Lược Sử Phòng Riêng DOGMA - DOGMA, Đậu Sỹ Nghĩa, Nguyễn An - 270

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 29

Lược Sử Phòng Riêng

DOGMA
Chương 1 của Căn Phòng Riêng Ta (The Room of One’s Own)

Đậu Sỹ Nghĩa dịch

Nguyễn Anh Cường hiệu đính

Có lẽ không hình thái kiến trúc nào hiển nhiên hơn căn phòng, song nó là đề tài ít túc mới có thể tự chu cấp cho mình một căn buồng để được một mình. Yêu sách của
được nghiên cứu nhất. Có vẻ như căn phòng luôn ở đó, ngay trước mắt ta; người ở Woof về căn phòng như một không gian “riêng mình” vấn hỏi mục đích tiềm ẩn của
hay kiến trúc sư, ta vốn luôn sống trong đó hay thiết kế nó. Nếu cứu cánh của kiến không gian nhà ở xét như vũ đài của việc tái sản lao động, nơi đó tất cả phòng ốc
trúc là tạo không gian thì căn phòng chính là hình thái kiến trúc trực tiếp nhất sinh đều nhằm hỗ trợ việc quản trị hộ gia đình. Trái với phát biểu của Kahn về căn phòng
ra từ tuyên bố này. Từ “room” (căn phòng) đến từ từ rum trong tiếng Anh Cổ có xét như ý niệm bất hủ của kiến trúc, căn phòng của Woof gợi ra làm sao không gian
nghĩa là “không gian” (tương tự với từ raum của tiếng Đức). Cả hai từ này đều rất ấy lại là một tạo tác có sử tính, được sinh từ những điều kiện chính trị, xã hội cụ thể.
gần với từ rus trong tiếng Latin, có nghĩa là “đồng nội rộng mở”. Nghĩa này cũng Ở thời bà, việc phụ nữ ở một mình trong phòng riêng của họ là hành vi hiếm gặp, chỉ
hiện diện trong nhiều ngôn ngữ khác, biến thiên từ việc chỉ một trường mở, bình xuất hiện khi lô-gích tái sản của gia đình bị đem ra chất vấn. Ngoài ra, Woof đặt việc
nguyên hay hành vi dọn chỗ không gian. Như vậy về mặt ngữ nghĩa học, từ “room” sở hữu “căn phòng riêng ta” ngang hàng với khả năng tự chủ kinh tế; và như vậy gắn
liên đới với quan niệm tạo “không gian” cho bản thân. kết không gian dành cho sự cô độc và sự tập trung với hệ khung giai cấp và giới bao
quát hơn, mà thông qua thứ này xã hội được tổ chức.
Trong bài viết “The Room, the Street and Human Agreement”, Louis Kahn xem căn
phòng là nguồn gốc căn cơ của kiến trúc.1 Với ông, khi ở bên trong không gian được Khảo về căn phòng là suy tư về phương cách mà những điều kiện kinh tế, xã hội của
định nghĩa bởi tường, sàn, trần, người ta phải đối diện với những đặc tính cơ bản xã hội nói chung đã trở thành hiển nhiên, thậm chí trong chính việc định hình không
nhất của kiến trúc: chiều kích, cấu trúc và ánh sáng. Tuy nhiên, với Kahn căn phòng gian riêng của từng người. Bác lại lời hô hào về không gian nhà ở như là lãnh địa
cũng là trạng thái tinh thần; một không gian dành cho suy niệm riêng tư, nơi đó người của “sự riêng tư”, hay niềm tin rằng nếu được không gian riêng của mình “cá thể
ta có được khả năng ở một mình với chính suy tư của mình. Suy niệm hay tập trung hóa”, người ta sẽ không còn là một cái ngã tập thể, chúng tôi sẽ biện luận rằng căn
vào bản thân là trạng thái luôn khó mà có được trong môi trường gia đình, bởi vì ta phòng vẫn luôn là không gian ở đó tính cá thể và tính cộng đồng được định hình một
liên tục ở trong không gian xã hội. Do đó mà căn phòng trở thành hiện thân của tính cách tương hỗ. Căn phòng là sân khấu nơi “cái cá thể” dần dần xuất hiện; nơi ấy
nội giới theo nghĩa đen của từ này: tức không gian mà ở đó ta có thể đơn độc với người ta có thể cuối cùng hòa hợp với trạng thái là chính mình giữa những người
chính mình. khác.

Theo nghĩa này, cách Kant mô tả căn phòng như không gian phản tư lại gần gũi bất
ngờ với tiểu luận thời danh của Virgina Woolf A Room of One’s Own, trong đó nữ CĂN PHÒNG VÀ SỰ CÁ THỂ HÓA
văn sỹ Anh viết rằng: “một phụ nữ muốn viết tiểu thuyết cần có tiền và một căn
Để bàn luận về lịch sử của căn phòng, có lẽ tiện hơn là đi từ điểm mà căn phòng đạt
phòng riêng”.2 Tương tự với Kahn, Woof định nghĩa căn phòng như không gian
đến vị thái của mình xét như không gian riêng lẻ, hay một “căn phòng của riêng ta”.
dành cho sự quán tâm thực sự. Tuy nhiên, với bà việc sở hữu căn phòng của riêng
Ở đây, dữ kiện chính yếu là của riêng ta – tức một cách nói vừa hướng đến tính cá
mình gắn với cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ khỏi cơ cấu gia trưởng của không
thể của chủ thể vừa hướng đến quyền sở hữu thứ gì của người ấy. Sự tư hữu nói
gian gia đình, ở đó – theo truyền thống đã có từ cổ đại – chỉ những gia trưởng sung
chung thường được xem xét như quyền lợi về tài sản, trong khuôn khổ đó một người

1
thực thi quyền năng mà không quan tâm đến người khác. Luật pháp công nhận hai không bao giờ hoàn tất mà luôn luôn dành chỗ cho những sự cá thể hóa tiếp theo.
loại hình sở hữu: sở hữu thực tế, và sở hữu danh nghĩa. Sở hữu thực tế là khi cá
3
Với Simondon, việc xem cá thể và tập thể như những lĩnh vực đối lập là không đúng.
nhân sở hữu sự kiểm soát có tính vật lý và trực tiếp một đối tượng. Sở hữu danh Bởi vì trong mọi tiến trình cá thể hóa, cá thể và tập thể định nghĩa lẫn nhau theo cách
nghĩa là khi cá nhân kiểm soát một món đồ, ngay cả khi vật ấy không thuộc sở hữu cộng sinh.
vật lý và trực tiếp của cá nhân. Trường hợp căn phòng của một ngôi nhà thường là
Phát triển lý thuyết của Simondon, Bernard Stiegler khẳng định rằng sự cá thể hóa
sở hữu danh nghĩa, vì người ở trong căn phòng không phải chủ nhân của không gian
của cái Tôi luôn ở trong sự cá thể hóa của cái Chúng Tôi, đồng thời sự cá thể hóa của
mà chỉ sử dụng nó. Chủ sở hữu căn phòng có thể là chủ đất, cho người khác thuê lại
cái Chúng Tôi chỉ xuất hiện thông qua sự cá thể hóa của những cái Tôi cấu thành nó.5
căn phòng, hoặc chủ nhà, người này có phòng của mình và chỉ định những phòng
Những định nghĩa này về sự cá thể hóa đồng vọng với quan sát của Karl Marx trong
khác cho thành viên của gia đình. Sự sắp xếp này – vốn là trường hợp phổ biến trong
phần dẫn nhập Grundrisse, liên quan đến một chủ đề sẽ trở thành nguyên lý trung
không gian nhà ở - khiến “căn phòng của riêng ta” không là một thực tại vật chất mà
tâm của kinh tế chính trị cổ điển: tức chủ thể cá nhân. Marx không chối bỏ sự tồn tại
là một điều kiện không bao giờ tự tồn, mà luôn phụ thuộc vào tổ chức của hộ gia
(và cả tầm quan trọng) của chủ thể cá nhân, nhưng ông phản vấn ý tưởng được những
đình. Chúng ta, xét như những cá thể, có lẽ khao khát một phòng cho chính mình,
nhà kinh tế học như Adam Smith truyền bá, cho rằng cá nhân là một chủ thể đơn độc
song một khao khát như thế phải trở thành một quyền lợi, được thương thảo với
(như huyền thoại về săn bắn và đánh cá riêng lẻ theo kiểu Robinson Crusoe).6 Với
người làm chủ hộ gia đình. Vì vậy, “căn phòng của riêng ta” phản ánh mâu thuẫn nội
Marx, chủ thể cá nhân là kết quả đi từ điều kiện kinh tế của chủ nghĩa tư bản công
tại trong chính ý niệm về sự tồn tại như một “cá thể”, như cách mà khái niệm này
nghiệp, trong đó – khác với các hình thức làm chủ trước đó – sự bóc lột người công
vẫn được thiết lập trong văn hóa tự do. Theo chủ thuyết tự do kinh tế (liberalism),
nhân đã tiền giả định sự tự nguyện bán sức lao động cá nhân của mình. Như Marx
một cá nhân sở hữu những nhu cầu, khát vọng và mục tiêu của riêng mình độc lập
đã viết: “Chỉ mãi tới thế kỷ XVIII, trong “xã hội dân sự”, các hình thái khác nhau
với xã hội mà người ấy dự phần. Song, thứ mà định nghĩa về tính cá nhân bỏ qua
của mối liên hệ xã hội mới thể hiện ra với cá nhân như công cụ đơn thuần cho mục
chính là việc những nhu cầu, khát vọng, mục tiêu ấy thường là sản phẩm của các
đích riêng của hắn, tức như tính tất yếu bên ngoài. Song cái thời đại đã tạo ra lập
điều kiện được kiến tạo có tính lịch sử cụ thể. Tỉ như khát khao được sống một mình
trường này, tức cái lập trường về cá nhân riêng lẻ, cũng chính là thời đại mà quan
sinh ra từ hoàn cảnh mà ở đó, tổ chức của xã hội cho phép – và thậm chí trong một
hệ xã hội phát triển nhất so với trước đó. Hữu thể người theo nghĩa nôm na nhất
số trường hợp, còn khuyến khích – những chủ thể đặc thù có thể sống một mình bên
chính là một zoon politikon (sinh vật xã hội), không chỉ là một sinh vật hợp quần,
ngoài mô hình truyền thống xoay quanh hộ gia đình. Đây chính là trường hợp của
mà là một sinh vật chỉ có thể cá thể hóa chính nó bên trong xã hội”.7 Rõ ràng rằng
những người sống trong phòng đơn, một hình thức nhà ở cực kỳ phổ biến suốt từ
với Marx, chủ thể cá nhân là sản phẩm của một thời điểm lịch sử cụ thể - vào buổi
cuối thế kỷ mười chín sang đến thế kỷ hai mươi, lúc đó nhiều phụ nữ và đàn ông đã
bình minh của chủ nghĩa tư bản công nghiệp – cũng vào lúc ấy, căn phòng trở thành
sống đơn thân sau khi đã bị bật gốc giữa lòng đại đô thị công nghiệp. Sự đột khởi
không gian định hình tính riêng tư cá nhân. Như phần sau sẽ chỉ ra, vẫn có rất nhiều
của loại hình không gian này (về kiến trúc có thể sánh với am tu sỹ) phản ánh hình
ví dụ về phòng riêng vào thời cổ hay vào thời tiền hiện đại, song chỉ giữa thế kỷ
ảnh người công nhân hiện đại xét như người bị buộc bán sức lao động của mình cho
mười tám và thế kỷ mười chín thì phòng “riêng” – dưới hình thức closet (buồng nhỏ),
thị trường như một “cá nhân”, chứ không phải như một bộ phận thuộc về gia tộc hay
boudoir (khuê phòng), phòng độc thân, và cuối cùng là phòng đơn cho công nhân –
phường hội lao công. Tuy nhiên, trong loại hình cư trú này, điều kiện đơn thân của
mới trở thành thành tố cơ bản của không gian nhà ở: đầu tiên trong các nhà giàu rồi
người làm công ăn lương hiện đại vẫn mang tính xã hội, vì thân phận của người ấy
sau ở các ngôi nhà cho giới trung lưu và lao động.
đồng thời được chia sẻ bởi nhiều cá nhân khác.
Điểm mấu chốt ở đây là hiểu được khái niệm “tính riêng tư” xét như một kết quả có
Do đó mà tốt hơn nên nghĩ về phòng “riêng” như sản phẩm của một trong những tiến
tính ý thức hệ từ sự tách biệt giữa công và tư, việc này được nhà nước hiện đại thiết
trình quan trọng nhất định dạng bất kỳ hình thức xã hội nào: tiến trình cá thể hóa.
lập như phương pháp hiệu quả nhất để cai trị quần chúng.8 Sự tách biệt này không
Triết gia Pháp Gilbert Simondon đã mô tả sự cá thể hóa là tiến trình trong đó chủ thể
tự giới hạn ở sự phân định không gian công cộng và riêng tư (đường phố và nhà
được cá thể hóa không phải là nguyên nhân, mà đúng hơn là kết quả của sự cá thể
riêng), mà còn sinh sôi bên trong tổ ấm gia đình, bằng cách tách rời tính chất “chung”
hóa (individuation).4 Thay vì nghĩ rằng “cá thể ” như là đơn vị cơ bản, bất khả phân
của sảnh và phòng khách ra khỏi không gian riêng tư hơn của phòng ngủ. Tuy nhiên
của xã hội, Simondon xem chủ thể được cá thể hóa như một bộ phận của tiến trình
động cơ sâu thẳm nhất của sự tách biệt giữa công cộng và riêng tư lại nằm trong thứ
cá thể hóa có tính hữu thể học bất tận. Trong tiến trình này, cá thể xuất hiện từ một
gì đó liên quan đến cứu cánh xã hội của bản thân không gian nhà ở. Cùng với sự xuất
trường (field) tiền-cá thể, và theo đó sự cá thể hóa của một người hay một vật gì sẽ
hiện của chủ nghĩa tư bản, ngôi nhà trở thành không gian tái sản, tức không gian

2
dành cho việc sản xuất hàng hóa cốt yếu nhất của tư bản: sức lao động. Khả năng cách tiên nghiệm nó phải làm gì trong các tình huống cụ thể (như cách thức tránh
phát triển và gia tăng lợi nhuận của tư bản đã phụ thuộc (và vẫn phụ thuộc) vào khả nguy hiểm hay tìm thức ăn).12 Thiếu đi những bản năng này, con người thường xuyên
năng không cần trả lương cho sự tái sản, vào khả năng giao phó gánh nặng tái sản thấy mình ở trong tư thế mất phương hướng do bị bật rễ bên trong môi trường của
cho gia đình công nhân (cụ thể là vợ của họ).9 Chính trong bối cảnh này mà “tính chính nó. Như Paolo Virino ghi nhận, con người thường dễ bị quá tải về cảm giác,
riêng tư”, luôn được tôn vinh từ thế kỷ mười lăm – đầu tiên như thứ xa hoa rồi sau điều này do vậy thường ảnh hưởng đến khả năng sống còn của nó.13 Chính bởi thế
đó như điều kiện cho mọi tầng lớp – trở thành động lực có tính ý thức hệ, thứ này mà các cộng đồng người đã từng bước bắt đầu định cư và xây những tường bao để
làm cho người ở nhìn nhận gia đình như là nơi trú ẩn, tách khỏi hoàn cảnh có tính sống trong đó. Những tường bao này không chỉ là công trình bảo vệ chia tách cộng
công việc của thế giới “ngoài kia”. đồng khỏi môi trường xung quanh, chúng còn hoạt động như những hình thái cho
phép lễ hóa đời sống trong đó. Như vậy, khao khát một căn phòng có thể gắn với
Như Maria Mies biện luận, giới tư sản tuyên bố rằng “gia đình” là lãnh thổ riêng tư,
một đặc tính căn bản của tính chủ thể: mong mỏi tính ổn định. Động lực dựng nên
tương phản với lĩnh vực công cộng của hoạt động kinh tế chính trị.10 Theo hệ tư
một thế giới trong lòng cõi vô tận đầy rẫy nguy hiểm của môi trường rộng lớn là một
tưởng này, hộ gia đình phải phấn đấu trở thành thành trì bảo vệ những mối quan hệ
điều kiện vừa mang tính tự nhiên vừa mang tính lịch sử: nó là tự nhiên chừng nào nó
tình cảm chân thành chống lại thế giới xã hội hỗn tạp của xã hội lao động. Đây chính
viện tới đặc điểm cụ thể của bản tính người, và nó có tính lịch sử vì nó ghi nhận cách
là phương cách nhờ đó lao động không công trong gia đình đã bị khai thác trong lịch
thức mà bất kì chốn ở nào của con người đều được định khuôn từ tiến trình gia cư
sử - khi trục xuất lao động trả lương khỏi ngôi nhà và đóng khung việc nhà như “lao
hóa (domestication) và những mâu thuẫn mà tiến trình này gây ra.
động của tình yêu”. Theo cách này, chúng ta có thể thấy rằng đời sống công cộng và
riêng tư chỉ là hai mặt của đồng xu chứ không phải hai lĩnh vực đối lập nhau. Tuy Lịch sử căn phòng như một không gian cá thể hóa “riêng tư” có thể được mô tả như
nhiên, cần thận trọng tránh hợp nhất ý thức hệ về tính riêng tư và mong muốn ở một một tiến trình đóng kín không gian, xảy đến thông qua những sự chia nhỏ không gian
mình như cùng một điều kiện. Ở một mình không chỉ là mong muốn, nó còn là nhu kiến trúc khác nhau. Đầu tiên, tiến trình này cá nhân hóa gia đình hạt nhân, rồi đến
cầu chân chính nhất thời khi sống chung với người khác. Chúng ta chỉ có thể sống cộng đồng, sau đó gia tộc, rồi một lần nữa là gia đình hạt nhân và chỉ mới gần đây
cùng người khác chừng nào còn có khả năng được ở một mình, và ngược lại, trạng mới là chủ thể cá nhân. Đây không phải là một tiến trình tuyến tính. Khi nhìn lại lịch
thái ở một mình không loại trừ việc ở cùng nhau. Theo cách này, phòng “riêng” có sử gia cư hóa của con người, chúng ta có thể thấy rất nhiều hướng đi, thử nghiệm và
thể trở thành không gian giúp kiện toàn cơ thể và tâm trí, đặc biệt khi chúng ta, như ý đồ đã thách thức những mô thức có sẵn của đời sống nhà ở, và việc này làm phức
“cá thể xã hội”, phải sống dưới sức ép đáng kể của xã hội. Song song với ý niệm tạp hơn tiến trình cá thể hóa – từ tập thể cho đến cá nhân và ngược lại. Như vậy lịch
“phòng riêng” như là tuyên ngôn cho tư tưởng chủ nghĩa cá nhân, là quan điểm xem sử gia cư hóa không phải là một tiến trình không thể tránh khỏi, nhắm đến một kết
căn phòng như là nơi quy ẩn nhất thời; một không gian dành cho bản thân khi điều cục định trước, mà đúng hơn là một trường khả thể trong đó điều kiện của cái Tôi
kiện cho phép, tìm thấy sự nghỉ ngơi và làm theo nhịp sống riêng của mình. 11 Ở đây, luôn luôn phụ thuộc vào cái Chúng Tôi. Thảo luận về kiến trúc của phòng riêng kéo
điều kiện chiếm giữ căn phòng cho riêng mình không còn là hành vi sở hữu mà là sự theo việc xem xét những tiến trình cá nhân hóa được sử dụng nhắm tới việc tổ chức
sử dụng nhất thời một không gian. Có lẽ chính trong sự sử dụng phòng riêng – nếu xã hội.
được hiểu như là khả năng cho mọi người chứ không phải một quyền ưu tiên – mà
Nhằm tái xây dựng một môn khảo cổ học về phòng “riêng”, chúng tôi đã tập trung
chúng ta tìm thấy một trong những tuyên ngôn mạnh mẽ nhất về việc làm sao địa vị
vào những bước chuyển tiêu biểu mà ở đó sự đóng kín không gian cấu thành nên
xét như cá nhân của ta vẫn luôn liên quan đến mối quan hệ với những cộng đồng
không gian nhà ở đã trải qua một thay đổi quan trọng xét về ý nghĩa và hình thái.
rộng hơn.

CĂN PHÒNG SỐ 1: TỪ HÌNH TRÒN ĐẾN HÌNH


CĂN PHÒNG VÀ SỰ TRỪU TƯỢNG
CHỮ NHẬT
Làm thế nào căn phòng cá nhân hóa chủ thể của nó? Và kiến trúc của căn phòng liên
quan như thế nào đến đến đời sống của người ở ? Về bản chất, căn phòng là khung Dù đã có những vết tích của nơi ở cho con người có niên đại khoảng 23 000 năm
không gian chia tách một cái bên trong khỏi một cái bên ngoài. Theo truyền thống TCN, chúng ta có thể nói rằng kiến trúc nhà ở đã bắt đầu với những nền văn hóa định
tư duy nhân học đi từ Johann Gottfried Herder đến Paolo Virno, con người thiếu cư sơ kì (khoảng 12 500-10 000 năm TCN) khi những người săn bắt hái lượm
những bản năng chuyên biệt, thứ này giúp cho những giống loài khác biết rõ một

3
Khu định cư của người Natufian ở Nahal Oren, Isarel. Shelter 131, Eynan (Ain-Mallaha), Isarel: lò sưởi (1), hố cột (2).
Vẽ theo Goring-Morris và Belfer-Cohen, 2008. Vẽ theo Haklay và Gopher, 2015.

4
sống ít nhất một phần của năm trong những cụm hay khu định cư nhỏ, bao gồm các ra. Với Bradley, những hoạt động như là trồng trọt, làm đồ thủ công và sản xuất
cấu trúc lâu dài. Suốt trong thời kỳ này, ngôi nhà không còn chỉ là nơi nương náu mà lương thực đều là những ví dụ của các tiến trình nhà ở được lễ hóa.18
đã trở thành “tổ ấm” – không gian biểu tượng của đơn vị gia đình. Một trong những
Nhờ vào quan sát này, có thể thấy làm sao không gian nhà ở như căn nhà của người
mô hình kiến trúc nhà ở sơ kì là những cấu trúc nhà của người Natufian, cư dân vùng
Natufian không chỉ là chỗ trú ẩn mà còn là nơi sân khấu và lễ hóa đời sống diễn ra
Cận Đông, và vẫn luôn được xem là ví dụ quan trọng về một dạng văn minh định cư
trong đó. Vị trí của lối vào, cấu trúc của bếp và đường biên hình tròn nhân bội khả
sơ kì. Được mô tả như một “xã hội kiếm ăn phức tạp”,14 người Natufian chiếm một
năng nâng cấp những hoạt động thường nhật trong những không gian này. Như vậy,
vị trí trung gian độc đáo giữa hai hình thức sống rất phân biệt: cuộc sống du mục của
tính hình học của phần bao che không chỉ là cách “tư hóa” không gian, mà còn là
người săn bắt hái lượm và đời sống của các cộng đồng nông dân định cư. Nơi ở của
cách để biến nơi ở thành thứ mà Bradley đã định nghĩa là “sân khấu của đời sống
người Natufian bao gồm một bức tường đá hình tròn cắm vào nền đất với cột gỗ đỡ
thường nhật”.19 Chính sự sân khấu hóa hành động thường nhật đã trở thành dấu ấn
mái có lẽ làm từ vật liệu hữu cơ. Một trong những ví dụ tiêu biểu của loại hình cấu
của cuộc sống được gia cư hóa. Sự phát triển của những khu định cư ổn định hơn đã
trúc này là Shelter 51 trong Khu Natufian ở Eynan với kiến trúc bao gồm một tường
khiến các mối quan hệ xã hội được xác nhận như là những hình thái thường tồn.
chắn bán nguyệt cắm vào nền dốc, có chín hố cột bên trong và những vết tích kết cấu
Bradley cho rằng trong khi người săn bắt-hái lượm hòa nhập vào trong giới tự nhiên
mái.15 Điều ấn tượng ở Shelter 51 là sự chính xác hình học của nó – hình dạng căn
thì cộng đồng định cư tác động lên thế giới – rõ ràng áp đặt những hình thức phân
phòng của nó tách bạch rõ ràng với phong cảnh xung quanh.16 Ví dụ này nhắc ta về
minh lên môi trường của mình trong đó căn phòng hình tròn có lẽ là một trong những
ý niệm nền tảng của căn phòng như một “không gian bao kín”. Ở đây, bản tính bao
cái nguyên mẫu nhất.20 Theo nghĩa này, nơi ở hình tròn trở thành công cụ tăng cường
che của kiến trúc không chỉ nên hiểu như một cơ chế bảo vệ, mà còn như là phương
bản tính biểu trưng của không gian.
tiện giúp ổn định cuộc sống của cư dân. Hình dạng bán nguyệt của căn nhà và bếp
lò đặt tại trung tâm khiến không gian có được một định hướng không gian rõ ràng. Tuy nhiên sự chuyển giao từ tập tính kiếm ăn sang trồng trọt – với kết quả là gia tăng
Ở đây, căn phòng cá thể hóa một cộng đồng, mà tổ chức xã hội của họ có vẻ vượt xa áp lực xã hội – có lẽ đã dần thúc đẩy các cộng đồng chuyển từ không gian nhà ở hình
khỏi gia đình hạt nhân, và hướng đến một lối sống mang tính cộng đồng hơn, hoạt tròn sang không gian hình chữ nhật. Sự thuần hóa cây trồng và súc vật bắt buộc con
động với một trình độ hợp tác tập thể cao. người nhìn xa hơn sinh kế trước mắt, và tạo ra những dự trữ lâu dài. Các cộng đồng
trồng trọt phải thu gom và tích trữ tài nguyên và trở nên có tính tổ chức hơn trong
Có lẽ cũng vì lí do này mà căn phòng có được hình dạng hình học khác biệt như vậy.
lĩnh vực chế biến và tiêu thụ lương thực. Theo ý kiến của Rosalind Hunter-Anderson,
Viêc xác định đường chu vi của ngôi nhà có lẽ đã diễn ra như một nghi lễ. Như được
trong thời tiền sử, ngôi nhà hình chữ nhật dần thắng thế những hình tròn khi con
ghi nhận, hình dạng hình học chính xác của căn phòng liên quan đến sự xuất hiện
người chuyển từ việc săn bắt hái lượm sang những hình thức thích ứng phức tạp
hành vi biểu tượng như là phương pháp tổ chức cộng đồng (đặc biệt là khi những
hơn.21 Sự chuyển giao này gắn với nhu cầu tích trữ tài nguyên, tổ chức và phối hợp
cộng đồng này thường xuyên chiếm giữ một địa điểm đặc biệt). Trong trường hợp
các hoạt động liên quan đến chế biến lương thực và sản xuất thủ công. Trong trường
này, hành vi biểu tượng dưới hình thức nghi lễ cao độ của cộng đồng, hoạt động như
hợp văn hóa săn bắt hái lượm, nhiều hoạt động có lẽ đã xảy ra bên ngoài ngôi nhà,
những cơ chế giải tỏa xã hội chống lại sự căng thẳng của cuộc sống chung. Hình
tuy vậy, cùng với sự phát triển của các cộng đồng định cư, ngôi nhà trở thành không
dạng hình học chặt chẽ của căn phòng phản ánh sự lễ hóa không gian như một cách
gian của rất nhiều hoạt động thường diễn ra cùng lúc.
phóng chiếu quan niệm phương hướng, được toàn bộ cộng đồng chia sẻ. Song tính
nghi lễ mới mẻ này không chỉ giới hạn nơi không gian chính của cộng đồng mà bao Hunter-Anderson định nghĩa hình thức nhà chữ nhật như là một “nhà kho”
trùm lên toàn bộ cụm dân cư. Một điều rất quan trọng ở đây là định nghĩa khái niệm (warebox), có chức năng vừa chứa đựng và vừa sắp xếp có trật tự những thứ bên
“nghi lễ”, theo nghĩa này là những hoạt động bao gồm các cử chỉ và lời nói trình trong.22 Ngôi nhà trở thành không gian cất trữ, tính phức tạp nội tại của thứ này phản
diễn theo những trình tự lặp đi lặp lại. Ở thời hiện đại, chúng ta thường xuyên gắn từ ánh tính phức tạp xã hội của các cộng đồng trồng trọt đang phát triển. Từ mặt bằng
“nghi lễ” với thực hành tôn giáo, từ đó hiểu nghi lễ như là điều gì đó khác biệt rõ một phòng trước đây, ngôi nhà bị chia nhỏ thành nhiều phòng. Theo nghĩa này, sự
ràng với cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, ở thời tiền sử và cổ đại, nghi lễ xuất hiện thắng thế của hình thức chữ nhật trước hình tròn là bởi vì hình tròn khó chia nhỏ hơn
thường xuyên hơn ở khắp nơi, xóa mờ đi sự phân biệt giữa lĩnh vực công cộng và nếu không muốn bỏ phí không gian. Hình dạng chữ nhật làm tiến trình chia nhỏ dễ
riêng tư. Nhà khảo cổ học Richard Bradley cho rằng trong phần lớn thời kỳ tiền sử, dàng hơn và nó cũng cho phép việc thêm vào các không gian mới; và như vậy làm
nghi lễ không tách biệt khỏi lĩnh vực của hoạt động,17 mà đúng hơn nghi lễ là một cho nơi ở trở nên linh động và có thể cùng phát triển với sự lớn dần lên của cộng
sự tái hoạt năng có tính sân khấu từ những cách thức trong đó đời sống nhà ở diễn đồng.

5
Megaron thời Đồ Đá Mới hay nhà “trụ tường” từ Vùng Nam Levant: Beidha Level 11 (1-2), Beisamoun (3), 'Ain Ghazal (4-5), Jericho (6-8) and Yiftahel (9). Mặt bằng
buồng từ Anatolia và Mesopotamia: al-Kowm (10), Abu Hureyra (11), Çayönü (12-13), Jarmo (14), Bouqras (15-16), Umm Dabaghiyah (17) và Nevali Cori (18). ‘Nhà chữ
T’ từ Level IIIa, Tell as-Sawwan (19-23) và “nhà ba gian” từ thời kỳ đầu ở Tell as-Sawwan Level I (24-25). Vẽ theo Banning, 2003.

6
Sự chia nhỏ bên trong ngôi nhà trở nên thiết yếu nhằm ngăn ngừa những chồng chéo xét như nơi chốn chủ trị và giao tế, đồng thời biểu trưng này ẩn đi và giảm trừ chức
và hỗn loạn đến từ các hoạt động khác nhau cùng các vật liệu đi kèm. Kết quả của năng tái sản xuất của ngôi nhà.
tiến trình này là sự xuất hiện của căn phòng – hay nhà-con (sub-house) - với chức
năng là phòng chứa con của “nhà kho”. Tiến trình chia nhỏ và sự xuất hiện của căn CĂN PHÒNG SỐ 2: TỪ MEGARON ĐẾN OIKOS
phòng hiện lên rõ ràng trong dòng tiến hóa của ngôi nhà thời Đồ Đá Mới ở vùng Cận
Đông.23 Những ví dụ khác của loại nhà này – như trường hợp megaron Hy Lạp – bao Sự xuất hiện oikos ở Hy Lạp vào thế kỷ thứ 5 TCN củng cố thêm ý niệm về ngôi nhà
gồm một phòng và vài cột trụ ở giữa. Sự tổ chức này tiến hóa thành một loại hình ở xét như nơi quản trị đời sống được vũ đạo hóa. Từ oikos có nghĩa là “ngôi nhà”
đó các cột trụ đã biến thành trụ-tường mọc ra từ các tường biên. Ở trường hợp này, không chỉ trong khía cạnh cấu trúc vật lý mà còn cả ý nghĩa hộ dân hay gia tộc, và
có một phòng trung tâm liền kề với các phòng con hay hốc tường, nơi này có lẽ dành tài sản. Cùng với sự ra đời của thành phố, polis – lãnh địa của chính trị - oikos trở
cho các hoạt động gia đình chuyên môn hóa hơn và dù được định dạng rõ rệt như thành đơn vị cơ bản của polis; không gian ở đó những công dân tự tái sản. Như vậy,
các phòng, chúng vẫn mở vào không gian trung tâm. hộ gia đình là không gian của techne oikonomie (kinh tế, hay sự quản trị ngôi nhà).25
Như thế, không gian của ngôi nhà tách biệt rõ ràng khỏi không gian chính trị dành
Trong một vài trường hợp, ngôi nhà-căn phòng được kết nối với một hiên đón, giúp
cho thảo luận và quyền công dân. Theo một môn đệ của Aristotle, tác giả của
nhấn mạnh hành vi nghi lễ của việc bước vào nhà. Ở những ví dụ về sau, cấu trúc ba
Economics, mối quan hệ gia đình diễn ra trong oikos không có tính chính trị, mà
phần của loại hình megaron chuyển hóa thành ngôi nhà nhiều phòng. Trong một vài
mang tính chuyên quyền (như mối quan hệ cha con, vợ chồng, chủ và nô lệ, etc.).26
trường hợp, phòng trung tâm – mà đôi khi trở thành sân trong mở - là trục tổ chức
Vì lí do đó, oikos là một thực thể mâu thuẫn, vì tự thân nó không được xem như một
chính của những phòng khác. Cách bố trí này xuất hiện trong cái được gọi là nhà-
lĩnh vực chính trị, nhưng chức năng của nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho đời sống
chữ-T, xuất hiện tại Tell es-Sawwan, Iraq, ở đó, những dãy phòng được nằm sát với
chính trị của polis. Nếu không nhờ sự vận hành riêng của lĩnh vực “phi-chính trị”
một căn phòng lớn hơn ở trung tâm hoặc một sân trong, mang cho toàn bộ phức hợp
oikos, người công dân Hy Lạp (tức đàn ông và trưởng thành) không thể tham gia vào
một cấu trúc ba phần rõ ràng. Nhìn vào chuỗi nối nhau những ngôi nhà Đồ Đá Mới
đời sống chính trị của polis. Aristotle dành chương một quyển sách Chính trị
này, người ta có thể quan sát thấy sự chia nhỏ dần dần của căn phòng ban đầu, thành
(Politics) để thảo luận về sự vận hành của oikos xét như lĩnh vực gia đình, mà không
các phòng kề nhau, song vẫn duy trì tính trung tâm của căn phòng to lớn chính giữa.
có thứ này polis sẽ không tồn tại.27 Cùng với sự xuất hiện của polis, oikos trở thành
Diễn giải sự chia nhỏ ngôi nhà hoàn toàn dựa trên công năng là một sai lầm. Sự chia không gian được quản trị bằng tập quán, điều này phản ánh trong bản thân kiến trúc
nhỏ và sự xuất hiện của căn phòng như nhà-con không chỉ là kết quả của những áp của ngôi nhà. Song sự tiến hóa của oikos là một tiến trình phát triển từng bước kéo
lực xã hội từ các cộng đồng định cư quy mô lớn, mà còn đến từ sự phân chia giới và dài đến vài thế kỷ, và có thể được xem xét thông qua việc quan sát sự biến đổi từ
thứ bậc trong không gian nhà ở. Ở cuối thời Đồ Đá Mới, chúng ta cho rằng sự xuất megaron nguyên thủy cho đến ngôi nhà Hy Lạp đặc trưng thế kỷ thứ 5 TCN.
hiện của sân trong như một căn phòng lớn không mái che, được nhiều phòng nhỏ
Megaron – một cấu trúc kéo dài tạo ra từ một hay nhiều phòng cùng với hiên đón –
bao quanh. Sân trong rất có thể đã xuất hiện như một công cụ không gian cho phép
xuất hiện ở Hy Lạp tiền sử, và suốt một thời gian dài, đây là hình thức chủ đạo trong
các gia tộc mở rộng chia sẻ một không gian nội gia lớn tạo thành từ các đơn vị gia
cả công trình nhà ở và nghi lễ.28 Trong hình dạng đơn giản nhất của nó, megaron là
đình hạt nhân nhỏ hơn. Song sự chia tách ngôi nhà thành phòng chính và các phòng
một căn phòng hình chữ nhật với một lối vào nằm ở trung điểm của một trong những
liền kề cũng là kết quả của việc phân chia ngôi nhà vừa là nơi dành cho giao tế và
cạnh ngắn. Trong một vài trường hợp, một trong những cạnh ngắn hơn sẽ mở hoàn
mặt khác, là không gian của sự tái sản.
toàn ra bên ngoài. Thông thường, băng ghế sẽ chạy dọc theo mặt trong của tường
Có thể xem xét ngôi nhà ba phần ở cuối thời kỳ Ubaid như một tuyên ngôn về không bao, với bếp lò nằm ở trung tâm. Hình thức đơn giản này – được thấy trong vô số ví
gian được phân chia theo vai trò giới tính. Ở đây không gian biểu trưng của ngôi
24
dụ của không gian nhà ở thời tiền sử - ít cho thấy sự khác biệt giữa phần thiêng và
nhà – nơi dành cho nghi lễ và giao tế - chiếm lấy căn phòng trung tâm và định hình phần nhà ở. Xét như ngôi nhà một phòng, megaron đại diện cho giai đoạn mà không
hai cực tách biệt của không gian nhà ở: không gian phụ nữ dành cho chế biến lương gian nhà ở bắt đầu cá nhân hóa gia tộc như là một đơn vị biệt lập (dù cho nó không
thực, dệt vải, và nuôi con; không gian đàn ông dành cho cất trữ tài sản và quản trị đẩy sự cá nhân hóa đi xa hơn về khía cạnh các vai trò giới tính hay các hoạt động).
ngôi nhà. Mô hình ba gian này là một dạng thức nguyên mẫu, trong đó tập hợp nhiều Tuy nhiên, sự tiến hóa của loại hình này cho thấy cách thức, mà theo thời gian
phòng cùng lúc phân chia và hợp nhất những không gian khác biệt của ngôi nhà trong
một lô-gích phân cấp rõ ràng. Như vậy, nó báo trước vai trò biểu trưng của ngôi nhà

7
Các loại hình megaron Hy Lạp cùng với nguồn gốc và niên đại: N = Đồ Đá, EH = Tiền Hy Lạp, MH = Trung Hy Lạp, LH = Hậu Hy Lạp: Loại hình nguyên thủy (1), Iiwan
(2), Olynthos N (3), Servia N (4), Malthi LH (5), Troy VI LH (6), Phylakopi MC (7), Troy II EH (8), Troy VI LH (9), Troy I-VI EH-LH (10), Eleusis LH (11), Troy II EH
(12), Dimini-Sesklo-Eutresis-Troy VI N-EH-MH-LH (13), Troy II EH (14), Eutresis MH (15), Dimini, Sesklo N (16), Asine MH (17), Korakou LH (18), Tiryns-Mycenae
LH (19), Korakou LH (20), Therm-Eutresis EH-M11 (21), Thermi EH (22), Eutresis EH (23), Thermos-Korakou MH (24), Asine LH (25), Troy VI-LH (26), Krisa LH
(27), Asine MH (28), Asine LH (29), Phylakopi MH (30), Gha LH (31), Korakou LH (32). Vẽ theo Müller, 1944.

8
megaron trải qua một chuỗi những sự chia nhỏ, phân mảnh không gian nội thất thống chia giới tính theo các hoạt động khác nhau – cụ thể hơn, tách người phụ nữ gia đình
nhất của nó thành một nơi ở có nhiều phòng. ra khỏi những người khách nam không cùng gia tộc đi vào nhà. Xu hướng này trở
nên phổ biến trong việc tổ chức oikos cổ điển thành hai khu vực riêng biệt: khu vực
Một sự chia nhỏ đáng quan tâm là việc xuất hiện hiên đón, nhấn mạnh lối vào và như
phụ nữ ( hay gynaikonitis) và khu vực đàn ông (hay andronitis). Tuy nhiên ở các ví
vậy củng cố tính riêng tư. Cột trong nhà cho phép megaron mở rộng ra, trong khi
dụ thời sau, việc phân chia theo giới tính trong không gian nhà ở không thật sự nhắm
việc thêm vào phòng phía sau cung cấp không gian cất trữ, hoặc khiến không gian
đến sự phân chia nội tại bên trong gia đình, mà đúng hơn là để tạo ra sự ngăn cách
riêng tư tách khỏi phòng chính. Tại điểm này, megaron trở thành một cấu trúc nhiều
giữa người phụ nữ và người khách nam. Đây là một đặc điểm bất thành văn quan
phòng sắp xếp theo chuỗi tuyến tính – từ không gian công cộng của hiên đón cho
trọng bên trong oikos cổ điển, vì ở polis Hy Lạp, quyền công dân chỉ được trao cho
đến không gian riêng tư của khu vực cất trữ. Trong các ví dụ thời kì sau, megaron bị
dân cư (nam giới) bản địa. Như vậy tính thuần khiết về giới là điều quan trọng để
chia nhỏ nhiều hơn nữa thành ngôi nhà có nhiều phòng hoặc – trong trường hợp
đảm bảo sự ra đời hợp pháp của con trai và bảo vệ gia hệ.
những gia đình quyền lực - nó có nhiều không gian nhỏ bao quanh như trong megaron
ở Tiryns.29 Ví dụ đặc biệt này tương tự với ngôi nhà ba gian thời tiền sử, nơi mà sự Trong bối cảnh này, sân trong trở thành đặc điểm quan trọng của oikos; không chỉ là
phân biệt trở nên rõ ràng giữa căn phòng nghi lễ trung tâm và những căn phòng “phục không gian lao động mà còn là nơi để canh chừng sự tiếp cận vào các căn phòng
vụ” hai bên cánh, nơi diễn ra các hoạt động nhà ở. Việc chia nhỏ megaron từ một hoàn toàn khác nhau. Điều này có thể nhìn thấy trong các ví dụ còn nguyên vẹn nhất
thành nhiều phòng (thường được tổ chức theo một trật tự cấp bậc rõ ràng) có thể của oikos cổ điển như là ngôi nhà sân trong ở Olynthus.31 Trong những ngôi nhà này,
được giải thích bằng sự gia tăng áp lực xã hội, tức kết quả của sự tích lũy của cải và chúng ta nhìn thấy sự phong phú không chỉ của phòng ốc mà còn rất nhiều loại hình
sự cạnh tranh giữa các gia tộc. Áp lực này thúc đẩy việc sử dụng kiến trúc ngôi nhà không gian chuyển tiếp giữa chúng – như là tiền sảnh và loggia - hoạt động như
như là biểu tượng dễ thấy nhất của quyền lực. Sự chia nhỏ dần dần không gian hợp những vùng đệm làm tăng tính riêng tư của các căn phòng bên trong. Sự riêng tư này
nhất của megaron có thể được xem là chỉ dấu cho sự xuất hiện của oikos xét như cho phép hộ dân có thể cho khách thuê một hay nhiều phòng. Như chúng ta biết, ở
không gian trong đó những vai trò và những hoạt động được định nghĩa ngày một rõ polis Hy Lạp, những ai không sinh ra ở thành phố thì sẽ không có quyền công dân,
ràng hơn. và như vậy không thể sở hữu tài sản và bắt buộc phải thuê một hay nhiều phòng trong
các hộ dân đang có. Lần đầu tiên trong lịch sử, gia đình và hộ dân đã không nhất
Bước chuyển từ megaron sang oikos trở nên hoàn toàn rõ ràng ở thành phố cổ Zagora.
thiết phải trùng khớp với nhau: căn phòng gia đình trở thành không gian độc lập có
Trong giai đoạn nhà ở đầu tiên, những ngôi nhà được tạo ra từ các phòng đa năng
khả năng tách biệt khỏi phần còn lại của ngôi nhà.
kết hợp việc ngồi, lao động, ăn uống và ngủ trong cùng một không gian. Tiếp sau
đó, những nơi ở kiểu megaron tụ lại xung quanh các căn phòng sân trong. Tại thời Ở đây chúng ta nhìn thấy việc duy trì tính riêng tư xuất hiện như là mục tiêu chính
điểm này, mỗi căn phòng có một chức năng cụ thể, vận hành dễ dàng nhờ vào sân của hộ dân. Trong bối cảnh này, tính riêng tư không chỉ có nghĩa là sự tách biệt các
trong, có thể xem như không gian cơ bản nhất của oikos. Sân trong không chỉ cho thành viên gia đình khỏi thế giới bên ngoài, mà còn là sự bảo vệ hộ gia đình xét như
phép các phòng khác nhau chia sẻ một không gian lớn dành cho các hoạt động chung, một tài sản kinh tế toàn vẹn có nguồn gốc là lĩnh vực nội tại của gia đình. Mặt bằng
nó còn vận hành như một không gian kiểm soát vì nó được bao bọc bởi những căn ngôi nhà Olynthus minh họa việc phân chia không gian nhà ở thường thấy trong
phòng cá nhân, chúng trở thành những hộ gia đình tự cung tự cấp. thành quốc Hy Lạp cổ đại thành hai không gian có chức năng xác định: phức hợp
oecus (tức lõi hạ tầng của ngôi nhà bao gồm một nhà bếp trang bị bếp lò trung tâm),
Điều ấn tượng trong trường hợp Zagora là cách thức mà sự biến đổi này đã xảy ra
và andron (không gian dành riêng cho đàn ông ăn tối, tiếp khách và tiệc tùng, xem
song không làm mất đi bộ khung megaron có từ trước, bộ khung được cải biến một
như không gian cao quý nhất của ngôi nhà).32 Oecus và andron là hai cực của không
cách tinh tế thông qua việc thêm vào các tường ngăn chia và như vậy tạo ra các căn
gian nhà ở cổ đại: không gian ẩn của sinh kế và tái sản xuất, và không gian đón mở
phòng mới có chức năng chuyên biệt. Sự chia nhỏ căn phòng ban đầu thành nhiều
của giao tế và biểu tượng. Mối quan hệ giữa những căn phòng này được trung giới
phòng khác nhau có lẽ được thúc đẩy từ mong muốn phân biệt giữa không gian thích
qua các không gian giữa như hàng hiên hay phòng chuyển. Việc sử dụng các không
dụng và không thích dụng, và biến cái sau này trở thành không gian của tính giao tế
gian giữa như phần đệm giữa các phòng khác nhau minh chứng cho mối bận tâm về
và nghi lễ. Vì lí do này, Alexandra Coucouzeli biện luận rằng loại hình megaron
việc phân bổ oikos trơn tru hết mức có thể. Trong quyển Oeconomicus, Xephonon
được chuyển đổi sang ngôi nhà sân trong chính là tiền thân của oikos cổ điển ở thế
khẳng định rằng mức độ hữu ích của ngôi nhà nằm ở việc bố trí mặt bằng, qua đó
kỷ thứ 5 TCN.30 Theo Coucouzeli, đằng sau sự chia nhỏ loại hình megaron chính là
các phòng khác nhau được tập hợp thành một sự kết chuỗi thống nhất và hiệu quả.33
áp lực xã hội của việc phát triển ngôi nhà trở thành môi trường riêng tư, và sự phân
Xephonon so sánh việc quản lí ngôi nhà với điệu nhảy tuân theo một biên đạo hòa

9
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2
Ngôi Nhà A vii 4, Olynthus, Hy Lạp, Thế kỷ thứ 5 TCN: cửa hàng
(1), sân (2), andron (3), phòng sau (4), pastas (5), kho(6), phức
Các Ngôi Nhà ở Zagora, Hy Lạp, khu vực D/H hợp nhà bếp (7).
Vẽ theo Coucouzeli, 2007. Vẽ theo Cahill, 2000.

10
phối kĩ càng. Ngôi nhà phải thiết lập được điều kiện cho sự hài hòa hoàn hảo qua phòng; như vậy việc này hàm ý rằng không có mối quan hệ ý nghĩa giữa căn phòng
việc cùng chung sống suôn sẻ. với những gì ở bên trong nó, và căn phòng không có chức năng cố định. 38

Cùng lúc, ta có thể xem cubiculum là một không gian riêng tư, hiện thân cho lý tưởng
CĂN PHÒNG SỐ 3: TỪ CUBICULA ĐẾN AM TU của người La Mã về cuộc sống, sống với phẩm cách tiêu phóng; tức là sống một cuộc
đời mà ta có thể thoát ly xã hội nếu cần và tu thân trong việc đọc, viết và suy tưởng.
Trong khi polis Hy Lạp cổ điển dựa trên lưỡng phân oikos và polis (ngôi nhà và
Bên trong cubiculum, giường thường được đặt ở cạnh đối diện với lối vào phòng,
không gian công cộng) thì thành thị La Mã lại rất tập trung vào vai trò chủ đạo của
trên một bệ nâng cao hơn nền một chút. Vị trí giường cho thấy rõ ràng rằng bất chấp
hộ dân như là hạt nhân của xã hội.34 Từ chỉ ngôi nhà La Mã là domus có gốc từ
tính riêng tư của mình, cubicula cũng là không gian giải trí thân mật, đối nghịch với
nguyên Hy Lạp là “xây”. Song gốc từ này lại làm xuất hiện những từ như là dominus
những gì diễn ra ở atrium hay triclinium. Trên hết, cubiculum là ngôi đền của đời
(chủ nhà) và những biến thể khác nhau của nó như là dominion và domination –
sống riêng, trong đó những luật lệ của xã hội La Mã được buông lỏng và có thể được
những thuật ngữ nhấn mạnh mối quan hệ bất đối xứng giữa chủ nhà và gia đình của
vượt bỏ. Như vậy, cubiculum là không gian kiến trúc đầu tiên đóng khung ý niệm về
anh ta. Quả vậy, từ familia liên quan nhiều đến hộ dân hơn là cách hiểu hiện đại của
tính riêng tư cá nhân xét như một sự thả lỏng khỏi những dò xét công cộng. Chính
chúng ta về gia đình (family), mà về cơ bản nó bao hàm một sự tập hợp của gia nhân,
vì thế mà cubiculum đã trở thành nơi xảy ra một trong những sự kiện quan trọng bậc
bởi từ này bắt nguồn từ từ famulus (gia nhân). Như vậy ngôi nhà là tiểu vũ trụ trong
nhất tác động đến xã hội La Mã: sự cải đạo Thiên Chúa Giáo.39
đó trật tự xã hội được trình hiện ở quy mô nhỏ hơn. Điều kiện này thúc đẩy giới cai
trị đầu tư vào việc xây dựng những ngôi nhà nguy nga như sự thể hiện chủ yếu về Như được ghi nhận, mối quan hệ giữa sự thờ phụng Thiên Chúa Giáo sơ khai và hộ

địa vị chính trị và xã hội của họ (dù cho việc tiêu pha quá mức vào ngôi nhà riêng gia đình rất khăng khít. Điều này không chỉ do vai trò quan trọng không ngừng tăng

lại bị xem là hành động kém đạo đức với xã hội). Chính vì lí do này mà ngôi nhà La lên của các “giá trị gia đình” bên trong thần học Thiên Chúa Giáo, mà còn bởi vì –

Mã cổ đại là sản phẩm của một tình huống mâu thuẫn trong đó tổ ấm vừa là biểu đến tận buổi đầu của thế kỷ thứ tư SCN – sự thờ phụng Thiên Chúa Giáo không được

tượng địa vị xã hội, vừa là lãnh địa riêng tư ở đó giới thượng lưu đầy quyền lực có phép diễn ra ở không gian công cộng (như sau này khi giáo hội chấp nhận sử dụng

thể tự bảo vệ khỏi áp lực của công chúng.35 Như ghi nhận của Shelley Hales, domus basilica “công cộng” làm không gian thờ cúng đúng nghĩa ). Như vậy, không gian

La Mã đồng thời là tổ ấm và là chốn dành cho việc tiêu khiển, kinh doanh, nghỉ ngơi riêng tư nhất của ngôi nhà trở thành nơi chốn cho phép thờ phụng (nếu ta tính đến

và là forum vận động chính trị.36 Những không gian nguy nga như là atrium, thái độ thù địch nhắm vào sự cải đạo có thể nằm ngay trong chính gia đình). Song

vestibulum, peristylium và triclinium, nơi mà người gia trưởng yến tiệc với bạn bè mối quan hệ giữa cubicula và sự thờ phụng Thiên Chúa Giáo không chỉ thuần túy

và khách khứa chứ không phải với người trong gia đình chính là hiện thân của chiều dựa trên nhu cầu; nó còn liên quan đến tư tưởng. Sự khác biệt cơ bản giữa Thiên

kích công cộng của ngôi nhà.37 Ở những nhà giàu có, những không gian này là một Chúa Giáo và những tôn giáo khác tại thời điểm đó – nhất là tín ngưỡng của La Mã

chuỗi phòng được bài bố cẩn trọng bắt đầu từ sân trong (atria) và kết thúc ở khu vườn cổ đại – là sự tập trung vào tinh thần cá nhân và mối quan hệ cá nhân với Thánh

kín. Tuy nhiên chính vì phải chịu một áp lực xã hội như vậy, domus cũng có thêm Tính. Mối quan hệ này không chỉ cá nhân hóa linh hồn của tín đồ mà còn cả cơ thể

nhiều không gian riêng tư (thường được vài người dùng chung) như cubicula, hay của anh ấy hay cô ấy ( như chứng nhận ở một trong những đoạn quan trọng nhất

những phòng nhỏ dành riêng cho việc nghỉ ngơi, ngủ và tình dục (căn tự Latin cubô, trong lá thư của thánh Paul gửi tín hữu Corinth, trong đó Đức Sứ Đồ viết rằng cơ thể

nghĩa là “nằm xuống”). Vì tính riêng tư của nó, đôi khi cubiculum cũng được mô tả của tín đồ là “đền thờ của Chúa Thánh Thần”).40 Chính trong Thiên Chúa Giáo mà

như là nơi chốn của sự tập trung và như vậy của “công việc”, nhất là “công việc trí ý niệm về thế giới nội tâm riêng của một người trở thành tư tưởng thống trị. Tuy

óc” như là đọc hoặc viết. nhiên, khi cơ thể của tín đồ là “đền thờ của Chúa Thánh thần”, thì cơ thể không còn
thuộc về cá nhân mà thuộc về Chúa. Như vậy, cubiculum là không gian riêng tư nhất
Có lẽ cubiculum là tổ tiên của “phòng cá nhân”, nơi mà kiến trúc không gian nhà ở
trong nhà, song nó không được hiểu như là không gian “riêng tư” ở khía cạnh tư hữu.
tiệm cận với tỷ lệ cơ thể con người. Song việc xem cubiculum như một “phòng ngủ”
(bedroom) sẽ là một sai lầm bởi vì như Eleanor Leach đã bàn, người La Mã không Nhờ vào tính riêng tư của mình, cubiculum được các giáo phụ Thiên Chúa Giáo như

đặt tên phòng trong nhà theo đồ vật trong đóa, mà dựa trên bản thân kiến trúc của căn là Thánh Ambrose, Jerome, và John Cassian xem là nơi chốn hoàn toàn tách biệt
khỏi phần còn lại của ngôi nhà, cũng như khỏi thành phố và như vậy tách biệt khỏi

a
Trong tiếng Anh phòng ngủ là bedroom ghép bởi chữ bed (giường) và room (phòng)

11
Tu viện Kellia, Nitria, Ai Cập, khoảng năm 600 SCN: sảnh đón
(1), nhà kho (2), khu vệ sinh (3), giếng (4), nơi ở của ẩn sỹ (5), nơi
Ngôi Nhà Pansa, Pompeii, Italy, khoảng năm 79 SCN: cửa hàng tiếp khách (6), nhà bếp (7), nhà nguyện của huynh trưởng (8),
(1), cubiculum (2), sân trong (3), tablinum (4), peristyle (5), phòng ngủ của huynh trưởng (9), phòng ngủ của môn đệ (10).
triclinium (6), hàng hiên (7), khu vườn (8). Vẽ theo Fiorelli và
Sorgente, 1858. Vẽ theo Brooks Hedstrom, 2011.

12
những ảnh hưởng trần thế.41 Khi giải thích cho một mệnh phụ La Mã quyền quý làm Kể từ lúc bắt đầu lịch sử của mình, đời sống tu viện đã phát triển cách sống một mình
thế nào để sống theo Thiên Chúa Giáo, Jerome đã nói về cubicula như cubicula tua nhưng cùng với những người khác. Cubiculum đưa ra một mô hình cho cách sống
secreta (“căn phòng của sự bí mật riêng”), và như vậy ông đã đồng nhất căn phòng đó. Các ẩn sỹ sống cuộc đời đơn độc trong các gian buồng được xây nên, đồng thời
với nơi quy ẩn và trú ngụ. Trong tiểu luận vể mối quan hệ chính trị tinh thần và chia sẻ cùng nhau những tiện ích tôn giáo và thực tế thiết yếu (nhà thờ, lò bánh, etc.).
không gian nhà ở cuối thời Cổ Đại ở Ý, Kristina Sessa ghi nhận rằng trong rất nhiều Nguồn gốc từ nguyên học của từ “am” (cell trong tiếng Anh) đến từ từ celle trong
truyện thánh tử đạo La Mã thế kỷ thứ năm và thứ sáu (vẫn gọi là gesta martyrum), tiếng Pháp-Anh (có nghĩa là ẩn sỹ) và từ Latin cella (có nghĩa là “phòng nhỏ”, hay
cubiculum trở thành “căn phòng thánh tử đạo”, và độc giả được kêu gọi đồng hóa “phòng cất trữ”). Trong quyển sách How to Live Together, Roland Barthes lấy cộng
cucibula trong nhà họ thành chốn dành cho hoạt động tinh thần có thể thực hiện mà đồng tu viện làm mô hình cho ý tưởng về đời sống chung.44 Khi chấp nhận sống cùng
không cần giám mục.42 Do quy mô nhỏ của căn phòng liên hệ đến cơ thể cá nhân nhau, những tu sỹ đầu tiên sẽ ở trong những gian buồng đơn, gắn kết lỏng lẻo quanh
con người và mối quan hệ của nó với bản ngã, cubicula trở thành nơi chốn của đời không gian trung tâm, mà trong nhiều trường hợp chính là nhà thờ. Như Barthes ghi
sống khắc kỷ, trong đó tín đồ sẽ tự tu dưỡng cả về thể xác lẫn tinh thần để từng bước nhận, điều kiện này cho phép tu sỹ giữ gìn “nguyên tắc cá biệt” (idiorrythmy) ( từ từ
thoát ly trần thế và đến gần với Chúa. Như Sessa nhấn mạnh, vai trò trung tâm của idios (“cá biệt”) và từ rhythmos (“nhịp điệu” hoặc “nguyên tắc”)) của riêng mình.45
cubiculum trong sự thờ phụng Thiên Chúa Giáo sơ kỳ đã trở thành đòn bẩy làm biến Trong điều kiện này, họ vửa tách biệt khỏi vừa gắn kết với người khác trong tập hợp
đổi ngôi nhà La Mã giàu có trở thành ngôi nhà Thiên Chúa Giáo (hay thậm chí là tu những “nguyên tắc cá biệt”. Trong những tập hợp này, việc sống cùng nhau không
viện). Trong bối cảnh này, cubiculum trở thành hiện thân sơ khai của một trong hoàn toàn cản trở đến viễn cảnh ở một mình. Barthes rất thích thú với cách sống này,
những không gian nguyên mẫu của lối sống Thiên Chúa Giáo: am tu. và ghi nhận rằng hình thái đời sống tu viện chính là nơi ấp ủ cho cái mà sau này trở
thành loại hình nền tảng của thế giới hiện đại: am đơn hay phòng đơn.
Việc đồng nhất đời sống tu sỹ với các gian buồng cá nhân không phải tự nhiên mà
có, khi đời sống tu viện phát triển trong khoảng giữa thế kỷ thứ tư và thế kỷ thứ mười Tuy nhiên sự cá nhân hóa đó không loại bỏ đời sống cộng đồng; mà ngược lại, nó
lăm thông qua một chuỗi lối sống biến thiên giữa việc sống một mình và sống cùng trở thành một bước tiến để đạt được điều này. Tiến trình cá nhân hóa – trong đó cá
nhau. Thật vậy, có thể xem toàn bộ truyền thống của đời sống tu viện là sự thử nhân và tập thể định hình một cách tương hỗ - xuất hiện rõ ràng ở một trong những
nghiệm các cách sống khác nhau. Tại khởi điểm của truyền thống này, sự tập trung ví dụ đặc biệt nhất của kiến trúc tu viện sơ khai: khu vực Kellia ở Ai Cập.46 Thành
vào mối quan hệ giữa cá nhân với Chúa của Thiên Chúa Giáo là ảnh hưởng cơ bản lập vào thế kỷ thứ tư, Kellia là một cộng đồng tu viện phát triển qua nhiều thế kỷ.
hướng đến sự theo đuổi cá nhân về đời sống ẩn sỹ - tức hiện thân đầu tiên của đời Trong khi ở thời điểm bắt đầu, các tu sỹ trú ẩn trong những gian buồng đơn sơ ( có
sống tu viện. Hơn nữa, có rất nhiều tu sỹ thời kì đầu đến từ các gia đình quyền quý, một phần nằm sâu dưới đất và được một mái vòm che chắn), thì về sau, họ sống
vì vậy họ hẳn quen thuộc với sự cô đơn của cubiculum. trong các cấu trúc phức tạp hơn, mà đôi khi có nhiều tu sỹ sống cùng trong một nơi
ở. Một đan viện đặc trưng về sau ở Kellia bao gồm một bức tường bao bọc nhiều căn
Bên trong đời sống tu viện, tiến trình cá nhân hóa trở nên rõ ràng vì lẽ mối quan tâm
phòng nhỏ cho tu sỹ cũng như các tiện ích thiết yếu khác như phòng tiếp khách, nhà
của experimentum vitate (trải nghiệm đời sống) tu viện là khả năng nhận thức về mối
bếp và không gian cất trữ. Căn phòng đơn có hình thức của cubiculum, song tường
quan hệ giữa cá nhân và tập thể như sự bổ sung cho nhau chứ không phải đối
của nó thường có một hốc nhỏ mà có lẽ là nơi để cất trữ hoặc nhà nguyện nhỏ. Những
nghịch.43 Xuất hiện vào thế kỷ thứ tư như một lối thoát khỏi những điều kiện ngột
cộng đồng tu viện như ở Kellia cho thấy tiến trình từng bước hợp nhóm của các gian
ngạt của đời sống đô thị và khỏi sự định chế hóa của đời sống giáo hội, đời sống tu
buồng đơn lẻ, song tính cá nhân của bản thân từng gian buồng không vì thế mà mất
viện phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau – từ đời sống ẩn dật cô độc thoát ly
đi.47 Ở đây, mối quan hệ giữa am tu và tu viện cũng tương tự những gì diễn ra giữa
cộng đồng, đến bán ẩn dật, nơi mà các ẩn sỹ sống cùng nhau theo lối sống tự phát,
cubiculum và domus La Mã (điểm khác biệt là tu viện chỉ được tạo ra từ các
rồi đến cenobitic, ở đó tu sỹ không những sống chung tại cùng một nơi mà còn chia
cubiculum và một vài tiện tích chung). Cuối cùng, sự tổ chức này tiến hóa thành
sẻ cùng nhau giới luật tu viện. Như chính ngôn ngữ chỉ rõ, nền tảng của “đời sống tu
những bố cục mang tính hình thức hơn, như là tu viện Coptic ở đó các gian buồng
viện” (monasticism) (đến từ từ monos, tiếng Hy Lạp có nghĩa là “một mình”) là chấp
được sắp xếp theo hàng. Cùng với sự trỗi dậy của đời sống tu viện Phương Tây và
nhận sống đời cô độc. Trong thời cổ đại, đời sống này không có tiền lệ (và vì vậy
sự khẳng định của Giới Luật Benedict, các tu sỹ có xu hướng sống trong các cộng
sống cô độc hoàn toàn là vô cùng khó khăn, nếu không nói là không thể). Những tu
đồng, và như thế hòa lẫn gian buồng cá nhân vào tu viện.48
sỹ đầu tiên có thể tìm nơi ẩn dật của mình gần với các thành thị hoặc ở các khu vực
thưa dân hơn song không bao giờ cách xa các ẩn sỹ khác.

13
Certosa del Galuzzo, Florence, Italy, khoảng năm 1341: phòng ngủ (1), thư phòng (2), phòng Hail Mary (3), sảnh
(4), vườn (5), cửa tiếp tế (6), hành lang cột (7), sân trong (8), giếng (9), nghĩa trang (10). Vẽ theo Reuber, 1999.

14
Bên trong tu viện cenobitic, sự cá nhân hóa không còn được thiết định theo nghĩa cá lao động công nghiệp). Tuy nhiên gần đây góc nhìn này về tích lũy nguyên thủy đã
nhân và tập thể, mà dựa trên các hoạt động khác biệt trình hiện ở những thời điểm bị thử thách. Theo các học giả nữ quyền như Maria Mies và Silvia Federici, trọng
cụ thể trong ngày. Trong những tu viện cenobitic tiêu biểu, như các tu viện dòng tâm của tiến trình tích lũy nguyên thủy không chỉ là sự vây rào đất công mà còn là
Benedictine hay Cistercian, có thể nhận ra lô-gích phân phối của ngôi nhà La Mã cổ sự hạ cấp lao động nữ thành lao động không công ở nhà.51 Ngay từ thời điểm bắt đầu
đại, như việc peristyle (hàng hiên cột) hay cloister (hồi lang) trở thành công cụ phân xuất hiện, một trong những khía cạnh trung tâm của hệ thống tư bản chủ nghĩa là sự
phối cho phép mỗi phòng là một không gian riêng biệt bên trong căn nhà. Tuy nhiên, tái sản xuất sức lao động. Chính trong bối cảnh này mà ngôi nhà trở thành lãnh địa
ngay cả trong sự triển khai hoàn thiện của đời sống tu viện cenobitic, vẫn có những của tái sản và cả nơi chốn trong đó lao động cần thiết để duy trì sự tái sản này bị biến
ý đồ yêu sách cho khả năng “cùng nhau mà tách biệt” bằng việc sống trong các ngôi thành phi-lao động ( tức “lao động của tình yêu” của người phụ nữ), điều này vì lợi
nhà-buồng được nhóm lại trong những bố cục lớn hơn. Những bố cục nơi ở trong tu ích của gia đình, bên trong sự riêng tư của ngôi nhà. Sự đồng nhất không ngừng gia
viện dòng Carthusian cung cấp một ví dụ tinh túy về sự kết hợp giữa đời sống ẩn sỹ tăng ngôi nhà với “lĩnh vực riêng tư” trong đó mối quan hệ giữa các thành viên của
và đời sống cộng đồng. Giới luật của dòng Carthusian cốt ở việc sống một đời sống nó được xem là tự nhiên (và như vậy có thể tách biệt lĩnh vực công cộng mang nhiều
ẩn sỹ cùng nhau, như vậy am tu không chỉ là một căn phòng đơn mà là một ngôi nhà tính chính trị hơn) là sản phẩm có tính ý thức hệ đi từ cách mà theo đó lĩnh vực nhà
nhỏ dành cho một người bao gồm cả nơi làm việc và khoảnh vườn rau.49 Lõi của ở được hình dung thành lãnh địa của sự bóc lột lao động gia đình. Như Michael
gian buồng dòng Carthusian là cubiculum, tức căn phòng nhỏ gồm một giường và McKeon ghi nhận, ý thức hệ nhà ở như là các lĩnh vực tách biệt – công cộng với
một bàn nhỏ để ngồi ăn và tu học. Trong những am tu ở Certosa del Galluzzo gần riêng tư, ngôi nhà và nơi làm việc – đã không gian hóa sự phân chia lao động theo
Florence (được Le Corbusier nghiên cứu trong chuyến du hành xuyên Ý vào năm giới, sâu sắc, dai dẳng và từng chút một.52
1907), những chiếc bàn cho tu sỹ có thể gập lại, khiến căn phòng hầu như trống
Dĩ nhiên điều kiện này chỉ trở nên minh nhiên cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa
không và như vậy nhấn mạnh tiềm năng về một không gian dành cho sự tập trung và
tư bản công nghiệp, song mầm mống văn hóa và tư tưởng của nó đã được gieo trong
suy niệm. Mục tiêu của am tu là cho phép tu sỹ trở thành một nhà khắc kỷ, tức người
sự tiến hóa của kiến trúc nhà ở suốt thời Phục Hưng. Những gì chúng ta nhìn thấy
biến cuộc đời mình thành đối tượng của thực hành chiết lọc. Ở đây chúng ta nhìn
trong giai đoạn này là một tiến trình chia nhỏ và quy ẩn đã tác động lên ngôi nhà
thấy sự xuất hiện của “căn phòng riêng” như là không gian nhà ở mà mục tiêu không
khiến nó không chỉ là nơi dành cho các hoạt động ngày một chuyên môn hóa nhiều
chỉ là sự tái sản, mà tạo điều kiện để tu thân; cho phép người ở có thể thực hiện một
hơn mà ở đó ảo vọng trốn tránh xã hội của cá nhân còn được vun đắp. Tiến trình này
experimentum vitae liên tục phát triển.
phải được xem xét tương phản với bối cảnh về nhà ở châu Âu thời trung cổ. Nói một
cách khái quát, ngôi nhà trung cổ đơn giản là một vật bao che thô sơ trong đó rất ít
CĂN PHÒNG SỐ 4: TỪ TƯ PHÒNG ĐẾN THƯ phân biệt giữa nhà và xưởng, giữa sản xuất và tái sản. Nếu có một hình thức phân

PHÒNG ĐẾN KHUÊ PHÒNG chia nội thất nào đó trong ngôi nhà trung cổ, nó thường được áp đặt theo chiều đứng
với các tầng khác nhau chứ không phải theo chiều ngang thông qua việc thêm vào
Những cơ sở của kiến trúc Phục Hưng có thể được đọc xoay quanh sự xuất hiện các vách ngăn.53 Chỉ ở những ngôi nhà rất giàu có, chúng ta mới bắt đầu thấy sự phân
phong phú các loại phòng ốc. Xu thế này được các gia đình quyền quý dẫn dắt, song biệt giữa sảnh chính của ngôi nhà (nơi ăn uống của gia đình và đón khách), và phòng
theo thời gian nó thâm nhập vào cả sự bố trí nhà ở của gia đình trung lưu và bình riêng (chỗ ngủ và cất trữ của cải của người chủ nhà và gia đình). Tuy nhiên, bất chấp
dân. Các sử gia đã giải thích sự xuất hiện phong phú các loại phòng trong ngôi nhà sự phân biệt tối thiểu này, ngôi nhà trung cổ là một không gian hợp nhất, trong đó
Phục Hưng qua việc nhấn mạnh vào mong muốn riêng tư và tiện nghi ngày một tăng đời sống nhà ở diễn ra tương đối trơn tru.
của lớp tinh hoa cầm quyền. Điều này hiển nhiên là đúng, song những tiến trình xã
50
Mọi sự bắt đầu thay đổi vào thế kỷ thứ mười lăm. Ở giai đoạn này việc ăn tối trong
hội thúc đẩy việc chia nhỏ ngôi nhà thành bố cục nhiều phòng chính là sự khởi đầu
buồng riêng dần trở thành lệ thường của những gia đình giàu có và như vậy sảnh lớn
của thứ mà nhà kinh tế chính trị định nghĩa là “tích lũy nguyên thủy”. Khái niệm này
chuyển thành lối vào trang trọng của ngôi nhà. Sự biến đổi này không chỉ thể hiện
thường được giải thích như là sự truất quyền sở hữu phương tiện sản xuất của nông
khao khát mới về tính riêng tư, mà còn là mong muốn phân khu ngôi nhà để có thể
dân thông qua việc vây rào tài nguyên công ở vùng nông thôn. Marx mô tả tích lũy
gán cho mỗi không gian một chức năng cụ thể, từ đó cho phép những người sống
nguyên thủy bằng việc tập trung vào vùng nông thôn nước Anh giữa thế kỷ mười
trong nhà có thể quy ẩn. Khát vọng ẩn dật– tức việc tạo ra một vùng đệm giữa không
lăm và mười tám, khi Nhà Nước bắt đầu tư hữu hóa đất công, khiến những người
gian công cộng và riêng tư – là nguồn gốc của một trong những ý niệm gây
nông dân bị bần cùng hóa trở thành vô sản thành thị (phiên bản phôi thai của giai cấp

15
Palazzo Barbo (Palazzo Venezia), Rome, Italy, khoảng năm 1465: Cầu thang chính (1), loggia (2), sala chính (3), sala thứ hai (4), phòng tiếp khách (5), phòng nghỉ của Giáo
Hoàng (6), phòng ngủ của Giáo Hoàng (7), phòng lính canh (8), phòng ngủ riêng của Giáo Hoàng (9), phòng thay đồ của Giáo Hoàng (10). Vẽ theo Thornton, 1991.

16
ảnh hưởng nhất của nhà ở hiện đại: căn hộ (apartment).54 Loại hình này ban đầu gồm kiến trúc nhà ở tiêu biểu đầu thế kỷ thứ mười sáu do Baldassarre Peruzzi thiết kế.56
chuỗi phòng dành cho một cư dân độc thân, như trong các cung điện (palazzo) Phục Sala (Sảnh) này được họa trang với một hình phối cảnh ảo thị, mô tả một loggia được
Hưng mà thường được tổ chức theo bố cục nhiều căn hộ để có thể làm nơi cư trú cho đóng khung bằng những thức cột, mở ra một góc thành Rome. Điều ấn tượng của
những gia đình mở rộng. Từ căn hộ (apartment) đến từ từ Latin appartare vừa có phối cảnh ảo thị này là điểm tụ của nó thẳng hàng với điểm tụ của góc nhìn khi vừa
nghĩa là “tách bạch”, vừa có nghĩa là “chia phần”. Như vậy, căn hộ không chỉ tách bước vào phòng, như vậy gắn với góc nhìn của một người khách đang di chuyển hơn
rời (apart) khỏi phần còn lại của ngôi nhà, mà quan trọng là nó cho phép phân bổ rõ là một người ngồi lại trong phòng. Ý niệm người khách di chuyển trở thành một
ràng các căn phòng bên trong ngôi nhà để củng cố sự tiện nghi và cảm giác sở hữu trong các chủ dề quan trọng nhất của không gian nhà ở Phục Hưng: tức “enfilade”.
của cư dân. Chính trong căn hộ mà tính riêng tư có thêm ý nghĩa mới: vượt qua trạng Enfilade lễ hóa sự di chuyển xuyên qua ngôi nhà như một trải nghiệm trang trọng về
thái ở một mình, tính riêng tư cũng trở thành biểu hiện của quyền tư hữu trong không sự phân biệt giai cấp, trong đó các không gian khác nhau của ngôi nhà tái hiện độ
gian. chuyển dịch địa vị xã hội theo chiều hướng cao dần khi người khách từ từ được tiếp
đón qua các khu vực riêng tư hơn.57
Tác phẩm De Re Aedificatoria của Leon Battista Alberti – chuyên luận kiến trúc đầu
tiên kể từ De Architectura Libri Decem của Vitruvius – mô tả chi tiết cách thức thiết Chính trong bối cảnh này mà những không gian “riêng tư” như là studiolo (thư
kế ngôi nhà riêng để có thể biên đạo một cách hiệu quả nhất đời sống gia đình. Trong phòng), hay cabinet không chỉ trở thành biểu tượng của sự suy niệm và nghiên cứu
một chương của Quyển Năm – dành cho công trình tư nhân – Alberti viết rằng một mà còn là sự bảo chứng cho địa vị xã hội của gia chủ. Studiolo cốt là một căn phòng
cặp đôi sung túc nên có hai phòng ngủ tách biệt, vì phòng ngủ không chỉ là không nhỏ được trang bị chỗ ngồi, bàn làm việc và tủ sách riêng. Thoạt đầu, không gian
gian nghỉ ngơi và tình dục mà còn là tâm điểm xoay quanh nhiều hoạt động khác, từ này được các giáo sỹ có học vấn sử dụng và như vậy chúng ta có thể xem đây là con
nuôi dạy trẻ đến công việc làm ăn. Hai phòng ngủ nên được nối bằng lối đi riêng
55
cháu của am tu. Tương tự với am tu, studiolo cung cấp cho người giáo sỹ một nơi
cho phép cặp đôi có thể tận hưởng sự riêng tư – cách tổ chức như vậy có thể thấy rõ chốn quy ẩn thoát khỏi thế giới. Để củng cố cảm thức tập trung và hòa thân, trong
ở trong các cung điện (palazzo) của công quốc Florence vào thời gian đó, bao gồm rất nhiều studiolo tủ để sách và những đồ vật phục vụ nghiên cứu được tích hợp vào
cả cung Corsi của Giuliano da Sangallo. Theo lý thuyết của Alberti, trong khi căn trong kiến trúc của căn phòng. Một ví dụ của việc này có thể được nhìn thấy trong
phòng của người vợ dẫn đến phòng thay quần áo thì căn phòng của người chồng nối bức họa Thánh Jerome trong Thư Phòng của Antonello da Messina, ở đó Thánh
đến không gian nhà ở bí mật và tách biệt nhất: tức thư viện hay thư phòng. Theo đó, Jerome lọt thỏm theo nghĩa đen trong một chiếc tủ-kết-hợp-bàn chia tách ông với
bố cục của ngôi nhà thượng lưu triển khai từ sân trong “công cộng”, đến sảnh, và phần còn lại của không gian. Điều thú vị trong tái hiện này là studiolo không thật sự
đến các căn phòng “riêng tư” hơn. Giữa những không gian này là tập hợp phong phú là một căn phòng, mà là một món đồ nội thất cầu kỳ; một dạng phòng song không
các tiền thất (antechamber), thường được tổ chức theo trình tự tuyến tính, có chức có tường và trần, đặt bên trong một không gian to lớn nhưng mơ hồ. Ở đây chúng ta
năng tạo ra khoảng đệm giữa không gian công cộng và riêng tư của ngôi nhà, và để nhìn thấy nguồn gốc sử dụng của studiolo như là nơi để nghiên cứu và tập trung.
tôn vinh thứ vị của người chủ nhà trước khách khứa và người hầu.
Trong một bức họa khác cùng chủ đề - Thánh Augustinô trong Thư Phòng của Vittore
Trong kiến trúc nhà ở Phục Hưng Ý, điều quan trọng cần đươc hiểu là sự khác biệt Carpaccio – vị thánh đang ngồi trong một căn phòng rộng (chắc hẳn nằm kế bên
giữa căn phòng như là stanza và căn phòng như là camera. Từ stanza đến từ từ Latin phòng ngủ) lúc này qua cánh cửa mở chúng ta có thể nhìn thấy studiolo của ông ở
stare (lập) và như vậy diễn đạt việc trì lập ở một nơi nào đó, trong khi từ camera căn phòng kề bên. Ở đây studiolo đã trở thành gian buồng nhỏ tách biệt hoàn toàn
(gốc từ của từ chambre trong tiếng Pháp và chamber trong tiếng Anh) lúc đầu không khỏi phần còn lại của ngôi nhà. Cả hai bức họa cho thấy bước chuyển quan trọng
liên quan đến căn phòng mà là vòm trần của nó. Người La Mã sử dụng camera để xuất hiện trong không gian nhà ở trong khoảng vài thập niên từ cuối thế kỷ thứ mười
mô tả mái vòm của căn phòng, và việc xây vòm luôn gửi gắm vào không gian một lăm đến đầu thế kỷ thứ mười sáu. Ở bức họa của Antonello, vị trí trong nhà ở của
nghĩa theo hướng trịnh trọng. Theo nghĩa này, từ camera không gắn với một nơi để thư phòng vị thánh khá mơ hồ, còn trong bức họa của Carpaccio, thư phòng là một
“ở lại” như trong từ stanza, mà là một nơi để đi qua. căn phòng cụ thể bên trong một chuỗi không gian nhà ở rõ ràng bao gồm phòng ngủ,
tư phòng (chamber) và studiolo. Trong bối cảnh này, studiolo trở thành một dạng
Cùng với sự xuất hiện phong phú của căn phòng như là vùng đệm giữa công cộng
buồng nhỏ, không gian của sự quy ẩn giúp đề cao tính riêng tư của tư phòng .
và riêng tư (thường tổ chức theo chuỗi tuyến tính), tư phòng (chamber) là nơi chốn
để đi qua, và như vậy nơi chốn của chuyển động. Một trong những ví dụ xuất sắc Tuy nhiên, ở nhiều ví dụ khác, tính riêng tư của studiolo lại có ý phô bày ra bên ngoài
nhất của loại phòng này là Sala delle Prospettive (Thấu Thị Sảnh) ở Villa Chigi, một tính cá nhân và quyền lực của người chủ nhà lên trên hộ gia đình. Trong studiolo

17
Palazzo Barberini, Rome, Italy, 1628-38: phòng nhỏ (1-3), phòng ngủ (4), phòng hội họp (5), phòng nghỉ (6), “Salotto
della Divina Sapienza” (7), nhà nguyện (8), phòng hội họp (9), “appartamento della Conversatione” (10-14), salotto
(12), gallarietta (13), saletta (14), nhà nguyện (15), phòng sưu tầm nghệ thuật (16-17). Vẽ theo Waddy, 1990.

18
François Franque, Ngôi nhà của Ông le. Marquis de
Sebstiani Serlio, “Đề xuất thứ ba liên quan đến những khu đất Villefranche ở Avignon, Pháp, 1762 : cabinet (1), phòng thay đồ
méo mó », 1575 : sân trong (1), retrocamera (2), camera (3), (2), phòng ngủ (3), lối đi (4), anterchamber (5), nhà vệ sinh (6).
cameretta (4). Vẽ theo Serlio, 1575 ; 2001. Vẽ theo Lucan, 2012.

19
của Francesco I ở Palazzo Vecchio, thư phòng nhỏ là một không gian được trang trí công cộng và riêng tư bị trừu tượng hóa thành hai lĩnh vực triệt để khác biệt: cái công
lộng lẫy, tiếp cận trực tiếp từ Salone dei Ciquecento (được biết đến như là căn phòng cộng biểu đạt chủ quyền của nhà nước và quyền lực lập pháp của nó, cái riêng tư
trong nhà lớn nhất tại thời điểm đó). Tư phòng tiến hóa thành một căn phòng được biểu đạt cá nhân xét như là người sở hữu, hay là tác nhân có động cơ là lợi ích kinh
bao quanh bởi tất cả loại hình không gian phụ trợ, những hốc phòng nhỏ chỉ có thể tế và như thế nó luôn cạnh tranh với các cá nhân khác. Tính riêng tư của tổ ấm (như
tiếp cận từ phòng ngủ. Sự sắp xếp này không chỉ giới hạn trong những ngôi nhà giàu được diễn giải trong các căn phòng đặc biệt nhất như là thư phòng hay họa thất) tôn
có, mà còn được sử dụng ở nơi ở của các tầng lớp thấp hơn, như có thể thấy trong vinh người sở hữu xét như cá nhân được khai phóng, người ấy vừa là chủ gia đình
ngôi nhà dành cho giới trung lưu từ Book VI và Book VII của Sebastiano Serlio, và vừa là một cá nhân. Nếu trên thực tế lĩnh vực công cộng và cá nhân đều phụ thuộc
Manière de Bien Bastir pour toutes sortes de personnes của Pierre Le Muet. Ở một
58
về mặt cấu trúc, thì trên khía cạnh ý thức hệ, chúng được thể hiện như ngày càng
trong những mặt bằng của Serlio lấy từ Book VII chúng ta nhìn thấy một palazzo tách biệt, thông qua sự mise-en-scène (dàn cảnh) của tính riêng tư nơi đó căn phòng
nhỏ nằm trong một khu đất méo mó. Căn hộ của người chủ tạo ra từ một camera lớn “riêng” là sân khấu. Từ sân khấu bá quyền của người gia trưởng, không gian nhà ở
bao quanh bởi nhiều phòng nhỏ khác nhau (từ phòng ngủ góc đến sân trong nhỏ, gian chuyển dịch thành nơi chốn trong đó quan hệ xã hội xuất hiện dưới hình thức buồn
quần áo và một phòng sau). Trong sự sắp xếp này, bản thân phòng ngủ trở thành một vui gia cảnh của tình cảm vợ chồng. Chính trong bối cảnh này mà studiolo, cabinet,
căn hộ, với nhiều không gian phụ trợ vây quanh. Trong mặt bằng của Le Muet dành buồng riêng (closet) và boudoir có thể được xem như là nguồn gốc tư tưởng của tính
cho căn nhà phố, chúng ta nhìn thấy một cấu trúc đơn giản được chia nhỏ thành các nhà ở hiện đại xét như là không gian “riêng tư”.
phòng chuyên biệt như nhà bếp, sảnh và sân trong nhỏ cùng với phòng tắm ở tầng
trệt và phòng ngủ ở tầng hai, từ đó có thể đi vào một garderobe (phòng thay đồ) rộng CĂN PHÒNG SỐ 5: TỪ PHÒNG NGỦ ĐẾN PHÒNG
rãi. Ở đây chúng ta nhìn thấy cách thức mà lô-gích tổng quát của ngôi nhà Phục
Hưng thượng lưu thích ứng với các phương cách khiêm tốn hơn của ngôi nhà trung
ĐƠN
lưu. Ngay cả trong những nơi ở khiêm tốn hơn thì sự dàn dựng của tính riêng tư cũng
Ngày hôm nay, không có lạ khi xem phòng “riêng” là hiện thân của tính riêng tư,
trở thành yêu cầu căn bản.
song chỉ đến thời Victoria ở Anh thì căn phòng này mới xuất hiện như một không
Từ thế kỷ mười sáu đến thế kỷ mười tám, sự sắp xếp tuyến tính các căn phòng (từ gian tách biệt, tiếp cận từ một lối vào duy nhất. Trong những nhà giàu có thời đó,
công cộng đến riêng tư) trở thành yếu tố chính của tính nhà ở. Ví dụ triệt để nhất của sảnh đón, thang đón lớn, lối đi, và thang sau trở thành không gian dành cho giao
việc này là dinh thự cho giới quý tộc Pháp, được biết đến với cái tên hôtel particulier thông và di chuyển cho phép tiếp cận tất cả các phòng. Ví dụ của ngôi nhà Longleat
(biệt phủ). Ở đây bố cục phòng tuyến tính trở thành một biên đạo cầu kỳ đến mức ở Wiltshire (xây dựng cuối thế kỷ mười sáu và dựng lại đầu thế kỷ mười chín) và
ám ảnh trong đó từng hành vi của đời sống nhà ở đều được kịch hóa thông qua các Coleshill ở Berkshire (do Sir Roger Pratt xây dựng dành cho họ hàng mình vào
căn phòng khác nhau. Bên trong hôtel từng căn phòng không chỉ đặc biệt về chức khoảng năm 1660), hé lộ cách thức mà một vài thủ pháp kiến trúc – sự đóng mở của
năng mà còn về hình thức. Chính trong bối cảnh này mà diễn giải triệt để nhất về
59
cửa đi và sự kiến tạo các không gian tuyến tính – có thể biến enfilades thành các căn
phòng riêng xuất hiện dưới hình thức của boudoir. Ban đầu, boudoir là khuê phòng phòng với lối vào duy nhất từ hành lang. Dựa vào tham chiếu về thư tịch kiến trúc
của người nữ, và như vậy là một phần trong chuỗi phòng riêng dành cho giới phụ nữ của Roger Pratt, Robin Evan giải thích rằng “lối đi là dành cho người hầu: tách họ
thượng lưu. Ở mức độ nào đó, có thể xem boudoir như là bản sao nữ giới của studiolo khỏi lối đi của nhau và quan trọng hơn là tách họ khỏi lối đi của quý ông và quý
nam giới. Vào thế kỷ mười tám, tầm quan trọng của boudoir xét như sự biểu tượng bà”.61 Dù những căn phòng vẫn còn kết nối với nhau ở cả Longleat và Coleshill,
cũng tương đồng với vai trò mà studiolo có được từ thế kỷ mười lăm về sau. Tuy hành lang trở thành con đường chính chạy xuyên nhà. Sự áp dụng hành lang vào kiến
nhiên, trong khi thư phòng của đàn ông được xem là nơi chốn của tập trung và chuyên trúc nhà ở không chỉ ảnh hưởng đến công năng của các căn phòng – gán cho từng
tâm, thì boudoir là căn phòng dành cho tụ họp thân mật, và là sự thay thế cho không cái một chức năng cụ thể - mà còn củng cố sự chia tách giữa những tầng lớp cao và
gian trang trọng hơn của salle. Như vậy boudoir là căn phòng nơi mà công cộng và thấp trong xã hội; khép người hầu vào một lãnh thổ hạn định bên trong lãnh địa nhà
riêng tư hòa trộn một cách mâu thuẫn, từ đó nó phơi bày chức năng ý thức hệ về sự ở. Nếu một mặt, sự biến đổi này biểu tượng cho sự đột khởi của tính riêng tư – “rất
tách biệt giữa hai lãnh vực này. Như ghi nhận của McKeon, bên trong tính hiện đại, khó để giải thích việc đi vào một phòng bất kì nếu như anh không có công việc cụ
cái công cộng và cái riêng tư được thể hiện qua các quy ước xã hội mà nhà nước thể nào”62- mặt khác, hành lang cũng góp phần giảm thiểu những sự chạm mặt và
khuyến khích, xét như hai lĩnh vực khả dĩ tách biệt.60 Trong khi ở thời tiền-hiện đại tiếp xúc tình cờ giữa những người ở trong nhà, xem như “tốt nhất là tình cờ và khiến
công cộng và riêng tư hòa lẫn vào nhau, thì với sự xuất hiện của nhà nước cầm quyền, phân tâm, còn tệ nhất là hư hỏng và ác ý”.63

20
Giai đoạn 1 Giai đoạn 2
Ngôi Nhà Longleat, Wiltshire, Anh, 1567-1809: người hầu (1), gallery (2), cầu thang khách (3), thư viện (4), sảnh lớn (5), phòng tắm của ông chủ (6), phòng
nghỉ (7), phòng ngủ (8), phòng tắm của bà chủ (9), phòng nghỉ (10), phòng thay đồ (11). Vẽ theo McKeon, 2009.

Trái: Henry Roberts, Nhà Trọ Halton Garden dành cho phụ nữ, London, Anh, 1851. Vẽ theo Roberts, 1851.
Giữa: Henry Roberts, Nhà Mẫu cho Bốn Gia Đình, London, Anh, 1851. Vẽ theo Roberts, 1851.
Phải: Alcide Vaillant, Nhà Ở Hợp Tác ở đường Jean Roberts, Paris, Pháp, 1884-86. Vẽ theo Teyssot, 1988.

21
Trong The Gentleman's House: Or, How to Plan English Residences, from the Trong những đề xuất này, mỗi cư dân thường được phát cho một không gian ngủ bên
Parsonage to the Palace (1985), Robert Kerr mở rộng việc khám phá ưu điểm của trong khối nhà tập thể lớn “được chia nhỏ bằng các vách ngăn di động bằng gỗ thành
sự phân chia trong nhà ở giữa “hành trình và vị trí”, “con đường và điểm đến”,64 như các khu khép kín có cửa vào riêng, mỗi khu được trang bị một giường, một ghế và
được hé lộ trong chuỗi “Mặt Bằng Hành Lang Lớn” của những điền trang danh hộc quần áo”.68 Đối nghịch với đơn vị gia đình, nhà cho thuê có nơi giặt rửa, phòng
tiếng.65 khách, nhà bếp và phòng tắm chung – “tất cả tiện ích mang đến tiện nghi vật chất và
sức khỏe cho người ở”69 và “hướng đến việc tăng cường sự tự tôn và nâng cao đời
Không phải ngẫu nhiên khi cùng một “căn phòng riêng” – giờ đây là nơi ở của cha
sống trí tuệ và đạo đức của họ”. 70 Trọng trách thực tế đầu tiên của Roberts là cải tạo
mẹ hoặc con cái – trở thành thành tố kiến trúc cơ bản của rất nhiều dự án cải cách xã
một ngôi nhà cho thuê có từ trước trên đường Charles, Dryry Lane. Ở đây ba ngôi
hội nhằm cố gắng cải thiện điều kiện nhà ở của giới cần lao. Những cố gắng này theo
nhà sẽ được đập thông và nối vào nhau để làm không gian cho khối nhà tập thể gồm
cách chính thức là các tổ chức hảo tâm song chúng cũng nhắm đến việc kiểm soát
82 giường đơn. Một nhà tắm hiện đại được lắp đặt, cũng như một phòng rửa, cùng
giai cấp lao động bằng việc áp đặt lên họ một thứ đạo đức đặc thù. Lấy cớ là để cải
với một phòng khách rộng rãi sau lưng tòa nhà. Mặc dù đồ án mang đến lợi nhuận
thiện điều kiện sống của người lao động, các nhà hảo tâm muốn mang họ đến với
kinh tế, nó không làm kiến trúc sư hài lòng, người luôn cảm thấy khó chịu vì sự thiếu
những giá trị của tầng lớp trung lưu và ý niệm về sự tôn trọng. Thay vì cung ứng chỗ
tính riêng tư trong nhà tập thể. Năm 1864 là lần đầu tiên Roberts có cơ hội tạo ra mô
ăn ở cho người công nhân trong các khu trại to lớn, những nhà hảo tâm lại quan tâm
hình lý tưởng của mình dành cho nhà ở công nhân độc thân, khi SICLC mua được
đến việc giáo dục họ về đức hạnh gia phong, và quảng bá cho việc sở hữu căn hộ
một khu đất trên đường George ở Luân Đôn. Không gian nội thất của tòa nhà gồm
nhỏ gồm một phòng khách và ba phòng ngủ cho cha mẹ và các con. Trong khi vấn
hai dãy buồng tách nhau qua một hành lang duy nhất, điều này dẫn đến việc một dãy
đề nhà ở không gây cảm giác như là điều gì đó cần đến sự can thiệp cộng đồng để
thì có ánh sáng và thông gió tự nhiên trong khi dãy còn lại phải chấp nhận thông gió
giải quyết, thì rất nhiều doanh nghiệp (tư nhân) đã được thành lập ở Anh suốt thế kỷ
cơ khí.
mười chín nhằm khắc phục những vấn đề xung quanh điều kiện sống của tầng lớp
lao động. Một trong số đó, The Society for Improving the Conditions of Labouring Tiếp nối những mô hình nhà cho thuê tập thể đầu tiên này, những hình thức nhà ở
Classes (SICLC) gây chú ý bằng việc hợp tác với kiến trúc sư Henry Roberts để cho tập thể khác bắt đầu xuất hiện trong suốt thế kỷ mười chín – nhất là ở Anh và Hoa
ra đời những loại hình mới của nhà ở đô thị tập thể giá rẻ. Cùng với SICLC, Roberts
66
Kỳ - đầu tiên là những mô hình nhà trọ thương mại và chung cư theo hướng xã hội.
đã phát triển nhiều đồ án và nghiên cứu với mục tiêu cho phép những gia đình người Trong khi, và đặc biệt là trong suốt thế kỷ mười chín, nhà trọ phát triển thành “bản
lao động “về nhà mà không phải đi qua đất nhà hàng xóm”.67 Bố trí nội thất của các sao ghê tởm của ngôi nhà lý tưởng”,71 thì lối sống cộng đồng lại trở nên vô cùng phổ
đơn vị ở do Roberts thiết kế cho phép sự chia tách không gian vì lợi ích của tính biến ở Mỹ từ năm 1820 đến năm 1850. Suốt thời kỳ này, nhiều người tìm kiếm sự
riêng tư và củng cố uy quyền của cha mẹ. Trong khi những mẫu nhà đầu tiên dựa thay thế cho mô hình nhà ở gia đình biệt lập, đã khám phá những hình thức sống
trên các ban công đi bộ và gallery mở dẫn vào các đơn vị ở, thì trong ngôi Nhà Mẫu chung mới.72 Gợi cảm hứng từ những nguyên tắc được Charles Fourier truyền bá
sau này, sự đổi mới nằm ở việc đặt cầu thang trong nơi kín đáo và ở việc chỉ dành trong đề xuất về đời sống cộng đồng được biết như Phalanx, rất nhiều phong trào
cho hai gia đình mỗi tầng. Trong từng căn hộ nhỏ, phòng con cái có thể đi vào từ cộng đồng đã thiết kế và xây dựng những khu nhà trọ phá vỡ triệt để ngôi nhà gia
phòng khách và phòng ba mẹ chỉ có thể tiếp cận từ phòng phụ do đó đảm bảo tính đình điển hình, cung cấp cho cư dân những căn phòng riêng cùng với các tiện ích
riêng tư. Những nguyên tắc này xuất hiện trong nhiều công trình khác của Henry cộng đồng. Nhiều cộng đồng này chia sẻ chung niềm tin rằng những ngôi nhà biệt
Roberts cũng như của John Wood ở Bath, và trong rất nhiều dự án bất động sản của lập dành cho một gia đình là một cấu trúc cô độc, phí phạm và bức bối.
Peabody ở Luân Đôn suốt trong nửa sau thế kỷ mười chín.
Trong số các cộng đồng này, có lẽ những người Perfectionists là cực đoan nhất trong
Trong tất cả công trình này, những vấn đề xoay quanh kiến trúc của căn phòng riêng việc hủy giải cơ cấu tình cảm vợ chồng và gia đình hạt nhân. Bên trong tòa nhà của
vừa mới định hình đều liên quan đến kích thước tối thiểu được chấp thuận trong mặt họ ở Oneida, căn phòng đơn nhỏ không chỉ là nơi ngủ và còn dành cho sự quy ẩn cá
bằng và chiều cao trần, cũng như ánh sáng, thông gió, hệ thống sưởi, vật liệu xây nhân. Hình thức căn phòng gợi nhớ am tu ẩn sỹ, song sự thiếu vắng phòng tắm và
dựng và quan hệ giữa căn phòng và tổ chức lớn hơn của đơn vị ở. Dù cho căn hộ ba nhà bếp làm rõ việc không gian cá nhân này là một phần của cộng đồng lớn hơn. Mỗi
phòng điển hình là loại hình được ưu tiên nhất nhằm khắc phục những vấn đề xung phòng được trang bị một tủ cho phép cư dân cất trữ tài sản của họ, sự sắp xếp này
quanh nhà ở của tầng lớp lao động, quyển sách The Dwellings of Labouring Classes phản ánh niềm tin của cộng đồng Perfectionists rằng đời sống cộng đồng chỉ có thể
của Roberts vẫn chứa những ví dụ về ngôi nhà cho thuê phong phú hơn dành cho tồn tại thông qua hạnh phúc của từng cá nhân bên trong cộng đồng.
công nhân và người lao động độc thân cũng như các góa phụ và phụ nữ luống tuổi.

22
Trên: Khu Nhà Lớn Thứ Hai của những người Perfectionists, Oneida, New York, Hoa Kỳ, 1861-78. Vẽ theo Hayden, 1976.
Dưới: Khách Sạn National, San Francisco, Hoa Kỳ, 1906. Vẽ theo Groth, 1983.

23
Trong khi ở khu nhà trọ, tất cả công việc nhà – từ chuẩn bị đồ ăn cho đến dọn dẹp – xây liền) hình thức nhà ở tối thiểu trở thành mục tiêu của các nhà cải cách nhà ở hiện
đều được tập trung hóa và được người làm công đảm nhận, thì trong các mô hình đời đại. Nhiều người trong số họ ghê tởm ý tưởng về một lối ở của căn phòng đơn trong
sống cộng đồng không tưởng, những tiện tích được tập trung hóa với mục tiêu đó tất cả chức năng sống diễn ra đồng thời, mà ủng hộ sự tách bạch giữa sống và làm
khuyến khích sự tương tác giữa các cư dân, và giải phóng người phụ nữ khỏi gánh việc, ăn và nấu, ngủ và toàn bộ chức năng khác. Những nguyên tắc này hẳn sẽ trở
nặng của toàn bộ việc nấu nướng và dọn dẹp. Bất chấp khác biệt về mặt tư tưởng, thành nền tảng cho một số thiết kế cực đoan nhất của nhà ở tập thể trong thế kỷ hai
căn phòng riêng trong cả hai mô hình lại chia sẻ những điểm tương đồng trong kiến mươi, như là Tòa Nhà Narkomfin của Moisei Ginzburg ở Moscow, đây có lẽ là ví
trúc. Bên trong căn phòng độc thân (một loại hình nhà trọ), không gian sống riêng tư dụ nổi tiếng nhất của nhà ở tập thể, được biết đến dưới cái tên dom-kommuna. Không
cốt là căn hộ nhỏ không có bếp, vì vậy nó hoạt động như một dạng phòng khách sạn có nhà bếp bên trong từng đơn vị ở cá nhân của Narkomfin mà chỉ có một hốc tường
có thêm nơi tiếp khách (như được thấy trong những căn phòng độc thân do Alfred nhỏ có thể đặt bếp lò hâm nóng thức ăn và pha trà. Tuy nhiên, tòa nhà được trang bị
Waterhouse thiết kế ở Park Lane, Luân Đôn vào năm 1878). Trong những nhà ở những tiện ích chung hào phóng như là nhà bếp tập thể, phòng ăn, nhà tập thể thao,
phòng đơn (SRO) (một loại nhà trọ khác trở nên nổi tiếng suốt những năm 1930), thư viện, phòng giặt máy, và dự kiến một nhà chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
không gian riêng tư bị quy giản thành một buồng nhỏ, bao gồm một phòng có giường,
Một thời gian sau, đối nghịch với việc tập trung cư dân trong một tòa nhà lớn,
một chỗ rửa và một cái ghế, vây quanh là những vách ngăn mỏng manh. Cư dân của
Ginzburg cùng với nhà quy hoạch và xã hội học Mikhail Okhitovich, từ bỏ mô hình
SRO chia sẻ phòng tắm chung song không có bất kỳ không gian tập thể nào (dù cho
dom kommuna mật độ cao để đề xuất một mô hình nhà ở tập thể khác trong đó những
trong một vài trường hợp họ được cấp cho nhà bếp). Nếu “ngôi nhà (trọ) thường ép
ngôi nhà tách biệt thiết kế dành riêng cho người độc thân nằm rải rác trong một khu
buộc cư dân (dù muốn hay không) tương tác với nhau, những căn phòng trong SRO
đất gần các trạm giao thông công cộng. Ý tưởng này đóng vai trò then chốt trong
cung cấp sự riêng tư giúp ngăn ngừa những mâu thuẫn cá nhân và văn hóa có thể xảy
phương án tham gia cuộc thi ở Magnitogorsk (1930), một thị trấn công nghiệp mới.
ra giữa những người lao động có rất ít điểm chung ngoại trừ tình cảnh nghèo khổ của
Trong mặt bằng của họ, mỗi ngôi nhà gồm một phòng duy nhất, đứng trên các pilotis
mình”.
(cột chống) và được trang bị một nhà tắm, không gian để cất trữ và một ban công
Kiến trúc phòng riêng trong nhà trọ, bất kể nó là đơn vị ở đa không gian hay gian rộng rãi. Ý đồ của họ là xây dựng các cấu trúc này bằng gỗ, để dễ tháo lắp và di
buồng – thường đặc trưng bởi sự thiếu vắng tiện ích nấu nướng, và bởi sự hiện diện chuyển, giúp người ở trong tương lai có thể lựa chọn giữa việc sống ở các địa điểm
của đồ nội thất xây liền như tủ quần áo, giường, bàn và kệ. Nếu trong nhà trọ, sự tương đối biệt lập hày trong những cụm nhà ở lớn hơn. Lập luận đằng sau sự quy
xuất hiện của nội thất xây liền (đã trở thành nét đặc trưng chủ yếu của kiến trúc nhà giản hộ gia đình thành một căn phòng của Ginzburg và Okhitovich chính là sự ưu tư
ở hiện đại trong thế kỷ hai mươi) đa phần là do yếu tố kinh tế và tiện dụng (khi người về việc đời sống cộng đồng của dom-kommuna – cùng với sự nhấn mạnh vào cuộc
ở thường chỉ lưu lại ngắn hạn và đến từ nơi xa), thì trong những mô hình cộng đồng sống tập thể - sẽ khiến người ở độc thân gặp quá nhiều căng thẳng. Tuy nhiên những
không tưởng, sự tái phân bổ các tiện ích và trang thiết bị gia đình đóng góp vào mục đơn vị một phòng không hướng đến việc tự trị hoàn toàn, vì những tiện ích cơ bản
tiêu thúc đẩy sự giải phóng phụ nữ và giảm bớt gánh nặng việc nhà nói chung. (như là nhà bếp) không được cấp cho từng đơn vị. Để hỗ trợ đời sống trong các cấu
trúc tối thiểu này, Ginzburg và Okhitovich đề xuất một hệ thống dịch vụ tập thể phân
Trong quyển sách The American Woman’s Home (1869) của Catherine Beecher và
bố rải rác bên trong khu đất.
Harriet Beecher Stowe, trang thiết bị gia đình và thiết kế vật dụng đóng vai trò trung
tâm trong sự tôn vinh địa vị của người phụ nữ bên trong ngôi nhà. Mặt bằng căn nhà Truyền thống nhà trọ và những thử nghiệm Xô viết trong việc sống chung chính là
của họ gợi nhớ nơi ở của tín đồ Thanh Giáo ở thế kỷ mười bảy, trong đó căn bếp trở nguồn cảm hứng của một trong những đóng góp độc đáo và triệt để nhất cho sự phát
thành một không gian thao tác với một mặt phẳng gọn gàng liên tục, xuyên suốt trung triển nhà ở phòng đơn: ý tưởng “chỗ ở tối thiểu” của Karel Teige. Trong khi ở nửa
tâm của ngôi nhà cùng với lõi kỹ thuật của bồn nước và các thiết bị cấp nhiệt và đầu thế kỷ hai mươi, chỗ ở tối thiểu trở thành một trong những ưu tư trọng tâm của
thông gió.” Trong thiết kế này, tính linh hoạt được tối đa hóa với vách và cửa di
73
kiến trúc hiện đại – đây là chủ đề của hội nghị CIAM lần thứ hai vào năm 1929 –
động, những thứ này có thể cho phép “người nội tướng” sắp xếp không gian nội thất Teige tin rằng không thể giải quyết bất kỳ vấn đề nào liên quan đến loại hình nhà ở
tùy theo mong muốn, do đó duy trì một vị trí trung tâm và độc lập bên trong địa lý này nếu chỉ đơn thuần hình dung một “phiên bản thu nhỏ hay giới hạn của căn hộ
ngôi nhà. nhỏ của giới tư sản.”74 Thay vào đó, Teige đề xuất một loại hình chỗ ở hoàn toàn
mới, “vượt xa những tiền lệ nhà ở quy chuẩn và cao cấp hơn những loại hình nhà ở
Bước vào thế kỷ hai mươi, cùng với sự phân chia giữa phòng riêng và không gian
trong quá khứ”. Teige hồ nghi những tiêu chuẩn sống và các giải pháp điều hướng
tập thể (cũng như giữa ngủ và làm việc, và công nghệ công nghiệp và các giải pháp
bởi công nghệ, vì việc giải quyết câu hỏi chỗ ở tối thiểu “chỉ khả dĩ bằng cách tổng

24
nArchitects, Carmel Place, New York City, Hoa Kỳ, 2013-16:
Moisei Ginzburg và Mikhail Okhitovich, Thành Phố Xanh: phòng khách/phòng ngủ (1), nhà bếp (2), phòng tắm (3). Vẽ
Nhà-Đơn, Magnitogorsk, Nga, 1930: phòng khách (1), sảnh theo narchitects.com
đón (2), nhà vệ sinh (3), phòng rửa (4), terrace có mái che (5).
Vẽ theo thecharnelhouse.org

25
hợp tất cả các khía cạnh của nó và bên trong bối cảnh của toàn bộ mạng lưới kinh tế, đơn độc từ sự mặc tưởng hay tận hưởng những thứ “phù du” (bằng chứng là món đồ
sức khỏe, tư tưởng và chính trị xã hội liên quan”. Với Teige, viễn cảnh về việc tái
75
nổi bật nhất của căn phòng – máy hát). Đối nghịch lại mơ mộng lầm lạc của tính nhà
sản “thậm chí cả những ngôi nhà gia đình nhỏ nhất, dù chúng được lắp đặt các thiết ở, Meyer tưởng tượng Co-Op sẽ là nơi ở cho những người công nhân vãng lai, là sản
bị hiện đại, thể hiện một bước lùi trong sự phát triển những giải pháp cho câu hỏi phẩm của điều kiện quy chất công nghiệp nhất, ở đó sự dịch chuyển và cảnh mất gốc
nhà ở”, 76
bởi vì “phiên bản thu nhỏ của nền kinh tế quản gia đẩy cư dân quay lại trở thành lối sống “đặc trưng riêng” của cư dân đại đô thị. Vào thời Co-op của Meyer,
thời kì mà người ta còn vắt sữa bò”, đó là nơi mà quyền sở hữu “một ngôi nhà vườn “người ở độc thân” là một hiện tượng phổ biến trong các thành phố lớn như là Berlin
tối thiểu cũng củng cố hiệu quả, ở cả khía cạnh thực tế và tâm lý, cái ý thức hệ về tư hay Hamburg. Những đô thị Mỹ ở thế kỷ mười chín đã chứng kiến sự sinh sôi của
hữu và gia đình.” Teige cho rằng chỗ ở tập thể lý tưởng không nằm ở những căn
77
căn phòng trọ đáp ứng nhu cầu ở ngắn hạn của cư dân. Hiện tượng này vừa bức bách
hộ nhỏ độc lập xếp chồng lên nhau dành cho gia đình, mà là những căn phòng đơn vừa có tính giải phóng, vì nó buộc người ta phải sống trong trong cảnh bấp bênh,
cùng chia sẻ những tiện ích tập thể. Với ông, chỗ ở tối thiểu không phải là câu trả lời song cùng lúc lại cho họ sự tự do thoát khỏi vòng vây của đời sống gia đình, mở ra
cho sự thiếu thốn nhà ở (tức sự thiếu thốn giả tạo đến từ tư bản), mà thay vào đó, nó cho họ một hình thức đoàn kết cộng đồng mới. Căn phòng trọ là hiện thân triệt để
là đề xuất để kiến tạo một hình thái sống có tính xã hội hơn, nhằm giảm thiểu sự tước của hiệu ứng “giải lãnh thổ hóa” đến từ sự phát triển có tính tư bản chủ nghĩa, trong
đoạt lao động nhà ở. đó sự chuyển dịch xã hội tất yếu (social mobility) của lực lượng lao động có được
tiềm năng phản pháo lại cái trật tự xã hội áp đặt từ chính chủ nghĩa tư bản.78 Quả
Cách tiếp cận của Teige vẫn âm vang đặc biệt với ngày hôm nay, khi mà nơi ở tối
vậy, với Meyer, Co-op Interieur không phải là tổ ấm, mà là một gian buồng đơn
thiểu - lại một lần nữa - được xem là giải pháp khả dĩ cho cuộc khủng hoảng nhà ở
chung chung, thuộc về cái toàn thể của đại đô thị. Trong không gian này, tất cả những
đang tác động lên các thành phố lớn. Lấy ví dụ chung cư căn hộ siêu nhỏ Carmel
sự định tính đã góp phần cá nhân hóa chủ thể lao động hiện đại – nam giới, nữ giới,
Place do nArchitects thiết kế ở New York là một trong nhiều ví dụ của sự hồi sinh
người trưởng thành, trẻ nhỏ, người vợ, người chồng, cha mẹ, anh chị em – đều biến
chỗ ở tối thiểu. Carmel Place nhắm đến việc cung cấp đơn vị ở giá rẻ ở New York
mất. Như vậy, căn phòng trong Co-op của Meyer chống lại căn hộ “sinh tồn tối thiểu”
bằng việc xếp chồng các chỗ ở tối thiểu; một ý đồ thu nén triệt để căn hộ truyền
được CIAM quảng bá, theo đó các kiến trúc sư hiện đại đã nỗ lực thu gọn đến mức
thống (cùng với tập hợp đồ nội thất và chi tiết hoàn thiện vô cùng quen thuộc của
tối thiểu quy mô của nhà ở gia đình.
nó) vào một diện tích thu nhỏ tối đa với mong muốn tạo ra một không gian, bất chấp
kích thước của nó, vẫn là một căn hộ tư sản “ấm cúng”. Rõ ràng Meyer muốn kiến thiết một phiên bản đương đại của am tu sỹ, trong đó khả
năng sử dụng (thay vì sở hữu) “một căn phòng cho riêng mình” có thể mang cho
Liệu việc thu nhỏ đơn vị ở có thể là giải pháp cho vấn đề chỗ ở tối thiểu trong các
người ở một sự hiện thực hóa cái hạnh phúc trong nhà. Căn phòng của Meyer là minh
thành phố hiện tại? Một lần nữa chúng ta có nên nhắc lại phê bình của Teige về việc
chứng của thứ “kiến trúc của sử dụng” chứ không phải “kiến trúc của sở hữu”, vì cái
thu nhỏ căn hộ thành một căn phòng? Có lẽ câu trả lời tốt nhất cho câu hỏi này đã
sau là hiện thân của ý thức hệ về gia đình và tính riêng tư. Trong khi “kiến trúc của
nằm sẵn ở một trong những thiết kế cực đoan nhất từng được nghĩ ra cho căn phòng
sở hữu” luôn phải phản ánh căn tính của người chủ, thì căn phòng của Meyer hoàn
một người: Nội Thất Co-Op của Hannes Meyer. Chỉ được biết đến thông qua ảnh tư
toàn phổ thông, và chính vì lí do đó, nó hứa hẹn với người ở một viễn cảnh cuộc
liệu, căn phòng này chưa bao giờ được xây, đúng hơn nó được dàn dựng như một
sống được giải phóng khỏi những đau khổ và gánh nặng từ nghĩa vụ dai dẳng của xã
diễn cảnh có tính chứng minh. Căn phòng trong hình chụp có nhiều đồ vật có thể
hội đối với cái thể chế tư hữu. Bằng việc thiết định phòng đơn – căn phòng riêng của
xếp lại – một cái giường, một cái bàn (trên đó đặt một máy hát), hai chiếc ghế (một
mình – không phải như một quyền ưu tiên hay một món hàng hóa mà như một quyền
trong hai được treo trên tường), và một đơn vị kệ. Cái giường đơn minh định rằng
phổ quát, nội thất của Co-op làm xói mòn những gì mà căn phòng “riêng” vẫn luôn
căn phòng chỉ là nơi ở của một người, trong khi hai cái ghế hàm ý rằng thỉnh thoảng
đại diện trong lịch sử: tức ý thức hệ của tính riêng tư và điều kiện của tư hữu.
người ở trong đây cũng có thể tiếp khách. Bởi vì tên gọi của đề xuất là nội thất “hợp
tác” (co-op), chúng ta biết rằng người ở độc thân này sống trong một ngôi nhà chung
nơi mà những gì thiết yếu tối thiểu sẽ dành cho sử dụng cá nhân và phần còn lại được
chia sẻ với những người ở độc thân khác.

Với nội thất này, Meyer bóng gió rằng chỉ khi nào có thể tiếp cận sự cô đơn thật sự
chúng ta mới có thể sống cùng nhau. Với Meyer, trạng thái ở một mình không đơn
thuần là những chức năng sinh học (như là ngủ và nghỉ), mà cũng ở những niềm vui

26
Hans Meyer, Nội Thất Co-Op, từ “Die Neue Welt”, 1926.

27
1
Louis Kahn, “The Room, The Street and Human Agreement,” a+u (Tháng Một 1973), 23-30. 23
E.B. Banning, “Housing Neolithics Farmers, “ Near Eastern Archaeology 66, no ½ (Tháng Sáu 2003),
2
Virgina Woolf, Women & Fiction: The Manuscript Versions of A Room of One’s Own (Oxford: 4-20.
Blackwell, 1992.) 24
David Wengrow, “The Changing Face of Clay: Continuity and Change in the Transition from Village
3
Xem: Benjamin L. Fine, "An Analysis of the Formation of Property Rights Underlying Tortious to Urban Life in the Near East,” Antiquity 72, số 278 (Tháng Mười Hai, 1998): 783-95.
25
Interference with Contracts and Other Economic Relations," University of Chicago Law Review 50, no. 3 Xem Hannah Arendt, The Human Condition (Chicago: University of Chicago Press, 1999), 79-126.
26
(Hạ 1983), 1116-1145. Aristotle, Economics, bản dịch tiếng Anh của S.Forsters, (London:Aeterna Press, 2015).
4
Gilbert Simondon, L’individuation psychique et collective (Paris : Flammarion, 2007). Về lý thuyết cá 27
Aristotle, The Politics, bản dịch tiếng Anh của T.A. Sinclair, (New York: Penguin, 1957), 53-92.
nhân hóa và những hệ quả chính trị của nó xem Jason Read, The Politics of Transindividuality 28
Valentin Müller, « Development of the “Megaron” in Prehistoric Greece,” American Journal of
(Amsterdam: Brill, 2015). Archaeology 48, no.4 (Thu 1944), 342-348.
5
Bernard Stiegler, Acting Out, bản dịch tiếng Anh của David Barison, Daniel Ross và Patrick Crogan 29
Tài liệu đã dẫn, 346.
(Stanford, CA: Standford University Press, 2009). 30
Alexandra Coucouzeli, “From Megaron to Oikos at Zagora,” British School at Athens Studies 15 (2007),
6
Karl Marx, Grundrisse der Kritik der Politischen Ökonomie (London: Penguin Classics, 1993), 83. 169-81.
7
Tài liệu đã dẫn, 84. 31
Bradley A.Ault, “Οικος Καλος: The Environemental Logic of Greek Urban House Form” trong Housing
8
Về sự tách biệt giữa công cộng và riêng tư như là nguồn gốc ý thức hệ của tính nhà ở hiện đại xem and Habitat in the Ancient Mediterranean: Cultural and Environmental Responses, chủ biên bởi Andrea
Michael McKeon, The Secret History of Domesticity: Public, Private and the Division of Knowledge di Castro, Colin A. Hope, and Bruce E. Parr (Leuven: Peeters, 2015), 123–31. Xem thêm Nicholas Cahill,
(Baltimore: John Hopkins University Press, 2005). “Olynthus and Greek Town Planning, “ The Classical World 93 no.5 (Hạ 2000), 497-515; Nicholas Cahill,
9
Về sự bóc lột việc nhà của chủ nghĩa tư bản có rất nhiều tài liệu song văn bản quan trọng nhất là Maria Household and City Organization at Olynthus (New York: Yale University Press, 2002).
32
Mies, Patriarchy and Accumulation on a World Scale: Women in the International Division of Labour Xem Lisa C.Nevett, House and Society in the Ancient World (Cambridge: Cambridge University Press,
(London: Zed books, 1986), 74-111. 1999), 53-79. Andron cũng có thể là nơi tổ chức các hoạt động khác khi nó không được sử dụng như sảnh
10
Tài liệu đã dẫn, 104. tiệc.
11 33
Xem Roland Barthes, How to Live Together: Novelistic Simulations of Some Every Day Spaces, bản Xephonon, Oeconomicus, bản dịch tiếng Anh của Ralph Doty (Bristol: Bristol Classical Press, 1998).
dịch tiếng Anh của Kate Briggs (New York: Columbia University Press, 2012). Ý niệm về sự nâng đỡ đời 34
Xem Shelley Hales, The Roman House and Social Identity (Cambridge: Cambridge University Press,
sống tập thể thông qua khả năng đồng thời ở một mình được Roland Barthes đề xuất trong bài giảng có 2003), 1-8.
tên How to Live Together.” 35
Xem Andrew Wallace-Hadrill, “The Social Structure of Roman House,” Papers of British School in
12
Paolo Virno, Scienze sociali e «natura umana». Facoltà di linguaggio, invariante biologico, rapporti Rome 56 (1988): 43-97.
di produzione (Rome : Rubettino, 2003), 26-32. Gần đây, truyền thống nhân học gây tranh cãi này được 36
Hales, The Roman House and Social Identity, 23.
triết gia Marxist người Ý Paolo Virno xem xét lại. 37
Eleanor W. Leach, “Oecus on Ibycus: Investigating the Vocabulary of the Roman House” trong
13
Paolo Virno, E cosi via, all’infinito: Logica e antropologia (Turin: Bollati Boringhieri, 2010), 79. Sequence and Space in Ancient Pompeii, chủ biên Rick Jones và Sarah Bon, (London: Oxbow Books,
14
Xem Ofer Bar-Yosef, "The Natufian culture in the Levant, threshold to the origins of agriculture". 1997), 50-72.
Evolutionary Anthropology 6 No. 5, (1998): 159–177. 38
Tài liệu đã dẫn, 50-72.
15
Để tìm hiểu sâu hơn về cấu trúc này xem Gil Haklay và Avi Gopher, “A New Look at Shelter 131/51 39
Xem Kristina Sessa, “Christianity and the Cubiculum : Spiritual Politics and. Domestic Space in Late
in the Natufian Site of Eynan (Ain-Mallaha), Isarel,” PLOS one 7, no. 10, 2015. Xem thêm A.Nigel Antique Rome.” Journal of Early Christian Studies 15, no. 2, (Hạ 2007): 171-204.
Goring-Morris và Anna Belfer-Cohen, “A Roof Over One’s Head: Developments in Near Eastern 40
“Hay anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần
Residential Architecture Across the Epipalaeolithic-Neolithic Transition,” trong The Neolithic đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em. Như thế, anh em đâu còn
Demographic Transition and its Consequences, chủ biên Jean-Pierre Bocquet-Appel và Ofer Bar-Yosef thuộc về mình nữa,” (Thư thứ nhất gửi Tín Hữu Cô-rin-tô 6:1) Bản dịch tiếng Việt từ trang:
(Berlin: Springer, 2008), 239-286. https://augustino.net/kinh-thanh-tan-uoc/thu-1-gui-tin-huu-co-rin-to/6/
16
Vì sự hoàn chỉnh về mặt kiến trúc của Shelter 131/51, Haklay và Gopher cho rằng đây là căn phòng 41
Tài liệu đã dẫn, 182.
chung của ngôi làng, tuy nhiên hình dạng của nó là ví dụ tiêu biểu cho rất nhiều nhà ở của người Natufian 42
Tài liệu đã dẫn, 172.
mà một số trong đó được sử dụng làm không gian hay thậm chí là nơi chôn cất chung. 43
Xem Giorgio Agamben, The Highest Poverty: Monastic Rules and Form-of-Life (Stanford, CA:
17
Richard Bradley, Ritual and Domestic Life in Prehistoric Europe (Oxon: UK: Routledge, 2005),119. Stanford University Press, 2013).
18
Tài liệu đã dẫn, 81-120. 44
Roland Barthes, How to Live Together: Novelistic Simulations of Some Every Day Spaces, (New York:
19
Tài liệu đã dẫn, 119. Columbia University Press, 2012).
20
Tài liệu đã dẫn, 63. 45
Tài liệu đã dẫn, 8.
21
Rosalind L.Hunter-Anderson, “A Theoritical Approach to the Study of House Form,” trong For Theory 46
Xem Gawdat Gabra, Coptic Monasteries: Egypt Monastic Art and Architecture (Cairo: The American
Building in Archaeology, chủ biên Lewis R. Binford (New York: Academic Press, 1977), 287-315. University in Cairo Press, 2013).
22
Tài liệu đã dẫn, 299. 47
Xem Darlene L. Brooks Hedstrom, “The Geography of the Monastic Cell In Early Egyptian Monastic
Literature.” Church History 78, no. 4, (Đông 2009), 756-791.

28
60
McKeon, The Secret History of Domesticity, 321.
48
Để có một góc nhìn tổng quát về sự tiến hóa của đời sống tu viện và hệ quả của nó trong kiến trúc xem 61
Robin Evans, “Figures, Doors and Passages,” trong Translations from Drawing to Building and Other
Wolfang Braunfels, Monasteries of Western Europe: The Architecture of the Orders (London: Thames Essays (Cambridge, MA: MIT Press, 1978), 71.
and Hudson, 1995). 62
Tài liệu đã dẫn, 75.
49
Tài liệu đã dẫn, 111-123. 63
Tài liệu đã dẫn, 79.
50
Xem Peter Thornton, The Italian Renaissance Interior 1400-1600 (London: Weidenfeld and Nicolson, 64
Tài liệu đã dẫn, 77.
1991), 284-320. 65
Robert Kerr, The Gentleman’s House: Or, How to Plan English Residences, from the Parsonage to the
51
Maria Mies, Patriarchy and Accumulation on a World Scale (London: Palgrave Macmillan, 1998), 74- Palace (London: John Murray, 1865).
111; Silvia Federici, Caliban and the Witch: Women, the Body, and Primitive Accumulation (New York: 66
Irina Davidovici, “The Depth of the Street”, AA Files 70 (2015), 109.
Autonomedia, 2004). 67
Henry Roberts, The Dwellings of the Labouring Classes (London: Seeley’s, 1851).
52
McKeon, The Secret History of Domesticity, 321. 68
Tài liệu đã dẫn, 9.
53
Svend Riemer, “Functional Housing in the Middle Ages.” Transactions of the Wisconsin Academy of 69
Tài liệu đã dẫn.
Science, Arts et Letters XL, no.2 (1951): 77-91. 70
Tài liệu đã dẫn.
54
Xem Patricia Waddy, Seventeenth-Century Roman Palaces: Use and the Art of the Plan (Cambridge, 71
Wendy Gamber, The Boardinghouse in Nineteenth-Century America (Baltimore: Johns Hopkins
MA: MIT Press, 1988), 149. University Press, 2007), 2.
55
Leon Battista Alberti, On the Art of Building in Ten Books, bản dịch tiếng Anh của Joseph Rykwert, 72
Xem Dolores Hayden, Seven American Utopias: The Architecture of the Communtiarian Socialism,
Neil Leach, và Robert Tavernor (Cambridge: MIT Press, 1998), 149. 1790-1975 (Cambridge, MA: MIT Press, 1976).
56
Xem Ann C. Huppert, Becoming an Architect in Renaissance Italy: Art, Science, And the Career of 73
Dolores Hayden, The Grand Domestic Revolution (Cambridge, MA: MIT Press, 1981), 57-58.
Baldassarre Peruzzi (New York: Yale University Press, 2015), 97-101. 74
Karel Teige, The Minimum Dwelling (Cambridge, MA: MIT Press, 2002), 32.
57
Waddy, Seventeenth-Century Roman Palaces, 6. 75
Tài liệu đã dẫn, 3.
58
Xem Sebastiano Serlio, The Sixth Book; The Seventh Book, được in lại trong Sebastiano Serlio on 76
Tài liệu đã dẫn, 7.
Architecture,Volume Two, chủ biên bởi Vaughan Hart và Peter Hicks (New Haven: Yale University Press, 77
Tài liệu đã dẫn.
2001); Pierre Le Muet, Manière de Bien Bastir pour toutes sortes de personnes (Paris: Pandora Edtions, 78
Về mối quan hệ giữa lãnh thổ hóa và phi lãnh thổ hóa bên trong sự phát triển tư bản chủ nghĩa xem
1981). Gilles Deleuze, Felix Guattari, Anti-Oedipus: Capitalism and Schizophrenia (London: Penguin, 2009).
59
Jacques Lucan, Composition, Non-Composition: Architecture and Theory in the Nineteenth and
Twentieth Centuries (Lausanne: EPFL Press, 2012), 11-25.

29

You might also like