông Dương, để chứng
tỏ tình đoàn kết thực sự và tích cực của họ, Đông Dương bị áp bức và cách mạng cần điều
ấy!”. Cụ thể, Người yêu cầu Quốc tế Cộng sản: “Nay cần thiết phải giúp các đồng chí từ nước
ngoài; trước hết chúng ta phải: Ra lời hiệu triệu kêu gọi vô sản quốc tế và quần chúng Đông
Dương. Hiệu triệu đó có thể cổ vũ quần chúng và làm cho họ ổn định lại”; và: “Chúng tôi
khẩn thiết yêu cầu các đồng chí làm những việc có thể được để giúp đỡ các nạn nhân của
cuộc đàn áp đẫm máu. Đề nghị cho biết ngay chúng tôi phải làm gì và các đồng chí có thể
làm gì giúp họ thông qua tổ chức Quốc tế cứu tế đỏ”.
Nhằm cổ vũ, động viên nhân dân Nghệ Tĩnh giữ vững tinh thần cách mạng, tiếp tục
đấu tranh, không sợ hãi trước hành động khủng bố dã man và các thủ đoạn dụ dỗ của địch,
Nguyễn Ái Quốc đã viết bài Nghệ Tĩnh Đỏ, ca ngợi truyền thống anh dũng, kiên cường của
nhân dân Nghệ Tĩnh: “Bom đạn, súng máy, đốt nhà, đồn binh,... tuyên truyền của chính phủ,
báo chí... đều bất lực không dập tắt nổi phong trào cách mạng của Nghệ - Tĩnh”. Đối với
phong trào cách mạng trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc yêu cầu Trung ương Đảng phát
động đấu tranh rộng khắp trong cả nước, ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân Nghệ
Tĩnh và “chia lửa” với Nghệ Tĩnh. Theo ý kiến của Người, Trung ương Đảng đã ra Thông
cáo gửi đến các địa phương trong cả nước, kêu gọi thợ thuyền, dân cày, binh lính liên hiệp
đấu tranh bảo vệ công nông Nghệ An với khẩu hiệu “Không được động tới công nông Nghệ
An”. Thực hiện lời kêu gọi của Đảng, một làn sóng đấu tranh ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh
bùng lên ở khắp ba miền Bắc - Trung - Nam, làm cho địch phải lúng túng đối phó, qua đó
phần nào đã “chia lửa” với nhân dân Nghệ Tĩnh.
Cùng với việc lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp khủng bố trắng hết sức dã man
đối với nhân dân Nghệ Tĩnh; kêu gọi ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh... lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
đã gửi thư cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng, góp ý về những những sai lầm trong công
tác chỉ đạo, đặc biệt là hạn chế của Xứ ủy Trung Kỳ khi đưa ra những khẩu hiệu mang tính
“tả khuynh”, giáo điều về xác định đối tượng cách mạng. Người yêu cầu các cấp ủy Đảng cần
tăng cường công tác xây dựng Đảng; phát triển lực lượng cách mạng, nhất là phát triển các tổ
chức đoàn thể quần chúng như Công hội Đỏ, Nông hội Đỏ… 48 49

48
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, H, 2011, t.3, tr.55-81.
49
PGS, TS. Trần Minh Trưởng. (2021, Sept 12). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh.
nghean.dcs.vn. Truy xuất từ
https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/lanh-tu-nguyen-ai-quoc-voi-phong-trao-xo-viet-nghe---tinh/73410-486108-7557
72
49

Mặc dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn, do sự đàn áp khốc liệt của chính quyền thực
dân và nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác, nhưng Cao trào cách mạng Xô viết
Nghệ - Tĩnh đã khẳng định sức mạnh của quần chúng công - nông; của liên minh công - nông
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ngay từ khi mới ra
đời, Đảng đã tổ chức và lãnh đạo một phong trào quần chúng lớn mạnh xưa nay chưa từng có
ở nước ta - phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh năm 1930”. Tinh thần hy sinh anh dũng, ý chí
quật cường của nhân dân ta trong Cao trào cách mạng Xô viết Nghệ - Tĩnh đã để lại những
bài học thành công và chưa thành công vô cùng quý báu cho Đảng ta. Đánh giá về ý nghĩa và
ảnh hưởng của Cao trào cách mạng Xô viết Nghệ - Tĩnh (1930-1931), trong lễ kỷ niệm 30
năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tuy đế quốc Pháp đã dập tắt phong trào
đó trong một biển máu, nhưng Xô Viết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng
lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại nhưng nó rèn luyện
lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này”. 50

3. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông (1931-1933)


3.1. Bối cảnh
Mùa xuân năm 1930, sau khi triệu tập và chủ trì thành công Hội nghị hợp thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc - Tống Văn Sơ - một viên chức Trung Quốc tiếp tục ở
lại Hồng Kông, hoạt động cách mạng. Kể từ khi thay mặt Hội những người Việt Nam yêu
nước tại Pháp ký tên vào bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi hội nghị Vecxay - Pháp,
cho đến khi sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, giúp cho phong trào cách mạng Việt Nam
phát triển vô cùng mạnh mẽ, lan sang các nước Đông Nam Á và Châu Á, Nguyễn Ái Quốc đã
trở thành một nhân vật quan trọng trong kế hoạch lùng bắt của thực dân Pháp. Hoạt động
giữa vòng vây của nhiều kẻ thù, kèm theo một án tử hình vắng mặt của toà Đại hình Vinh
theo phán quyết số 115 (10-10-1929), cùng lệnh truy nã ráo riết của thực dân Pháp luôn là
những khó khăn, là những hiểm nguy cận kề đối với Nguyễn Ái Quốc. 51 52

50
PGS, TS. Trần Minh Trưởng. (2021, Sept 12). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh.
nghean.dcs.vn. Truy xuất từ
https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/lanh-tu-nguyen-ai-quoc-voi-phong-trao-xo-viet-nghe---tinh/73410-486108-7557
72
51
Vụ án Tống Văn Sơ. vi.wikipedia.org. Truy xuất từ https://vi.wikipedia.org/wiki/Vụ_án_Tống_Văn_Sơ
52
TS. Văn Thị Thanh Mai. (2011, Nov 7). Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và tình bạn thuỷ chung Hồ Chí
Minh - Loseby. ditichhochiminhphuchutich.goc.vn. Truy xuất từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/vu-an-nguyen-ai-quoc-o-hong-kong-va-tinh-ban-thuy-chung-ho-chi-mi
nh--loseby-223
50

3.2. Diễn biến


Tháng 4 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đến Thái Lan, Singapore, và Malaysia hoạt động
thời gian ngắn. Trong thời gian ở Singapore, ông được Tổng lãnh sự Trung Quốc ở Singapore
cấp hộ chiếu số B.98, mang tên "Tống Văn Sơ", quốc tịch Trung Quốc. Tháng 5 năm 1930,
ông trở về Hồng Kông. Địa chỉ thường trú là số nhà 186 Tam Kung, nơi thường làm việc là
một căn nhà 3 - một cơ quan bí mật của Phân bộ Phương Đông Quốc tế Cộng sản - dưới
danh nghĩa “Văn phòng giao dịch” của một hãng buôn người Đức. Nơi đây là cơ sở bí mật,
có mật hiệu an toàn cho các đồng chí đến liên lạc cảnh báo để không bị bắt. Chỉ có Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơ và hai gia đình cơ sở cách mạng Trung Quốc làm liên lạc viên mới được
biết. Về phía mật thám thực dân, chúng ráo riết truy lùng Người. Cụ thể, chúng phối hợp với
nhau, gia tăng mạng lưới tình báo Pháp - Anh để tăng cường ngăn chặn sự bành trướng của
Quốc tế Cộng sản. Cụ thể, bọn mật thám Pháp đã cùng mật thám của Anh, Hà Lan, Nhật Bản
chăng lưới khắp miền Nam Trung Hoa và các nước Đông Nam Á với mục tiêu lùng sục, bắt
bớ những nhà cách mạng Ấn Độ, Nam Dương, Việt Nam, Triều Tiên, …, mà trước tiên là
những người có liên hệ với Quốc tế Cộng sản. Trong số đó, cái tên Nguyễn Ái Quốc được liệt
kê hàng đầu vào “sổ đen” của “Cảnh sát Quốc tế”. Trong khi những bản tin hàng ngày của
cảnh sát hình sự Bắc Kỳ luôn cập nhật những thông tin hoạt động và ảnh của Nguyễn Ái
Quốc: “Tin tình báo: Đã ở lâu năm tại Mỹ, Anh, Pháp và Nga, hiện nay có lẽ đang ở Viễn
53
Đông, có thể là Đông Dương”. Trước tình hình ấy, Nguyễn Ái Quốc nhiều lần đề nghị Văn
phòng Ban Phương Đông chuyển công tác về Thượng Hải nhưng không có trả lời. Vì vậy,
Người không thể rời Hồng Kông khi chưa có ý kiến của Quốc tế Cộng sản.54 55
Ngày 30/4/1931, cảnh sát bắt được Nguyễn Thái - một đảng viên của Đảng Cộng sản
Đông Dương. Từ đó, chúng có được manh mối rằng Nguyễn Ái Quốc vẫn đang ở Hồng
Kông. Một đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, Joseph Ducroux - cán bộ kiểm tra của Quốc
tế Cộng sản (còn có tên khác là Serge Lefranc) đã bị Sở Liêm phóng Pháp đọc trộm thư từ
liên lạc rồi thông báo cho cơ quan tình báo Anh tại xứ Mã Lay thuộc Anh. Ngày 01/06/1931,
Ducroux bị bắt cùng 16 thành viên khác khi đang hoạt động tại Singapore. Do bất ngờ,
Ducroux chưa kịp huỷ các tài liệu liên quan đến các hoạt động và địa chỉ của Quốc tế Cộng
sản ở Đông Nam Á, trong đó bao gồm địa chỉ của Nguyễn Ái Quốc. Tổng hợp những tài liệu
tịch thu được ở Sài Gòn, Singapore, Thượng Hải, mật thám Pháp đã phối hợp với mật thám
Anh tìm ra được địa chỉ này của Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông. Sáng sớm, ngày 6-6-1931,

53
Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004, tr.50
54
TS. Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr.220). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
55
Thanh, P., Hoà, T. (2014). Truyền thống luật sư Việt Nam. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
51

khi Nguyễn Ái Quốc còn đang rửa mặt, một nữ đồng chí khác đang quét nhà, thì cửa lớn bị
xô mạnh bật ra: Một tốp cảnh sát ập vào xích tay cả hai người và lục soát. Không tìm được
chứng cứ gì. Chúng vu cáo cho Người tội làm tay sai của Liên Xô, có âm mưu phá hoại chính
quyền Hồng Kông. Cả hai bị dẫn ra xe đưa về Sở Cảnh sát Hồng Kông. Nguyễn Ái Quốc bị
giam ở đây suốt một tuần. Ngày 12-6 cảnh sát đưa Nguyễn Ái Quốc chuyển về nhà tù
Victoria và giam ở đây suốt gần hai năm, từ tháng 6-1931 đến tháng 1-1933.

Nhà tù Victoria, nơi giam giữ Tống Văn Sơ, năm 1931 56
Thực dân Pháp rất mừng trước việc Nguyễn Ái Quốc bị bắt. Toàn quyền Robin đã
điện từ Hà Nội vào báo tin cho Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Bộ Ngoại giao Pháp và Tổng
Lãnh sự Pháp tại Hồng Kông về “niềm vui bất ngờ này” và đồng thời mở cuộc vận động
chính quyền Hồng Kông giao Nguyễn Ái Quốc cho chính quyền Pháp bằng cách dẫn độ về
Đông Dương hoặc giam giữ ở một nơi xa xôi nào đó của Anh trên nguyên tắc “có đi có lại”,
chứ tuyệt nhiên không được “trả tự do” cho Người, vì “trả tự do cho con người vô cùng năng
động và nguy hiểm này là khả năng cần phải tránh bằng mọi giá” 57. Không chỉ có vậy, nhấn
mạnh việc “Trả tự do cho Nguyễn Ái Quốc chỉ có thể làm trầm trọng thêm những hoạt động
có hại của phong trào Đông Dương”, chính quyền Pháp còn vận động chính quyền Anh ở
Luân Đôn giao Nguyễn Ái Quốc cho chúng … 58

56
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hồng Kông và cuộc đấu tranh giải thoát Người khỏi
nhà tù đế quốc. (2019). dangcongsan.vn. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/dong-chi-nguyen-ai-quoc-bi-de-quoc-anh-bat-giam-o-hong-kong-va-cuoc-dau-tranh-giai
-thoat-nguoi-khoi-nha-tu-de-quoc-534243.html
57
Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Robin, Điện khẩn mật mã, Hà Nội ngày 8/6/1931 Nxb. CTQG, H,
2004, tr.72
58
TS. Văn Thị Thanh Mai. (2011, Nov 7). Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và tình bạn thuỷ chung Hồ Chí
Minh - Loseby. ditichhochiminhphuchutich.goc.vn. Truy xuất từ
52

3.3. Luật sư tham gia bào chữa


Được tin Nguyễn Ái Quốc bị bắt, Quốc tế Cộng sản nhờ ông Frank H. Loseby, một
luật gia dân chủ tiến bộ người Anh, lúc đó là Chủ tịch Hội Luật gia Hồng Kông bào chữa
giúp. Ông Loseby đến thăm Người và khi Nguyễn Ái Quốc nói không có tiền để nhờ cãi, ông
Loseby đã hứa sẽ giúp vì danh dự chứ không cho vì tiền. Người
đã cung cấp cho Luật sư Loseby những thông tin cần thiết và
thống nhất về phương hướng bào chữa. Đế quốc Anh định trao
Nguyễn Ái Quốc cho đế quốc Pháp, nhưng ông Loseby kiên
quyết phản đối và đòi đưa vụ này ra trước toà án tối cao tại Hồng
Kông. Từ tháng 6 đến tháng 9, Nguyễn Ái Quốc phải ra tòa chín
phiên. Vì không có chứng cứ gì, toà án Hồng Kông phải tuyên bố
trắng án nhưng đòi trục xuất Người về Đông Dương để đế quốc
Pháp bắt, Người đã đệ đơn lên toà án tối cao ở Luân Đôn.
Trong thời gian ở tù, Người thường được ông bà Loseby
và con gái đến thăm. Cuối tháng 9, Nguyễn Ái Quốc bị tái phát bệnh lao phổi, nhờ sự can
thiệp của Luật sư Loseby, Người được chuyển đến điều trị tại bệnh viện nhà tù. Đầu tháng 10,
Nguyễn Ái Quốc tiếp bà Xtenla Benxơn, một người bạn của Luật sư Loseby và là một nhà
hoạt động văn học và sân khấu ở Hồng Kông. Với thiện cảm đặc biệt, bà Benxơn đã yêu cầu
chồng mình - ông Tômát Xautôn lúc đó là Phó thống đốc Hồng Kông giúp đỡ Nguyễn Ái
Quốc.
Đầu tháng 7-1932, Nguyễn Ái Quốc biết tin đơn kháng án của Người đã được Hội
đồng cơ mật Nhà vua Anh chấp nhận. Nhờ sự nỗ lực của Luật sư Dennis Nowell Pritt, sau
một ngày biện luận, Toà án Hoàng gia ở Anh đã kết luận Nguyễn Ái Quốc vô tội và quyết
định trả lại tự do cho Người. Tháng 8-1932, với vé tàu thuỷ do ông bà Loseby lo liệu giúp,
Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Hương Cảng đi Singapore để tránh lưới mật thám đang rình bắt
Người. Vừa đặt chân đến Singapore, Người lại bị bắt và trả về Hồng Kông. Lấy cớ Người đi
vào thuộc địa không có giấy phép, nhà cầm quyền Hương Cảng lại bắt giam Người một lần
nữa. Đầu tháng 9, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Luật sư Loseby báo tin mình lại bị bắt giam
ở Hồng Kông.
Khoảng từ giữa tháng 9 đến cuối năm 1932, Nguyễn Ái Quốc được thả tự do nhờ sự
giúp đỡ của Luật sư Loseby, Người được ông bà Loseby thu xếp vào ở trong ký túc xá của

http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/vu-an-nguyen-ai-quoc-o-hong-kong-va-tinh-ban-thuy-chung-ho-chi-mi
nh
53

Hội những người Thiên chúa giáo trẻ Trung Quốc chờ dịp rời Hồng Kông. Với sự giúp đỡ
của Tômát Xauton - Phó thống đốc Hồng Kông, Người được phép dùng ca nô riêng của
Thống đốc rời bến cảng ra khơi, ông bà Loseby đã mua đồ cho Tống Văn Sơ cải trang để
tránh tai mắt của bọn mật thám và mua vé trên chiếc tàu Nhật Bản đưa Người đi Thượng Hải,
sau đó đưa sang Hạ Môn (Trung Quốc) vào ngày 25-1-1933. Không bắt được Người, báo chí
của đế quốc Pháp phao tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao trong Nhà tù Hồng Kông,
làm nhiều đảng viên và người yêu nước Việt Nam bàng hoàng. Khi nghe tin Người đã thoát
khỏi nhà tù đế quốc, bình an vô sự các đồng chí của Người vô cùng vui mừng, sung sướng.

Bộ trang phục do gia đình luật sư Loseby chuẩn bị cho Nguyễn Ái Quốc cải trang rời Trung
Quốc đến liên Xô 59
Sau gần hai năm bị bắt giam, nhờ sự đấu tranh kiên trì và khéo léo của mình, sự can
thiệp của các tổ chức quốc tế sự giúp đỡ tận tình của vợ chồng Luật sư Loseby và một số cá
nhân tiến bộ khác, đồng chí Nguyễn Ái Quốc được trả lại tự do hoàn toàn. Sau đó, Người
sang Liên Xô. 60
4. Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1934-1938)
4.1. Nguyễn Ái Quốc theo học tại trường Quốc tế Lênin
Trở lại đất nước của Lênin, Nguyễn Ái Quốc xúc động viết: “Ba năm lưu lạc linh đinh
- Nay đã trở lại trong đại gia đình công nông”. Người đến thủ đô Moskva - nơi đánh dấu cột
mốc quan trọng trên hành trình tìm đường cứu nước của Bác. Đây cũng là nơi, đồng chí
Pê-tơ-rốp – Tổng thư ký Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản đã ký quyết định công

59
Minh, N., Duyên, N. Kỳ 5: Những năm tháng làm nên “dĩ bất biến”. qdnd.vn. Truy xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-5-những-năm-thang-lam-nen-di-bat-bien-661687
60
Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, tr.187-189, NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
54

nhận Nguyễn Ái Quốc từ cán bộ “tạm thời” trở thành cán bộ chính thức trong biên chế của
Quốc tế Cộng sản. 61
Tháng 6/1934, đồng chí Vaxilieva, cán bộ của Quốc tế Cộng sản đã trực tiếp đón
Nguyễn Ái Quốc trong những ngày đầu tiên trở về Liên Xô. Sau gần hai năm bị giam giữ
trong tù, một năm không bắt được liên lạc với tổ chức, luôn bị ốm đau cùng những lo nghĩ,
suy tính về phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc gần như kiệt sức. Dù Nguyễn
Ái Quốc vẫn muốn nhận công tác ngay, nhưng Quốc tế Cộng sản thu xếp để Người nghỉ an
dưỡng ở Sochi bên bờ biển Đen. Mùa thu năm 1934, Quốc tế Cộng sản ra Quyết định số 45
cử Người đi học tại Trường Bồi dưỡng Lý luận quốc tế mang tên Lênin, đăng ký trong danh
sách sinh viên số hiệu 375, bí danh Lin, niên khóa 1934-1935. 62
Mùa thu năm 1934, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào “Trường học Quốc tế Lênin”.
Ban kiểm tra tư cách học viên ra quyết định: “Nhận đồng chí Lin (bí danh của Nguyễn Ái
Quốc từ năm 1934) thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương vào Trường Quốc tế Lênin, số hiệu
375, niên khóa 1934-1935”, kèm theo Quyết định số 45 do Phó Giám đốc trường là Lidốpxki
và Chánh văn phòng Makinnhe ký. 63
Ban đầu Nguyễn Ái Quốc được xếp vào học với nhóm nói tiếng Trung Quốc, sau do
thấy không phù hợp, Người chuyển sang nhóm tiếng Pháp. Kết hợp lý luận với thực tế,
Nguyễn Ái Quốc đã cùng nhóm tiếng Pháp đi tìm hiểu về công tác xây dựng đảng ở nhà máy
bánh kẹo “Tháng Mười đỏ”, tham quan các nông trường tập thể… Chính tại đây, Nguyễn Ái
Quốc đã có điều kiện đi sâu vào những vấn đề lý luận của cách mạng vô sản, kết hợp với kinh
nghiệm thực tiễn của bản thân để suy nghĩ về con đường sắp tới của cách mạng Việt Nam.
Đầu năm 1935, Nguyễn Ái
Quốc đã giới thiệu hai đồng chí
Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn
Nọn vào học lớp văn hóa - chính trị
đặc biệt của Viện nghiên cứu các vấn
đề dân tộc và thuộc địa. Nguyễn Ái
Quốc thường xuyên gặp gỡ, trò
chuyện với các đồng chí mới đến,

61
Huyền, K., Mai, B., Yến, T. Kỳ 3: Đau đáu tìm đường sớm về Tổ quốc. qdnd.vn. Truy xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-3-dau-dau-tim-duong-som-ve-to-quoc-661519
62
Hằng, N. (2016, Jan 8). Nguyễn Ái Quốc và Đại hội VII Quốc tế cộng sản. ditichhochiminhphuchutich.gov.vn.
Truy xuất từ http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc-va-dai-hoi-vii-quoc-te-cong-san-2396
63
TS. Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr.232). NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
55

giúp đỡ để các đồng chí học tập có hiệu quả hơn.


Bên cạnh đó, trong thời gian theo học tại trường, Nguyễn Ái Quốc cũng không quên
trách nhiệm bồi dưỡng lý luận cho cán bộ, đảng viên đang công tác ở trong nước, để giúp các
đồng chí nhanh chóng chấm dứt tình trạng lạc hậu về lý luận, tránh được sai lầm cũng như
tổn thất.
Kết thúc khóa học tại Trường Quốc tế Lênin, Nguyễn Ái Quốc nóng lòng trở về Tổ
quốc, nắm thời cơ, thúc đẩy phong trào cách mạng trong nước. Người đã vạch ra nhiều dự án,
kế hoạch để lên đường, nhưng lại chưa nhận được sự đồng ý của Quốc tế cộng sản, vì vậy
chuyến đi của Người bị hoãn lại. 64

4.2. Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII
Nửa sau những năm 30, nguy cơ chiến tranh thế giới tăng lên, phe phát xít chuẩn bị
cuộc chiến tranh thế giới mới nhằm thống trị thế giới. Những nước tư bản chủ nghĩa lợi dụng
tình hình muốn hướng mũi nhọn phát xít chống Liên Xô. Phong trào đấu tranh của các lực
lượng tiến bộ chống nguy cơ phát xít và chiến tranh diễn ra khắp nơi.
Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản có sự tham dự của nhiều đoàn đại biểu
Đảng Cộng sản từ các nước trên thế giới, trong đó có đoàn Đảng Cộng sản Đông Dương gồm
3 đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Tú Hưu. Biết tin đoàn tới Mátxcơva,
Nguyễn Ái Quốc đã đến gặp gỡ, thăm hỏi, thông báo tóm tắt tình hình Liên Xô, nhắc các
đồng chí chú ý giữ sức khỏe và dặn phải đổi tên. 65
Đại hội đại biểu lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được tổ chức từ ngày 25-7 đến
ngày 21-8-1935 tại Mátxcơva. Tham gia Đại hội có 510 đại biểu (trong đó có 371 đại biểu có
quyền biểu quyết) của 65 Đảng Cộng sản, đại diện cho 3.141.000 đảng viên trong đó có
785.000 đảng viên ở các nước tư bản chủ nghĩa. Đồng chí G. Đimitơrốp, Tổng Bí thư Ban
Chấp hành Quốc tế Cộng sản trình bày Báo cáo chính trị của Đại hội: “Sự tấn công của chủ
nghĩa phát xít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh để thống nhất
giai cấp công nhân chống chủ nghĩa phát xít”, nói về chủ nghĩa phát xít và những nhiệm vụ
của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh cho sự thống nhất của giai cấp công nhân chống

64
TS. Đỗ Thị Mỹ An. (2017, July 31). Những ngôi trường Chủ tịch Hồ Chí Minh từng theo học.
giaoducthoidai.vn. Truy xuất từ
https://giaoducthoidai.vn/nhung-ngoi-truong-chu-tich-ho-chi-minh-tung-theo-hoc-post277782.html
65
Hằng, N. (2016, Jan 8). Nguyễn Ái Quốc và Đại hội VII Quốc tế cộng sản. ditichhochiminhphuchutich.gov.vn.
Truy xuất từ http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc-va-dai-hoi-vii-quoc-te-cong-san-2396
56

chủ nghĩa phát xít. Đại hội VII Quốc tế Cộng sản ra Nghị quyết về cách mạng ở các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa. 66
Tại phiên họp bế mạc, Đại hội chuẩn y Quyết định Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản
đã thông qua từ năm 1931, công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một phân bộ của Quốc
tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản. Từ đây, phong trào cộng sản Đông Dương đang lớn mạnh đã có đại biểu ở cơ quan
lãnh đạo của tổ chức Quốc tế Cộng sản. Trong phiên họp tối 16/8, Nguyễn Ái Quốc đã phát
biểu về cuộc đấu tranh của nhân dân các thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương trước
nguy cơ phát xít đang lên.
Đúng ở thời điểm phức tạp đầy biến động này của thế giới, Nguyễn Ái Quốc được
làm việc ở trung tâm đầu não của phong trào cộng sản quốc tế nên có điều kiện tiếp thu từ
ngọn nguồn những tư tưởng, đường lối mới do Đại hội vạch ra, đồng thời nhìn lại những
công việc đã qua của Đảng trong nước để kịp thời vạch ra những chiến lược, sách lược cách
mạng thích hợp với tình hình. Công việc cấp bách của những người cộng sản châu Á là cần
thực hiện ngay Mặt trận thống nhất của công nhân và quần chúng đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít và chống cuộc chiến tranh xâm lược mà chủ nghĩa phát xít đang điên cuồng chuẩn bị.
Nguyễn Ái Quốc trao đổi với đồng chí Lê Hồng Phong khi về nước cần nhanh chóng phổ
biến cho Trung ương Đảng tinh thần nghị quyết Đại hội đến nhiều tầng lớp khác nhau chứ
không chỉ quần chúng công nông. Những luận điểm cơ bản của Đại hội VII đã trở thành ánh
sáng dẫn đường cho phong trào cách mạng nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Kết luận của
Đại hội về nguy cơ phát xít đã giúp cách mạng Việt Nam sau này vạch ra và thực hiện một
cách triệt để lập trường có tính chất nguyên tắc đối với bọn quân phiệt Nhật đang mở rộng
chiến tranh xâm lược xuống miền Nam Trung Quốc và có thể trở thành kẻ thù nguy hiểm của
cách mạng nước ta.
Tình hình sôi động của thế giới mà Đại hội VII đã nêu cùng nhiệm vụ cấp bách bấy
giờ khiến Nguyễn Ái Quốc nóng lòng muốn trở về Tổ quốc nhưng điều kiện lúc này chưa cho
phép. Người tiếp tục công việc tại Trường Quốc tế Lênin, phụ giảng bộ môn về Đông Dương
tại Trường Phương Đông và giúp đồng chí Vaxilieva trong công việc quản lý bộ phận Đông
Dương của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Cũng thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đã có
Bức thư ngỏ gửi Mặt trận Bình dân Pháp bằng chữ quốc ngữ, đòi thực thi những Quyền cơ
bản về tự do dân chủ (gồm 6 điều và quyền tự do tồn tại cho Đảng Cộng sản Đông Dương).

66
(2019, Sept 11). Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. dangcongsan.vn. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-con
g-san-viet-nam/tu-lieu-90-nam-lich-su-dang/dai-hoi-lan-thu-vii-quoc-te-cong-san-534732.html
57

Mặc dù tài liệu này không đề tên tác giả, nhưng hồ sơ lưu trữ của mật thám Pháp cho biết rõ
bức thư này do chính Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Kết thúc khóa học ở Trường Quốc tế
Lênin, Nguyễn Ái Quốc mong muốn được trở về nước hoạt động nhưng chưa được Quốc tế
Cộng sản chấp nhận. Ngày 25/9/1935, Nguyễn Ái Quốc cùng với Nguyễn Thị Minh Khai, Tú
Hưu dự Đại hội lần thứ VI Quốc tế Thanh niên. Trả lời phỏng vấn của nhà văn I. Êrenbua tại
Đại hội, Người nói: “Tôi chỉ có một mong ước là sớm trở về Tổ quốc tôi”. Mục tiêu kiên định
của Người vẫn là: “Trở về nước, đi vào quần chúng, tổ chức đoàn kết nhân dân, huấn luyện
nhân dân, đưa nhân dân ra đấu tranh giành độc lập, tự do”. Chưa có điều kiện về nước,
Nguyễn Ái Quốc tiếp tục theo dõi sát tình hình Việt Nam và quốc tế, tích lũy thêm những
thông tin cần thiết để phục vụ đấu tranh cách mạng, mở mang tầm nhìn, tránh mắc vào chủ
nghĩa hẹp hòi, chủ quan.
Với sự tin tưởng, giúp đỡ của những bạn bè – đồng chí chân thành, nhưng đầu tiên và
quan trọng hơn cả là lý tưởng cách mạng trong sáng và nghị lực tinh thần đã giúp Nguyễn Ái
Quốc luôn vững vàng, kiên định trong bầu không khí nghi ngờ bao trùm, trong những xáo
động của Quốc tế Cộng , trong cuộc thanh trừng nội bộ căng thẳng ngay trong Đảng Cộng
sản Liên Xô. Thực tế, dù rất phiền lòng, nhưng Người chấp hành theo quyết định cấp trên,
kiên trì chờ đợi và hy vọng. Chỉ đến khi Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô năm 1938 và những
việc Người đã làm, những vấn đề thuộc về tư tưởng và lý luận Người nêu ra được thực tiễn
kiểm nghiệm là đúng đắn, thì những hoài nghi này mới thực sự khép lại. Sophie Quyn Judge
trong “Hồ Chí Minh những năm tháng lưu lạc (1919-1941)” cũng nhận định: Khó có thể hình
dung một người cộng sản lão làng như Hồ Chí Minh có thể lại tiếp tục hoạt động trong thời
kỳ rối ren này. Sự tồn tại của ông qua những tháng năm tồi tệ nhất của cuộc thanh trừng, đã
không chỉ chứng tỏ sự chịu đựng, mà còn chứng minh bản lĩnh cách mạng phi thường của
Nguyễn Ái Quốc. Khoảng thời gian 5 năm thử thách chính trị tế nhị và phức tạp này giúp
chúng ta hiểu sâu sắc hơn nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong phong cách của Người,
hiểu thêm một khía cạnh khác của chân dung vị lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta – một chiến sĩ tiêu
biểu của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Một buổi chiều se lạnh tháng 10/1938, tạm biệt Mátxcơva, với 5 năm sống giữa tình
yêu thương đùm bọc của nhân dân Xô viết anh hùng, giữa tình đồng chí thân thiết của những
chiến sĩ quốc tế, tạm biệt đất nước "thành trì" của phong trào cách mạng và hòa bình thế giới,
nơi ngọn nguồn của những lý luận và kinh nghiệm đấu tranh phong phú của kỷ nguyên cách
mạng tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc lại tiếp tục hành trình tìm đường về với Tổ quốc. Mỗi
58

bước chân Người tìm về gần Tổ quốc là một bước cả dân tộc của Người gần hơn với bình
67
minh độc lập, tự do, hạnh phúc.
5. Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc và hành trình tìm đường về nước
trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam (1938-1941)
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người bạn rất thân thiết của nhân dân Trung Quốc – người
vun đắp tình hữu nghị Việt Trung – nhà cách mạng vô sản đã từng hoạt động nhiều nơi ở
Trung Quốc và đến Quế Lâm bốn lần, đã từng hoạt động cách mạng trong thời gian chiến
tranh chống Nhật, trong vai một quân nhân bình thường. Người đã từng ở văn phòng Bát Lộ
Quân Quế Lâm và có những cống hiến cho sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Trung Quốc
và đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập cho Việt Nam, viết nên những trang sử trong
quan hệ hữu nghị Việt – Trung. 68
Nguyễn Ái Quốc trở lại Trung Quốc lần này trong hoàn cảnh: Đảng Cộng sản Trung
Quốc lập lại Mặt trận thống nhất, hợp tác với Quốc dân Đảng để cùng chống Nhật. Do đó,
Hồng quân Trung Quốc đổi tên là Bát Lộ quân và Tân tứ quân. Lúc đó, Vũ Hán, Quảng Châu
bị chiếm đóng, tình hình miền Bắc Hồ Nam càng ngày càng phức tạp. Quảng Tây (vùng đất
tiếp giáp với Việt Nam) trở thành đường giao thông quan trọng liên lạc giữa Hoa Đông, Hoa
Nam, Tây Nam cho đến Hồng Kông và hải ngoại. Hạ tuần tháng 11/1938, Chu Ân Lai chỉ thị
cho Lý Khắc Nông thiết lập văn phòng Bát Lộ Quân Quế Lâm để Đảng Cộng sản Trung
Quốc có một tổ chức đại diện công khai và là hạt nhân lãnh đạo ở phương Nam (Trong Đảng
Cộng sản Trung Quốc thường gọi là văn phòng Cục phương Nam Quế Lâm). Đây là một cơ
hội rất tốt và điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu tình hình Quảng Tây và Việt
Nam, tranh thủ thời cơ sớm về nước lãnh đạo cách mạng. Do đó, Người quyết định không ở
lại Diên An, mà trở về phương Nam. Với sự sắp xếp của Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc, tháng 12/1938, Nguyễn Ái Quốc về đến Quế Lâm. Lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc chỉ
tiếp xúc riêng với Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Lý Khắc Nông. Lấy Quế Lâm làm trung tâm,
Người chọn văn phòng Bát Lộ Quân làm cơ sở hoạt động cách mạng. Mọi công việc ở đây
đều được tiến hành bí mật. Trong bài viết của mình, Nguyễn Ái Quốc đã nhớ lại giai đoạn
hoạt động này: “Thế là tôi học được một ít kinh nghiệm xây dựng Đảng khi ở Liên Xô, kinh

67
Hằng, N. (2016, Jan 8). Nguyễn Ái Quốc và Đại hội VII Quốc tế cộng sản.
ditichhochiminhphuchutich.gov.vn. Truy xuất từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc-va-dai-hoi-vii-quoc-te-cong-san-2396
68
Huy, Đ. (2011, Aug 24). Nguyễn Ái Quốc - Hồ Quang ở Văn phòng Bát Lộ Quế Lâm - Trung Quốc.
ditichhochiminhphuchutich.gov.vn. Truy xuất từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc--ho-quang-o-van-phong-bat-lo-quan-que-lam--trung-q
uoc-159
59

nghiệm đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản khi ở Pháp, kinh nghiệm chống thực dân và phong
kiến khi ở Trung Quốc. Trong lúc đó, các đồng chí Trung Quốc ra sức giúp tôi chắp liên lạc
với trong nước ta”.
Khi về đến Quế Lâm, Nguyễn Ái Quốc ở thôn Lộ Mạc – một trạm vận chuyển của
văn phòng Bát Lộ Quân (Quế Lâm). Người lấy tên là Hồ Quang, Lý Khắc Nông đề nghị
Người làm việc ở Phòng Cứu vong. Người làm việc rất chu đáo, chân thành với mọi người và
sống giản dị. Phòng Cứu vong giống như một câu lạc bộ nhưng không phải là câu lạc bộ bởi
vì còn có nhiệm vụ giáo dục chính trị, văn hoá. Lúc bấy giờ, đồng chí Hà Khải Quân là Chủ
nhiệm Phòng Cứu vong kiêm giáo viên văn hoá. Hồ Quang là uỷ viên bảo vệ sức khoẻ kiêm
uỷ viên phụ trách tờ báo tường.
Hàng ngày, Người kiểm tra vệ sinh rất tỉ mỉ và yêu cầu rất nghiêm khắc. Những ai
làm vệ sinh không tốt, Người đều phê bình. Ngoài ra, Người còn là chủ biên tờ “Sinh hoạt
tiểu báo”. Đây là tờ báo nội bộ của cơ quan văn phòng. Các bài đều được viết trên giấy kẻ ô
vuông, sau đó đóng thành tập. Người tự vẽ bìa, vừa viết bài, có lúc làm thơ theo lối cổ của
Trung Quốc. Người thường xuyên viết bài cho tờ báo này, rất đúng hạn, với tác phong làm
việc rất cẩn thận. Tờ “Sinh hoạt tiểu báo” cứ 10 ngày ra một kỳ.
Hàng ngày, Người dậy rất sớm, ngay sau khi dậy, việc đầu tiên là Người quét nhà.
Hầu như ngày nào Người cũng quét nhà. Nền nhà bằng đất, lúc quét rất bụi, Người không sợ
bẩn và không sợ mệt nhọc. Người thường dùng khăn mặt hoặc khăn mùi xoa bịt miệng như
khẩu trang. Cuộc sống của Người ở đây rất gian khổ và chất phác. Mùa hè, Người thường
mặc áo may ô, chân đi guốc mộc hoặc dép lê, không có quần áo sang trọng. Nhiều khi đi vào
thành phố Người cũng chỉ mặc một chiếc áo khoác cũ kỹ màu nâu. Người rất ít dùng xà
phòng thơm, chỉ dùng xà phòng giặt và cũng chỉ dùng để rửa tay. Người ăn thức ăn như mọi
người, cơm và rau luộc. Hàng ngày, Người tự đi lấy cơm ở nhà bếp. Người quan hệ với quần
chúng rất tốt, nói năng ôn tồn, không hề nổi nóng với đồng chí nên rất được các đồng chí
khác kính trọng, coi Người là lớp đàn anh. Người thường xuyên tham gia các buổi ngâm thơ,
những buổi ca hát, những buổi liên hoan v.v… Người còn rất thích các hoạt động thể dục.
Hàng ngày, Người buộc bao cát hoặc thỏi sắt vào chân để rèn luyện sức khoẻ. Mùa hè, Người
cùng bơi lội với các đồng chí. Con người Hồ Quang rất hóm hỉnh, cởi mở. Có đồng chí đùa
hỏi Người “đồng chí là người ở đâu?”. Người trả lời: “Tổ tông thì ở đảo Hải Nam, còn thực
tế là sống ở nước ngoài”. “Tại sao lại lấy tên là Hồ Quang?”. “Tôi có râu, lại trọc đầu nên gọi
60

là Hồ Quang” (Chữ “Hồ” đọc theo tiếng Bắc Kinh có nghĩa là râu, chữ “Quang” đọc theo
tiếng Bắc Kinh có nghĩa là trọc).
Từ tháng 12/1938 đến tháng 12/1940, Hồ Quang đã lui tới Quế Lâm 4 lần để triển
khai các hoạt động bí mật. Ở văn phòng Bát Lộ Quân, mọi người đều không biết lai lịch và
cương vị của Người, công việc cụ thể cũng không ai hỏi. Từ Diên An về Quế Lâm, Người
muốn có ngay một chiếc máy chữ, đồng chí Lý Khắc Nông đã chỉ thị cho một giao liên bí
mật là Lý Bái Quần sang Việt Nam mua về. Tại Phòng Cứu vong, công việc chủ yếu của
Người là viết tờ ‘Sinh hoạt tiểu báo”. Ngoài công việc chung, Người thường ngồi đánh máy
trong phòng của mình. Người nghiên cứu thời cuộc, phân tích tình hình, ghi chép những điều
tâm đắc khi đọc “Bàn về đánh lâu dài” của Mao Trạch Đông, các văn kiện, các báo như Tân
Hoa nhật báo, Cứu Vong nhật báo v.v… Người còn đánh máy các bài để gửi về nước.
Tháng 6/1939, với danh nghĩa là nhân viên điện đài của văn phòng Bát Lộ Quân Quế
Lâm và do Chu Ân Lai giới thiệu, Người tham gia vào lớp huấn luyện du kích Nam Nhạc –
Hành Dương – tỉnh Hồ Nam khoá II. Đến lớp huấn luyện du kích Nam Nhạc, Người được
phân công làm Bí thư một chi bộ Đảng Cộng sản Trung Quốc và phụ trách nghe Đài Phát
thanh của Trung Quốc và nước ngoài để nắm tình hình kịp thời. Cùng với việc nghiên cứu
chiến lược, chiến thuật của quân đội Trung Quốc trong chiến tranh du kích chống Nhật,
Người còn tận dụng thời cơ tìm hiểu và tổng kết một cách toàn diện những kinh nghiệm về
mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Trung ương Đảng
Cộng sản Trung Quốc. Tháng 7/1939, ký tên là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi báo cáo tới
Quốc tế Cộng sản “Những ý kiến về mặt trận dân chủ” yêu cầu Đảng phải vạch mặt bọn phản
động tờ rốt kít. Văn kiện đó được chuyển về cho Đảng Cộng sản Việt Nam, kịp thời chuyển
hướng sách lược đấu tranh, đặt cơ sở cho việc thành lập Việt Nam độc lập đồng minh sau này.
Trong danh sách khoá III của trường huấn luyện du kích Nam Nhạc mặc dù vẫn còn
ghi tên Hồ Quang (tức Nguyễn Ái Quốc) nhưng thực tế Người không tham gia. Người đã từ
Nam Nhạc trở về Quế Lâm. Người và Ngô Khê Như, Tào Anh sống trong một nhà dân ở
đường Trung Sơn Bắc ngoài thành phố. Lúc này, tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam ở trong
nước đã thăm dò qua Đảng Cộng sản Trung Quốc về nơi ở của Người, liền cử người sang
Long Châu (Quảng Tây) để bắt liên lạc với Người, nhưng lần liên lạc này không thành công.
Sau này, trong tác phẩm “Cách mạng Trung Quốc và cách mạng Việt Nam”, Người đã viết về
61

sự kiện đó: “Trung ương ta có phái đồng chí X ra tìm tôi ở Long Châu. Tiếc vì X bị một
“người bạn” xoáy hết tiền, phải trở về nước trước khi tôi đến Long Châu”.
Lúc Hồ Quang từ Quế Lâm bí mật đi về Long Châu là do một giao thông viên của văn
phòng Bát Lộ Quân tên là Lý Bái Quần đi hộ tống. Vào khoảng tháng 11/1939, Lý Bái Quần
nhận nhiệm vụ đi từ Quế Lâm qua đường Việt Nam để đến Hồng Kông. Trước khi đi Lý
Khắc Nông đã gặp Lý Bái Quần để giao nhiệm vụ đưa đồng chí Hồ Quang đến Long Châu để
chắp liên lạc với người của tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam trong nước phái sang Long
Châu. Lý Bái Quần đưa đồng chí Hồ Quang từ Quế Lâm về Liễu Châu, rồi về Nam Ninh và
Long Châu. Đến Long Châu Lý Bái Quần và Hồ Quang ở trong một nhà trọ bình dân. Chờ
đến 3 ngày vẫn không thấy người ở trong nước ra chắp liên lạc nên đồng chí Hồ Quang đành
theo đường cũ trở về Quế Lâm còn Lý Bái Quần từ Long Châu đi tiếp sang Việt Nam để đi
Hồng Kông.
Lần thứ ba Hồ Quang từ Long Châu trở về Quế Lâm, văn phòng Bát Lộ Quân tiếp tục
giúp Người tìm chắp liên lạc với Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, một mặt khác Hồ
Quang quyết định lấy tư cách là quân nhân Bát Lộ Quân để về hoạt động ở vùng Tây Nam
Trung Quốc. Đầu năm 1939, văn phòng Bát Lộ Quân ở Quý Dương được chính thức thành
lập. Cuối năm 1939, trên đường Hồ Quang từ Quế Lâm đi Trùng Khánh để gặp Trung ương
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dừng lại ở Quý Dương. Sau đó, Người còn qua lại Quý
Dương nhiều lần, mỗi lần đến Người đều ở trên gác của văn phòng Bát Lộ Quân Quý Dương,
có lần Người lưu lại 3 ngày đến 5 ngày, có lần lưu lại 10 ngày đến 15 ngày. Người luôn mang
theo một chiếc máy chữ và ngồi trong phòng đánh máy cả ngày.
Đầu năm 1940, Hồ Quang từ Quý Dương đi Trùng Khánh, đồng chí Chu Ân Lai đã
tiếp Người và bố trí Người ở tại văn phòng Bát Lộ Quân tại thôn Hồng Nham (Cục Phương
Nam của Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đặt tại đây). Tháng 2/1940, được sự giúp đỡ của
Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người đến Côn Minh, chắp liên lạc với Ban Hải ngoại của Đảng
Cộng sản Đông Dương. Không lâu sau, Người đã gặp đồng chí Vũ Anh (lãnh đạo Ban Hải
ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương). Đồng chí Vũ Anh đã đưa Người đến cơ quan bí mật
của Đảng bộ Hải ngoại Đảng Cộng sản Đông Dương để gặp đồng chí Phùng Chí Kiên và
đồng chí Hoàng Văn Hoan. Sau mấy tháng Người công tác ở Ban Hải ngoại của Đảng Cộng
sản Đông Dương tại Côn Minh, khoảng tháng 10/1940, Người lại qua Quý Dương (lần thứ
tư) để trở về Quế Lâm và vẫn ở văn phòng Bát Lộ Quân Quế Lâm.
62

Tháng 10/1940, đồng chí Hoàng Văn Hoan đến Quế Lâm, lúc này Hồ Quang đã ở
Quế Lâm, cụ Hồ Học Lãm thì đang chữa bệnh ở bệnh viện Quế Lâm. Đồng chí Hoàng Văn
Hoan thường bí mật đến gặp Người ở văn phòng Bát Lộ Quân, báo cáo với Người và xin chỉ
thị của Người về các hoạt động. Vấn đề trước tiên là hoạt động dưới danh nghĩa nào? Người
chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh), mời cụ
Hồ Học Lãm làm Chủ tịch. Cụ Hồ Học Lãm ủng hộ việc làm này và còn giới thiệu đồng chí
Hoàng Văn Hoan và một số người khác đi gặp Lâm Uý (Phó Chủ nhiệm hành dinh khu Tây
Nam), nhờ Lâm Uý giới thiệu để gặp Lý Tế Thâm (Chủ nhiệm hành dinh khu Tây Nam).
Theo chỉ thị của Nguyễn Ái Quốc, anh em đã viết Lịch sử Việt Minh bằng chữ Hán trao trực
tiếp cho Lý Tế Thâm. Trong buổi nói chuyện ấy, Lý Tế Thâm không tỏ ra đồng ý, cũng
không tỏ ra phản đối. Sau đó, Văn phòng Việt Minh cũng mặc nhiên được thừa nhận là một
cơ quan hợp pháp.
Ngày 16/12/1940, Việt Minh họp với giới văn hoá, báo chí tại tiệm trà Đông Pha.
Trong cuộc họp đó, Dương Hoài Nam (tức Võ Nguyên Giáp) báo cáo về tình hình các đảng
phái của Việt Nam. Ngày hôm sau, trang hai của Cứu vong Nhật báo đã tường thuật tỉ mỉ về
cuộc họp đó.
Thông qua mối quan hệ nội bộ trong văn phòng Bát Lộ Quân, Hồ Quang cử đồng chí
Phạm Văn Đồng gặp gỡ một số nhà văn tiến bộ Trung Quốc, tiếp xúc với đông đảo giới văn
hoá, giới báo chí ở Quế Lâm để thành lập Hội đồng chí công tác văn hoá Trung Việt, tổ chức
lễ thành lập chính thức vào ngày 8/12/1940 tại Hội trường Lạc Quần. Trong thời gian thành
lập, ngày 1/12/1940 đã tổ chức cuộc toạ đàm Trung Việt đầu tiên, thông qua Tuyên ngôn của
Đại hội.
Năm 1940, cao trào chống đế quốc Nhật, thực dân Pháp xâm lược không ngừng phát
triển ở Việt Nam. Vùng gần biên giới Trung Quốc, nhân dân Việt Nam rầm rộ khởi nghĩa.
Nguyễn Ái Quốc chủ trương đoàn kết các dân tộc để đấu tranh, nhằm giải phóng dân tộc,
giành độc lập tự do. Ở Quế Lâm, Người đã nỗ lực không mệt mỏi vì công việc. Tháng
10/1940, sau khi Người và những người cộng sản Việt Nam đến Quế Lâm không lâu, Tư lệnh
Đệ tứ chiến khu phái Trương Bội Công dẫn đội công tác biên giới Trung Việt từ Liễu Châu
về hoạt động ở Tĩnh Tây. Lúc này, có một nhóm thanh niên Việt Nam nổi dậy không thành
công, bị thực dân Pháp truy lùng, phải trốn sang Trung Quốc, dựa vào quân đội của Trương
Bội Công. Một người Việt Nam trong quân ngũ của Trương Bội Công là Trương Trung
63

Phụng đồng tình với cách mạng đã viết thư lên Quế Lâm thông báo về việc rất nhiều cán bộ
Việt Nam qua biên giới đến Quảng Tây, đề nghị với người của Đảng Cộng sản Đông Dương
cử người đến chắp nối liên lạc với họ. Nhận được tin này, Nguyễn Ái Quốc đang ở văn phòng
Bát Lộ Quân đã bí mật cử Võ Nguyên Giáp, Vũ Anh và Cao Hồng Lĩnh đi Tĩnh Tây để liên
lạc với nhóm thanh niên ấy. Đồng thời tìm cách khuyên Trương Bội Công gửi điện đến Quế
Lâm mời đại diện của Việt Minh về Tĩnh Tây để bàn bạc, thương lượng.
Hạ tuần tháng 12, Hồ Quang và một số đảng viên cộng sản Việt Nam đang hoạt động
ở Quế Lâm nhận được điện của Trương Bội Công mời Việt Minh, lập tức rời Quế Lâm đi
Tĩnh Tây. Lý Tế Thâm cấp cho 800 “nguyên” (đơn vị tiền Trung Quốc lúc bấy giờ) tiền đi
đường, cấp giấy thông hành cho “Đoàn công tác Hoa Nam” có đóng dấu, trên đó có hai chữ
đỏ “Trung chính” của Tưởng Giới Thạch. Người và đồng chí Hoàng Văn Hoan đến Liễu
Châu, hội ngộ với các đồng chí từ Côn Minh về như Đặng Văn Cáp, Nguyễn Văn Lộc, Đỗ
Đăng Trình, sau đó tất cả cùng đi Nam Ninh bằng xe ô tô. Hai ngày sau lại xuống thuyền đi
Điền Đông rồi về Tĩnh Tây.
Đến Tĩnh Tây, Người lập tức cử đồng chí Vũ Anh về Việt Nam, chọn một địa điểm
gần biên giới Việt – Trung ở tỉnh Cao Bằng để dùng làm nơi đóng cơ quan bí mật của Đảng.
Trong nước cũng phái các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đến
Tĩnh Tây để tìm gặp Người.
Lúc này Trương Bội Công được sự ủng hộ của Quốc dân Đảng Trung Quốc, lại nắm
đội công tác biên giới Trung – Việt. Để tạo thuận lợi cho hoạt động của Đảng ở vùng biên
giới, Nguyễn Ái Quốc đã cử các đồng chí Hoàng Văn Hoan, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên
Giáp tiếp xúc và làm việc với Trương Bội Công. Sau một thời gian đàm phán, cuối tháng
12/1940, tổ chức Uỷ ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam được chính thức thành lập ở Tĩnh
Tây. Tổ chức này trong thực tế chịu sự khống chế của Quốc dân Đảng. Những người cộng
sản Việt Nam một mặt đã lợi dụng mối quan hệ với Quốc dân Đảng Trung Quốc để có dịp
hoạt động công khai ở vùng biên giới, mặt khác phân hoá những người trong tổ chức của
Trương Bội Công, để lôi kéo số thanh niên từ trong nước trốn sang đi theo. Vì vậy, Người đã
lấy danh nghĩa “Đội công tác biên khu” để tổ chức một lớp huấn luyện gồm 43 người, sau đó
phái số thanh niên được huấn luyện về nước. Tháng 2/1941, Người đã đi qua cột mốc biên
giới số 108 Tĩnh Tây - Trung Quốc để trở về Việt Nam sau 30 năm xa cách.
64

Nguyễn Ái Quốc là 1 trong 21 người được tuyển chọn vào lớp nghiên cứu chuyên
ngành lịch sử do Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa tổ chức, nhằm đào tạo
giảng viên có trình độ cao cho Viện. Kế hoạch nghiên cứu cá nhân ghi rõ: Họ tên nghiên cứu
sinh: Lin; thời gian thực hiện kế hoạch từ 1/1/1937 đến 31/12/1937; ... với lời phê chuẩn y
hoàn toàn kế hoạch cá nhân này. Người đã hoàn thành chương trình tối thiểu của nghiên cứu
sinh năm 1937-1938, phiếu điểm thi học kỳ I đạt kết quả tất cả các môn học, có những môn
đạt điểm xuất sắc, như đồng chí Hải An (Lê Hồng Phong) đã khẳng định: Có thể nói rằng
đồng chí ấy (NAQ) luôn sống và làm việc vì Đảng ở bất kỳ hoàn cảnh và môi trường nào. 69
Dù không gặp thuận lợi trong hoạt động, trước những đòi hỏi cấp thiết của tình hình
thế giới và trong nước, ngày 6/6/1938, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục gửi thư cho lãnh đạo Viện
Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản và đồng chí Manuilxki trình
bày nguyện vọng: “Các đồng chí thân mến! Hôm nay kỷ niệm lần thứ 7 tôi bị bắt ở Hồng
Kông và cũng là khởi đầu năm thứ 8 tôi không hoạt động gì. Tôi viết thư này để yêu cầu các
đồng chí thay đổi hoàn cảnh đau buồn này. Hãy cử tôi đến nơi nào đó hoặc cứ giữ tôi ở lại
đây nhưng giao cho tôi những việc mà các đồng chí thấy có ích. Những gì tôi yêu cầu là các
đồng chí đừng để tôi ngừng hoạt động quá lâu và chỉ ở bên cạnh, phía ngoài Đảng”. 70

69
Mai, V., L, Đ. (2008, Dec 24). Nguyễn Ái Quốc - Những năm tháng gian khó. cand.com.vn. Truy xuất từ
https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nguyen-Ai-Quoc---Nhung-nam-thang-gian-kho-i294129/
70
(2019, Sept 17). Những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. dangcongsan.vn. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-con
g-san-viet-nam/tu-lieu-90-nam-lich-su-dang/nhung-y-kien-chi-dao-cua-dong-chi-nguyen-ai-quoc-535316.html
65

KẾT LUẬN

Những hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc đã để lại dấu ấn trong suốt chiều dài
lịch sử từ những năm 1911 đến năm 1941. Quãng thời gian này càng khắc hoạ rõ bản lĩnh
kiên cường và phẩm chất đáng quý của Người. Mang trong mình ý chí sắt đá vươn ra biển
lớn và tư duy cởi mở, Nguyễn Ái Quốc đã từng bước khẳng định tiếng nói và quan điểm của
mình trên trường quốc tế. Từ Bản yêu sách của nhân dân An Nam sắc bén, đến sự cứng rắn
trong hoạt động ở Quốc tế Cộng sản nhằm bảo vệ con đường giải phóng khả thi và phù hợp
nhất với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định bản lĩnh cách mạng kiên cường,
và một lòng kiên trung hướng về Tổ quốc của mình.

Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc trước hết đã đặt nền móng cho hoạt động cách mạng
càng quyết liệt hơn nữa của Người sau khi trở về nước năm 1941, cụ thể là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc Việt Nam. Ngoài ra, hoạt động quốc tế của Bác đã góp phần quan trọng
trong việc định hướng đường lối cho cách mạng Việt Nam trong cả cuộc chiến chống Pháp và
sau này là chống Mỹ. Có thể nói, cả quá trình hoạt động quốc tế không chỉ hình thành nên
phẩm cách Hồ Chí Minh, mà còn dẫn đường cho sự giải thoát của cả một dân tộc. Chưa hết,
hoạt động quốc tế của Bác còn có ảnh hưởng tích cực đến phong trào đấu tranh giải phóng
của nhiều nước thuộc địa; và tác động mạnh lên sự diễn biến của cách mạng vô sản cùng hệ
thống chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói "Người là biểu tượng cao đẹp của tình đoàn kết quốc tế thuỷ
chung, trong sáng. Cho đến phút cuối đời, Người vẫn hoạt động không mệt mỏi để góp phần
khôi phục lại Khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Marx - Lenin và
chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.

Hoạt động quốc tế của Hồ Chủ tịch cũng để lại nhiều bài học sâu sắc cho sự phát triển và xây
dựng đất nước của đời sau. Đó là tư duy cởi mở, hướng đến sự hợp tác nước ngoài tích cực
và cẩn trọng. Đó là sự kiên định, cứng rắn với con đường phát triển của quốc gia, không để
“gió thổi chiều nào theo chiều ấy”. Và biết áp dụng linh hoạt lý thuyết, chiếu theo thực tế tình
hình đất nước để đưa ra những chính sách cũng như hoạt động sát sao, hiệu quả nhất.
66

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Kim, Y. (2012, September 20). Câu lạc bộ Phô Bua, nhà văn Léo Poldes và vở
kịch Con rồng tre của Nguyễn Ái Quốc. Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Retrieved February 5, 2023, from
https://www.bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/647-cau-l-c-b-pho-bua-nha-va
n-leo-poldes-va-v-k-ch-con-r-ng-tre-c-a-nguy-n-ai-qu-c.html
2. Nguyễn, H. (2019, February 1). Báo Đà Nẵng điện tử. Báo Đà Nẵng điện tử.
Retrieved February 5, 2023, from
https://baodanang.vn/bao-da-nang-xuan-2019/201902/nguyen-ai-quoc-ho-chi-
minh-tu-paris-1919-den-di-chuc-1969-3166968/index.htm
3. Nguyễn, H. N. (2021, August 16). Tác động của Quốc tế Cộng sản với thắng
lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam. Tạp chí Tuyên giáo.
Retrieved February 5, 2023, from
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/tac-dong-cua-quoc-te-cong-san-voi-tha
ng-loi-cua-cach-mang-thang-tam-nam-1945-o-viet-nam-135006
4. Phạm, L. T. (2022, May 20). Nguyễn Ái Quốc với tờ báo cách mạng đầu tiên
Le Paria. Bộ Nội vụ. Retrieved February 5, 2023, from
https://www.moha.gov.vn/tin-tuc-su-kien/diem-tin/nguyen-ai-quoc-voi-to-bao-c
ach-mang-dau-tien-le-paria-47523.html
5. Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng. (2021, July 6). Nguyễn Ái Quốc đến
với Luận cương của Lênin – Bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Thành ủy
TPHCM. Retrieved February 5, 2023, from
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nguyen-ai-quoc-den-voi-luan-cuong-cua-lenin-%
E2%80%93-buoc-ngoat-cua-cach-mang-viet-nam-1491880173
6. Tạp chí Cộng sản. (2021, May 17). Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân, phương châm sống và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. smot.
Retrieved February 5, 2023, from
http://smot.bvhttdl.gov.vn/doc-lap-cho-dan-toc-tu-do-hanh-phuc-cho-nhan-dan-
phuong-cham-song-va-hanh-dong-cua-chu-tich-ho-chi-minh/
7. Thành, T. Q., & Mai, M. T. t. (2019, June 21). 100 năm bản "Yêu sách của
nhân dân An Nam". Tạp chí Tuyên giáo. Retrieved February 5, 2023, from
67

https://tuyengiao.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/100-nam-ban-yeu-sac
h-cua-nhan-dan-an-nam-122240
8. Thư viện tỉnh Đồng Nai. (2011, June 7). Nguyễn Ái Quốc với tổ chức Hội
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp (1917-1923) - Bác Hồ ra đi tìm
đường cứu nước. Thư viện Tỉnh Đồng Nai. Retrieved February 5, 2023, from
http://www.thuviendongnai.gov.vn/100bacho/Lists/Posts/Post.aspx?List=78a70
5f5%2Dbd75%2D4abd%2Db260%2Dd077eadb24d7&ID=24
9. Trần, T. N. (2011). Hoạt động quốc tế của Nguyễn Ái Quốc. Nhà xuất bản
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
10. Trương, H. T. T. (2021, May 14). Sơ thảo Luận cương của V.I.Lênin - Bước
ngoặt trong hành trình cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tạp chí
Điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Retrieved February 5, 2023, from
https://lyluanchinhtrivatruyenthong.vn/so-thao-luan-cuong-cua-vilenin-buoc-ng
oat-trong-hanh-trinh-cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-ho-chi-minh-p24574.html
11. VTV4. (2022, August 10). Nguyễn Ái Quốc - Ẩn số từ nước Pháp - VTV Đặc
biệt (English subtitles). YouTube. Retrieved February 5, 2023, from
https://www.youtube.com/watch?v=eONB3Lx8iqk&t=1572s
12. Phạm Xanh. (1990). Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam (1921-1930). NXB thông tin lý luận, Hà Nội, tr.37.

13. (2015). Khảo sát các phương tiện truyền bá tư tưởng cứu nước của Nguyễn Ái Quốc
(từ 1921 - 1930).
https://123docz.net/document/2659155-tieu-luan-khao-sat-cac-phuong-tien-truyen-ba-
tu-tuong-cuu-nuoc-cua-nguyen-ai-quoc-tu-1921-1930.htm.

14. Nguyễn Văn Tuấn. (2008). Ảnh hưởng của phong trào cách mạng tư sản Trung Quốc
do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đối với Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh. Trường Đại học Vinh, Tạp chí Khoa học, Tập XXXVII, số 2B, tr. 60-69.

15. ThS Nguyễn Thị Bình. (2014). Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Quốc tế
Cộng sản (Quốc tế cộng sản III).
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nhung-hoat-dong-cua-nguyen-ai-quoc-o-quo
c-te-cong-san-quoc-te-cong-san-iii--599.

16. Kim Nhật. (2006). Bác Hồ Những câu chuyện cảm động (Tập II). Nhà xuất bản Nghệ
An.
68

17. (2014). Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.


https://123docz.net/document/1908466-doan-thanh-nien-cong-san-ho-chi-minh-ppt.ht
m.

18. (2013). Lịch sử Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam và phong trào Thanh niên Việt
Nam (1925-2004).
https://123docz.net/document/528391-lich-su-hoi-lhtn-viet-nam.htm.

19. (2015). Lịch sử Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.


https://123docz.net/document/2719091-lich-su-doan-tncs-ho-chi-minh-1-doc.htm.

20. (2013). Một số tờ báo tiêu biểu từ khởi thủy đến năm 1945.
https://tailieu.vn/doc/mot-so-to-bao-tieu-bieu-tu-khoi-thuy-den-nam-1945-1576946.ht
ml.

21. (2015). Bài học kinh nghiệm từ báo chí Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm
1945.
https://123docz.net/document/2495638-bai-hoc-kinh-nghiem-tu-bao-chi-viet-nam-tru
oc-cach-mang-thang-tam-nam-1945.htm.

22. (2015). Tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ khi gặp CN Lênin đến năm
1930.
https://123docz.net/document/3190107-tu-tuong-cach-mang-cua-nguyen-ai-quoc-tu-k
hi-gap-cn-lenin-den-nam-1930.htm.

23. Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM. (2021).
Nguyễn Ái Quốc với việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Trang tin
điện tử Đảng Bộ thành phố Hồ Chí Minh.
https://www.hcmcpv.org.vn/tin-tuc/nguyen-ai-quoc-voi-viec-thanh-lap-hoi-viet-nam-c
ach-mang-thanh-nien-1491879067.

24. Hà Thắng. (2016). Vì sao Nguyễn Ái Quốc chọn Trung Quốc để hoạt động cách mạng
năm 1924? Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam.
https://vov.vn/chinh-tri/vi-sao-nguyen-ai-quoc-chon-trung-quoc-de-hoat-dong-cach-m
ang-nam-1924-517052.vov.

25. T.Lan. (2008). Vừa đi đường vừa kể chuyện. Nxb Chính trị quốc gia.

26. Giao Hưởng. (2020). Nguyễn Ái Quốc - sư Hạnh Đa trên đất Xiêm: Bài 1: “Tàng
hình” giữa đại ngàn nhân sinh. Báo Kinh tế đô thị.
https://kinhtedothi.vn/nguyen-ai-quoc-su-hanh-da-tren-dat-xiem-bai-1-tang-hinh-giua
-dai-ngan-nhan-sinh.html.

27. Thuận, L. (2021, Freb 2). Vai trò của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị hợp nhất các tổ
chức cộng sản ở Việt Nam. tuyengiao.vn. Truy xuất từ
https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/vai-tro-cua-nguyen-ai-quoc-tai-hoi-nghi-hop-
nhat-cac-to-chuc-cong-san-o-viet-nam-132006
69

28. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam: Dành cho bậc đại học hệ không chuyên
lý luận chính trị (tr.60). NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998,
t.2.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998,
t.3.

31. TS. Trần Nam Tiến. (2011). Hoạt động Quốc tế (1911-1941) (tr.201-202). NXB Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.2.

33. Dũng, T., Duyên, N. Kỳ 4: Bông hoa “không thể hái” trên đất Hồng Kông. qdnd.vn.
Truy xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-4-bong-hoa-khong-the-hai-tren-dat
-hong-kong-661550

34. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3.

35. (2021, Sept 12). Dấu ấn của nhân dân Nam Kỳ trong cao trào 1930 – 1931 và đỉnh
cao Xô Viết Nghệ Tĩnh. hcmcpv.org.vn. Truy xuất từ
https://hcmcpv.org.vn/tin-tuc/dau-an-cua-nhan-dan-nam-ky-trong-cao-trao-1930-–-19
31-

36. PGS, TS. Trần Minh Trưởng. (2021, Sept 12). Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với phong
trào Xô viết Nghệ - Tĩnh. nghean.dcs.vn. Truy xuất từ
https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/lanh-tu-nguyen-ai-quoc-voi-phong-trao-xo-viet-nghe--
-tinh/73410-486108-755772

37. Vụ án Tống Văn Sơ. vi.wikipedia.org. Truy xuất từ


https://vi.wikipedia.org/wiki/Vụ_án_Tống_Văn_Sơ

38. TS. Văn Thị Thanh Mai. (2011, Nov 7). Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và tình
bạn thuỷ chung Hồ Chí Minh - Loseby. ditichhochiminhphuchutich.goc.vn. Truy xuất
từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/vu-an-nguyen-ai-quoc-o-hong-kong-va-tinh-
ban-thuy-chung-ho-chi-minh--loseby-223

39. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Nxb. CTQG, H, 2004.

40. Thanh, P., Hoà, T. (2014). Truyền thống luật sư Việt Nam. NXB Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.

41. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt giam ở Hồng Kông và cuộc đấu tranh
giải thoát Người khỏi nhà tù đế quốc. (2019). dangcongsan.vn. Truy xuất từ
70

https://dangcongsan.vn/dong-chi-nguyen-ai-quoc-bi-de-quoc-anh-bat-giam-o-hong-ko
ng-va-cuoc-dau-tranh-giai-thoat-nguoi-khoi-nha-tu-de-quoc-534243.html

42. Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông, Robin, Điện khẩn mật mã, Hà Nội ngày
8/6/1931 Nxb. CTQG, H, 2004.

43. TS. Văn Thị Thanh Mai. (2011, Nov 7). Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông và tình
bạn thuỷ chung Hồ Chí Minh - Loseby. ditichhochiminhphuchutich.goc.vn. Truy xuất
từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/vu-an-nguyen-ai-quoc-o-hong-kong-va-tinh-
ban-thuy-chung-ho-chi-minh

44. Minh, N., Duyên, N. Kỳ 5: Những năm tháng làm nên “dĩ bất biến”. qdnd.vn. Truy
xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-5-những-năm-thang-lam-nen-di-ba
t-bien-661687

45. Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, tr.187-189, NXB Chính trị Quốc
gia, 2008.

46. Huyền, K., Mai, B., Yến, T. Kỳ 3: Đau đáu tìm đường sớm về Tổ quốc. qdnd.vn. Truy
xuất từ
https://www.qdnd.vn/da-phuong-tien/longform/ky-3-dau-dau-tim-duong-som-ve-to-q
uoc-661519

47. Hằng, N. (2016, Jan 8). Nguyễn Ái Quốc và Đại hội VII Quốc tế cộng sản.
ditichhochiminhphuchutich.gov.vn. Truy xuất từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc-va-dai-hoi-vii-quoc-te-cong
-san-2396

48. TS. Đỗ Thị Mỹ An. (2017, July 31). Những ngôi trường Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
theo học. giaoducthoidai.vn. Truy xuất từ
https://giaoducthoidai.vn/nhung-ngoi-truong-chu-tich-ho-chi-minh-tung-theo-hoc-pos
t277782.html

49. (2019, Sept 11). Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản. dangcongsan.vn. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich
-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-90-nam-lich-su-dang/dai-hoi-lan-thu
-vii-quoc-te-cong-san-534732.html

50. Huy, Đ. (2011, Aug 24). Nguyễn Ái Quốc - Hồ Quang ở Văn phòng Bát Lộ Quế Lâm
- Trung Quốc. ditichhochiminhphuchutich.gov.vn. Truy xuất từ
http://ditichhochiminhphuchutich.gov.vn/nguyen-ai-quoc--ho-quang-o-van-phong-bat
-lo-quan-que-lam--trung-quoc-159

51. Mai, V., L, Đ. (2008, Dec 24). Nguyễn Ái Quốc - Những năm tháng gian khó.
cand.com.vn. Truy xuất từ
71

https://cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Nguyen-Ai-Quoc---Nhung-nam-thang-gian-kho-i29
4129/

52. (2019, Sept 17). Những ý kiến chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
dangcongsan.vn. Truy xuất từ
https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90-nam-lich
-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-90-nam-lich-su-dang/nhung-y-kien-
chi-dao-cua-dong-chi-nguyen-ai-quoc-535316.html
72

PHỤ LỤC
Lịch sử, một môn học tưởng chừng như chỉ được học thông qua những trang sách khô
khan hoặc cùng lắm chỉ là những thước phim tài liệu mà bản thân sinh viên không bao nghĩ
rằng sẽ có cơ hội trải nghiệm thực tế, nhưng chuyến thực tập Bắc Tiến vừa rồi thật sự đã hoàn
toàn “phá tan” định kiến đó. 11 ngày, một hành trình tuy không dài nhưng chắc chắn sẽ là
một dấu ấn, một kỷ niệm đẹp, một cơ hội mở mang tầm mắt trong cuộc đời của mỗi sinh viên
Quan hệ Quốc tế. Mỗi địa điểm trong chuyến hành trình mang lại một cảm xúc riêng.
Hà Nội, thủ đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, “tưởng” như sẽ có nhịp
sống vội vàng, hối hả nhưng lại mang trong mình sự yên bình đến lạ thường. Không gì có thể
sánh bằng một tách cà phê dưới cái nắng nhẹ nhàng trong không khí se lạnh của tiết trời Hà
Nội vào buổi sớm mai. Hà Nội, bên cạnh cái vẻ yên ả, cũng không kém phần hùng hồn và
trang nghiêm. Địa điểm chúng tôi được đặt chân đến vào buổi sáng đầu tiên chính là Lăng
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cảm xúc trong buổi sáng hôm ấy đặc biệt vô cùng. Tự hào khi đứng
trước vị Lãnh tụ đáng kính của dân tộc, người đã hy sinh cả cuộc đời mình cho độc lập tự do
của dân tộc. Tự hào khi đứng trên quảng trường Ba Đình, nơi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa được khai sinh. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng không thể tránh khỏi sự xúc động khi được
tham quan nơi mà Bác đã trút hơi thở cuối cùng. Chỉ có đến tận nơi và tận mắt được nhìn
thấy thì mới có thể cảm nhận được những cảm xúc mà việc xem qua tranh ảnh hay phim tài
liệu không thể nào có được.
Tràng An, Ninh Bình, một Di sản thiên nhiên được UNESCO công nhận là Di sản
Văn hóa và Thiên nhiên thế giới với vẻ đẹp hùng vĩ, thanh bình. Chúng tôi, những người trẻ
đã quá quen với nhịp sống nhộn nhịp, hối hả, tất bật của thành phố, “tưởng” như sẽ không có
sự hứng thú với một nơi yên ắng như vậy. Thế nhưng Tràng An đã “hớp hồn” chúng tôi ngay
từ cái nhìn đầu tiên. Trải nghiệm đi thuyền trên sông, qua những hang động là một trải
nghiệm vô cùng mới mẻ với những sinh viên Sài Gòn như chúng tôi. Ngồi trên con thuyền
gỗ, trôi trên dòng sông Hồng, trong lòng mỗi người chắc chắn sẽ trải qua cảm giác thanh bình
đến lạ.
Chuyến hành trình tiếp tục với điểm đến tiếp theo là Nghệ An - Quê Bác. Đối với các
thành viên nhóm tôi, đây là điểm đến đặc biệt vì đề tài báo cáo của nhóm chính là tại nơi đây,
“tưởng” như chúng tôi sẽ phải tiếp thu thêm nhiều kiến thức khô khan để làm báo cáo. Nhưng
khi bước chân vào ngôi làng, lắng nghe những thuyết minh viên kể về cuộc đời của cha và
mẹ của Bác cũng như về thời thơ ấu của Người tại hai ngôi làng Làng Sen và Làng Trù,
chúng tôi ngay lập tức bị cuốn theo bởi những câu chuyện vô cùng xúc động. Tuổi thơ Người
vốn vô cùng khó khăn, đến cái ăn, cái mặc cũng khó mà đầy đủ. Tuy nhiên, vào thời ấy, cái
thời mà học hành là một việc vô cùng xa xỉ, Người vẫn luôn phấn đấu, cố gắng học tập với
chí lớn, với mong muốn giành lại độc lập cho cả dân tộc. Được đặt chân đến gian nhà nhỏ
đơn sơ của Bác, tận mắt nhìn thấy hoàn cảnh của gia đình Bác, chúng tôi càng thêm xúc động
khi nhìn thấy bàn làm việc của Bác. Chỉ là một chiếc bàn gỗ nhỏ đặt ở góc cửa sổ cùng chồng
sách đã rất cũ. Sau khi rời khỏi ngôi làng, chắc chắn rằng trong mỗi sinh viên chúng tôi sẽ
hình thành nên một ý chí phấn đấu học tập mạnh mẽ, học tập theo gương Bác Hồ.
Xuôi theo chiều dọc của đất nước, chúng tôi đặt chân đến Quảng Trị. Tại đây, đoàn đã
viếng thăm và thắp hương tại Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn - một nơi “tưởng” như cũng
giống như bao nghĩa trang khác. Nhưng trên đường đến đây, chúng tôi không khỏi xúc động
73

và ngưỡng mộ vì được biết rằng các chiến sĩ hy sinh và được tưởng nhớ tại nghĩa trang liệt sỹ
Trường Sơn trong độ tuổi còn rất trẻ, khoảng trạc tuổi chúng tôi. Cùng ngày hôm đó, chúng
tôi còn đến thăm cầu Hiền Lương - sông Bến Hải tại nơi Vĩ tuyến 17, cột mốc nhiều đau
thương. Bước đi trên chiếc cầu đã cũ những vẫn còn nguyên vẹn 2 màu sơn, lòng chúng tôi
không khỏi cảm giác tự hào. Tự hào vì chúng tôi là người Việt Nam, là dân tộc anh hùng đã
đấu tranh vượt qua biết bao gian khổ để gắng sức thống nhất hai miền đất nước, giành lại sự
thống nhất cho Tổ quốc. Tự hào vì chúng tôi có cơ hội được bước trên cây cầu đã từng là cột
mốc chia cắt hai miền Nam Bắc mà giờ đây đã được thống nhất. Ngày tham quan hôm ấy là
một ngày với những cảm xúc thật đặc biệt trong suốt cả hành trình của chúng tôi.
“Đến Huế rồi, thương dòng sông Hương, đường qua Vĩ Dạ, chợ Đông Ba, Ngự Bình”
Thành phố Huế mộng mơ chính là điểm đến tiếp theo của chuyến đi. Huế, một thành
phố mang đậm nét văn hóa của nhà Nguyễn với nhiều kiến trúc cổ xưa cùng nhịp sống rất
khác biệt so với tất cả các thành phố khác ở Việt Nam. Khi đặt chân đến Huế, chúng tôi đã
ngay lập tức cảm nhận được sự nhẹ nhàng, chậm rãi của thành phố này khi nhìn thấy dòng
sông Hương - dòng sông trữ tình, là nguồn cảm hứng của biết bao thơ ca. Phải chăng chính
thiên nhiên vạn vật ở Huế đã hình thành nên người dân Huế với nhịp sống không hối hả,
không ồn ào vội vã mà lại vô cùng nhẹ nhàng, chậm rãi? Ở Huế, chúng tôi đã được đến thăm
Kinh thành Huế - nơi đóng đô của nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến khi thoái vị
vào năm 1945 và còn là một Di sản Văn hóa Thế giới được UNESCO công nhận. Đi trên
đường đến Kinh thành, từ xa đã trông thấy Kỳ đài hùng vĩ và cổ kính với lá cờ đỏ sao vàng
của nước ta đang tung bay. Chưa cần bước qua Ngọ Môn, chúng tôi đã bị choáng ngợp bởi sự
hoành tráng của Kinh thành. Tham quan Kinh thành Huế, chúng tôi không sử dụng từ nào
khác để diễn tả vẻ đẹp của Kinh thành ngoài “đẹp” và “rất đẹp”. Đây có thể nói là điểm đến
để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc trong suốt chuyến hành trình của chúng tôi. Chúng tôi cảm
thấy vô cùng biết ơn khi được tham gia vào chuyến thực tập lần này bởi có những nơi mà
không thể nào cảm nhận hết được vẻ đẹp của nó nếu không thật sự đặt chân đến đó.
Chuyến hành trình khép lại với điểm đến cuối cùng là thành phố Đà Nẵng. Có lẽ Đà
Nẵng là nơi đã gói gọn lại tất cả những điều tuyệt vời nhất trong suốt cả hành trình dài mười
một ngày của chúng tôi. Nếu được hỏi rằng hoạt động nào để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong
tâm trí của các bạn, chắc hẳn mọi sinh viên trong chuyến đi sẽ đều trả lời là “Đêm gala” và
chúng tôi cũng không là ngoại lệ. “Gala night” diễn ra trong không khí vô cùng đoàn kết và
sôi động bởi sự náo nhiệt của tuổi trẻ cùng khâu tổ chức vô cùng chu đáo đến từ phía Khoa.
Chuyến đi khép lại trong sự vui vẻ của tất cả sinh viên. Tuy nhiên, chuyến đi nào cũng để lại
những niềm vui và cả những điều tiếc nuối. Chúng tôi giá như có thêm thật nhiều thời gian
hơn để có thể trải nghiệm và cảm nhận hết được những nét văn hóa, con người, nhịp sống ở
những điểm đến trong suốt hành trình. Nhưng dù sao, chuyến thực tập Bắc Tiến vừa rồi cũng
đã để lại thật nhiều kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời sinh viên của chúng tôi. Thật là phải được
tận mắt nhìn thấy, tận tai nghe thuyết minh, tự bản thân cảm nhận thì mới có thể thấy rằng
“lịch sử” không là một cái gì đó “ngán ngẩm” như những giờ học trên lớp. Bên cạnh đó, cũng
có thể nhận ra rằng Việt Nam thật xinh đẹp, hùng vĩ biết bao. Nếu có cơ hội, chúng tôi chắc
chắn sẽ đi và trải nghiệm cho bằng hết đất nước Việt Nam xinh đẹp này.

You might also like