Professional Documents
Culture Documents
Tình hình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Tình hình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Tình hình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX
Câu 1(5 điểm):Trình bày tình hình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX ,tóm tắt diễn biến chính và nguyên
nhân thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam trước khi Đảng CSVN ra đời?
Bài làm
Tình hình cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:
Bối cảnh quốc tế cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX:
+ Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang độc quyền, đám mây đen của chủ nghĩa đế quốc bao trùm toàn thế giới. Điều đó không chỉ dẫn tới
sự phát triển gay gắt mâu thuẫn giữa các đế quốc trong việc tranh giành thuộc địa dẫn tới chiến tranh thế
giới thứ hai 1914-1918, mà còn làm mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân ngày càng sâu sắc. Các phong trào chống đế quốc giành độc lập các dân tộc
thuộc địa trở thành một nội dung lớn của phong trào cách mạng thế giới, một vấn đề có tính thời đại.
+ Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Chủ
nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, là thế giới quan, hệ tư tưởng chính trị của giai cấp
công nhân, là vũ khí lý luận của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống tư bản chủ nghĩa, mở ra
một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng
Mười Nga nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.
Bối cảnh trong nước (1858-1930)
+ Trong bối cảnh các nước đế quốc đẩy mạnh tìm kiếm thuộc địa, Việt Nam trở thành đối tượng nằm
trong mưu đồ thôn tính của thực dân Pháp trong cuộc chạy đua với nhiều nước khác.
+ Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm phá vỡ khối đoàn kết cộng đồng
quốc gia dân tộc. Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối
ngoại của chính quyền phong kiến Nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam
Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột
kinh tế và áp bức chính trị đối với Nhân dân Việt Nam.
+ Về kinh tế, từ năm 1897, thực dân Pháp thiết lập bộ máy cai trị và tiến hành khai thác thuộc địa. Thực
dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên;
xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác
thuộc địa.
+ Về văn hoá – xã hội, thực dân Pháp thực hiện chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhà tù nhiều hơn
trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn hoá, duy trì tệ nạn xã hội vốn có của chế độ phong
kiến và tạo nên nhiều tệ nạn xã hội mới, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc thanh niên Việt Nam,
ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hoá văn minh” của nước “Đại Pháp”...
+ Chính sách cai trị của thực dân Pháp không chỉ làm phân hóa các giai cấp cũ, mà còn làm xuất hiện
các giai cấp, tầng lớp xã hội mới trong xã hội Việt Nam. Các giai cấp cũ gồm giai cấp địa chủ và nông
dân; các giai cấp mới ra đời gồm giai cấp công nhân, giai cấp tư sản và giai cấp tiểu tư sản.
Các phong trào yêu nước đòi độc lập của nhân dân Việt Nam trước khi có Đảng
Phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến (1858-1896)
Ngay khi bắt đầu xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của mọi
tầng lớp nhân dân. Hàng trăm cuộc đấu tranh thể hiện tinh thần quật cường bảo vệ nền độc lập của dân
tộc của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của ngoại bang đã diễn ra. Một số phing trào tiêu biểu
như: phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết đứng đầu (1885-1896). Các cuộc khởi nghĩa Ba Đình
(Thanh Hoá), Bãi Sậy (Hưng Yên), Hương Khê (Hà Tĩnh), phong trào nông dân Yên Thế (Bắc Giang)
dưới sự lãnh đạo của vị thủ lĩnh nông dân Hoàng Hoa Thám… diễn ra sôi nổi, thể hiện tinh thần quật
cường chống ngoại xâm của các tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, đến cuối cùng, những phong trào ấy đều
đi đến thất bại.
Những phong trào ấy thất bại do một số nguyên nhân sau: hệ tư tưởng phong kiến lỗi thời, vẫn mang
nặng “cốt cách phong kiến”; phương thức là đấu tranh vũ trang nhưng diễn ra rời rạc, lẻ tẻ, không có sự
liên kết; kẻ thù là Pháp hơn hẳn về mọi mặt.
Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản (1897-1930)
+ Giai đoạn 1897-1918 diễn ra hai xu hướng bạo động (do Phan Bội Châu tổ chức) và xu hướng cải cách
(Phan Châu Trinh).
+ Giai đoạn 1919-1930 diễn ra phong trào của tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng. Mục đích của Việt
Nam Quốc dân đảng là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ cộng
hòa tư sản, với phương pháp đấu tranh vũ trang nhưng theo lối manh động, ám sát cá nhân và lực lượng
chủ yếu là binh lính, sinh viên… Nhưng cuối cùng phong trào đi đến thất bại.
Nguyên nhân dẫn đến thế bại là do cả hai giai đoạn đề không đề ra được đường lối cách mạng đúng
đắn; lãnh đạo đều không phải giai cấp tư sản và thiếu đi một giai cấp tiên phong.
Chủ đề 4:
Tại sao Nguyễn Ái Quốc lựa chọn lại đi theo con đường cách mạng vô sản?
1 Bối cảnh lịch sử( qt và ttrong nc)
2 các phong trào yêu nc theo
3 NAQ ra đi tìm đường cứu nc và tìm ra cmg vô sản
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, ngày 5-6-1911,
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) ra nước ngoài, bắt đầu đi
tìm con đường cứu nước. Người đã qua nhiều nơi trên thế giới, vừa lao động, vừa học tập, nghiên cứu lý
luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình (Pháp, Mỹ), tích cực tham gia hoạt động trong
Đảng Xã hội Pháp.
- Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi đã ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.
Người rất ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục V.I.Lênin và đã tham gia nhiều hoạt động ủng hộ, bảo
vệ cách mạng Nga; tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Những hoạt động cách mạng phong phú đó đã
giúp Người từng bước rút ra những bài học quý báu và bổ ích cho sự lựa chọn con đường cách mạng của
mình.
- Tháng 7- 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và
vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn
trở. Từ đây, Người đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân đúngđắn: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”; xác định những vấn đề cơ bản của đường lối
giải phóng dân tộc. Đó là con đường giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xãhội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng dân tộc từng nước
với phong trào cách mạng vô sản thế giới.
- Đối với Nguyễn Ái Quốc, đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một
chiến sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Sự kiện đó cũng đánh dấu bước ngoặt
mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ViệtNam. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu
tiên tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng
dân tộc ViệtNam.
- Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, phong trào cách mạng thuộc địa; nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
Việt Nam qua các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân và sau này là tác phẩm Bản án chế
độ thực dân Pháp (1925).
- Sau một thời gian ngắn tham gia học tập ở Liên Xô và hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, tháng 1l-1924,
Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Tại đây, Người sáng lập và trực tiếp huấn luyện Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, sáng lập
và viết bài cho báo Thanh niên, xuất bản tác phẩm Đường Kách mệnh (1927)... nhằm tuyên truyền chủ nghĩa
Mác - Lênin vào trong nước. Người tổ chức đào tạo bồi dưỡng cán bộ cốt cán, tiếp tục chuẩn bị về mặt chính
trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin và các tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai cấp công nhân và
nhân dân Việt Nam đón nhận như''người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn''. Nó
lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản; làm dấy lên cao trào đấu
tranh mạnh mẽ, sôi nổi khắp cả nước, trong đó giai cấp công nhân ngày càng trở thành một lực lượng chính
trị độc lập. Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào quần chúng và phong trào công nhân, làm
cho phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải
có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo. Vì vậy, các tổ chức cộng sản lần lượt được thành lập:
+ Ngày 17-6-1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ.
+ Mùa Thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ.
+ Ngày l-l-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được thành lập ở Trung Kỳ.
- Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản tuyên bố thành lập. Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng ở Việt Nam, đồng thời sự tồn tại của ba tổ chức
cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách
mạng đặt ra là cần có một đảng cộng sản duy nhất để lãnh đạo phong trào cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân Việt Nam. Lãnh tụ Nguyền Ái Quốc - cán bộ của Quốc tế Cộng sản, người chiến sĩ cách mạng
lỗi lạc của dân tộc Việt Nam - là người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu thống nhất các tổ
chức cộng sản.
- Từ ngày 6-l đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập một đảng
thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng.
- Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước
ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và của quá
trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng
chí Nguyễn Ái Quốc.
=> Đó là một mốc lớn, bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối cứu nước.Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi
thảo, được Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua đã xác định: cách mạng Việt Nam phải
tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con
đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
xã hội, giải phóng con người.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
4.1 Nêu trình bày các phong trào yêu nc Vn và nn thất bại và hoàn cảnh( như chủ đề 4)
Chủ đề 5 Nd của con đg cứu nc của NAQ
1 Hc
2 nd con đg cứu nc của NAQ
(Sự cbi về tư tưởng chính trị của NAQ)
A, tên các sách báo tp
B, nd con đg cứu nc
Vừa nghiên cứu lý luận, vừa tham gia hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
dưới nhiều phương thức phong phú, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân đối
với nhân dân các thuộc địa, đồng thời tiến hành tuyên truyền tư tưởng Mác-Lênin, xây dựng mối quan hệ
gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Người
đã viết nhiều bài đăng trên báo Le Paria (Người cùng khổ), L’Humanite (Nhân đạo), La Vie Ouvriere (Đời
sống công nhân), La Revue Communiste (Tạp chí Cộng sản), Báo Pravđa của Liên Xô.... Năm 1922, Ban
nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu
ban Nghiên cứu về Đông Dương.
Khi Người sang hoạt động ở Liên Xô tham dự và trình bày các tham luận tại đại hội của các tổ chức mang
tính quốc tế: Đại hội Quốc tế nông dân, Quốc tế thanh niên, Quốc tế phụ nữ, Quốc tế cứu tế đỏ,… Các bài
tham luận của Người đã chỉ rõ sự cần thiết phải thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, đồng thời
tuyên truyền tư tưởng của V.I.Lênin soi sáng con đường cách mạng con đường phát triển của cách mạng
thuộc địa.
Đặc biệt, tại Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản (họp từ ngày 17-6 đến 18-7- 1924) , Người đã trình bày
bản báo cáo rất quan trọng về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Bằng nhiều số liệu và tư liệu cụ thể, bản báo cáo
đã làm sáng rõ và phát triển một số luận điểm của V.I.Lênin về bản chất của chủ nghĩa thực dân, về nhiệm
vụ của các đảng cộng sản trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột và giải phóng đấu tranh ở
các thuộc địa. Năm 1925, cuốn sách Bản án chế độ thực dân Pháp được xuất bản lần đầu tiên ở Pari, đã tố
cáo, kết tội chế độ bóc lột, cai trị của thực dân Pháp đối với các nước thuộc địa, thức tỉnh nhân dân các dân
tộc bị áp bức nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng.
Đây là sự chuẩn bị quan trọng về tư tưởng, lý luận cho quá trình thành lập Đảng, như Nguyễn Ái Quốc đã
xác định: “Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, những chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Lênin”.
Về chính trị:
Xuất phát từ thực tiễn cách mạng thế giới và đặc điểm của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa, kế thừa và phát triển quan điểm của V.I.Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đưa
ra những luận điểm quan trọng về cách mạng giải phóng dân tộc. Đường lối cách mạng được phác thảo rõ
nét nhất là ở nội dung các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên từ năm
1925 đến năm 1927, được Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp, in trong cuốn Đường Cách
mệnh. Trong đó, trước hết, Người khẳng định rằng, con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức là giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng
sản. Đường lối chính trị của Đảng cách mạng phải hướng tới độc lập cho dân tộc tự do, hạnh phúc cho đồng
bào, hướng tới xây dựng Nhà nước mang lại quyền và lợi ích cho nhân dân.
Người xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản
thế giới; giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa với cách mạng vô sản ở “chính quốc” có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng cách mạng giải phóng dân tộc ở nước thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở “chính quốc” mà có thể thành công trước cách mạng vô sản ở
“chính quốc”, góp phần tích cực thúc đẩy cách mạng vô sản ở “chính quốc”.
Đối với các dân tộc thuộc địa, Người chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông
đảo nhất, bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề, vì vậy phải thu phục và lôi cuốn được nông dân,
phải xây dựng khối liên minh công nông làm động lực cách mạng: “công nông là gốc của cách mệnh; còn
học trò nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Do vậy, Người xác định rằng,
cách mạng “là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người”.
Về Đảng Cộng sản, Người khẳng định: “Cách mạng trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững
cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” .
Phong trào “Vô sản hóa” do Kỳ bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên phát động từ ngày 29-9-
1928 đã góp phần truyền bá tư tưởng vô sản, nhiệm vụ chính trị, rèn luyện cán bộ và phát triển tổ chức của
công nhân.
Về tổ chức:
Sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô tháng 11-1924, Người về Quảng Châu (Trung Quốc)- nơi có rất
đông người Việt Nam yêu nước hoạt động-để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng mác xít.
Lấy tên là Lý Thụy, công tác trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh Chính phủ Tôn Dật
Tiên, do Bôrôđin làm trưởng đoàn.
Tháng 2-1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn
Tháng 6-1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên tại Quảng Châu (Trung
Quốc), nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội xuất bản tờ báo Thanh niên (do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực
tiếp chỉ đạo), tuyên truyền tôn chỉ, mục đích của Hội, truyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin và về phương
hướng phát triển của cuộc vận động giải phóng dân tộc Việt Nam. Báo Thanh niên đánh dấu sự ra đời của
báo chí cách mạng Việt Nam.
Sau khi thành lập, Hội tổ chức các lớp huấn luyện chính trị do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách, phái
người về nước vận động, lựa chọn và đưa một số thanh niên tích cực sang Quảng Châu để đào tạo, bồi
dưỡng về lý luận chính trị.
Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước, đầu năm
1927 các kỳ bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây dựng cơ sở ở Thái Lan, để mở rộng hoạt động
tuyên truyền trong Việt kiều.
Năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Châu được xuất bản thành cuốn sách Đường Cách
mệnh. Tác phẩm xác định rõ con đường, mục tiêu, lực lượng và phương pháp đấu tranh của cách mạng Việt
Nam, thể hiện tư tưởng nổi bật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dựa trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào điều kiện Việt Nam. Những điều kiện về tư tưởng, lý luận, chính trị và tổ chức để thành lập
Đảng đã được nêu rõ trong tác phẩm.
Sau sự biến chính trị ở Quảng Châu (4-1927), Nguyễn Ái Quốc trở lại Mátxcơva (Liên Xô) và sau đó được
Quốc tế Cộng sản cử đi công tác ở Châu Âu. Năm 1928, Người trở về Châu Á và hoạt động ở Xiêm (tức
Thái Lan).
Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản, nhưng chương trình hành động đã
thể hiện quan điểm lập trường của giai cấp công nhân là tổ chức tiền thân dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản
ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị
quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Đó là tổ chức tiền
thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3 kết luận về vai trò của NAQ
Nguyễn Ai Quốc là người đặt nền móng cho CNCS ở Việt Nam.
Chủ đề 8 vai trò của NAQ trong vc thành lập Đảng
1 hoàn cảnh
Trong bối cảnh lịch sử đất nước đang bị thực dân Pháp kìm kẹp, các phong trào yêu nước đều thất bại thì
Nguyễn Ái Quốc đã sớm tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại về "tự do, bình đẳng, bác ái", với tầm
nhìn chiến lược và phương pháp tư duy sáng tạo đã sớm hình thành ý chí cứu nước, cứu đồng bào ở Người.
Đồng thời, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin,
Người đã tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước là con đường cách mạng vô sản, giải
phóng dân tộc để tiến tới giải phóng con người. Người đã nhận thấy sự cần thiết của một Đảng lãnh đạo và
chỉ có kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước thì mới có thể xây
dựng được một Đảng cách mạng chân chính, đảm bảo cách mạng phát triển đúng hướng và đi đến thắng lợi.
1 sự cbi về tư tg chtri
- Về tư tưởng: từ giữa năm 1921, tại Pháp, cùng 1 số nhà cmg của các nước thuộc địa, NAQ tham gia
thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sang lập tờ báo Le Paria ( Người cùng khổ). Người viết
nhiều bài trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản,..
Năm 1922, Ban Nghiên cứu thuộc địa về Đông Dương, vừa nghiện cứu lý luận, vừa tham gia hoạt
động thực tiễn trong phong trào cs và công nhân quốc tế, dưới nhiều phương thức phong phú, NAQ
tích cực tố cáo, lên án bản chất áp bức, bóc lột, nô dịch của chủ gnhixa thực dân đối nhân dân các
thuộc địa và kêu gọi , thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Ng chỉ rõ bản chất của
CNTD, xđ CNTD là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Đồng thời, Người tiến hành tuyên truyền tư tưởng của con đường cmg vô sản, con đườngcmg
theo lý luận Mac Leenin , xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những ng cộng sản và nhân dân lao
động Pháp.
Năm 1927, NAQ kđ ‘ Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu,
ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy’. Đảng mà k có chủ nghĩa cũng giống như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam. Phải truyền bá tư tưởng vô sản, lý luậnMác Lenin vào phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
- Về chính trị : NAQ đã hình thành 1 hệ thống luận điểm chính trị
+ Chỉ rõ bản chất CNTD, xđ CNTD là kẻ thù chung của dân tộc thuộc địa, của giai cấp và nhân dân
lao động trên TG
+ xđ cmg GPDT là 1 bộ phân cmg vô sản thế giới , CM GPDT ở các nc thuộc địa và CM chính
quốc có quan hệ chặt chẽ, hỗ trọ thúc đẩy cho nhau nhưng không thục thuộc vào nhau.
+ CM cần phải lôi cuốn sự tham gua của nông dân , xd khối công nông lm nòng cốt, là động lực của
cmg, đồng thời tập hợp dc sự tham gia của đông đảo các giai tầng khác
+ CM muốn giành thắng lợi trc hết phải có đảng, cmg năm vai trò lãnh đạo, đảng muốn giữ vững
phải trang bị cn Mac Lenin
- Nguyễn Ái Quốc dày công chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của chính đảng vô sản của giai cấp công
nhân Việt Nam. Đó là huấn luyện, đào tạo cán bộ từ các lớp huấn luyện do Người tiến hàng ở Quảng Châu
để vừa chuẩn bị cán bộ, vừa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin. Năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập hội
Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên, mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng cho 75 đồng chí, từ
đó giúp chõ những người Việt Nam yêu nước xuất thân từ các thành phần, tầng lớp dễ tiếp thu tư tưởng cách
mạng của Người, phản ánh tư duy sáng tạo và là thành công của Nguyễn Ái Quốc trong chuẩn bị về mặt tổ
chức cho Đảng ra đời.
- Đồng thời, trong những năm 1928 - 1929, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát
triển mạnh về số lượng và chất lượng. Chủ nghĩa Mác được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên phong
truyền bá về trong nước, cùng với phong trào "vô sản hoá" đã làm chuyển biến phong trào công nhân và giác
ngộ họ. Thông qua phong trào "vô sản hoá", lớp lớp thanh niên yêu nước được rèn luyện trong thực tiễn,
giác ngộ lập trường giai cấp công nhân sâu sắc, hiểu rõ nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phong
trào công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, tiến tới sự ra đời của tổ chức cộng sản đầu tiên ở
Việt Nam, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đời của Đảng.
- Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất để giành chính quyền về tay chân dân đi
tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
- Nội dung Cương lĩnh vẫn còn một vài vấn đề về sau không hoàn toàn phù hợp với thực tế Việt Nam hoặc
có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau, song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được
thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã
được hoàn thiện hơn.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã
nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống kiến, thực hiện dân tộc lập, người cày ruộng. Cương lĩnh ấy rất
phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ra là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được
những lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, còn các đảng phái của các giai cấp khác thì
hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta – Đảng của giai cấp công nhân không
ngừng củng cố và tăng cường.
Cuộc khủng hoảng kinh tế trong những năm 1929-1933 ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa đã làm
cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng
dâng cao.
Chủ nghĩa phátxít đã xuất hiện và thắng thế ở một số nơi như phátxít Hítle ở Đức, phátxít Phrăngcô ở Tây
Ban Nha, phátxít Mútxôlini ở Italia và phái Sĩ quan trẻ ở Nhật Bản. Chế độ độc tài phátxít là nền chuyên
chính của những thế lực phản động nhất, sôvanh nhất, tàn bạo và dã man nhất. Chúng tiến hành chiến tranh
xâm lược, bành trướng và nô dịch các nước khác. Tập đoàn phátxít cầm quyền ở Đức, Italia và Nhật đã liên
kết với nhau thành khối "Trục", ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường thế giới và thực hiện mưu
đồ tiêu diệt Liên Xô - thành trì cách mạng thế giới — nhằm hy vọng đẩy lùi phong trào cách mạng vô sản
đang phát triển mạnh mẽ. Nguy cơ chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hòa
bình và an ninh quốc tế.
Trước tình bình đó, Đại hội lần thứ VII cùa Quôc tê cộng sản họp tại Mátxcơva (tháng 7-1935) dưới sự chủ
trì của G.Đimitơrốp. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu đã tham dự đại
hội.
Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm trước mắt của giai cấp vô sản và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa
phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phátxít.
Đại hội vạch ra nhiệm vụ tnrớc mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới lúc này chưa phải
là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phátxít, chống
chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hòa bình.
Để thực hiện nhiệm vụ cấp bách đó, các đảng cộng sản và nhân dân các nước trên thể giới phải thống nhất
hàng ngũ của mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phátxít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hòa bình
và cải thiện đời sống.
Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, Đại hội chỉ rõ: Do tình hình thế giới và trong nước thay đổi
nên vấn đề lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đã tác động sâu sắc không những đến đời sống các giai cấp và tầng
lóp nhân dân lao động, mà còn đến cả những nhà tư sản, địa chủ hạng vừa và nhỏ. Trong khi đó, bọn cầm
quyền phản động ở Đông Dương vẫn ra sức vơ vét, bóc lột, bóp nghẹt mọi quyền tự do, dân chủ và thi hành
chính sách khủng bố, đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân ta.
Tình hình trên đây làm cho các giai cấp và tầng lớp tuy có quyền lợi khác nhau, nhưng đều căm thù thực
dân, tư bản độc quyền Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt là đấu tranh đòi được quyền sống,
quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Trong lúc này, hệ thống tổ chức của Đảnd và các cơ sở cách
mạng của quần chúng đã được khôi phục. Mặt khác, Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban hành một số
chính sách dân chủ có lợi cho các thuộc địa. Đây là những yếu tố rất quan trọng, quyết định bước phát triển
mới của phong trào cách mạng nước ta.
2. chủ trương
Ban Chấp hành Trung ương xác định, cách mạng ở Đông Dương vẫn là "cách mạng tư sản dân quyền - phản
đế và điền địa- lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xô Viết, để dự bị điều kiện đi tới cách mạng
xã hội chủ nghĩa". Song, xét rằng, cuộc vận động quần chúng hiện thời cả về chính trị và tổ chức chưa tới
tình độ trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp, lập chính quyền công nông, giải quyết vấn đề điền địa. Trong khi đó,
yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân ta lúc này là tự do, dân chủ, cải thiện đời sống. Vì vậy, Đàng phải
nắm lấy những yêu cẩu để phát động quần chúng đấu tranh, tạo nền để đưa cách mạng tiến lên bước cao hơn
sau này.
Về kẻ thù của cách mạng: Kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương cần tập trung đánh đổ
là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
Về nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: Chống phátxít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động
thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để thực hiện những nhiệm vụ trước mắt của
cách mạng, Ban Chấp hành Trung ương quyết định thành lập Mặt trận nhân dân phản đế, bao gồm các giai
cấp, dân tộc, đảng phái, đoàn thể chính trị, xã hội và tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên
minh công - nông. Để phù kợp với yêu cầu tập hợp lực lượng cách mạng trong tình hình mới, Mặt trận nhân
dân phản đế dã được đổi tên thành Mặt trận dân chủ Đông Dương.
Về đoàn kết quốc tế: Để tập trung, cô lập và chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn phản động thuộc địa và tay sai
của chúng ở Đông Dương, đòi các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, thì không những phải đoàn kết chặt chẽ
với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, "ủng hộ mặt trận nhân dân Pháp", mà còn phải đề ra khẩu
hiệu "ủng hộ Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp" để cùng nhau chống lại kè thù chung là Phátxít ở Pháp và
bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương.
Về hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: Phải chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang
các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai và nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp, nhằm làm cho
Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các
hình thức và khẩu hiệu thích hợp. Trong khi tranh thủ mở rộng các hình thức tổ chức đấu tranh công khai,
hợp pháp thì tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng cường tổ chức
và hoạt động bí mật của Đảng, giữ vững mối quan hệ giữa bí mật và công khai, hợp pháp và không hợp pháp
và phải đảm bảo sự lãnh đạo của tổ chức Đảng bí mật đối với những tổ chức và hoạt động công khai, hợp
pháp.
3. Thành quả kinh nghiệm
- Đảng tích lũy them nhiều kinh nghiệm mới. đó là kinh nghiệm về chỉ đạo chiến lc: giải quyết mối
quan hệ giữa mục tiêu chiến lc và mục tieeutrc mắt; về xây dựng 1 mặt trận thống nhất rộng rãi phù
hợp với yêu cầu của nv chính trị, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù nguy hiểm nhất; về kết hợp các
hifnhthuwsc tổ chức bismaajt và công khai để tập hợp quần chúng và các hình thức, pp đấu tranh: tổ
chứ đông dương đại hội, đấu tranh nghị trường, trên mặt trận báo chí, đòi dân sinh, dân chủ, bãi công
lớn curacoong nhân vùng mỏ (12-11-1936), kỷ niệm Ngày quốc tế lao động 1-5.
10.1 so sánh đg lối giai đoạn 30-35 và 36-39( viết thành văn)
Nêu hc và so sánh và nhận xét
Chủ đề 12 k/c chống Pháp và Mỹ
Ý nghĩa lịch sử
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng được tiến hành liên tục
trong hơn 9 năm đầy gian khổ. Thắng lợi giành được tuy chưa trọn vẹn, nhưng đánh dấu một bước phát triển
vượt bậc có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, đối
với cách mạng Việt Nam; có tính lan tỏa rộng lớn trong khu vực và mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn của đội quân xâm lược
nhà nghề có tiềm lực quân sự và kinh tế hùng mạnh, được điều hành bởi các nhà chính trị lão luyện, các
tướng tá quân sự tài ba của Pháp-Mỹ, cùng với các phương tiện chiến tranh, trang bị vũ khí, công nghệ khoa
học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại nhất lúc bấy giờ. Đập tan hoàn toàn ách thống trị kéo dài hơn 80 năm của chủ
nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến tay sai ở Việt Nam. Và đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc
địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới. Thắng
lợi này cũng góp phần xứng đáng vào sự nghiệp đấu tranh vĩ đại của nhân loại tiến bộ, vì nền hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới; có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào ðấu tranh giải
phóng dân tộc thuộc ðịa ở các châu lục Á, Phi, Mỹ La tinh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân, toàn dân ta đã bảo vệ và phát triển tốt nhất các thành quả của cuộc
Cách mạng Tháng Tám năm 1945; củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; bước đầu phát huy cao nhất quyền dân chủ căn bản của người dân Việt
Nam, mang đến niềm tin vào sức sống và thắng lợi tất yếu của cuộc kháng chiến và con đường quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Qua quá trình kháng chiến lâu dài, gian khổ lực lượng vũ trang nhân dân chính quy (Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân) cùng các lực lượng vũ trang khác được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khai sinh, rèn
luyện, giáo dục đã có sự phát triển và trưởng thành mạnh mẽ về mọi mặt; lực lượng vũ trang nhân dân đã
đóng vai trò nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, là mũi nhọn sức mạnh làm nên những thắng lợi quyết định
trên mặt trận quân sự. Lực lượng vũ trang nhân dân từng bước phát triển và đã thực sự trở thành công cụ
chuyên chính sắc bén, tin cậy của Đảng và Nhà nước trên mặt trận đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài, có
bản lĩnh giai cấp vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng và nhân dân, làm rường cột để
phát triển chiến tranh du kích, chiến tranh nhân dân chống xâm lược và trên cơ sở đó xây dựng nền nghệ
thuật quân sự cách mạng độc đáo Việt Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã đưa đến việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo ra tiền đề
về chính trị-xã hội quan trọng để Đảng quyết định đưa miền Bắc phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc, đưa miền Bắc trở thành hậu phương lớn, chỗ dựa vững chắc chi viện
cho tiền tuyến lớn miền Nam sau này và đóng vai trò là nhân tố quyết định nhất đối với công cuộc đấu tranh
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Nn thắng lợi
Bài học
Chủ đề 11
C1 Phân tích chủ trương chiến lược ms
C2 Nd chuyển hướng (điều chỉnh)
2 câu tương đương
1. hc
a Tình hình TG 1/9/39 CTTG 2 bùng nổ, lôi cuốn nhiều nc: 6/40 P bị Đ chiếm đóng P đầu hàng; 22/6/41
Đ tấn công Lx
b Trong nc
2. chủ trương chuyển hướng ( HNTW 678)
nhấn mạnh mâu thuẫn dân tộc , kđ nc gpdt là nv cần kíp , gác lại cmrđ
quyết ..
ý nghĩ và nx
11.1 hổi về 3 HNTW 6-7-8
HC
ND
Ý nghĩa, nx
HNTW 6 năm 1939
1. hoàn cảnh
a, Quốc tế
Tháng 9 năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, chính phủ Đalađiê thi hành
một loạt các biện pháp đàn áp lực lượng quân dân trong nước và phong trào cách
mạng ở thuộc địa. Cùng lúc đó, Đức tấn công Pháp, đến 3-9-1939, Pháp chính thức
tham chiến, sự kiện này đã làm thay đổi chính sách mà chính quyền thực dân Pháp đối
với giai cấp công nhân, quần chúng lao động và hệ thống các nước thuộc địa của
Pháp.
Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều biến đổi to lớn. Ngay khi
chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, quân phiệt Nhật lần lượt đánh chiếm nhiều
thuộc địa Mỹ
Ở Viễn Đông, phát xít Nhật đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Trung Quốc và tiến sát
vào biên giới Việt- Trung
B, Trong nước
Tháng 9/1940, Nhật nhảy vào Đông Dương, lúc này Pháp đứng trước 2 nguy cơ:
Một là: phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang dâng cao có
thể thiêu sống chúng.
Hai là: sự lăm le đe dọa của phát xít Nhật, chúng sẽ hất cẳng Pháp. Để đối phó
lại, bọn thực dân pháp thực hiện chính sách hai mặt: một mặt chúng thẳng tay
đàn áp các p trào cách mạng của nhân dân ta, mặt khác chúng thỏa hiệp bắt tay
cấu kết với phát xít nhật để cùng bóc lột nhân dân Đông Dương. Còn bọn phát
xít nhật một mặt ép thực dân pháp đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác,
mặt khác lại lôi kéo một số phần tử trong địa chủ và tư sản bất mãn với pháp
lập chính quyền tay sai để phục vụ cho mưu đồ xâm lược của chúng.
Đảng ta đã trưởng thành, khi thực dân pháp điên cuồng khủng bố, Đảng ta đã kịp thời chỉ đạo cho
các lực lượng cách mạng kịp thời rút vào hoạt động bí mật( 1938), chuyển trọng tâm công tác về
nông thôn.
=> Trước những chuyển biến của tình hình thế giới và trong nước khi chiến tranh thế giới thứ 2 nổ
ra, ban chấp hành trung ương ĐCS Đông Dương đã triệu tập hội nghị lần chuyển hướng chỉ đạo cn
thứ 6 (11/1939) để hiến lược.
2. Nội dung
- Hội nghị BCHTW 6 được tiến hành từ ngày 06 đến 08/11/1939 tại Bà Điểm, Gia Định do đồng chí
Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư BCH TW Đảng chủ trì (Tham dự có các đồng chí: Lê Duẩn, Phan
Đăng Lưu, Võ văn Tần) hội nghị đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược;
Hội nghị quyết định: Giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Đông Dương; Hội nghị quyết
định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển hướng hình thức đấu tranh: Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất
của địa chủ mà chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai; Không nêu khẩu hiệu thành lập chính
phủ Xô viết công nông binh mà đề ra khẩu hiệu lập Chính phủ Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương;
- Hội nghị quyết định: Thành lập Mặt trận thống nhất phản đế Đông Dương, thay thế cho Mặt trận
thống nhất dân chủ Đông Dương.
3. Ys nghĩa và nx
Ý nghĩa:
- Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 6 đã đánh dấu bước quan trọng của đảng- đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu.
- Lần đầu tiên, Hội nghị làm sáng tỏ mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ phản đế và phản phong, xác định
rõ nhiệm vụ phản đế là quan trọng, làm rõ thêm tính chất khăng khít nhưng không tiến hành nhất loạt
ngang nhau giữa hai nhiệm vụ đó.
- Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng lần thứ 6 đánh dấu sự chuyển hướng đúng đắn về chỉ đạo
chiến lược cách mạng. đảng Cộng sản đông Dương giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đoàn kết
rộng rãi các tầng lớp, giai cấp và dân tộc đông Dương trong cùng một Mặt trận Dân tộc Thống nhất,
mở đường đi tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
- Bên cạnh đó, hội nghị cũng đánh dấu bước phát triển quan trọng về lý luận và đường lối phương
pháp cách mạng của Đảng, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị
quyết góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Nhận xét:
Đảng không có sự thay đổi chiến lược cách mạng, mà dựa trên cơ sở tổ chức sự thay đổi của tình
hình thế giới và Đông Dương, như yêu cầu của khách hàng quản lý cách mạng, bổ sung phát triển
chiến lược cách mạng phù hợp, nhằm thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng phát
triển, mau thắng.
Đây là chủ đề cho sự chuyển đổi của mình cách mạng sau các hội nghị TW 7, 8 tiếp theo, là sự kết
nối tiếp theo, phát triển chiến lược cách mạng của Đảng ở thời kỳ mới, có thể tư duy mới về chuyển
hướng chỉ đạo chiến thuật cách mạng.
Đó là chủ trương đúng đắn, khoa học của Đảng trong giải quyết mối quan hệ giữa chiến lược và chỉ
đạo chiến lược trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
- Dưới áp lực của hoàn cảnh “một cổ hai tròng” khi Pháp đầu hàng Nhật, Hội nghị Trung ương 7
(11/1940) xác định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, cấp bách của cách mạng
Việt Nam. Kế thừa chiến lược cách mạng mới đề ra tại Hội nghị Trung ương 6, Đảng đã bổ sung và
hoàn chỉnh đường lối chiến lược mới của cách mạng Việt Nam. Ở một số địa phương dần xuất hiện
hình thức đấu tranh vũ trang. Đây là một chủ trương sáng suốt của Hội nghị Trung ương tháng 11-
1940, thể hiện việc nắm vững lý luận về khởi nghĩa vũ trang cách mạng.
- Hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kỳ tuy thất bại nhưng để lại nhiều bài học, kinh nghiệm và
động lực tiếp sức cho nhân dân có niềm tin về Đảng, về chiến lược đấu tranh vũ trang của Đảng. Hai
cuộc khởi nghĩa đã thể hiện sức mạnh quật khởi, lòng tin tưởng và sẵn sàng hy sinh của nhân dân
trong cuộc đấu tranh giành tự do, độc lập dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Cùng với thực tiễn của phong
trào Xô viết - Nghệ Tĩnh, khởi nghĩa Bắc Sơn và cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã tạo cơ sở để Đảng ta
đề ra chủ trương đi từ khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính
quyền trong cả nước.
B, Trong nc
Nhân dân ta đều rên xiết dưới hai tầng áp bức bóc lột Pháp- Nhật. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta
với đế quốc phát xít Pháp Nhật vô cùng sâu sắc.
Nhân dân ta ngày càng được cách mạng hóa với nhiều cuộc đấu tranh như khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi
nghĩa Nam Kỳ…
Trước tình hình thế giới và trong nước ngày càng khẩn trương, ngày 28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc về
nước triệu tập Hội nghị Trung ương Đảng lần VIII họp từ ngày 10 đến 19/5/1941 tại Pác Bó (Cao
Bg)
*Đây là một hội nghị đặc biệt sau 30 năm bôn ba nước ngoài Người về nước trực tiếp chỉ đạo
hội nghị Trung Ương lần thứ 8
2. Nd
o – Đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu:
o + Tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất.
o + Thống nhất lực lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương.
o – Giành quyền độc lập tự do cho các dân tộc Đông Dương theo quan điểm thực hiện quyền dân tộc
tự quyết (thành lập chính phủ liên bang hay đứng riêng tùy ý). Ở Việt Nam, sau khi đánh đuổi
Pháp – Nhật sẽ lập nên nước Việt Nam mới theo chế độ Dân chủ Cộng hoà. Lấy cờ đỏ sao vàng
5 cánh làm quốc kỳ, Chính phủ do nhân dân bầu ra. => Giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn
khổ từng nước.
o – Hội nghị xác định tính chất của cuộc cách mạng: Lúc này, cách mạng Đông Dương mang tính chất
là “cách mạng dân tộc giải phóng”.
o – Về Mặt trận: Phải có một tên mới có tính chất dân tộc hơn, có sức mạnh hiệu triệu đồng bào trong
nước. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 chủ trương lấy tên là Mặt trận Việt Nam độc
lập đồng minh gọi tắt là Mặt trận Việt Minh. Các giới quần chúng được tổ chức và tập hợp trong các
Hội cứu quốc: Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc,…
o – Hội nghị xác định vị trí, điều kiện, hình thức khởi nghĩa:
o + Nhận định điều kiện để cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi: giai cấp thống trị lâm vào khủng hoảng
đến cực điểm, nhân dân không thể sống dưới ách thống trị của Nhật – Pháp, sẵn sàng vùng dậy khởi
nghĩa, phe dân chủ đại thắng ở mặt trận Thái Bình Dương, Mặt trận cứu quốc đã thống nhất trên toàn
quốc.
o + Ra sức chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền ở địa phương,
tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
o – Về xây dựng Đảng: Yêu cầu của công tác xây dựng Đảng lúc này là nhằm làm cho Đảng có đủ
năng lực lãnh đạo cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng.
o + Tổ chức Đảng ở miền Nam giúp đỡ việc xây dựng Đảng ở Campuchia.
o + Tổ chức Đảng ở miền Trung giúp việc xây dựng Đảng ở Lào.
4. Nx và ý nghĩa
* Nhận xét : Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( 5/1941 ) đã hoàn chỉnh chủ
trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng , được đề ra tại Hội nghị tháng 11/
1939 , nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là dân tộc giải phóng và đề ra nhiều chủ trương
sáng tạo để thực hiện nhiệm vụ ấy .
* Ý nghĩa: Hội nghị TW Đảng lần 8 có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo
chiến lược cách mạng đề ra từ hội nghị TW lần thứ 6.
– Kiên quyết giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu và cấp thiết hơn bao giờ hết.
– Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược là chống đế quốc và phong kiến.
– Đề ra phương pháp cách mạng cụ thể là: Tích cực chuẩn bị lực lượng để khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền đi từ khởi nghĩa từng phần đến tiến tới tổng khởi nghĩa.
Chương 2:
Chủ đề 13 45-75
I Đg lối kc chống P
1 hc( thuận lợi và khó khăn và nx ) nếu tóm tắt
- Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 nước ta còn nằm trong vòng vây của Chủ nghĩa đế quốc và
phản động quốc tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta
thực hiện các giải pháp về: kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao.
Điều này đã đưa ta thoát khỏi thế ngàn cân treo sợi tóc, tạo thế, tạo lực cho sau này. Đảng ta đã thực
hiện sách lược hòa hoãn với Pháp bằng việc ký Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946.
Nhưng với dã tâm xâm lược, cuối năm 1946 Pháp phản bội mọi cam kết, quyết cướp nước ta một lần
nữa. Ngày 18-12-1946, ở Hà Nội , Pháp gửi tối hậu thư cho ta, tra quyền kiểm soát thủ đô và giải tán
quân tự vệ. Tiếp đó, Pháp gây vụ thảm sát ở phố Hàng Bún Hà Nội. Trước hành động ngày càng lấn
tới của thực dân Pháp, ta không thể nhân nhượng được nữa, nhân nhượng nữa là mất nước. Vì vậy,
ngay đêm 19-12-1946 Đảng và Chính phủ đã phát động toàn quốc kháng chiến.
- Thuận lợi của nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược là: cuộc chiến
tranh của ta là cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc, ta đã có sự chuẩn
bị cần thiết về mọi mặt, nên về lâu dài, ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
- Khó khăn của ta là: Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây bốn phía, chưa được
nước nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được hai nước
Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong các thành thị lớn ở
Miền Bắc.
- Tổ chức bình dân học vụ, tích cực xóa mù chữ, mở các trường đại học, phổ thông trung học,
cải cách việc học với tinh thần mới, xóa bỏ cách dạy học nhồi nhét,tuyển truyền cổ động văn
hóa cứu, xây dựng nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: khoa học hóa, dân tộc hóa và đại
chúng hóa.
- Khuyến khích sản xuất nông nghiệp, làm cho tá điền và địa chủ nhân nhượng nhau để tiếp
tục cấy cày như thường, “Tấc đất tấc vàng”, tổ chức tiếp tế, ngăn cấm đầu cơ tích trữ, tổ chức
cứu trợ dân nghèo, thực hành khẩu hiệu “sẻ cơm nhường áo”của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Về
phần Chính phủ, phải lo nhập cảng ngũ cốc. Những công việc trên đây, muốn các kết quả, các
đồng chí phải hết sức vận động các tầng lớp phú hào, địa chủ tham gia cùng
+ Kháng chiến lâu dài (trường kì): là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có
thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa tương quan lực lượng
từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch. + Dựa vào sức mình là chính:
“phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”, vì ta bị bao vây bốn phía. Khi nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ
sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
+ Triển vọng kháng chiến: mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất định thắng lợi.
3. Chỉ thị nhấn mạnh, Đảng và Mặt trận Việt Minh cần đc củng cố
Về Đảng
- Cần duy trì hệ thống tổ chức bí mật hoặc nửa công khai, kết nạp thêm đảng viên mới, tập
trung gây dựng thêm cơ sở Đảng đoàn thể , mở rộng các tổ chức nghiên cứu chủ nghĩa Mác,
bao gồm cả những người có khuynh hướng cộng sản hoặc có tình cảm với tổ chức, nhưng
phải do những người cộng sản kiểm soát. Trong công tác phát triển đảng viên và củng cố tổ
chức đảng, chỉ thị nêu rõ phải phản ánh cả hai khuynh hướng: ở một số nơi tổ chức Đảng quá
hẹp, quá chậm, chưa bỏ được cái bệnh hẹp hòi, cố chấp của thời kỳ hoạt động hoàn toàn bí
mật, một số nơi khác thì tổ chức Đảng quá rộng và quá nhanh dễ làm cho các thành phần
phức tạp dễ trà trộn vào tổ chức.
- Đồng thời bản chỉ thị cũng nêu rõ: các tổ chức Đảng phải giữ vững và duy trì sinh hoạt đều
đặn, xây dựng, củng cố các chi bộ Đảng trong các cơ quan hành chính hay các hội hợp pháp.
Thành lập chi bộ trong quân đội, phối hợp hoạt động bí mật với hoạt động công khai, trong
đó đặc biệt coi trọng đến hoạt động bí mật và không để xảy ra xung đột giữa các cơ quan bí
mật và cơ quan công khai.
- Cố gắng hết sức phát triển các tổ chức cứu quốc. Thống nhất các tổ chức ấy lên toàn kỳ, toàn
quốc; sửa chữa lại điều lệ cho các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới; mở
rộng Mặt trận Việt Minh, lập các đoàn thể cứu quốc mới, giải quyết những mâu thuẫn giữa
Uỷ ban nhân dân và Uỷ ban Việt Minh; củng cố quyền lãnh đạo của Đảng trong Mặt trận,
thống nhất Mặt trận Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia chống Pháp xâm lược.
Đối với nước ta, việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ cao, buộc
chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; đã làm thất bại âm
mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương;
giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, mở rộng địa
bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia
đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực phân
Pháp.
13.3 = hiểu biết về ls , hãy trình bày nguyên tắc và sách lược ngoại giao của HCM để bv chính quyền cmg
1 hc đầy đủ
2 nêu bp ngoại giao
a, chỉ thị kc kiến quốc và các bp trong đó Người thể hiện cái nguyên tắc và sách lc ngoại giao của hcm
b, bp ngoại giao trong slide lý do , nd, kết quả
- Ngoại giao giai đoạn trước Toàn quốc kháng chiến đã khôn khéo, tận dụng mâu thuẫn nội bộ đối phương,
kiềm chế và hòa hoãn với Tưởng, tập trung chống thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Hội nghị cán bộ
Bắc Kỳ của Đảng (từ ngày 10 đến 11-9-1945) đã nêu một số chủ trương ngoại giao, thể hiện rõ Đảng ta đã
khéo léo trong việc phân loại đối phương và triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa họ, có đối sách phù hợp với
từng đối tượng: Đối với Pháp, ta cương quyết chống lại Pháp De Gaulle mưu mô chiếm lại Đông Dương,
tranh thủ Mỹ công nhận nền độc lập của Việt Nam và “giao hòa với chúng ta”; đối với Tưởng Giới Thạch
“nên tránh xung đột quân sự mà chỉ xung đột bằng chính trị”… Chính quyền cách mạng đã sử dụng lực
lượng của Tưởng có mặt ở Việt Nam làm đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, kiềm chế âm mưu của
Pháp sớm khôi phục lại sự kiểm soát với Đông Dương.
- Tài ngoại giao của Người còn là việc nhìn nhận đúng thời cơ và việc sáng suốt ra những quyết sách kịp
thời. Nhờ nhãn quan chính trị và sự nhạy bén trước chuyển biến mau lẹ của tình hình, vào thời điểm khi cả
Pháp và Tưởng đều cần phía Việt Nam thỏa thuận với Pháp về một giải pháp mà hai bên có thể chấp nhận
được để tránh cuộc xung đột mở rộng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nắm bắt khoảnh khắc lịch sử,
kịp thời ký bản Hiệp định Sơ bộ 6-3-1946 theo những điều kiện có lợi nhất có thể được với Việt Nam, phù
hợp với tình hình trong nước và quốc tế cũng như tương quan lực lượng lúc bấy giờ.
Cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lc( dĩ bất biến, ứng vạn biến)
Chủ đề 14: đường lối kc chống Pháp
1 hc sự (bội ước của Pháp)
Tháng 11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phổ Hải Phòng và thị xã Lạng Sơn, đổ bộ
lên Đà Nẵng và gây nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm
cách liên lạc với phía Pháp để giải quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng kiểm soát an ninh trật tự
ở Thủ đô, ngày 19-12-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc
(Hà Đông) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi
gặp phía Pháp để đàm phán, song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ chúng
cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hội nghị đã quyết định hạ quyết tâm
phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực hiện màn
kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi.
2 nd đg lối
Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được Đảng hình thành, bổ sung, phát triển qua thực tiễn cách
mạng Việt Nam trong những năm 1945 đến 1947. Nội dung cơ bản của đường lối đó được thể hiện trong
nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, lời kêu gọi, bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đồng chí
Tổng Bí thư Trường Chinh, trong đó tập trung ở các văn bản: Chỉ thị kháng chiến kiến quốc (25- 11-1945);
Chỉ thị tình hình và chủ trương (3-3-1946); Chỉ thị hòa để tiến (9-3-1946); Chỉ thị toàn dân kháng chiến (12-
12-1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946); Tác phẩm kháng
chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (8-1947). Quan điểm chỉ đạo cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện được nêu ra gồm những nội dung chính sau đây:
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta là chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của thực
dân Pháp. Mục tiêu của cuộc kháng chiến là đánh đổ thực dân Pháp xâm lược, giành nền độc lập, tự do,
thống nhất hoàn toàn. Đây là hình thức tiếp tục sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, vì nền tự do
dân chủ, góp phần bảo vệ hòa bình thế giới.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam dựa trên sức mạnh toàn dân, tiến hành kháng chiến toàn diện, lâu
dài và dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân là đem toàn bộ sức dân, tài dân, lực dân; động viên toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc
tích cực tham gia cuộc kháng chiến. Phải xây dựng sự đồng thuận, nhất trí của cả nước, đánh địch ở mọi nơi,
mọi lúc, “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài, mỗi phố là một mặt trận”. Trong đó
Quân đội nhân dân và các lực lượng vũ trang là lực lượng làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc.
Kháng chiến toàn diện là tư tưởng chỉ đạo của Đảng ngay từ ngày đầu kháng chiến. Cuộc chiến tranh về
tổng thể là một cuộc đọ sức, đọ tài toàn diện giữa các bên tham chiến, không phải chỉ trên lĩnh vực quân sự,
vũ trang.
Kháng chiến lâu dài là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong bối cảnh so sánh lực lượng ban đầu giữa
ta và địch quá chênh lệch, không cân sức. Trường kỳ kháng chiến là một quá trình vừa đánh tiêu hao lực
lượng địch vừa xây dựng, phát triển lực lượng ta, từng bước làm chuyển biến so sánh lực lượng trên chiến
trường có lợi cho ta. Thời gian được xác định là lực lượng vật chất để chuyển hóa nhỏ thành lớn, yếu thành
mạnh. Đây là một quy luật cơ bản của cuộc chiến tranh nhân dân lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ đánh lớn trong
lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam. Kháng chiến lâu dài nhưng không phải là kéo dài vô thời hạn mà
phải luôn tranh thủ, chớp thời cơ thúc đẩy cuộc kháng chiến có bước tiến nhảy vọt về chất, thắng từng bước
để đi đến thắng lợi cuối cùng. Tư tưởng chỉ đạo này đánh dấu sự hình thành, bước đầu phát triển tư duy lý
luận quân sự mới trong cách mạng dân tộc dân chủ và nghệ thuật chiến tranh nhân dân của Đảng ta.
Kháng chiến dựa vào sức mình là chính, là sự kế thừa tư tưởng chiến lược trong chỉ đạo sự nghiệp cách
mạng giải phóng dân tộc, giành chính quyền “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” của Hồ Chí Minh. Cuộc
kháng chiến của nhân dân ta nổ ra trong điều kiện quốc tế bất lợi, phe đế quốc chủ nghĩa hung hăng hiếu
chiến; Việt Nam nằm trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc, chưa có nước nào giúp đỡ ta. Con đường duy
nhất đúng đắn lúc bấy giờ là phải tự lập, tự cường, tự cấp, tự túc về mọi mặt; phải dựa vào nguồn nội lực của
dân tộc, phát huy nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần vốn của trong nhân dân ta làm chỗ dựa chủ yếu, nguồn
lực chủ yếu của cuộc chiến tranh. Đồng thời, trong kháng chiến không để bị bao vây, cô lập mà cần thiết
phải tìm được các nguồn lực ủng hộ, giúp đỡ cả tinh thần và vật chất của quốc tế, trước hết là các nước các
nước láng giềng, phe xã hội chủ nghĩa, các lực lượng tiến bộ và phát huy cao độ ngoại lực khi có điều kiện.
A, quá trình hình thành(1h23)
Đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn.
Ngay sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công, trong Chỉ thị về kháng chiến kiến quốc, Đảng đã nhận
định kẻ thù chính, nguy hiểm nhất của dân tộc ta là thực dần Pháp xâm lược, phải tập trung mũi nhọn đấu
tranh vào chúng.
Trong quá trình chỉ đạo cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã chỉ đạo kết hợp
đấu tranh chính trị, quân sự với ngoại giao để làm thất bại âm mưu của Pháp định tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam.
Ngày 19-10-1946, Thường vụ Trung ương Đảng mở Hội nghị Quân sự toàn quốc lần thứ nhất, do Tổng Bí
thư Trường Chinh chủ trì. Xuất phát từ nhận định “không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng
nhất định phải đánh Pháp”‘, Hội nghị đề ra những chủ trương, biện pháp cụ thể cả về tư tưởng và tổ chức để
quân dân cả nước sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu mới. Trong Chỉ thị Công việc khẩn cấp bây giờ (5-11-
1946), Hồ Chí Minh đã nêu lên những việc có tầm chiến lược, toàn cục khi bước vào cuộc kháng chiến và
khẳng định lòng tin vào thắng lợi cuối cùng.
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và
công bố ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn dân kháng chiến
của Trung ương Đảng (12-12-1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chi Minh (19-12-1946) và
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
3 ý nghĩa
– Ý nghĩa trong nước: việc đề ra và thực hiện thắng lợi đường lối kháng chiến, xây dựng chế độ dân chủ
nhân dân đã làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp được đế quốc Mỹ giúp sức ở mức độ
cao, buộc chúng phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương; làm thất
bại âm mưu mở rộng và kéo dài chiến tranh của đế quốc Mỹ, kết thúc chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông
Dương; giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo điều kiện để miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm căn cứ địa,
hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh ở miền Nam; tăng thêm niềm tự hào dân tộc cho nhân dân ta và nâng cao uy
tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
– Đối với quốc tế: thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa
bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia
đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: “Lần
đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó cũng là
một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi vẻ vang của các lực lượng
hòa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới”
14.1 = hiểu biết về thực tiễn cmg, hãy CMR đg lối kc chống Pháp là đúng đắn, phù hợp với yc khách quan
( giá trị của đương lối kc)
(như chủ đề 14)
1 hc ( pháp bội ước)
2 nd đườnglối kc
3 quá trình hình thành đg lối, cơ sở để đảng đề ra đg lối
14.2 = hiểu biết về ls hãy pt phuương châm kc chống P . CM đglối kc chống P là đúng đắn, khoa học , giá
trijcura đg lối
1 hc
2 nd (
Phân thích phuong châm
1. Phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện - nhân tố cơ bản quyết định sự thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Đường lối kháng chiến của Đảng giai đoạn 1946 – 1954 từng bước hoàn chỉnh và thể hiện tập trung
trong 3 văn kiện lớn được soạn thảo, công bố trước và sau ngày toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Đó là văn
kiện Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ
Chí Minh (19/12/1946); tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
Đó là sự kế thừa và phát triển truyền thống yêu nước, truyền thống quân sự cả nước chung sức đánh
giặc của dân tộc Việt Nam lên một trình độ mới, một chất lượng mới phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại và thực tế của cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến được Đảng ta xác định
là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh.
Toàn dân kháng chiến: là nội dung chính của chiến tranh nhân dân Việt Nam, chi phối mọi chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, chi phối kế hoạch tác chiến nghệ thuật quân sự và phương hướng xây
dựng lực lượng.
Toàn dân kháng chiến là tất cả mọi người dân Việt Nam đều tham gia đánh giặc, trong đó lực
lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Cách đánh giặc trong chiến tranh nhân dân là thế “thiên la địa
võng” đối với quân thù; đánh địch ở phía trước, ở phía sau, ngay trong lòng địch, chiến trường không phân
chiến tuyến. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài, tạo ra thế cài răng lược, chiến
tranh lộn ẩu, chiến tranh bao vây, chiến tranh không mặt trận, chiến tranh tiêu thổ. Điều này đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (tháng 12-1946): “Bất kỳ đàn ông, đàn bà,
bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”, đây chính là một định
hướng chiến lược, một cẩm nang hoạt động đối với toàn dân ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp.
Toàn diện kháng chiến: là kháng chiến cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, ngoại giao nhằm
huy động mọi tiềm lực vật chất, tinh thần của đất nước, liên hiệp với mọi lực lượng cách mạng tiến bộ và
hòa bình trên thế giới, kết hợp mọi hình thức đấu tranh để đánh bại kẻ thù.
Tính đúng đắn, sáng tạo của Toàn dân, toàn diện kháng chiến được Đảng ta xây dựng trên cơ sở,
điều kiện của một nước đất không rộng, người không đông, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cơ sở công nghiệp
rất nhỏ yếu. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với phương châm toàn dân kháng chiến, toàn diện
kháng chiến, nhân dân ta đã kế thừa truyền thống oanh liệt của ông cha ta để tạo nên sức mạnh tổng hợp
nhằm đánh thắng đội quân nhà nghề của đế quốc luôn hơn ta về sức mạnh quân sự và các lĩnh vực khác,
Đảng đã huy động lực lượng rộng rãi và mạnh mẽ của cả nước, của toàn dân, đánh địch về các mặt quân sự,
chính trị, binh vận, ngoại giao và đã từng bước giành thắng lợi.
Sở dĩ, Đảng động viên được sức mạnh của toàn dân vì nhân dân các dân tộc đã được Đảng giáo dục,
giác ngộ về mục đích chính trị của cuộc kháng chiến, đó là mục tiêu độc lập dân tộc, dân chủ nhân dân và
chủ nghĩa xã hội, đó cũng chính là mục tiêu do nhân dân và vì nhân dân. Đó là cơ sở để giác ngộ nhân dân
sâu sắc về nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ kháng chiến và cũng là cơ sở để huy động sức mạnh chính trị,
tinh thần và vật chất của toàn dân vào cuộc kháng chiến.
Bên cạnh phương châm toàn dân, toàn diện kháng chiến, trường kỳ và tự lực cánh sinh cũng là những
yếu tố độc đáo, sáng tạo của Đảng ta trong xây dựng đường lối kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Muốn trị lửa phải dùng nước, địch muốn tốc chiến, tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến trị
nó, thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng”. Đồng thời, Đảng ta xác định tiến hành kháng chiến chủ yếu
dựa vào sức mình là chính: đó chính là dựa vào sức mạnh tổng hợp của đất nước, của dân tộc; mặt khác,
tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế khi có điều kiện.
Như vậy, với phương châm kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh được
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định ngay từ khi cuộc kháng chiến vừa bùng nổ đã trở thành ngọn cờ
dẫn dắt quân dân ta vượt qua mọi khó khăn, liên tiếp giành thắng lợi và đưa cuộc kháng chiến đến toàn
thắng.
b, quốc tế
Đối với quốc tế, thắng lợi đó đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới; mở rộng địa
bàn, tăng thêm lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới; cùng với nhân dân Lào và Campuchia
đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân ở ba nước Đông Dương, mở ra sự sụp đổ của chủ nghĩa thực
dân cũ trên thế giới, trước hết là hệ thống thuộc địa của thực dân Pháp.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh nói: "Lần
đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một
thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân
chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".
2 nn thắng lợi
Khách quan
+ Tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.
+ Có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, của nhân dân
Pháp và loài người tiến bộ.
chủ quan
+ Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối chính trị, quân sự
và đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo.
+ Có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có Mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và
mở rộng.
+ Lực lượng vũ trang ba thứ quân sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn,
vững chắc về mọi mặt.
2. Nội dung
Nghị quyết xác định: Cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song là tiến hành
cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.
Nghị quyết chỉ rõ hai mâu thuẫn cơ bản của tình hình xã hội miền Nam sau năm 1954:
Mâu thuẫn xã hội:
o Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với bọn đế quốc Mỹ xâm lược và tập đoàn tay sai Ngô Đình
Diệm
o Mâu thuẫn giữa nhân dân, trước hết là nông dân với địa chủ phong kiến.
Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc
=> Hai mâu thuẫn này tuy mang tính chất khác nhau, song chúng quan hệ biện chứng với nhau và tác
động mạnh mẽ lẫn nhau.
Từ sự phân tích mâu thuẫn trên, Nghị quyết chỉ ra nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là:
Nhiệm vụ cơ bản: là giải phóng miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến ,
thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thốg
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt : là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc xâm lược và
gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ; thành
lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam; thực hiện độc lập dân tộc và các
quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hòa bình; thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế
giới.
Về lực lượng cách mạng, Nghị quyết xác định:
Giai cấp công nhân, nông dân, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, lấy liên minh công nông làm cơ
sở
Nền tảng của cách mạng là công - nông và trí thức
Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng
Về đối tượng cách mạng: Đế quốc Mỹ, tư sản mại bản, địa chủ phong kiến và tay sai của đế quốc Mỹ.
Nghị quyết đặc biệt nhấn mạnh:
Con đường phát triển cơ bản của cách mạng ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về
tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của
quần chúng là chủ yếu kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị của đế quốc và
phong kiến, thiết lập chính quyền cách mạng của nhân dân.
Về khả năng phát triển của tình hình, Nghị quyết dự báo: đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất,
cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển
thành cuộc khởi nghĩa vũ trang trường kỳ và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta.
Về vai trò của Đảng bộ miền Nam, Nghị quyết khẳng định: sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền
Nam dưới chế độ độc tài phát-xít là một yếu tố quyết định thắng lợi của phong trào cách mạng miền
Nam. Vấn đề mấu chốt là phải củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Trong hoàn cảnh mới, Đảng bộ phải hết sức đề cao công tác bí mật, triệt để lợi dụng khả
năng hợp pháp để gìn giữ lực lượng của Đảng... Để bảo vệ cơ quan đầu não và che giấu cán bộ cần xây
dựng ở các địa phương những cơ sở an toàn và khu an toàn.
19.1 nghị quyết TW nào quyết định chuyển cmg miền Nam sang Phải sd bạo lực cmg để giành chính quyền
( lm giống chủ ddeef19)
Phân tích ý nghĩa, giá trị nghị quyết 15
- Quyết tâm và mục tiêu chiến lc: Quyết định phát động kháng chiến chống Mỹ trên cả nc, coi
đó là nv thiêng liêng của cả dân tộc; tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nc nhà
- Phương châm chỉ đạo: tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kc lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời
gian tương đối ngắn ở miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo với miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và
liên tục tiến công; kiên trì phương châm kết hợp quân sự và chính trị; triệt để thực hiện 3 mũi
giáp công đánh địch trên cả 3 vùng chiến lc
- Tư tưởng chỉ đạo với miền bắc: chuyển hướng xây dựng kt trong đk có chiến tranh, tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân để bv miền bắc. động viên sức ng sức của cao nhất để chi viện
miền Nam.
- Nv và mối quan hệ giữa 2 miền: Mb là hậu phương lớn, miền Nam là tiền tuyeesnlowsn. 2
nv có mối quan hệ khăng khít và k tách rời nhau nhăm mục tiêu chung đánh thắng giặc Mỹ
xâm lược.
3 ý nghĩa
- Đường lối tiến hành đồng thời 2 chiến lược cmg thể hiện tư tưởng chiến lc giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
- thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sang tạo của đảng trong việc giải quyết những vấn đề riêng của cmg
VN
- Là cơ sở để đảng chỉ đạo các nv cmg ở mỗi miền về mục tiêu
20.1 =hiểu biết về ls cmg vn hãy CMR đg lối tiến hành đồng thời 2cmg là đúng đăn, phù hợp vd thực tiễn.
(54-75)
1 hc đạihội 3
2 nd đg lối đại hội 3+ nd hội nghị TW 11 3/65 và HNTW 12 12/65
NHTW 11
Đảng ta đã định hướng nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là tích cực kiềm chế và thắng địch trong
cuộc chiến tranh đặc biệt ở mức cao nhất ở miền Nam, ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng
của cả nước giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn
bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu địch gây ra; tiếp tục xây
dựng miền Bắc, kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế và tăng cường quốc phòng, kiên quyết bảo vệ
miền Bắc đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại và phong tỏa bằng không quân và hải quân của địch,
chuẩn bị sẵn sàng để đánh bại địch trong trường hợp chúng đưa cuộc chiến tranh phá hoại hiện nay
đến một trình độ ác liệt gấp bội, hoặc chuyển nó thành một cuộc chiến tranh cục bộ cả ở miền Nam
lẫn miền Bắc, ra sức động viên lực lượng của miền Bắc chi viện cho miền Nam; ra sức giúp đỡ cách
mạng Lào.
Tư tưởng chỉ đạo miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế ,tăng cường lực lượng quốc phòng cho
kịp với sự phát triển tình hình cả nước có chiến tranh; ra sức chi viện cho miền Nam với mức cao
nhất để đánh bại địch ở chiến trường chính miền Nam;
HNTW 12
Nhiệm vụ chung mà Đảng ta xác định trong kỳ hội nghị này là phải làm sao đánh bại giặc Mỹ bảo vệ
miền Bắc, giải phóng Miền Nam. Nhận định rõ mối quan hệ giữa cách mạng hai miền, Miền Bắc sẽ là hậu
phương vững chắc, vận động toàn diện sức người, sức của đế chi viện cho chiến trường miền nam, ở Miền
Nam thì phải kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ và bọn tay sai tiến đến giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc.
Nhiệm vụ tiếp theo mà Đảng đề ra trong hội nghị lần này đó là phương châm đấu tranh chúng ta vẫn
giữ nguyên phương châm “ đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị triệt để vận dụng ba mũi giáp
công(quân sự, chính trị và binh vận)”. Vì nhiệm vụ của Đảng để ra là nhanh chóng đánh thắng địch trong
thời gian ngắn nên việc kết hợp ba phương châm đấu tranh trên sẽ đẩy nhanh hiệu quả chiến đấu và để
phòng được việc quân Mỹ đang ngày càng tăng cường lực lượng vào chiến trường miền Nam. Một trong
những nhân tố không thể thiếu trong những ngày đầu làm cách mạng Đảng ta đã nhận định rõ ràng đó chính
là “ dựa vào sức mình là chính nhưng đồng thời chúng ta hết sức tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và viện trợ
quốc tế”.
22.1 = hiểu biết về ls , hãy CMR đg lối kc chống Mỹ là đúng đắn , phù hợp yc khách quan của tình hình
( như cđ 22 )
Quá trình ht cho xuống cuối
22.2 hãy CMR thắng lợi của cuộc kc chống Mỹ cứu nc là thắng lợi của đg lối giương cao ngọn cờ và độc
lập cnxh
Chương 3 đảng lãnhđạo cả nc quá độ lên cnxh (1975- nay)
A- giai đoạn 75-85
Chủ đề 28 Các bc đột phá và qtđổi mới
1 hc
Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, chúng ta có tư tưởng chủ quan, nóng vội muốn tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời gian ngắn. Nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
trong đó về quản lý kinh tế, những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp bộc lộ ngày
càng gay gắt, dẫn tới đất nước dần dần lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Trong hoàn cảnh ấy,
vấn đề sống còn là đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi mạnh mẽ
cách nghĩ, cách làm. Từ đó có những tìm tòi thử nghiệm và cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp mới
cho những vấn đề đặt ra.Hoạt động đầu tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư
duy kinh tế.
Ý nghĩa : Thực hiện những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước, ý thức tự
giác của người lao động được nâng cao, tác động tốt đến hiệu quả sản xuất, kinh
doanh của địa phương. Nhờ vậy, sản xuất từng bước có phát triển, đời sống các tầng
lớp nhân dân đã phần nào giảm bớt khó khăn. Tuy nhiên, tình hình vẫn còn nhiều
yếu tố mất ổn định. Nền kinh tế của cả nước vẫn chìm sâu vào khủng hoảng. Những
hạn chế trên trước hết là do khả năng lãnh đạo và năng lực quản lý của ta còn nhiều
mặt hạn chế. Nhưng nguyên nhân sâu xa còn do những chủ trương đổi mới lúc bấy
giờ vẫn trong giai đoạn thử nghiệm, tìm tòi, mang tính chất từng mặt, từng phần,
chưa triệt để, toàn diện, việc thực hiện của địa phương cũng chỉ là góp phần trải
nghiệm nhằm tổng kết thực tiễn để tiếp tục hoàn chỉnh thêm đường lối đổi mới của
Đảng.
- Về kế hoạch hóa nền kinh tế, kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh doanh XHCN.
- Để chấn chỉnh và phát huy tốt vai trò của phân phối lưu thông, Đại hội chủ trương kết hợp chặt chẽ cả ba
biện pháp quản lý: Kinh tế, hành chính, giáo dục, trong đó biện pháp kinh tế là gốc. Như vậy, Đảng đã nhận
thức được vai trò của các biện pháp kinh tế, của các động lực kinh tế, thay vì đề cao, tuyệt đối hóa các biện
pháp hành chính mệnh lệnh như trước đây.
- Đề cập ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ (giá – lương – tiền).
+ Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi phí cho giá thành sản phẩm.
+ Tiền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ gắn với xóa bỏ bao cấp. Chế độ
tiền lương phải đảm bảo cho người lao động tái tạo sức lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
+ Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiên; chuyển
ngân hàng sang hạch toán kinh doanh XHCN.
Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu
kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế...” Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
trở thành nhu cầu cấp thiết và cấp bách.
Ý nghĩa:
Đây là những nhận thức về sự cần thiết phải giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, sự cần thiết phải tạo
ra động lực thiết thực cho người lao động – đó là quan tâm đến lợi ích kinh tế, lợi ích vật chất thiết thân
của người lao động,… Những tư duy đổi mới về kinh tế đó tuy mới mang tính chất từng mặt, từng bộ
phận, chứa cơ bản và toàn diện, nhưng lại là những bước chuẩn bị quan trọng, tạo tiền đề cho bước phát
triển nhảy vọt ở Đại hội VI.
Năm 79 81 82 85các đại hội
Nêu hc curabc đột phá và nêu ý nghĩa luôn
B – từ 86- nay
Chủ đề 32 : đahi hội 6
1 hc
Đại hội VI của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 15 đến 18-12-1986, trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật đang phát triển mạnh, xu thế đối thoại trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu. Đổi mới
đã trở thành xu thế của thời đại. Liên Xô và các nước XHCN đều tiến hành cải tổ xây dựng CNXH.
Trong khi đó, Việt Nam đang bị các nước đế quốc và thế lực thù địch bao vây, cấm vận, khủng hoảng kinh
tế xã hội diễn ra trầm trọng. Lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng khan hiếm, lạm phát tăng lên 774%
năm 1986. Các hiện tượng tiêu cực, vi phạm pháp luật, vượt biên trái phép khá phổ biến. Đổi mới đã trở
thành đòi hỏi bức thiết của đất nước.
2 nd đổi ms về kt
Với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá thành tựu, nghiêm túc
kiểm điểm, chỉ rõ sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong giai đoạn 1975-1986. Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ
những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức
thực hiện. Những sai lầm đó, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành
động đơn giản, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan. Nguyên nhân của mọi nguyên nhân bắt nguồn từ
những khuyết điểm trong hạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Từ đó, Đại hội rút ra bốn
bài học quý báu:
Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc.
Hai là, Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ của một đảng cầm quyền đang lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng XHCN.
Trên cơ sở đó, Đại hội chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế. Đổi
mới cơ chế quản lý, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang hạch toán, kinh doanh, kết hợp
kế hoạch với thị trường.
Đại hội xác định nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên
là: Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích lũy; bước đầu tạo ra cơ cấu kinh tế hợp lý, trong đó đặc biệt chú trọng ba
chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, coi đó là sự cụ thể
hóa nội dung Công nghiệp hóa trong chặng đường đầu thời kỳ quá độ.
Thực hiện cải tạo XHCN thường xuyên với hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp
và lực lượng sản xuất phát triển. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, giải quyết cho được những vấn đề cấp bách
về phân phối, lưu thông. Xây dựng và tổ chức thực hiện một cách thực, có hiệu quả các chính sách xã hội.
Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.
Đại hội đề ra 5 phương hướng lớn phát triển kinh tế là: Bố trí lại cơ cấu sản xuất; điều chỉnh cơ cấu đầu tư
và củng cố quan hệ sản xuất XHCN; sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế; đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối
ngoại.
Đại hội nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo của chính sách kinh tế là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai
thác mọi tiềm năng của đất nước, sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất XHCN.
Đổi mới công tác đối ngoại nhằm góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và cnxh. Tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước
XHCN; bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình ở Đông Nam
Á và trên thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phấn đấu giữ vững hòa bình ở Đông
Dương, Đông Nam Á và trên thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương.
Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng về tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới về công tác tư tưởng. Đổi mới
công tác cán bộ và phong cách làm việc, giữ vững các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng…Đảng cần
phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và tăng
cường vai trò quản lý của Nhà nước để huy động lực lượng quần chúng.
3 ý nghĩa
Đại hội VI của Đảng là đại hội khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt phát triển mới
trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Các Văn kiện của đại hội mang tính khoa học và cách mạng, tạo bước
ngoặt cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, hạn chế của đại hội VI là chưa tìm ra những
giải pháp hiệu quả tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối lưu thông
32.1 ( chủ đề 31) hỏi về 4 bài học kinh nghiệm
1 hc
2 nêu tên là phân tích 4 bài học
chủ đề 32.2 hãy nêu rõ nd chính của công nghieejphoas xhcn trong chặng đg tiếp theo do đại hội đại biểu
đảng toàn quốc lần thứ6đề ra tháng 12/86
1 hc
2 nói sơ về nd đại hội 6
3 phân tích 3 chương trình đại hội kt
Chủ đề 33: đặc trưng cơ bản .. do cương lĩnh đại hooji7 đểa và thực hiện
1 hc
2 nêu 6 đặc trưng cơ bản phân tích ngắn thôi 4-5 dòng
Nêu đại hội 11 đã bổ sung hoàn thiện và thêm 2 đặc tưng
K ghi 8 đặc trưng
33.1 hãy nêu các đặc trưng cơ bản do đh 11 đề ra
8 đăhc trưng và so sánh vs cương lĩnh đại hội 9
3 tính ưu việt
Các nc tuwbarn đế quốc k có 8đặctrưng đó
3. Y nghĩa
+/ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới -
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã
hội công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân ta, vì tình hữu nghị
và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
+/ Đại hội có ý nghĩa quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp
bước vào thế kỷ XXI.
Chủ đề 36: phân tích 1 luận điểm của đh 9
1 hc
Đại hội IX của Đảng đã họp tại Hà Nội, từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001, là Đại hội mở đầu thế kỷ XXI, cách
mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Sau sự kiện 11-9-2001 ở Mỹ,
một nước lớn lợi dụng chống khủng bố, tăng cường can thiệp vào công việc nội bộ của nhiều nước. Khu vực
Đông Nam Á, châu Á-Thái Bình Dương trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động nhưng tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Sau 15 năm đổi mới, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế
và lực mới nhưng nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp. Chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm mà Đại hội VIII đề ra là 9-10% đã không đạt. Các nguy cơ mà Hội
nghị giữ nhiệm kỳ của Đảng (1-1994) đã nêu ra vẫn là những thách thức lớn của cách mạng nước ta.
2 nêu rõ động lực để pt đn,,….
1. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân:
Ðoàn kết là một truyền thống tốt đẹp, là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước;
điều này được thể hiện đậm nét trong lịch sử dân tộc ta, nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng đất
nước. Trong công cuộc đổi mới, Ðảng ta tiếp tục xác định xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực chủ yếu, nhân tố có ý nghĩa quyết
định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nói đến động lực phát triển xã hội là nói đến khả năng, nhất là khả năng trí tuệ của con người, có
thể tạo nên sức mạnh to lớn của toàn xã hội, làm chuyển động và thay đổi một cách toàn diện xã hội
theo hướng phát triển, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của con người. Nhưng để biến những
khả năng đó thành hiện thực trong cuộc sống thì phải có một lực lượng xã hội to lớn, đó là khối đại
đoàn kết toàn dân. Động lực phát triển đất nước cũng có sự thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử,
trong đó có những yếu tố tồn tại một cách xuyên suốt, vĩnh hằng.
Bất kỳ quốc gia, dân tộc nào muốn phát triển cũng phải tạo ra sức mạnh đoàn kết của quốc gia,
dân tộc đó. Đối với Việt Nam, sự hình thành khối đại đoàn kết toàn dân có tính đặc thù do phải trải
qua rất nhiều khó khăn, thử thách để chống lại thiên tai, dịch bệnh khắc nghiệt và các kẻ thù xâm
lược hùng mạnh hơn từ bên ngoài. Do đó, đoàn kết đã được hun đúc từ đời này qua đời khác và trở
thành một truyền thống quý báu lâu đời, sức mạnh vô địch của dân tộc ta. Đúng như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã rút ra những kết luận có tính chân lý: “Đoàn kết làm ra sức mạnh”, “Đoàn kết là sức
mạnh của chúng ta”, “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tư tưởng đại đoàn
kết dân tộc đã được kế thừa và phát triển đến cao độ; được thể hiện nhất quán và xuyên suốt quá
trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã xác định rõ những động lực phát triển đất nước, bao gồm: Đại đoàn kết toàn dân tộc;
Dân chủ xã hội chủ nghĩa; kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết
thân của con người; Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ; Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; Công bằng xã hội; Đổi mới, sáng tạo… Trong đó, đại đoàn kết toàn dân tộc
được xem là động lực hàng đầu.
Riêng nhận thức về đại đoàn kết dân tộc, động lực chủ yếu của sự phát triển trong 30 năm đổi
mới, cũng có những thay đổi, phát triển phù hợp với điều kiện thực tế. Đó là xây dựng đại đoàn kết
gắn với đồng thuận xã hội, trong đó đồng thuận vừa là phương thức vừa là mục tiêu của đại đoàn
kết; đã hình thành những bộ phận mới trong khối đại đoàn kết và ngày càng đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển đất nước như doanh nhân chẳng hạn; hình thành phương châm mới xây dựng
đại đoàn kết là gắn với phát huy dân chủ, xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai
cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc, đề cao tinh thần dân
tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung…
Sở dĩ, đại đoàn kết toàn dân tộc được Đảng ta coi là động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, khi được
quy tụ, tổ chức, có sự lãnh đạo thống nhất, thì sẽ động viên đến mức cao nhất sức mạnh của tất cả
các giai tầng trong xã hội, đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước để hướng đến mục tiêu chung là
xây dựng và phát triển “Một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Do đó, đại đoàn kết toàn dân tộc sẽ là động lực
chủ yếu thúc đẩy sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới, khác với quan điểm tuyệt đối hóa đấu
tranh giai cấp trước đây.
Trong tình hình hiện nay, đại đoàn kết dân tộc chỉ trở thành động lực khi: (1) Độc lập, tự do và
cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ nghĩa xã hội - lợi ích cơ bản của nhân dân, của dân tộc -
được thể hiện cụ thể, sinh động hàng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng. (2) Quyền làm chủ đất nước của nhân dân được tôn trọng, nhân dân thực sự là
người chủ và thực sự làm chủ đất nước, như Hiến pháp đã quy định. (3) Các chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải có tác dụng trực tiếp và quyết định đến đời sống nhân dân
và kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. (4) Mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân
dân được thắt chặt một cách bền vững, thực chất…
Tuy nhiên, để hiện thực hóa quan điểm, tư tưởng đúng đắn đó, Nhà nước cần thể chế hóa đường
lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; đồng thời tổ chức thực hiện các chính sách,
pháp luật một cách nghiêm minh, có hiệu quả, thông qua bộ máy công quyền trong sạch, công tâm,
hết lòng phục vụ nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân cần làm tốt vai trò
đại diện cho lợi ích chung và lợi ích của các giai tầng trong xã hội, là cầu nối quan trọng giữa Đảng,
chính quyền và nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải thông qua Mặt trận, các đoàn thể nhân dân
và bằng các hình thức đa dạng nhằm thực hiện tốt các phong trào, các cuộc vận động chung, cũng
như trong từng lĩnh vực. Đại đoàn kết phải được thực hiện từ cơ sở, trong từng cộng đồng dân cư,
thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cơ quan, đơn vị…
Trước mắt, cần tập trung phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp
và chế độ tự quản của cộng đồng dân cư) và giữ vững kỷ cương trong xã hội; tổ chức và động viên
nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế, văn hóa - xã
hội, ai ai cũng đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước; chăm lo và bảo vệ lợi
ích của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội; tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu,
dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, tôn giáo…
Nhờ có truyền thống lâu đời và biết giữ gìn và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nên
dù phải trải qua rất nhiều khó khăn, thử thách nhưng dân tộc Việt Nam vẫn không bị suy yếu, không
bị đồng hóa và ngày nay đang vững bước đi lên CNXH vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng và văn minh”, từng bước hội nhập quốc tế. Để truyền thống tốt đẹp đó biến thành sức mạnh, là
động lực chủ yếu và nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm sự thắng lợi bền vững của đất nước
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, đòi hỏi cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, cũng
như mọi người dân, trước hết là các cấp ủy đảng và người đứng đầu cấp ủy cần quán triệt sâu sắc tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc; nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những
định hướng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đã được Nghị quyết Đại hội XII của Đảng
thông qua. Từ đó, hết sức trân trọng, giữ gìn và không ngừng kế thừa, phát huy, phát triển trong thời
kỳ mới.
2. Liên minh công nhân, nông dân, trí thức
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã
hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.Quan hệ các
giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân,đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức,
bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân
tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
4. Để thực hiện luận điểm trên ta cần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh
tế-xã hội; làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống
tinh thần của nhân dân;góp phần xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư
tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, về năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan
dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội.Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam Sẵn
sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển.
3 lm j để nêu rõ .. tri thức
– Nguyên nhân quốc tế dẫn đến thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945:
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã được tiến hành trong bối cảnh quốc tế có những thuận lợi nhất định.
Thời điểm này thì chủ nghĩa phát xít Đức, Ý, Nhật đã bị đồng minh đánh bại, phong trào đấu tranh giải
phóng của các dân tộc bị áp bức và của các lực lượng tiến bộ trên Thế giới cũng đang trên đà phát triển
mạnh.
– Nguyên nhân trong nước dẫn đến thành công của cách mạng Tháng Tám năm 1945:
+ Đầu tiên thì chúng ta cần phải kể đến sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khéo léo của Đảng cộng sản Việt
Nam. Đây chính là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta một
cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Đảng cộng sản Việt Nam đã có phương pháp, chiến lược, chiến
thuật cách mạng rất phù hợp, linh hoạt; bên cạnh đó thì Đảng cộng sản Việt Nam cũng đã nhận thức được
thời cơ, chủ động đón thời cơ và kiên quyết chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong
cả nước.
+ Cách mạng Tháng Tám thành công thì một nguyên nhân nữa đó là do tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí
quật cường của các tầng lớp nhân dân ta. Nhân dân ta không chịu sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất
nước; toàn bộ nhân dân đều một lòng đi theo Đảng cộng sản Việt Nam và đã được Đảng lãnh đạo qua các
cuộc tổng diễn tập, đã quyết vùng lên giành độc lập cho dân tộc. Trải qua 15 năm đấu tranh cực kỳ khó khăn
và gian khổ và anh dũng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã có biết bao đồng bào, chiến sĩ đã không hề tiếc máu
xương, hy sinh oanh liệt vì mục tiêu độc lập dân tộc.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Các
nguyên nhân này đều có những ý nghĩa quan trọng và vai trò to lớn đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám năm 1945. Chiến thắng của cách mạng Tháng Tám năm 1945 tuy đã lùi xa nhưng cho đến nay, ta thấy
được rằng, tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thì vẫn
còn nguyên giá trị và vẫn đang ngày càng tỏa sáng. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một
trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, đây cũng chính một dấu mốc lớn trên con đường
phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của toàn dân tộc Việt Nam.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ của nhân dân ta giành được thắng lợi là
do nhiều nguyên nhân tạo nên. Trước hết, thắng lợi của kháng chiến là do đường lối chính trị – quân sự đúng
đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm vững nội dung và xu thế phát triển của
thời đại, ngay từ đầu, trong chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta gắn mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai
cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Thực hiện phương châm thêm bạn, bớt thù, Đảng ta đã dùng mọi biện pháp để tập hợp lực lượng, củng cố
mối quan hệ với bạn đồng minh, tranh thủ lực lượng trung gian, cô lập kẻ thù chủ yếu. Nhờ có đường lối ấy,
không những khối liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương ngày càng được tăng cường, mà mặt trận nhân
dân thế giới ủng hộ Việt Nam, phản đối thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ ngày càng được mở rộng.
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng và chiến tranh cách mạng là quan điểm về con
người, về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Đánh giá cao vai trò quần chúng nhân dân, trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, Đảng ta xác định
đúng đắn vai trò, vị trí của các giai cấp, các giới, các lực lượng, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vai trò của
công nhân và nông dân. Đảng ta coi liên minh công nông là đội quân chủ lực, là lực lượng chủ yếu quyết
định thắng lợi của kháng chiến, là nền tảng của khối đoàn kết toàn dân.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng ta đã tổ chức cả nước thành một mặt trận; mỗi người
dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Sức mạnh toàn dân đã đưa cuộc kháng chiến từ không đến
có, từ yếu đến mạnh và cuối cùng giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên
Phủ và Hiệp định Giơnevơ.
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là do ta có lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân sớm được xây
dựng và ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đó là đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, luôn luôn gắn bó với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, nuôi dưỡng.
Trong các vùng tự do, nơi có điều kiện thuận lợi, nhân dân ta ra sức xây dựng chế độ mới dân chủ nhân dân
trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đó chính là những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh to
lớn của hậu phương, cho phép huy động đến mức cao nhất và nhiều nhất sự tham gia đóng góp nhân, tài, vật
lực của toàn dân vào sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn do ta có sức mạnh của khối đoàn kết chiến đấu
ngày càng bền chặt giữa nhân dân ba nước Đông Dương; sức mạnh của sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ
ngày càng to lớn từ các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là Trung Quốc, Liên Xô, cũng như
nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.
Mỹ
- Nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng với đg lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ,
đúng đắn sáng tạo. đó là đg lối tiến hành đồng thời cmg xhcn ở miền Bắc và cmg dân tộc dân
chủ nhân dân ở miền Nam
- Nhân dân ta có truyền thống yêu nc nồng nàn. Trong cuộc kc chống Mỹ cứu nc do đảng ta
lãnh đạo, truyền thống đó dc phát huy cao độ và nhân lên gấp bội.
- Miền Bắc xhcn dc bv vững chắc, dc xây dựng củng cố và k ngừng tăng lên về tiềm lực kinh
tế quốc phòng, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến.
- Tình đoàn kết gắn bó giữa nd ta 3 nc Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống 1 kẻ thù chung
đã tạo nên sức mạnh to lớn cho lực lượng chung của cmg 3 nc và cho từng nc đông dương.
- Sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các ll cmg, hòa bình dân chủ trên thế giới. nhất là
Liên Xô Trung Quốc và các nc xhcn anh em.
Trong những nn trên thì sự lãnh đạo của Đảng với đg lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn
sáng tạo.. là nn quan trọng nhất. Vì: Đảng lãnh đạo là nn bao trùm, chi phối các nn khác…Nếu k có
đảng lãnh đạo thì sẽ k có sm tổng hợp của dân tọc, k thể kết hợp đc sm dt với sm thời đại. sự lãnh
đạo của đảng là 1 nhân tố quyết định cho mọi thắng lợi của cmg VN.
sự nghiệp đổi ms