Câu hỏi ôn tập LSĐ

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 31

CÂU HỎI ÔN TẬP

MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM


Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930 và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam?
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng trong những năm 1945-1947, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống Pháp?
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của Đảng giai đoạn 1965-1975?
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm, mục tiêu, phương hướng
cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong Cương lĩnh 2011?
Câu 5: Anh (chị) hãy phân tích tính tất yếu, nội dung hội nghị thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam và nội dung cơ bản, ý nghĩa lịch sử của Cương lĩnh
chính trị đầu tiên (2-1930)?
Câu 6: Anh (chị) hãy phân tích tính chất, ý nghĩa và kinh nghiệm của Cách
mạng Tháng Tám năm 1945?
Hướng dẫn
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930 và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam?
Làm rõ:
Trình bày bc LS cuối 19, đầu 20 => khủng hoảng đường lối cứu nước => vai
trò tròng việc tìm ra đường lối cứu nước mới
Phân tích vai trò: Sự cbi về chính trị, tư tưởng, cách thức truyền bá.
Vai trò của NAQ trong hội nghị hợp nhất các đảng cs năm 1930.
Về ý nghĩa lịch sử:
Lược ý vào đây ^^
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng trong những năm 1945-1947, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống Pháp?
Nội dung đường lối kháng chiến
Nằm trong các văn kiện giai đoạn 1945-1947.
Kc nhất định thắng lợi
Chỉ thị kc kiến quốc
Lời kêu gọi toàn quốc kc
Kđ cuộc kc chính nghĩa, trường kì, lâu dài, nhất fđịnh thắng lợi.
Mục tiêu, thế nào là kc toàn dân, kc toàn diện, kc lâu dài, dựa vào sức mình là
chính
Ý nghĩa lịch sử:
Trong nước
Thế giới
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của Đảng giai đoạn 1965-1975?
Trước khi pitch nd đường lối, dựa trên cơ sở thực tế
Chỉ ra hoàn cảnh lịch sử: thuận lợi, khó khăn trên tg và trong nước.
Là sư tiếp nối, kế thừa và phát triển đường lối kc của đảng trong đh III năm
1960.
Về quyết tâm chiến lược: đông viên ll cả nước, coi mỹ là kẻ thù của dân tộc
=> quyết đb mỹ
Về mục tiêu chiến lược: đánh bại đq mĩ và bè lũ tay sai, bv miền bắc
Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục ct nd ở miền nam, chống ph ở mb,
đánh lâu dài, dựa sức mình là chính.
Tư tưởng chỉ đạo cl ct ở miền nam: giữ vững thế tiến công, đánh địch trên 3
vùng
Tư tưởng chỉ đạo cl ct ở miền bắc: đẩy mạnh xd cnxh, chi viện cho miền nam
Mqh cm 2 miền nam bắc: năm tiền tuyến, bắc hậu phương. Mqh ko thể tách
rời.
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm, mục tiêu, phương hướng
cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong Cương lĩnh 2011?
Chỉ ra đặc điểm: diễn ra trong bối cảnh mới phức tạp
Về đặc điểm xu thế chung
Đánh giá cnxh
Đặc điểm của thời đại
Mục tiêu: Xd 1 xhcn với mô hình dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
Đặc trưng:
1, Do nd làm chủ
2, Có nên kt pt cao, dựa trên nền ld mạnh
3, có nền vh tiên tiến, phong phú
4, con người pt toàn diện
5, các dân tộc bình đẳng đoàn kết cùng nhau pt
6, có nn pháp quyền chủ nghĩa do dân vì dân
7, do đảng cs lãnh đạo
8 có qh với các nước trên tg
Phương hướng:
Đẩy mạnh cnh hdh = ptr csxs
Tổ chức ht ktxh
Đb anqp
Xd nn pq
Xd đảng ts vm

8 mqh mới
Đối mới và pt
Dm kt và đm ct
Đm thị trường và định hướng xhcn
Giữa ll xs với pt xs
Giữa tang trưởng kt, pt vh từ trước mắt đến lâu dài
Giwuax xd và bv tq
Giữa đl tự chủ tự cường và qh qt
Giữa đảng lđ với nhân dân.
Phương hướng:
Làm đề cương:
Câu 1: Anh (chị) hãy phân tích vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong việc thành
lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2-1930 và ý nghĩa lịch sử của việc thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam?
A, Vai trò:
1, Bối cảnh:
- Từ cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa đế
quốc (nghĩa là đi xâm lược và chiếm thuộc địa), chúng đi vơ vét bòn rút đi cả nhân
lực và vật lực của các nước thuộc địa. Cuộc sống của người dân đã khó khăn, thì
nay càng cùng cực dưới ách thóng trị của bọn chúng. Chính điều đó đã làm cho
mâu thuẫn giữa các nước thuộc địa với chính quốc ngày càng gay gắt.
- Tuy nhiên bước ngoặt mới đã xảy ra, sự xuất hiện của chủ nghĩa Mac –
Lênin đã trang bị một thữ vũ khí mạnh mẽ cho nhưng phong trào cách mạng mới,
đó là cách mạng vô sản. Cùng với kết quả thắng lợi của cuộc CMT10 Nga năm
1917 biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với
các nước tư bản, mà còn có tác động sâu sắc đến phong trào giải phóng dân tộc ở
các thuộc địa.
- Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ giải phóng dân tộc là yêu cầu căn bản, là
nguyện vọng thiết tha của các nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống trị của thực dân Pháp
dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp nhau, song đều lần lượt
thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu trời Việt Nam. Dân
tộc Việt Nam rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng. Những phong trào yêu
nước khuynh hướng phong kiến và tư sản (cụ thể: con đường của cụ Phan Bội
Châu, cụ Phan Châu Trinh, cụ Hoàng Hoa Thám; Việt Nam quốc dân Đảng) đều
mang kết quả chung là thất bại khiến đất nước rơi vào “tình hình đen tối tưởng như
không có đường ra”. Do đó dù “khâm phục tinh thần cách mạng của cha ông,
nhưng Người không tán thành con đường cách mạng của họ. Người xuất ngoại,
đến nhiều quốc gia trên thế giới để tìm một con đường cứu nước mới”. Chính bối
cảnh đỏ đặt ra 1 đòi hỏi tất yếu: Muốn cứu nước, buộc phải đi theo 1 con đường
mới, chứ không phải đi lên vết xe đổ của bậc cha anh.
2, Vai trò:
a, Tìm thấy và lựa chọn con đường cứu nước mới (1911 -1920)
- Người (Nguyễn Tất Thành- lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc) bôn ba qua nhiều
nước và nghiên cứu những cuộc cách mạng đã giành thắng lợi tại những nước tư
bản phát triển nhất. Người đến cả những nơi bần cùng, khốn khổ nhất ở châu Mỹ,
châu Phi, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau để hiểu thực
chất hơn về chủ nghĩa tư bản, sự áp bức dân tộc của thực dân đế quốc. Người rút ra
kết luận: Ở đâu cũng có người nghèo khổ như nước mình do sự áp bức, bóc lột vô
nhân đạo của giai cấp thống trị. Chủ nghĩa đế quốc, thực dân là cội nguồn của mọi
đau khổ cho giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước chính quốc cũng như
thuộc địa. Người khẳng định: Muốn thoát khỏi nô lệ và áp bức bóc lột thì nhân dân
lao động toàn thế giới phải cùng đoàn kết lại để đấu tranh chống kẻ thù chung.
- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính
đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6-1919, tại Hội nghị của các nước thắng
trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất họp ở Versailles, (Vécxây, Pháp) , Tổng
thống Mỹ  Wooderow Wilson (Uynxơn) tuyên bố bảo đảm về quyền dân tộc tự
quyết cho các nước thuộc địa. Nguyễn Tất Thành lấy tên là Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Hội những người An Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị bản Yêu sách của
nhân dân An Nam (gồm tám điểm đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam) ngày
18-6-1919. Nhóm người Việt Nam tiêu biểu cho tinh thần yêu nước ở Pháp, gồm:
Phan Chu Trinh, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và
Nguyễn Ái Quốc. Những yêu sách đó dù không được Hội nghị đáp ứng, nhưng sự
kiện này đã tạo nên tiếng vang lớn trong dư luận quốc tế và Nguyễn Ái Quốc càng
hiểu rõ hơn bản chất của đế quốc, thực dân. 
- Tháng 7-1920, Người đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về
vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L'Humanité (Nhân
đạo), số ra ngày 16 và 17-7-1920. Những luận điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân
tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của
sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I.Lênin và lập trường đúng
đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở
để Nguyễn Ái Quốc xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại
Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp (12-1920) tại thành phố Tua (Tour).
Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng
sản do V.I.Lênin thành lập). 
- Ngay sau đó, Nguyễn Ái Quốc cùng với những người vừa bỏ phiếu tán
thành Quốc tế Cộng sản đã tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng
sản-tức là Đảng Cộng sản Pháp. Với sự kiện này, Nguyễn Ái Quốc trở thành một
trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên
của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường
chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Sự kiện đó đánh dấu bước ngoặt quyết định trong
cuộc đời hoạt động của Người, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản,
vừa là người yêu nước Việt Nam vừa là một chiến sĩ quốc tế; mở đường giải quyết
đúng đắn về đường lối giải phóng của dân tộc Việt Nam. Người khẳng định:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường
cách mạng vô sản”.
b, Truyền bá chủ nghĩa Mac – Lênin và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng
(1921 – 1929)
Bằng thiên tài và hoạt động cách mạng nhạy bén của mình, Nguyễn Ái Quốc
đã kịp thời đáp ứng nhu cầu bức thiết của lịch sử. Vượt qua những hạn chế về tư
tưởng của các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời,
Nguyễn Ái Quốc đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và
lựa chọn con đường cách mạng vô sản, con đường duy nhất đúng đắn phù hợp với
quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với
phong trào Cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến mạnh mẽ việc nghiên cứu
lý luận giải phóng dân tộc theo học thuyết cách mạng vô sản của chủ nghĩa
Mác-Lênin để truyền bá vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, từng bước chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho việc thành lập một
chính đảng cộng sản ở Việt Nam. Người nhấn mạnh: Cách mạng muốn thành công
phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến,
cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.
1.Về tư tưởng: Từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng một số nhà cách mạng của
các nước thuộc địa khác, Nguyễn Ái Quốc tham gia thành lập Hội liên hiệp thuộc
địa, sau đó sáng lập tờ báo Le Paria (Người cùng khổ). Người viết nhiều bài trên
các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, Tập san Thư tín quốc
tế,…
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành
lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc
tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân các nước thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh
giải phóng. Người chỉ rõ bản chất của chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực
dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động trên thế giới. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng về con
đường cách mạng vô sản, con đường cách mạng theo lý luận Mác-Lênin, xây dựng
mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các
nước thuộc địa và phụ thuộc. 
Năm 1927, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Đảng muốn vững phải có chủ
nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”. Đảng
mà không có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn, tàu không có bàn
chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luận Mác-Lênin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
2, Về chính trị. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, kế thừa và phát triển quan
điểm của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc  đưa ra
những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Người khẳng định
rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới giành độc lập
cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào, hướng tới xây dựng nhà nước mang
lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Nguyễn Ái Quốc xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc
địa không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công
trước cách mạng vô sản ở “chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô
sản ở “chính quốc”.  
Đối với các dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: trong nước nông
nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp
bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, phải xây
dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của
cách mệnh; còn học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của
công nông”. Do vậy, Người xác định rằng, cách mạng “là việc chung của cả dân
chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
3, Về tổ chức. Sau khi lựa chọn con đường cứu nước-con đường cách mạng
vô sản-cho dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc thực hiện “lộ trình” “đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc
lập”. Vì vậy, sau một thời gian hoạt động ở Liên Xô để tìm hiểu, khảo sát thực tế
về cách mạng vô sản, tháng 11-1924, Người đến Quảng Châu (Trung Quốc)-nơi có
đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để xúc tiến các công việc tổ chức thành
lập đảng cộng sản. Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong
Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. 
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên tại Quảng Châu (Trung Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố
chương trình, điều lệ của Hội, mục đích: để làm cách mệnh dân tộc (đập tan bọn
Pháp và giành độc lập cho xứ sở) rồi sau đó làm cách mạng thế giới  (lật đổ chủ
nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản).
Từ giữa năm 1925 đến tháng 4-1927, Hội đã tổ chức được trên 10 lớp huấn
luyện. au khi được đào tạo, các hội viên được cử về nước xây dựng và phát triển
phong trào cách mạng theo khuynh hướng vô sản. Trong số học viên được đào tạo
ở Quảng Châu, có nhiều đồng chí được cử đi học trường Đại học Cộng sản phương
Đông (Liên Xô) và trường Quân chính Hoàng Phố (Trung Quốc).
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên giúp cho những người Việt Nam yêu
nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách mạng của
Người, đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ phong trào công nhân và yêu nước theo
khuynh hướng vô sản. Việc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phản
ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ
chức cho Đảng ra đời.
c, Chủ động triệu tập và chủ trì hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930)
- Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong nước đòi hỏi
phải có một đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào tiếp tục
tiến lên. Từ giữa năm 1929 đến đầu năm 1930, trong bối cảnh tổ chức Hội Việt
nam cách mạng thanh niên có sự phân hóa và mất dần vai trò lãnh đạo cách mạng,
ở Việt Nam đã lần lượt xuất hiện ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản
đảng (17.6.1929), An Nam Cộng sản đảng (tháng 11.1929) và Đông Dương Cộng
sản liên đoàn (1.1.1930).
- Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được
tuyên bố thành  lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách
mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản không tránh khỏi phân
tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức. Yêu cầu bức thiết đặt ra là chấm
dứt hiện tượng biệt phái, chia rẽ giữa các nhóm cộng sản, phải thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đặt lên vai
Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người
duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử: Thống nhất các
tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
- Nắm bắt được tình hình trong nước, thực hiện sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng
sản, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm (Thái Lan) trở lại Trung Quốc, triệu tập Hội nghị
đại biểu các tổ chức cộng sản để thống nhất tổ chức, thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam. Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị đã họp từ ngày 6.1 đến ngày 7.2.1930,
trong cǎn phòng nhỏ của một người công nhân ở Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc). Tham gia Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh
(đại biểu Đông Dương Cộng sản đảng); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu
(An Nam Cộng sản đảng). Đại biểu Đông Dương cộng sản liên đoàn không tham
dự Hội nghị vì vừa mới được thành lập. Sau hơn một tháng làm việc khẩn trương
trong hoàn cảnh bí mật, Hội nghị đã quyết định thống nhất các tổ chức cộng sản,
thành lập một đảng cộng sản chân chính duy nhất ở Việt Nam lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Đến ngày 24.2.1930, Ban Chấp hành Trung
ương lâm thời đã họp quyết định chấp nhận đơn xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt
Nam của Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt
Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng cộng sản duy nhất. Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam (ngày 10.9.1960), quyết
nghị lấy ngày 3.2.1930 là Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
*Kết luận:
Có thể nói vai trò của Nguyễn Ái Quốc thể hiện ở việc sau khi tìm thấy, lựa
chọn con đường cứu nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ hoạt động khẩn
trương, tích cực, sáng tạo, chuẩn bị những tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức để
dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam mà còn nhạy cảm, nắm bắt được
tình hình cách mạng trong nước để triệu tập Hội nghị các tổ chức cộng sản thành
một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng
sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, người
sáng lập và rèn luyện Đảng ta.
Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng, chúng ta càng thấy công lao to lớn của Chủ
tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Tưởng nhớ và khắc
sâu công lao to lớn của Người, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải ra sức học
tập, nghiên cứu  trau dồi kiến thức lý luận và thực tiễn, học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức và phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận dụng vào giải quyết
những vấn đề trong thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước. Qua đó, tích cực đấu
tranh chống các quan điểm sai trái phủ nhận vai trò của Đảng, hạ thấp uy tín của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, góp phần bảo vệ Đảng, lãnh
tụ, chế độ và thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế hiện nay.
B, Ý nghĩa lịch sử:
- Là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giải phóng gia
cấp ở Việt Nam trong thời đại mới.
- Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh
cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách
mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỉ XX.
- Đảng ra đời làm cho cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây giai cấp công nhân và nhân dân
lao động Việt Nam tham gia một cách tự giác vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của nhân dân thế giới.
- Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất
quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt trong tiến trình lịch sử tiến
hóa của dân tộc Việt Nam, được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực
dân Pháp của Đảng trong những năm 1945-1947, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm
của Đảng trong lãnh đạo kháng chiến chống Pháp?
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong 3
văn kiện lớn được soạn thảo và công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến
toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện “Toàn dân kháng chiến” của TW Đảng
(12/12/1946), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Hồ Chí Minh (19/12/1946)
và tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
1, Mục đích kháng chiến: kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng Tháng
Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
2, Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc
chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn
dân, toàn diện và lâu dài”. “Là một cuộc chiến tranh tiến bô vì tự do, độc lập, dân
chủ và hòa bình”. Đó là cuộc kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân
chủ mới.
3, Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân,
thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
- Kháng chiến toàn dân: “Bất kì đàn ông, đàn bà không chia rẽ tôn
giáo, đảng phái, dân tộc, bất kì người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam
thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một
chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
- Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
+ Về chính trị: thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng
Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các
dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình.
+ Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du
kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “Triệt để dùng du
kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài … Vừa đánh
vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
+ Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc,
tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công
nghiệp quốc phòng.
+ Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân, phong kiến, xây dựng nên văn
hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
+ Về ngoại giao: Thực hiện them bạn bớt thù, biểu dương thực lực.
“Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng
đàm phán với Pháp nếu công nhận Việt Nam độc lập.
- Kháng chiến lâu dài (trường kì): Là để chống âm mưu đánh
nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời,
địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu
hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
- Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì
ta bị bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh
sinh. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc
đó cũng không được ỷ lại.
- Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn,
song nhất định thắng lợi.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là
đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với
nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp
với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công
bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi vào ổn định và
phát triển đúng hướng, từng bước đi vào thắng lợi.
*) Ý nghĩa lịch sử:
- Đối với nước ta:
+ việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực
dân Pháp được đế quốc Mĩ giúp sức ở mức độ cao, buộc chúng phải công
nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương;
+ giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa, hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam;
+ tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy tín
của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đối với quốc tế:
+ thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới;
+ mở rộng địa bàn, tang them lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách
mạng thế giới;
+ cùng với nhân dân Lào và Campuchia đạp tan ách thống trị của chủ
nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
*) Kinh nghiệm:
- Đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó
cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh
nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là
chính.
- Kết hợp chặt chẽ, đúng đắng nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm
vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống
cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hàng đầu là chống đế
quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
- Thực hiện phương châm vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ
mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực đáp ứng
mọi yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.
- Quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài,
đồng thời tích cực, chủ động đề ra và thực hiện phương thức tiến hành chiến
tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu
tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và
hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của Đảng giai đoạn 1965-1975?
Bối cảnh lịch sử:
- Từ đầu 1965, để cứu vã nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và
sự phá sản của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, đế quốc Mĩ ào ạt đưa quân
Mĩ và quân các nước chư hầu và miền Nam, tiến hành “Chiến tranh cục bộ”
với quy mô lớn;
- Đồng thời dung không quân, hải quân hùng hổ tiaans hành cuộc
chiến tranh phá hoại với miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định
phhát động cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước trên phạm vi toàn quốc.
- Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước,
cách mạng thế giới đang ở thế tiến công.
+ Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần I đã đạt và vượt các mục tiêu về
kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách
mạng miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ và đường biển.
+ Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn trong những năm 1961 –
1962, từ năm 1963, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã có bước phát triển
mới. Ba “chỗ dựa” của “Chiến tranh đặc biệt” (ngụy quân, ngụy quyền, ấp
chiến ược và đô thị) đều bị quân dân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965,
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mĩ được triển khai đến mức
cao nhất đã cơ bản bị phá sản.
- Khó khăn: sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở
nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Việc đế quốc Mĩ mở
cuộc “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mĩ và các nước chư
hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở
nên bất lợi cho ta.
⇨ Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng tatrong việc xác định
quyết tâm và đề ra đường lối kháng chiến chống Mĩ, cứu nước nhằm đánh
thắng giặc Mĩ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nội dung đường lối kháng chiến chống Mĩ giai đoạn 1965 – 1975:
- Về nhận đinh tình hình và chủ trương chiến lược: TW Đảng cho
rằng, cuộc “Chiến tranh cục bộ” mà Mĩ đang tiến hành ở miền Nam vẫn là
một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, buộc phải thực thi trong thế
thua, thế thất bại và bị động, cho nên nó chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến
lược.
🡺 Từ sự phân tích và nhận định đó, TW Đảng quyết định phát
động cuộc chiến tranh chống Mĩ, cứu nước trong toàn quốc, coi chống
Mĩ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: nêu cao khẩu hiệu “Quyết
tâm đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”, “kiên quyết đánh bại cuộc hiến tranh
xâm lược của đế quốc Mĩ trong bất kì tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc,
giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước”.
- Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc
chiến tranh nhân dân chống chiến tranh cục bộ của đế quốc Mĩ ở miền Nam,
đồng thời phát động chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mĩ
ở miền Bắc; thực hiện kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng
đánh càng mạnh và cố gắng đến mức độ cao, tập trung lực lượng của cả hai
miền để mở những cuộc tiến công lớn, tranh thủ thời cơ giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ
vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công.
“Tiếp tục kiên trì phương trâm đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh
chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng
chiến lược.
- Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Bắc:
Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững
mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện có chiến tranh, tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mĩ để bảo vệ
vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của ở mức
cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng ở miền Nam, đồng thời
tích cực chuẩn bị đề phòng để đánh bại địch trong trường hợp chúng liều
lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước.
- Nhiệm vụ và mối qua hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong
cuộc chiến tranh chống Mĩ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến
lớn, miền Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước,
vì miền Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến
tranh chống Mĩ. Phải đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ ở
miền Bắc và ra sức tăng cường lực lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm
bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên
đây không tách rời nhau, mà gắn bó mật thiết với nhau. Khẩu hiệu chung của
nhân dân cả nước lúc này là “Tất cả để đánh thắng giặc Mĩ xâm lược”.
Câu 4: Anh (chị) hãy phân tích đặc trưng, đặc điểm, mục tiêu, phương hướng
cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong Cương lĩnh 2011?
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh mới diễn biến phức
tạp.
Về đặc điểm, xu thế chung: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế
tri thức và quá trình toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển.
Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn; nhưng đấu
tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh
chấp lãnh thổ biển đảo, tài nguyên, cạnh tranh quyết liệt về kinh tế tiếp tục diễn ra
phức tạp. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Đông Nam Á phát triển năng động
những vẫn tiềm ẩn nhiều nhân tố mất ổn định. 
Đánh giá về chủ nghĩa xã hội: Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt
những thành tựu to lớn về nhiều mặt, từng là chỗ dựa cho phong trào hoà bình và
cách mạng thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. “Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ là tổn thất lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhưng một số nước
theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý
tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tục
phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước hồi phục”.
Đặc điểm nổi bật hiện nay của thời đại là: các nước có chế độ chính trị và
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh
gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn,
thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử,
loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”
Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong
Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới,
trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ
sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với
thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài
hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô
hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam .

Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang thu được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây
dựng đã thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

- Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Marx-Lenin về
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công
bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời
hạnh phúc…

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới
việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã
hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự.
Đây là khát vọng tha thiết của toàn thể nhân dân Việt Nam sau khi đất nước giành
được độc lập và thống nhất Tổ quốc.

- Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản
chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị
quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế
thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong đặc trưng vừa nêu còn được thể hiện trong
nhận thức của Đảng ta về việc từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
gắn liền với việc bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân (nhân dân
là chủ thể của mọi quyền lực).

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã
hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được
thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt
động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.
- Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà
nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn
vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng
cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng
những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế.

Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh
tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Quan điểm này hoàn toàn nhất quán với đặc trưng trong quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xác lập dần từng bước chế độ công
hữu. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải dựa trên chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu là một trong những yếu tố đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa trong phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế.

- Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể
hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc
(những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân
tộc...).
Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải
tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển
bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam
thống nhất trong đa dạng. Sự kết hợp hài hòa những giá trị tiên tiến với những giá
trị mang đậm bản sắc dân tộc thể hiện tính ưu việt của CNXH mà nhân dân ta đang
xây dựng trên lĩnh vực văn hóa, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan
trọng của phát triển.

- Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện.

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được
thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ
nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân
văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn
diện. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có
con người xã hội chủ nghĩa. Để có con người xã hội chủ nghĩa phải xác định và
hiện thực hóa hệ giá trị phản ánh nhu cầu chính đáng của con người trong xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng.

Vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát
triển) đã xác định hệ giá trị phản ánh nhu cầu, nguyện vọng thiết thực của con
người Việt Nam hiện nay là: có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện cá nhân. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội thể hiện trong đặc
trưng này là quan điểm nhân văn, vì con người, chăm lo xây dựng con người, phát
triển toàn diện con người (đức, trí, thể, mỹ) của Đảng và Nhà nước ta.

- Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các
quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa
dân tộc Việt Nam.

Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang
phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng
54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

- Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tính ưu việt của một xã hội do nhân dân làm chủ gắn bó mật thiết với tính ưu việt
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà
nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân,
tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ
chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…

- Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên
thế giới.
Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt
trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ
đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và
nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng,
cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau
trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp
quốc tế.

Việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn
đàn quốc tế và khu vực đã chứng minh một cách sinh động tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng, thể hiện trong đặc trưng về quan hệ
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta...
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng đã nêu ra 8 phương
hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta như sau:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
1.Sự phát triển nhận thức lý luận về phương hướng cơ bản của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
Với phương hướng 1:
-Những luận điểm đã rõ:
Nhìn nhận công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vấn đề cơ bản của việc phát triển
mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Xem xét công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước một cách toàn diện hơn: công nghiệp hóa gắn
hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức, tức
là phù hợp xu thế phát triển của nhân loại; gắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa với
bảo vệ tài nguyên, môi trường là phù hợp thực tế Việt Nam và kinh nghiệm của các
nước đi trước đã thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; gắn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nói chung với công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
là phù hợp thực tế Việt Nam.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tiêu chí của một nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như tiêu chí của
nền kinh tế tri thức vận dụng vào điều kiện cụ thể Việt Nam chưa thống nhất. Từ
đó làm cho chúng ta còn lúng túng về biện pháp, con đường, điểm đột phá để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như xây dựng nền kinh tế tri thức. Chúng
ta cũng chưa nhận thức rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân trong thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh
tế tri thức. Trong công nghiệp thì đột phá ngành gì, ưu tiên ngành gì cũng còn lúng
túng. Trong nông nghiệp cũng tương tự như vậy, chưa chọn được khâu đột phá để
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chưa thống nhất về mặt nhận thức lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
về kinh tế tri thức; còn cầu toàn quá về nghiên cứu lý luận nên chậm trong triển
khai thực tiễn. Hơn nữa, chúng ta chậm tổng kết thực tiễn thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường trong thời
kỳ đổi mới để rút ra những bài học cần thiết cho thực hiện phương hướng này.
Với phương hướng 2:
-Những luận điểm đã rõ:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta sẽ thực hiện nhất quán, lâu dài
mô hình kinh tế này. Những đặc trưng cơ bản của mô hình kinh tế này đã được nêu
ra và về đại thể là được chấp nhận trong toàn Đảng. Đặc biệt, tại Đại hội XII của
Đảng, những đặc trưng của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đã được nhận thức đầy đủ, đúng đắn, phù hợp với kinh tế thị trường hiện đại hơn.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Vẫn chưa thống nhất trong Đảng, nhất là trong xã hội về những đặc trưng cơ
bản của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là việc
cụ thể hóa những đặc trưng này trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, còn lúng túng trong tổ chức thực hiện. Do vậy, cơ
chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại và biểu hiện biến tướng phức tạp.
- Nguyên nhân hạn chế:
Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về vấn đề này còn chậm. Còn những
nhóm lợi ích nhóm xấu tìm mọi cách giữ lại cơ chế “xin – cho”. Hơn nữa, đây là
mô hình kinh tế mới chỉ có ở nước ta, nên không thể học hỏi kinh nghiệm các nước
khác được.
Với phương hướng 3:
-Những luận điểm đã rõ:
Nhận thức toàn diện hơn về xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc cũng như mối liên hệ giữa xây dựng văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
với xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội. Tư duy lý luận về vai trò của văn hóa đối với phát triển bền vững được
khẳng định, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu và
động lực của phát triển. Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là sức mạnh nội
sinh của phát triển bền vững; làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, đặc biệt là văn hóa nhân cách, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong
chính trị; tư duy bước đầu về xây dựng hệ giá trị, chuẩn mực của văn hóa, con
người Việt Nam thời kỳ đổi mới, chủ động hội nhập quốc tế; đổi mới, nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước trên lĩnh vực văn hóa. Khẳng
định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa là tất yếu chính trị.
Thực tiễn thực hiện phương hướng này cho thấy chúng ta đã nhận thức đầy
đủ hơn về vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ với tư cách
là quốc sách hàng đầu. Đã gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng
xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển. Chế độ phân phối đã thể
hiện được tinh thần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội của Đảng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ
xã hội chủ nghĩa còn chung chung, chưa rõ ràng, chưa cụ thể. Xã hội công dân
chưa được nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc chỉ đơn thuần là phủ định. Chưa đề ra
được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam; hệ giá trị con người Việt Nam. Chưa
có giải pháp đột phá để bứt phá về giáo dục, đào tạo; phát triển khoa học công
nghệ; trọng dụng nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở tư tưởng, quan điểm
chưa hoặc chậm triển khai trên thực tế.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta còn chủ quan và chưa nhận thức, đánh giá đúng vai trò, vị trí của
một số vấn đề văn hóa, xã hội, con người, giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ trong mối quan hệ với kinh tế; chưa nhận thức hết vai trò sức mạnh mềm của
văn hóa. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, còn tâm lý chỉ chú ý lo tăng trưởng
GDP. Chúng ta chậm tổng kết thực tiễn việc xây dựng xây dựng văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc với xây dựng con người.
Với phương hướng 4:
-Những luận điểm đã rõ:
Đã nhận thức và gắn kết nhiệm vụ quốc phòng, an ninh quốc gia với nhiệm
vụ giữ vững chế độ, bảo vệ Đảng, giữ vững an toàn, trật tự xã hội, văn hóa cũng
như gắn kết phương hướng bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia với với yêu cầu
giữ vững an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của nhân dân. Trên thực tế,
phương hướng bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội luôn gắn với nhiệm vụ đối ngoại. Nhận thức mềm dẻo, linh hoạt phù hợp
thực tiễn về “đối tác” và “đối tượng” trong quốc phòng, an ninh được thay thế cho
nhận thức cũ, cứng nhắc. Gắn xây dựng đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân
với kiên quyết, kiên trì giữa vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng đất,
vùng trời, vùng biển của Tổ quốc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Nhận thức lý luận về vấn đề ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh từ xa vẫn
còn chung chung, chưa cụ thể. Có những vấn đề liên quan đến nội bộ trong đời
sống xã hội của nhân dân gắn với an toàn, trật tự xã hội, bảo đảm cuộc sống của
nhân dân như “Luật biểu tình” chưa được nhận thức giải quyết triệt để, còn các ý
kiến trái chiều. Đây là một trong những nguyên nhân chưa giải quyết triệt để vấn
đề tụ tập đông người, lợi dụng dân chủ, “dân chủ quá trớn” gây mất trật tự, an toàn
xã hội cho người dân. Vấn đề an ninh phi truyền thống chưa được quan tâm đúng
mức. Việc nghiên cứu những dự báo chiến lược về lĩnh vực quốc phòng, an ninh
chưa theo kịp sự phát triển của tình hình. Đặc biệt là những nhận thức và tư duy
chiến lược về vấn đề biển Đông chưa chủ động, còn chậm so với một số nước khác
trong khu vực, thậm chí có lúc bị động, còn có biểu hiện chạy theo lợi ích kinh tế
mà coi nhẹ chiến lược quốc phòng, an ninh.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa tập trung nghiên cứu, giải quyết dứt điểm những vấn đề liên
quan quốc phòng, an ninh nảy sinh từ thực tế; còn thận trọng quá mức dẫn tới “né
tránh” vấn đề.
Với phương hướng 5:
-Những luận điểm đã rõ:
Đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết trong đối ngoại. Đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế đã được kiên trì, kiên định trong qúa trình thực hiện Cương lĩnh. Từ
“sẵn sàng là bạn” “chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” chúng ta đã chuyển
thành công sang phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” và “chủ động, tích cực hội nhập quốc tế” tức
là công tác đối ngoại ngày càng toàn diện hơn. “Đối ngoại nhân dân” đã được thay
bằng “Ngoại giao nhân dân”. Chúng ta luôn giữ vững nguyên tắc chiến lược, mềm
dẻo trong sách lược bằng những biện pháp, hình thức linh hoạt, sáng tạo, tranh thủ
điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng
hoà bình.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Tính tới tháng 9/2018, Việt Nam có 3 đối tác chiến lược toàn diện, 16 đối tác
chiến lược (bao gồm cả 3 đối tác chiến lược toàn diện) và 12 đối tác toàn diện
nhưng chúng ta chưa có “chiến lược, chương trình, nội dung” cụ thể cho từng đối
tác và chưa có trọng tâm, trọng điểm để đột phá về đối ngoại.
Nội hàm của khái niệm lợi ích quốc gia dân tộc, độc lập, chủ quyền, cùng thế
nào là ưu tiên bảo đảm lợi ích quốc gia dân tộc trong điều kiện hội nhập quốc tế
hiện nay còn chung chung, chưa rõ.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chưa xác định thật rõ liên minh hay liên hiệp mà mình phải dựa vào khi tình
hình khó khăn, trong khi bối cảnh thế giới biến động khôn lường. Do vậy, chúng ta
còn rất cẩn trọng trong xác định từng đối tác cụ thể trong đối ngoại. Công tác tổng
kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về những vấn đề trên còn chậm, chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn.
Với phương hướng 6:
-Những luận điểm đã rõ:
Chuyển “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của công cuộc đổi
mới” thành “dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, động lực của phát triển đất
nước”. Như vậy đầy đủ hơn, đúng đắn hơn, phù hợp thực tế hơn. Coi dân chủ xã
hội chủ nghĩa như một phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội. Gắn xây
dựng dân chủ xã hội chủ nghĩa với thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường
và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng
trên cơ sở “cộng đồng Việt Nam” rộng hơn trước kia trên cơ sở  các “dân tộc trong
nước”. Lấy điểm tương đồng về mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Cơ chế, phương thức thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra chưa rõ” cho nên việc phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân
còn hạn chế. Cơ chế, điều kiện thực hiện dân chủ trực tiếp của nhân dân còn hạn
chế. Phương thức hoạt động hiệu quả nhất trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn
thể nhân dân chưa rõ. Bệnh hành chính hóa, nguy cơ quan liêu hóa của các cơ quan
này được nhận thức từ sớm nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu, triệt để khắc phục.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chúng ta chưa quyết liệt giải quyết những vấn đề nảy sinh từ thực tế, bằng
lòng với kết quả đã có. Chưa tổng kết thực tiễn, xây dựng mô hình thí điểm hoạt
động của Mặt trận đoàn kết để tìm ra phương thức hoạt động tối ưu. Chưa quyết
liệt tổng kết thực hiện việc thí điểm nhân dân bầu trực tiếp một số chức danh lãnh
đạo ở cấp cơ sở và cấp quận (huyện) để tổ chức thực hiện trên cả nước.
Với phương hướng 7:
-Những luận điểm đã rõ:
So với Cương lĩnh 1991, lần đầu tiên tính chất pháp quyền xã hội chủ nghĩa
được khẳng định trong phương hướng xây dựng nhà nước ở Việt Nam. Coi xây
dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân trên tất cả các mặt lập pháp, hành pháp, tư pháp và xây dựng đội
ngũ công chức là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Chúng ta mới chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa mà chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân
dân hiệu quả nhất, cũng như phương thức thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thực
tế nhất trong điều kiện hiện nay.
Mô hình, cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn
chưa rõ, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Cụ thể cơ chế “phân công,
phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong
thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm rõ. Do vậy, chưa có cơ chế ngăn chặn
sự tha hóa quyền lực trong bộ máy nhà nước.
Chúng ta phủ định mô hình “tam quyền phân lập” của phương Tây một cách
giản đơn mà không nghiên cứu để tìm ra “hạt nhân hợp lý”, gạt bỏ những bất hợp
lý không phù hợp điều kiện Việt Nam.
- Nguyên nhân hạn chế:
Đây là vấn đề mới và khó cho nên chúng ta chưa nghiên cứu về mặt lý luận
một cách toàn diện, bài bản. Đã vậy, chúng ta chưa tổng kết được thực tiễn xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để rút ra bài học cho việc
kiểm soát quyền lực tốt hơn. Chúng ta chưa quyết liệt trong việc loại bỏ những
công chức biến chất, tha hóa ra khỏi bộ máy nhà nước. Việc xây dựng bộ máy nhà
nước tinh giản, hiệu lực, hiệu quả bàn, tổ chức triển khai nhiều nhiều nhưng kết
quả rất hạn chế.
Với phương hướng 8:
-Những luận điểm đã rõ:
Khẳng định và kiên trì, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không
chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động mà còn của cả
dân tộc. Cùng với xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức thì Đảng Cộng sản
Việt Nam rất coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức. Những luận điểm này phù hợp
thực tiễn Việt Nam và được thực tiễn chứng minh là đúng.
- Những nhận thức và vấn đề chưa rõ, hoặc còn khác nhau:
Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được
nêu ra từ rất sớm nhưng nội hàm, cơ chế vận hành của mối quan hệ này còn lúng
túng, chưa rõ. Quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và công dân cũng
chưa được làm rõ. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong Đảng cũng chưa được nhận
thức và giải quyết một cách quyết liệt. Cơ chế ngăn ngừa sự suy thoái tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, “tự suy thoái, tự chuyển hóa” còn chung chung.
- Nguyên nhân hạn chế:
Chậm nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng, vai trò của xây dựng Đảng về
Đạo đức; tổ chức thực hiện trên thực tế công tác xây dựng Đảng về đạo đức chưa
tốt. Chúng ta tổ chức đấu chống tham nhũng, quan liêu, cửa quyền ,v.v.. trong bộ
máy Đảng, chính quyền trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội nhưng hiệu quả không cao,
chưa đáp ứng yêu cầu mong mỏi của nhân dân và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Cương lĩnh đã đề ra tám phương hướng cơ bản cần phải quán triệt và thực
hiện tốt. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú
trọng, nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn, đó là:
 
1/- Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển
Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải kiên trì thực hiện đường
lối và mục tiêu đổi mới. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp
để đảm bảo sự ổn định và phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội.
2/- Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Trong thời gian tới, chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ ổn định kinh tế vĩ mô,
đổi mới mô hình tăng trưởng (từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển
hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô, vừa chú trọng nâng cao
chất lượng, hiệu quả và tính bền vững) và cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu
quả, phát triển bền vững. Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo
lộ trình thích hợp, trong đó trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tiếp tục đổi mới tư duy
kinh tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức Đảng; đổi mới, nâng
cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN; hoàn hiện hệ thống pháp luật, chính sách
kinh tế; đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sng năm 2001) cho phù hợp
với yêu cầu mới; đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, tiếp tuc đổi
mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị.
3/- Quan hệ giữa kinh tế thị tường và định hướng XHCN.
Chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu (sở hữu
Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân…), nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…), các loại
hình doanh nghiệp, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh và nhiều hình thức phân
phối (chủ yếu phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác, thông qua hệ thống an sinh, phúc lợi xã hội).
Nhưng phải đảm bảo định hướng XHCN. Để đảm bảo định hướng XHCN của nền
kinh tế thị trường, thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất
quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô; kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; phát triển kinh tế
đi đôi với phát triển văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách; hiệu lực, hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước
được nâng cao, phát huy mặt tích cực, hạn chế , khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ
chế thị trường; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh
tế. 
4/- Quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng
bước quan hệ sản xuất XHCN.
Một trong những đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là có
nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp. Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học,
công nghệ ngày càng cao. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường, đẩy mạnh ứng dụng khoa học
công nghệ. Phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng
và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất
với sự đa dạng, nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; quan hệ tổ chức,
quản lý sản xuất với nhiều hình thức tổ chức kinh doanh; quan hệ phân phối sản
phẩm với nhiều hình thức.
5/- Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.
Bên cạnh việc thực hiện các chính sách, các giải pháp để phát triển kinh tế,
xây dựng nền tảng về cơ sở vật chất cho CNXH, tạo ra nhiều của cải cho xã hội,
chúng ta phải tiến hành đồng thời các chính sách, giải pháp để phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách; cố gắng không để xảy ra phân hóa xã hội
một cách gay gắt sau những kết quả về tăng trưởng kinh tế.
6/- Quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là hai nhiệm vụ chiến lược. Bên
cạnh việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho việc xây dựng
CNXH, chúng ta cũng phải tăng cường sức mạnh quốc phòng an ninh, xây dựng
quân đội nhân dân, công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại.
7/- Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Trong hội nhập quốc tế, chúng ta tuân thủ đầy đủ các quy định mà các bên
liên quan đã ký kết, thỏa thuận, các thông lệ quốc tế, tạo các điều kiện để việc hợp
tác được thuận lợi, hiệu quả cao; đồng thời phải đảm bảo tính độc lập, tự chủ trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, văn hóa, đối ngọai…
phát huy nội lực, tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước,
đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại
8/- Quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị, xã hội. Đảng lãnh đạo bằng
Cương lĩnh, Chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng
hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng không bao
biện làm thay công việc của Nhà nước.
Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế XHCN. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó
mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Nhân dân là người làm chủ đất nước, nhân dân thực hiện quyền làm chủ
thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân
chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước
thông qua việc góp ý, kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ chức Đảng, đảng viên,
của bộ máy nhà nước, công chức, viên chức; thông qua việc giới thiệu người ưu tú
cho Đảng và thông qua việc tích cực thực hiện các chủ truơng, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. 

You might also like