Professional Documents
Culture Documents
Soanbai LSDcuoiky
Soanbai LSDcuoiky
Soanbai LSDcuoiky
➔ Hướng chủ yếu đối với lúa là thâm canh, tăng vụ và mở thêm diện tích ở những nơi có điều
kiện. Nhấn mạnh cây lúa, nhưng tuyệt nhiên không coi nhẹ hoa màu.
- Cần áp dụng hàng loạt biện pháp đồng bộ. Phải quan tâm các vấn đề sản xuất lương thực, phát
triển các vùng trồng rau, đậu, chú trọng vào chăn nuôi, khai thác và nuôi trồng thủy hải sản.
- Khuyến khích phát triển mạnh trồng cây công nghiệp, bảo vệ vốn rừng và trồng rừng
b. Hàng tiêu dùng
- Phải bảo đảm sản xuất đa dạng loại hàng tiêu dùng, tăng sản lượng phải đi liền với việc bảo
đảm chất lượng, không ngừng đổi mới quy cách, bảo đảm kỹ thuật và mỹ thuật
- Ưu tiên các điều kiện vật chất, tận dụng công suất của các xí nghiệp hiện có. Đổi mới, phát
triển cơ sở hạ tầng cho các xí nghiệp đã có hệ thống máy móc cũ, lạc hậu.
- Tận lực khai thác các nguồn nguyên liệu trong nước, đồng thời ưu tiên dành ngoại tệ để nhập
khẩu những nguyên liệu cần phải nhập (về cả nguyên liệu từ nông nghiệp và khoáng sản)
- Dành nguyên liệu, sửa đổi giá gia công, tạo điều kiện khuyến khích phát triển và đổi mới các
ngành nghề thủ công
- Thực hiện chính sách tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm, khuyến khích và bảo vệ sản xuất, xác định
tiêu dùng phù hợp với khả năng thực tế của nền kinh tế
- Cần sắp xếp, mở rộng sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm các loại hàng kim khí tiêu
dùng
c. Xuất khẩu
- Xây dựng một quy hoạch dài hạn và một kế hoạch cụ thể cho từng thời kỳ về sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu. Đầu tư đủ mức, bảo đảm quỹ vật tư cần thiết cho sản xuất, chú trọng các vùng
sản xuất tập trung, các mặt hàng chủ lực
- Khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán, thiết lập trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực ngoại
thương
- Hoan nghênh những tổ chức kinh tế của nước ngoài quan hệ trực tiếp với các tổ chức kinh tế
Việt Nam để mở rộng quy mô hợp tác, thỏa mãn lợi ích của cả hai bên, theo chính sách và luật
pháp của Nhà nước ta.
- Tổ chức trên quy mô lớn việc làm gia công hàng xuất khẩu, mở rộng việc đưa lao động và
chuyên gia đi làm việc ở các nước
- Cải tiến sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng động, nhanh nhạy để thích ứng kịp thời với
những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường bên ngoài
4, Phân tích 5 phương hướng phát triển kinh tế của ĐH VI
Phương hướng:
Sau những mục tiêu cụ thể, Đại hội VI đã nêu ra năm phương hướng cơ bản của chính sách kinh
tế - xã hội và đề ra hệ thống các giải pháp để thực hiện mục tiêu, đó là:
- Bố trí lại cơ cấu sản xuất
- Điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư và xây dựng, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
- Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; phát huy động lực của khoa học - kỹ thuật
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Phân tích:
a. Bố trí lại cơ cấu sản xuất:
- Phát triển công nghiệp nhẹ, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp; tăng gia công nông, lâm, thuỷ
sản, hàng xuất khẩu khác.
- Tiếp tục xây dựng một số cơ sở công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng phục vụ các mục tiêu kinh
tế, quốc phòng
- Mở rộng các loại hoạt động dịch vụ phục vụ sản xuất, lưu thông, đời sống và du lịch.
- Tăng mức đầu tư, đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức lại lực lượng, làm cho khoa học kỹ thuật
đem lại hiệu quả thiết thực trong sản xuất và đời sống
b. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư xây dựng và củng cố quan hệ đầu tư sản xuất XHCN:
Tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài; trong nước phát huy mọi khả năng về vốn của tất cả các
ngành, địa phương và cơ sở, các thành phần kinh tế.
- Nông nghiệp: tập trung sản xuất lương thực, thực phẩm; đầu tư cho thuỷ lợi, cây công nghiệp,
bảo quản và chế biến lương thực, thực phẩm
- Công nghiệp hàng tiêu dùng: chú trọng đầu tư chiều sâu và đồng bộ hoá, dựng thêm xí nghiệp
chế biến đường, chè, dầu dừa…; bảo đảm đủ cơ sở để gia công hàng xuất khẩu
- Công nghiệp nặng: ưu tiên đầu tư năng lượng, phân bón, cơ khí…
- Giao thông vận tải: củng cố và giải quyết yêu cầu cấp bách trên các tuyến quan trọng.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
c. Sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế:
- Tăng cường kinh tế xã hội chủ nghĩa, làm kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể giữ vị trí quyết
định, chi phối các thành phần kinh tế khác.
- Khuyến khích phát triển kinh tế gia đình.
- Sử dụng kinh tế tiểu sản xuất, vận động và tổ chức những người lao động cá thể vào các hình
thức làm ăn tập thể
- Sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương, giúp người không cần thiết trong lĩnh vực lưu thông
chuyển sang sản xuất và dịch vụ.
- Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân trong một số ngành, nghề, cải tạo họ bằng nhiều hình thức kinh
tế tư bản nhà nước.
- Xoá bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân.
- Mở rộng nhiều hình thức liên kết giữa các thành phần kinh tế theo nguyên tắc cùng có lợi, bình
đẳng trước pháp luật.
d. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật:
- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tạo ra động lực thúc đẩy các đơn vị kinh tế và quần chúng lao
động phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
- Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế
kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa
- Lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thực hiện phân
cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thiết lập trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động
kinh tế.
- Chủ trương kiên quyết chủ động chuyển từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác, cùng
tồn tại hòa bình.
- Lợi dụng cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế toàn cầu hóa để tranh thủ vị trí có lợi trong
phân công lao động quốc tế
e. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
- Đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.
- Tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế.
- Chủ động cùng các nước anh em xây dựng và thực hiện chương trình của Hội đồng tương trợ
kinh tế giúp đỡ Việt Nam
- Tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước khác,
- Thực hiện nghiêm túc các cam kết của nước ta trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
3/ Ý nghĩa ĐH VI (nhóm 8)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) có ý nghĩa lịch sử trọng đại,
đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Là Đại hội đề
ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước.
Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá
độ lên CNXH của nước ta và mở ra thời kì phát triển mới cho cách mạng VN.
Là mở đầu cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nươc, là đại hội kế thừa và quyết tâm dổi
mới, đoàn kết bền lâu. Đường lối đổi mới của đại hội VI đã mở đường cho đất nước thoát khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội tiếp tục đi lên CNXH.
Đại hội đã thực sự đi vào cuộc sống trở thành động lực thúc đẩy kinh tế nước ta phát triển, làm
thay đổi bộ mặt của xã hội, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của lịch sử cách mạng VN
ĐH thể hiện sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm
cao của Đảng trước đất nước và trước dân tộc.
Các Văn kiện của đại hội mang tính khoa học và cách mạng, tạo bước ngoặt cho sự phát triển
của cách mạng Việt Nam. Sau ĐH, Đảng đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn
diện, từng bước tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển, đưa cách mạng nước ta từng bước đạt
được những thành tựu rất quan trọng.
Đánh dấu sự trưởng thành của Đảng. Đảng đã nhìn thẳng vào sự thật vào những sai lầm khuyết
điểm và đổi mới theo xu thế mới của thời đại mới
Là đại hội: “Trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới” // (1 câu mà nói lên ý nghĩa của Đại hội)
Tuy nhiên, đại hội VI còn có những hạn chế như chưa tìm ra những giải pháp hiệu quả tháo gỡ
tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông.
Tổng kết
Đại hội đại biểu VI của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang gặp rất nhiều khó khăn và
tình hình thế giới gây nhiều bất lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy còn những
thiếu sót không tránh khỏi cũng như những sai lầm những Đại hội đại biểu VI đã tạo ra một bước
ngoặt cho sự phát triển của nước ta, đã đạt được những thành tựu đáng kể cho công cuộc phát
triển của đất nước với mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
Sau Đại hội đại biểu VI của Đảng nhà nước ta, cùng với sự đi lên của đất nước, nước ta còn phải
đối mặt với rất nhiều thách thức, việc Việt Nam gia nhập WTO, đánh dấu sự nỗ lực của Đảng và
nhà nước trong việc tìm tòi đường lối phát triển đất nước một cách đúng đắn. WTO được coi là
“cơ hội vàng” cho sự phát triển kinh tế của nước nhà, không những thế còn đặt ra những khó
khăn trước mắt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trước những thách thức của thời kì hội nhập.
Đại hội VI của Đảng là minh chứng lịch sử quan trọng cho vai trò của đổi mới cho sự phát triển,
và khẳng định trong thời đại này muốn phát triển ta phải không ngừng đổi mới trong tư tưởng
cũng như phương thức sản xuất mới có thể đưa nước ta đi lên Chủ nghĩa xã hội cũng như cùng
sách vai với các cường quốc năm châu.
Câu 6:
1/ Hoàn cảnh lịch sử ĐHVII (năm 1991) (nhóm 6)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 trong
bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp:
- Tình hình quốc tế: có những thay đổi lớn, tác động sâu sắc đến nước ta. Đang diễn ra cuộc tấn
công quyết liệt của các thế lực thù địch đế quốc và phản động vào các lực lượng hoà bình, độc
lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội nhằm tiến tới xóa bỏ chủ nghĩa xã hội bằng mọi thủ đoạn thâm độc;
cuộc khủng hoảng toàn diện trong hệ thống xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở các nước Đông Âu (1989 - 1990). Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô đang đứng
trước những thử thách nghiêm trọng và dẫn tới sự thất bại vào nửa cuối năm 1991. So sánh lực
lượng diễn ra bất lợi cho lực lượng cách mạng trên thế giới.
- Ở trong nước, sau hơn 4 năm thực hiện đường lối đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có những
chuyển biến tích cực, song vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng. Mặt khác, trước sự khủng hoảng và
sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa đã tác động không nhỏ tới lập trường, tư tưởng và niềm tin
vào chủ nghĩa xã hội của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bối cảnh trên đây đặt ra cho Đại hội VII một nhiệm vụ hết sức nặng nề là phải đề ra đường lối để
đưa đất nước thoát khỏi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đại hội VII đã
chỉ rõ những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Việt Nam mà nhân dân ta đang phải xây
dựng.
2/Nội dung 6 đặc trưng cơ bản của CNXHVN ĐHVII đề ra, nêu và phân tích ngắn gọn
(Nhóm 5)
6 đặc trưng cơ bản của CN XHVN ĐHVII (1991) đề ra, nêu và phân tích ngắn gọn:
Dựa vào việc nhận thức lại một cách đầy đủ và đúng đắn các quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, tổng kết hơn 60 năm Đảng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam; chỉ ra những thành công, khuyết điểm, sai lầm và nêu ra năm bài học lớn, kết
hợp với những kinh nghiệm của thế giới và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta, đặc
biệt là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (1986), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng xác định “mô hình
xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” gồm 6 đặc trưng cơ bản nhất.
1, Do nhân dân lao động làm chủ: Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do
dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là nền
tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của
nhân dân
2, Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng
bước xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất
lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
3, Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc : Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hoá
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức
đạo đức thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng văn hoá phản tiến bộ, trái với những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng
đi lên chủ nghĩa xã hội.
4, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao
động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
5, Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ: Thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực
lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.
6, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới: Thực hiện chính
sách hoà bình, hợp tác phát triển và hữu nghị với tất cả các nước. Trung thành với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả lực lượng đấu
tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới
3/Nêu ĐH XI năm 2011 (2011) bổ sung và phát triển các đặc trưng cơ bản của CNXHVN
mà nhân dân ta phải xây dựng như thế nào (nhóm 8)
Những bổ sung, điều chỉnh trong Đại hội XI:
Thứ nhất, so với Cương lĩnh 1991, Cương lĩnh 2011 đã bổ sung hai đặc trưng mới:
1. Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
2. Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo.
Trong Văn kiện Đại hội X, hai đặc trưng quan trọng này cũng đã được nêu ra khi nói về chủ
nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Song, trong đặc trưng thứ nhất của Cương lĩnh 2011, tiêu
chí dân chủ được đặt trước tiêu chí công bằng. Thực tiễn cho thấy, nước ta hiện nay, dân chủ và
việc thực hiện dân chủ giữ vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Dân chủ
không những là mục tiêu, mà còn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
phát triển nhanh và bền vững. Khi dân chủ được bảo đảm mới có thể nói đến công bằng và đến
lớn mạnh, những điều đó mới thể hiện sự văn minh.
Việc bổ sung đặc trưng ''có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản'' thể hiện vị trí đặc biệt quan trọng của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị của Việt Nam. Nhà nước ấy thuộc về
nhân dân, do nhân dân xây dựng nên và hướng tới phục vụ lợi ích của nhân dân, là cơ quan
quyền lực của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mục tiêu căn bản của công cuộc đổi mới nói
chung, của đổi mới chính trị và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở nước ta chính là xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là một trong những điều
kiện tiên quyết để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ hai, nếu Cương lĩnh năm 1991 xác định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội ''do nhân dân lao
động làm chủ'' thì trong Văn kiện Đại hội X và Cương lĩnh 2011, đặc trưng thứ hai được điều
chỉnh thành ''do nhân dân làm chủ''. Rõ ràng, khái niệm ''nhân dân” trong Văn kiện Đại hội X có
nội hàm rộng hơn so với khái niệm ''nhân dân lao động'' được đề cập trong Cương lĩnh năm
1991. Điều này cho phép thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân tộc và huy động sức mạnh của
toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đặc trưng thứ 2 trong Cương lĩnh năm 1991 ''Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu'' được Cương lĩnh
2011 bổ sung bằng ''Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp''. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Bởi lẽ, theo quan niệm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là xương sống của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sở hữu chế độ công hữu) không
đồng nhất với quan hệ sản xuất. Dù đóng vai trò hết sức quan trọng, song quan hệ sở hữu cũng
chỉ là một trong 3 yếu tố (quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối) cấu thành quan
hệ sản xuất. Cũng cần lưu ý rằng, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra một trong
những bài học quan trọng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lựclượng sản xuất.
Thứ tư, cụm từ ''được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” trong đặc trưng thứ tư của
Cương lĩnh 1991 (cụm từ “được giải phóng khỏi áp bức, bất công” ở đặc trưng thứ 5 của mô
hình chủ nghĩa xã hội nêu trong Văn kiện Đại hội X) được Cương lĩnh 2011 lược bỏ và xác định
là ''Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”. Theo
chúng tôi điều này là hợp lý. Bởi lẽ, sự ''ấm no, tự do, hạnh phúc'' của con người cũng đã bao
hàm ý nghĩa được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công.
Thứ năm, trong Cương lĩnh năm 2011 xác định ''con người... có điều kiện phát triển toàn diện''
(trong Cương lĩnh 1991 viết: ''Con người... có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân'', cũng Văn
kiện Đại hội X ghi ''con người ... được phát triển toàn diện''). Việc bổ sung cụm từ ''có điều kiện”
là chính xác thể hiện trong chủ nghĩa xã hội sự phát triển của con người luôn được tạo điều kiện,
đồng thời phải căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thứ sáu, trong đặc trưng thứ 5 của Cương lĩnh năm 1991 viết ''Các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ”; trong Văn kiện Đại hội X viết: ''Các dân tộc
trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ''. Trong
Cương lĩnh năm 2011, đặc trưng này được điều chỉnh thành ''Các dân tộc trong cộng đồng Việt
Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển''. Việc thay thuật ngữ ''tương
trợ'' bằng thuật ngữ ''tôn trọng'' hoàn toàn đúng đắn và làm cho đặc trưng này có nội dung toàn
diện hơn (với 4 tiêu chí: bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau), bởi thuật ngữ ''tương trợ”
và ''giúp nhau” (trong Văn kiện Đại hội X), về cơ bản, có nội dung như nhau.
Thứ bảy, nếu Cương lĩnh 1991 xác định đặc trưng thứ 6 của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới'' thì trong Văn kiện Đại
hội lần thứ X và trong Cương lĩnh 2011, nó được diễn đạt một cách chính xác hơn - ''Có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới''. Cụm từ ''với các nước trên thế giới'' rõ ràng rộng
hơn cụm từ ''với nhân dân tất cả các nước trên thế giới''. Nó thể hiện mối quan hệ hữu nghị và
hợp tác của Việt Nam không chỉ với nhân dân các nước, mà cùng với nhà nước, chính phủ và các
tổ chức phi chính phủ của các nước trên thế giới.
4/ Ý nghĩa ĐH XI (nhóm 7)
- Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới
- Đại hội đã đề ra các biện pháp để giải quyết những nhiệm vụ trước mắt và định hướng lâu dài
cho hành động của Đảng và nhân dân ta.
- Đại hội có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tầm nhìn có tính nguyên tắc, sáng tạo trong việc
giải quyết các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng thời khẳng định và kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phấn đấu đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Câu 7:
1/Thắng lợi của CM tháng 8/1945 (nhóm 4)
1. Khái quát về CMT8
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến
hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra
giành được thắng lợi ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền
Nam và ở các thị xã khác. Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi ở Hà Nội. Ngày
23-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Huế và một số tỉnh thành. Ngày 25-8, khởi nghĩa thắng lợi ở Sài
Gòn - Gia Định, ...Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù Côn Đảo đã lãnh đạo các chiến sĩ cách mạng bị
giam cầm nổi dậy giành chính quyền. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi
nghĩa đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Ngày 2-9-1945,
tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) lịnh sử, trước cuộc mít tinh của gần một triệu đồng bào, Chủ
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên
bố trước quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam). Từ đó, ngày 2-9 là Ngày Quốc khánh của nước ta.
2. Nguyên nhân thắng lợi
- sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng;
- sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin
- phong trào đấu tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới phát triển mạnh.
3. Ý nghĩa lịch sử
- mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam
- chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách
đô hộ của thực dân, phát xít.
- ý nghĩa và vai trò quan trọng giúp cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị
chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị
4. Bài học kinh nghiệm
- Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống
phong kiến.
- Thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông
- Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ.
- Nắm vững quan điểm bạo lực cách mạng của quần chúng
- Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám
2/ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống TD Pháp 1954 (nhóm 3)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến
hành liên tục trong hơn 9 năm đầy gian khổ. Thắng lợi giành được tuy chưa trọn vẹn, nhưng
đánh dấu một bước phát triển vượt bậc có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đối với cách mạng Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn
trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc. Đảng khẳng định: “Sau 9 năm kháng chiến,
những thắng lợi lớn của ta về mặt quân sự và cải cách ruộng đất, cũng như về mặt tài chính, kinh
tế, văn hóa, giáo dục, xây dựng mặt trận, xây dựng đảng, vv đã đánh dấu một bước tiến rất lớn
của quân và dân ta. Những thắng lợi ấy đã làm cho lực lượng so sánh giữ ta và địch chuyển biến
có lợi cho ta, nhưng chưa phải chuyển biến căn bản...” Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại
cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của đội quân xâm lược nhà nghề có tiềm lực quân sự
và kinh tế hùng mạnh, được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các tướng tá quân sự tài ba
của Pháp-Mỹ, cùng với các phương tiện chiến tranh, trang bị vũ khí, công nghệ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại nhất lúc bấy giờ. Đập tan hoàn toàn ách thống trị kéo dài hơn 80
năm của chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến tay sai ở Việt Nam. Và đây là lần đầu tiên trong
lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng
lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình,
dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng lợi này cũng góp phần xứng đáng vào sự nghiệp
đấu tranh vĩ đại của nhân loại tiến bộ, vì nền hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới; có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào ðấu tranh giải phóng dân tộc thuộc ðịa ở các
châu lục Á, Phi, Mỹ La tinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ và
phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945; củng cố và phát
triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; bước
đầu phát huy cao nhất quyền dân chủ căn bản của người dân Việt Nam, mang đến niềm tin vào
sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam. Qua quá trình kháng chiến lâu dài, gian khổ lực lượng vũ trang nhân dân chính quy
(Quân đội nhân dân và Công an nhân dân) cùng các lực lượng vũ trang khác được Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh khai sinh, rèn luyện, giáo dục đã có sự phát triển và trưởng thành mạnh mẽ về
mọi mặt; lực lượng vũ trang nhân dân đã đóng vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, là mũi
nhọn sức mạnh làm nên những thắng lợi quyết định trên mặt trận quân sự. Lực lượng vũ trang
nhân dân từng bước phát triển và đã thực sự trở thành công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy của
Đảng và Nhà nước trên mặt trận đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, có bản lĩnh giai cấp vững
vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, làm rường cột để phát triển
chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân chống xâm lược và trên cơ sở đó xây dựng nền nghệ
thuật quân sự cách mạng độc đáo Việt Nam. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã đưa
đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo ra tiền đề về chính trị-xã hội quan trọng để Đảng
quyết định đưa miền Bắc phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc
miền Bắc, đưa miền Bắc trở thành hậu phương lớn, chỗ dựa vững chắc chi viện cho tiền tuyến
lớn miền Nam sau này và đóng vai trò là nhân tố quyết định nhất đối với công cuộc đấu tranh
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
3/ Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ 1975 (nhóm 2)
1. Diễn biến
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài gần 21 năm (1954 – 1975), trải qua 5 giai đoạn chiến lược;
là cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ và nhiều thử thách, cam go, ác liệt liệt nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Nhưng dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, cuối cùng quân và dân ta đã chiến đấu và
chiến thắng kẻ thù một cách oanh liệt.
2. Nguyên nhân thắng lợi:
• Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn,
sáng tạo, phương pháp đấu tranh linh hoạt.
• Tinh thần yêu nước, đoàn kết chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta
• Sự đồng tình, ủng hộ của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ thế giới: Liên Xô, Trung
Quốc và các nước XHCN khác.
3. Ý nghĩa lịch sử quan trọng
- Chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa thực dân - đế quốc trên đất nước ta. Mở ra kỉ nguyên mới
của lịch sử dân tộc - kỉ nguyên đất nước độc lập, thống nhất, đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Là nguồn cổ vũ to lớn đối với phong trào cách mạng thế giới, nhất là đối với phong trào giành
độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình.
4. Bài học kinh nghiệm quan trọng
- Xác định đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4/ Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới sau hơn 35 năm từ 1986 đến nay (nhóm1)
Với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Việt Nam đã đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều
hạn chế, yếu kém cần phải tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và
bền vững. Thành tựu của sự nghiệp đổi mới:
+ kinh tế
+ văn hóa-xã hội
+ ANQP
+ Đối nội
+ Đối ngoại
1. Kinh tế
- Kinh tế tăng trưởng khá, kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế
được duy trì hợp lý và được đánh giá là thuộc nhóm nước có mức tăng trưởng khá cao trên thế
giới. Môi trường đầu tư được cải thiện, đa dạng hóa được nhiều nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
→ Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so với các nước trong
khu vực và thế giới, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình trên thế giới.
- Hình thành nền kinh tế thị trường định nghĩa xã hội chủ nghĩa, thể chế hóa pháp luật, cơ chế,
chính sách. Thị trường hình thành và phát triển, gắn kết với khu vực và quốc tế. Cơ sở hạ tầng
phát triển, hình thành các ngành công nghiệp mới hiện đại: dầu khí, thủy điện, nhiệt điện, …
2. Văn hóa xã hội
- Văn hóa - xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay
đổi. Ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị về: giáo dục, khoa học, công nghệ, báo chí, xuất bản, văn
học nghệ thuật, …
- Dân trí cao hơn, cá nhân và xã hội được phát huy. Quyền tự do sáng tạo, quảng bá văn hóa, văn
học, nghệ thuật, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quan tâm thực hiện. Nổi bật là phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới”
- Về các vấn đề xã hội: Nhà nước có chính sách việc làm phù hợp với nền kinh tế thị trường. →
Chỉ số phát triển con người tăng lên. Xây dựng nông thôn mới có nhiều tiến bộ, hoàn thành được
phần lớn mục tiêu. Thành tựu về giảm nghèo của Việt Nam được công nhận và đánh giá cao. Hệ
thống chăm sóc sức khỏe người dân phát triển, có nhiều chính sách dành cho người có công.
3. An ninh quốc phòng - An ninh quốc phòng được giữ vững, phát triển và hoàn thiện, nhận thức
rõ hơn về vai trò của quốc phòng, có quan niệm đúng đắn về MQH giữa an ninh quốc phòng với
kinh tế. → đặt lên hàng đầu. → Đảng khẳng định: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng
là then chốt, phát triển văn hóa-nền tảng tinh thần của xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên.
4. Đối nội:
- Nhận thức về xây dựng và phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ
- Về xây dựng và phát huy dân chủ XHCN: Khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; nhận thức rõ hơn cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị nước ta, chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
Chính trị - Xã hội.
- Đã nhận thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN VN
- Đảng đã xác định rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất của Đảng. Quy định rõ hơn vai trò, thẩm quyền
và trách nhiệm cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng.
5. Đối ngoại: đạt nhiều thành tựu mới.
- Nhận thức chung của Đảng ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn, nhận thức về hợp tác và đấu tranh
đã được đổi mới, nhìn nhận có tính biện chứng trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc trong từng
hoàn cảnh cụ thể.
- Nhận thức thực tế hơn quan hệ với các nước XHCN và bạn bè truyền thông và quan hệ với các
nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu. => Nhìn chung,
những thành tựu tất yếu trên đã tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển;
khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn CN và xu thế phát triển
của lịch sử. Một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo công cuộc đổi mới
● Một, đổi mới nhưng phải kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng.
● Hai, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa với những bước đi thích hợp, phải xuất phát từ
thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết
kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
● Ba, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của
nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.
● Bốn, Kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
● Năm, phải đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
● Sáu, xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện, cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và
phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược,
đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường
mối quan hệ mật thiết với nhân dân