Professional Documents
Culture Documents
Thi
Thi
Thi
Đây là những tàu có một boong có tải trọng rất lớn trên 500.000 DWT, chiều dài trên 400 m,
chiều rộng trên 65 m. Tàu dầu thường có nhiều hầm (Tank) riêng biệt để chứa dầu, vừa để
cân bằng tàu, vừa để ngăn không cho dầu chảy ra ngoài trong trường hợp có tai nạn. Một tàu
dầu cực lớn (ULCC) có tới 30 tank như vậy.
Tàu này dùng để chở dầu thô và dầu đã chế biến, trong đó dầu thô chiếm tới 80%. Để bơm
dầu vào và ra khỏi tàu, các tàu dầu thường được trang bị hệ thống bơm dầu công suất lớn
(25.000 m3 /ngày). Các tank chứa nước dằn tàu (Ballast tanks) thường dùng nước sạch mà
không dùng để chứa dầu để đảm bảo vệ sinh môi trường khi bơm trở lại biển.
2.2 Tàu chở hơi đốt thiên nhiên hoá lỏng - (Liquefied Natural Gas - LNG Carrier)
Đây là loại tàu có cấu tạo đặc biệt để chuyên chở hơi đốt thiên nhiên đã được hoá lỏng tại các
nhà máy ở các trung tâm sản xuất, khai thác hơi đốt thiên nhiên của thế giới.
Hơi đốt thiên nhiên hoá lỏng phải chuyên chở ở nhiệt độ -1620 oC, nên hệ thống vận tải này
rất phức tạp và tốn kém. Các nhà máy hoá lỏng hơi đốt thiên nhiên được xây dựng ở Algieria,
Alaska, Bruney, Indonexia, Abu Dahbi, từ đây LNG được chở đến Anh, Pháp, Nhật Bản,
Italia, Tây Ban Nha, Mỹ ... để tiêu thụ
2.3Tàu chở dầu khí hoá lỏng (Liquefied Petroleum Gas - LPG Carrier)
Dầu khí hoá lỏng là một hỗn hợp gồm khí propane và butane mà trong vài năm gầy đây đã
được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Các tàu chở LPG không cần có cấu trúc phức tạp như tàu
LNG vì dầu khí có thể hoá lỏng ở nhiệt độ 0oC.
Ngoài ra còn có các tàu chở hàng lỏng các chất lỏng khác như: chở rượu, chở hoá chất...
3.TÀU ĐÁNH BẮT THỦY SẢN
Tàu thuyền đánh bắt hải sản chỉ đến tất cả các loại thuyền, ghe, xuồng, hoặc phương tiện
giao thông đường thủy khác được sử dụng làm phương tiện đánh bắt hải
sản ở biển, hồ hoặc sông ngòi. Có nhiều loại thuyền đánh cá khác nhau được sử dụng trong
việc đánh bắt hải sản thương mại, đánh bắt hải sản truyền thống và đánh bắt hải sản vì mục
đích giải trí.
3.1Phân loại tàu
Ngày 8/3/2019, Nghị định 26/2019/NĐ-CP ra đời quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật Thủy sản. Trong đó, Điều 43 quy định, đối với tàu đánh bắt nguồn lợi thủy sản
có chiều dài lớn nhất từ 15m trở lên, chỉ hoạt hoạt động tại vùng khơi, không được đánh bắt
tại vùng ven bờ và vùng lộng; tàu cá có chiều dài từ 12m đến dưới 15m chỉ được hoạt động ở
tuyến lộng, không được hoạt động tại vùng khơi và vùng ven bờ; tàu cá có chiều dài lớn nhất
dưới 12m chỉ hoạt động tại vùng ven bờ.
3.3 Kết cấu của tàu
Ít có tiêu chuẩn chung về tàu thuyền đánh bắt thủy, hải sản. Thiết kế thông thường sẽ khác
nhau tùy theo quốc gia và hãng đóng thuyền. Trước đây và tới hiện tại các con thuyền thường
được đóng bằng gỗ nhưng hiện nay người ta đang có xu hướng thay thế gỗ bằng những vật
liệu khác như sợi thủy tinh, nhôm, thép để tăng độ bền và tuổi thọ. Thường thì những con tàu
dưới 100 tấn sẽ dùng sợi thủy tinh, trong khi những con tàu nặng hơn sẽ dùng kim loại như
thép chẳng hạn.
Ở Việt Nam, tại thời điểm 2013, có khoảng 100.000 tàu thuyền đánh bắt hải sản với trên 95%
trong số này là các loại tàu được làm từ gỗ. Hiện tại chính phủ Việt Nam có nhiều chính sách
khuyến khích và giúp đỡ ngư dân chuyển biến dùng và cải thiện những con tàu gỗ với chất
liệu sợi thủy tinh composite.
3.1. Vật liệu gỗ đóng tàu
Hầu hết các tàu đánh đều sử dụng vật liệu gỗ đóng tàu
3.2. Hệ thống kết cấu
Tàu đánh bắt có kết cấu theo hệ thống ngang kết hợp gia cường bằng kết cấu dọc. Trong hệ
thống kết cấu ngang, số lượng kết cấu bố trí theo chiều ngang nhiều nên làm tăng độ bền
ngang và có lợi cho khả năng chống ép ngang mạn tàu, tăng khả năng chịu được tác dụng của
các lực theo phương ngang, việc thi công đóng mới theo hệ thống kết cấu này cũng đơn giản
hơn. Việc gia cường thêm kết cấu dọc làm tăng độ bền dọc giúp tàu có khả năng chịu uốc dọc
và chịu xoắn tốt hơn.
3.3. Đặc điểm kết cấu tàu
- Ky chính là một cây gỗ thẳng, dài, có khối lượng tương đối lớn. Ky chính cùng với các đà
ngang, sống dọc tạo nên bộ khung xương của tàu. Các tấm ván võ được ghép với khung
xương bằng các bulông và đinh thép, võ tàu được làm kín nước bằng chất kết dính đặc biệt.
- Khung xương đáy bao gồm ky chính, các đà ngang đáy và các thanh dọc đáy có kích thước
và tiết diện phụ thuộc vào từng con tàu.
- Khung xương mạn bao gồm các sườn mạn (công giang) và các thanh dọc mạn được bố trí ở
hai bên mạn tàu tạo thành hình dạng mặt cắt ngang của tàu.
- Phần boong tàu bao gồm các xà ngang boong, xà dọc boong, chúng được liên kết với khung
xương đáy và khung xương mạn tạo thành một bộ khung xương vững chắc cho tàu, giúp tàu
chịu được áp lực của nước hàng hoá và sóng gió.
- Sống mũi tàu thường là một cây gỗ lớn có chất lượng tốt do mũi tàu là nơi thường xuyên
chịu va đập của sóng biển và các vật nổi. Sống mũi thường nghiêng về phía trước để giảm lực
cản của nước và làm tăng khả năng cắt sóng của tàu.
- Kết cấu võ tàu là những ván gỗ dài được uốn cong, ghép lại với nhau kết nối với khung
xương bằng các bu lông và đinh thép.
3.4. Các kết cấu cơ bản
- Vách ngang kín nước: Tất cả các tàu cá không có vách ngang kín nước, các khoang thông
với nhau thông qua các lỗ thoát nước dưới đà đáy, tất cả nước biển khi tràn vào tàu hoặc rò rỉ
vào tàu đều tập trung về buồng máy.
- Ky chính: 100% tàu cá chỉ sử dụng một ky chính, 100% số tàu khảo sát có kích thước tiết
diện ky chính thoản mãn hoặc lớn hơn kích thước trong TCVN 7111:2002.
- Thanh dọc đáy, thanh dọc hông, thanh dọc mạn: đối với các nghề câu, chụp, rê 100% tàu
không có thanh dọc dáy, thanh dọc hông, thanh dọc mạn; đối với tàu vây 15% có thanh dọc
đáy, 25% có thanh dọc hông.
- Thanh đỡ đầu xà ngang boong: 100% các tàu nghề câu, chụp, rê không bố trí thanh đỡ đầu
xà ngang boong, 13% tàu cá nghề vây bố trí thanh đỡ đầu xà ngang boong. Thanh đỡ đầu xà
ngang boong góp phần vào làm cứng vững thêm cho khung giàn mạn, nên việc bố trí thanh
này là cần thiết.
- Sống mũi: 100% tàu cá có diện tích tiết diện ngang của sóng mũi lớn hơn kích thước quy
định trong TCVN 7111:2002.
- Sống đuôi: Số tàu có sống đuôi thỏa mãn TCVN 7111:2002 đối với từng mẫu tàu như sau:
mẫu tàu câu 13m là 65%; mẫu tàu câu 14m là 65%; mẫu tàu câu 15m là 75%; mẫu tàu câu
16m là 90%; mẫu tàu chụp 14m là 68%; mẫu tàu chụp 15m là 81%; mẫu tàu chụp 16m là
90%; mẫu tàu rê 16m là 90%; mẫu tàu rê 18m là 85%; mẫu tàu vây 16m là 95%; mẫu tàu vây
18m là 90%.
- Sườn: Khoảng sườn có trị số nằm trong khoảng từ 300-400 mm. Số tàu thỏa mãn TCVN
7111:2002 như sau: mẫu tàu câu 13m có 70%; mẫu tàu câu 14m có 65%; mẫu tàu câu 15m có
80%; mẫu tàu câu 16m có 75%; mẫu tàu chụp 14m có 73%; mẫu tàu chụp 15m có 71%; mẫu
tàu chụp 16m có 85%; mẫu tàu rê 16m có 70%; mẫu tàu rê 18m có 75%; mẫu tàu vây 16m có
80%; mẫu tàu vây 18m có 90%.
- Xà ngang boong: Số tàu có xà ngang boong thỏa mãn TCVN 7111:2002 như sau: Mẫu tàu
câu 13m có 70%; mẫu tàu câu 14m có 70%; mẫu tàu câu 15m có 85%; mẫu tàu câu 16m có
80%; mẫu tàu chụp 14m có 77%; mẫu tàu chụp 15m có 86%; mẫu tàu chụp 16m có 90%;
mẫu tàu rê 16m có 85%; mẫu tàu rê 18m có 90%; mẫu tàu vây 16m có 85%; mẫu tàu vây
18m có 95% .
- Ván võ, ván boong: Số tàu có ván thỏa mãn TCVN 7111:2002 như sau: Mẫu tàu câu 13m
có 95%; tất cả các mẫu tàu còn lại có 100% số tàu thảo mãn TCVN. Ván đáy của tất cả các
tàu khảo sát có chiều dày từ 35 đến 50mm, trong đó phần lớn các tàu có chiều dày ván võ tập
trung ở trị số 45mm.
- Đà máy: Số tàu có đà máy thỏa mãn TCVN 7111:2002 như sau: Mẫu tàu câu 13m có 65%;
mẫu tàu câu 14m có 70%; mẫu tàu câu 15m có 80%; mẫu tàu câu 16m có 70%; mẫu tàu chụp
14m có 68%; mẫu tàu chụp 15m có 81%; mẫu tàu chụp 16m có 75%; mẫu tàu rê 16m có
80%; mẫu tàu rê 18m có 75%;; mẫu tàu vây 16m có 75%; mẫu tàu vây 18m có 90%.
* Kết cấu thượng tầng:
+ Ván nốc cabin: chiều dày từ 20-40mm, tập trung chủ yếu ở trị số 30mm.
+ Xà ngang nốc cabin: diện tích mặt cắt ngang từ 59-70cm2.
+ Cột chính cabin: diện tích mặt cắt ngang của mẫu tàu câu 13m nằm trong khoảng 143-
224cm2, các mẫu tàu khác nằm trong khoảng 210-272cm2.
- Chiều cao mạn chắn sống: Chiều cao mạn chắn sóng của các tàu không phụ thuộc vào chiều
dài tàu và nằm dao động trong khoảng từ 350 đến 500mm. Chiều cao mạn chắn sóng như trên
là phù hợp với yêu cầu về khai thác và yêu cầu về khả năng chống sống trào lên boong.
4. Phân loại tàu Container
4.1 Tàu Container nửa chuyên dùng (Semi Container Ship)
Những hầm chứa hàng ở giữa thân tàu này được thiết kế và trang bị đặc biệt để
chở Container và những tầng hầm còn lại ở đầu và cuối thân tàu được sử dụng để chở các loại
hàng thông thường khác như các loại tàu phổ thông.
4.2 Tàu Container chuyên dùng (Full Container Ship)
Toàn bộ các hầm hàng và cả phần trên boong đều được thiết kế và trang bị để chở Container.
Loại tàu này có trọng tải rất lớn, tốc độ cao và hoạt động đều đặn giữa các cảng trọng yếu
nằm trên tuyến đường chuyên chở.
4.3 Tàu Container có cách bốc dỡ nâng qua lan can (Lift on Lift off Container Ship)
Thuộc loại cấu trúc một boong, có mạn kép hay mạn đơn hình lượn sóng, sườn và xà ngang
mặt boong có kích thước rộng lớn, thân tàu vững chắc đảm bảo vận chuyển Container xếp
chồng thành nhiều tầng trong hầm và trên boong.
Hầm tàu được trang bị cơ cấu đặc biệt gồm những thanh dẫn hướng đóng thành khung theo
chiều thẳng đứng, có kích thước phù hợp với kích thước Container được tiêu chuẩn hóa,
nhằm giữ cho Container không bị xê dịch khi chạy trên biển.
4.4 Tàu Container bốc dỡ bằng cầu dẫn (Roll on Roll off Container Ship)
Đặc điểm của loại tàu này là có một cầu dẫn được thiết kế ở phía trước, phía sau hay bên
hông tàu, do đó Container được đưa lên tàu bằng xe nâng, xe tractor, không sử dụng công cụ
bốc dỡ.
Hầm tàu được thiết kế nhiều boong, có đủ độ cao để chất xếp Container có thể giữ vị trí trên
giá xe và được trang bị cơ cấu chèn lót, chằng buộc tốt.
Loại tàu này có lợi thế là có thể cập bến bốc dỡ Container bằng cầu dẫn tại các cảng có trang
thiết bị bốc dỡ thiếu thốn, lạc hậu hay không có những bờ cảng đủ chắc chắn để tiếp nhận cầu
dẫn.
4.5 Tàu chở sà lan (Lighter Carrier or Lighter Abroad Ship)
Đặc điểm của tàu này là được thiết kế không phải để chở Container thông thường như các
loại tàu trên mà để chờ sà lan chứa hàng có trọng tải 100-500 tấn.
5. Tàu khách
5.1 Khái niệm tàu khách.
- Đây là loại tàu được thiết kế có tính thẩm mỹ để chỉ chuyên chở khách, có thêm các dịch vụ
đi kèm như ăn, ngủ, tiệc, hội nghị… Tàu được thiết kế với mục đích vận tải hành khách nên
phải đảm bảo được tính ổn định, tiện nghi, tốc độ cao cũng như tính an toàn tốt, đặc biệt là
các hệ thống cứu hộ cứu nạn phải được trang bị đầy đủ và kiểm tra nghiêm ngoặt, đáp ứng
đúng theo qui định của các công ước quốc tế.
- Đặc điểm của tàu khách là tàu thủy là có không gian rất rộng, tốc độ cao nhất định, an toàn
nghiêm ngặt, đối với tàu khách thì phải tính đến tính mạng trên đó. Ngoài phòng ngủ, cần có
phòng ăn, rạp hát, dụng cụ thể thao, boong để đi dạo, v.v. và những thứ này nên được lắp đặt
ở boong trên, ít nhất là trên mặt nước. Trước đây, cabin dưới của tàu khách nằm dưới mực
nước và có thể chứa hơn 30 người ở nơi không có cửa sổ, nhưng mục đích của tàu khách hiện
nay là chuyển từ vận tải sang du lịch và đang có xu hướng mạnh. Do đó, dạng thân tàu của
tàu khách có đặc điểm là kết cấu lớn ở boong trên và nhiều phòng có cửa sổ nên chiều dài của
tàu lớn hơn chiều rộng.
5.2 Các loại tàu khách hiện đang hoạt động.
- Đến năm 2020 trên thế giới có xu hướng chuyển dịch và phát triển mạnh mẽ tại khu vực
châu Á. Nhiều hãng tàu lớn trên thế giới thường đưa khách đi theo tuyến châu Âu - châu Mỹ
- Địa Trung Hải đã bắt đầu khai thác tuyến du lịch sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Khu vực này không những trở thành một điểm đến hấp dẫn mà còn là thị trường khai thác lớn
cho các hãng du lịch tàu biển thế giới.
- Đặc trưng của khách tàu biển là số lượng khách đông, đến từ nhiều vùng lãnh thổ, quốc gia
khác nhau và đi theo tour dài ngày. Thông thường trên một chuyến tàu du lịch số lượng khách
thường tính từ vài trăm đến cả nghìn người, nhất là các hãng tàu lớn và các tàu cao cấp. Ví dụ
hãng tàu Costa Allegra là tàu 5 sao của Mỹ có sức chứa trên 1.000 du khách; tàu SuperStar
Libra chở 1.700 du khách,… Cũng vì số lượng khách đông cho nên các hãng tàu du lịch biển
cần tập hợp đủ lượng khách và chuyện họ đến từ nhiều vùng lãnh thổ là điều dễ hiểu.
- Ngày nay, trên thế giới đang có rất nhiều hãng tàu với quy mô lớn, tập trung rất nhiều tàu có
kích thước rất lớn, điển hình có thể kể đến tàu AIDAbella (quốc tịch Italia). Đây là một trong
những con tàu du lịch lớn của thế giới, có chiều dài trên 250 m, rộng trên 32 m, cao trên 45
m.
6. Tàu bách hóa
Tàu chở hàng thương mại đầu tiên trên thế giới chính là tàu bách hóa.
Chủ yếu dùng để chở các loại hàng tạp hóa. Hàng tạp hóa là loại hàng được đóng trong thùng
(hộp, bao tải..) hoặc được xếp riêng ở chỗ cố định (máy móc, thiết bị công nghiệp, tấm kim
loại…). Vào những thế kỉ trước thì tàu chở hàng bách hóa xuất hiện rất nhiều trên các bến
cảng. Tuy nhiên, ngày nay xu hướng vận tải bằng tàu chuyên dụng chiếm ưu thế, nên tàu
bách hóa dần bị thu hẹp về số lượng. Tàu bách hóa thường được thiết kế với trọng tải không
lớn, có nhiều boong, nhiều hầm hàng, thông thường thiết kế mỗi cẩu cho một hầm hàng. Hầm
hàng tùy theo điều kiện thiết kế mà có thể có một, hai hay nhiều tầng hầm sao cho có thể xếp
hàng thuận tiện trong mỗi chuyến đi. Tốc độ của tàu bách hóa tương đối cao.
Tàu bách hóa không chuyên vận tải một loại hàng hóa nhất định nào cho nên không tận dụng
được hết khả năng chuyên chở của mình. Vì lí do đó, vài thập niên gần đây, người ta đã thiết
kế và đưa vào sử dụng rộng rải các loại tàu hàng chuyên dụng, mang lại hiệu quả vận chuyển
cao và giảm đáng kể thời gian bốc xếp hàng ở cảng.
7. Tàu dịch vụ
Nhóm tàu này đa dạng, chuyên sâu vào một hoặc một số lĩnh vực phục vụ kỹ thuật. Đó là các
tàu kéo (tug), tàu cứu hoả (fire vessel) tàu cứu hộ (salvage vessel), tàu thả phao, đảm bảo an
toàn hàng hải (buoy vessel), tàu đặt cáp ngầm (cable layer), tàu cuốc bùn, tàu hút bùn làm
công tác nạo vét luồng lạch, cảng (dredger), tàu hoa tiêu (pilot craft), tàu hải quan (custom
boat), tàu kiểm ngư (fisheries patrol boat), tàu huấn luyện (training ship),…
Tàu kéo (tug) làm nhiệm vụ kéo hoặc đẩy. Có thể phân các tàu nhóm này thành các kiểu tàu
theo chức năng: tàu kéo đi biển, gọi tàu tàu kéo biển, tàu kéo trong vùng nội địa hay tàu kéo
sông và các tàu chỉ làm nhiệm vụ đẩy gọi là tàu đẩy.
Tàu kéo chạy biển (ocean going tugboats) đa dạng, làm những việc chuyên môn không
hoàn toàn giống nhau. Trong thực tế các tàu nhóm này được thiết kế cho những công việc
nhất định và mang tên gọi qui ước cũng không trùng nhau.
Tàu kéo trong cảng (harbour tugs) thuộc nhóm đông đúc nhất. Đặc trưng của nhóm tàu này
là công suất máy chính đủ mạnh song kích cỡ tàu không lớn, chiều cao mạn khô chỉ đạt giá
trị tối thiểu. Khả năng quay trở tàu kéo cảng (gọi tắt của tàu kéo hoạt động chủ yếu trong
cảng) rất cao.
Tàu công trình (Workshop vessel) bao gồm các phương tiện nổi thực hiện các công việc
nạo vét luồng lạch trên các sông, cảng và các đường sông, biển vào cảng. Hai nhóm phương
tiện đặc trưng cho đội tàu này là tàu hút bùn và tàu cuốc.
Nhóm tàu hút thực hiện hút bùn, đất từ lòng sông, cảng, cửa biển,... bằng các phương pháp
thủy lực. Bùn, đất được hút bằng ống và dẫn đến bơm thuộc dạng bơm bùn, nhờ bơm đẩy
bằng đường ống đến địa điểm tập kết
Tàu cuốc thực hiện công việc nạo vét, chuyển bùn, đất bằng phương pháp cơ giới và thủy
lực. Dạng thường thấy là tàu cuốc nhiều gầu. Trên tàu cuốc dạng này người ta dùng các gầu
xúc bùn, đất và đổ dồn bùn đất đó vào phương tiện vận chuyển qui định.
Câu hỏi thảo luận
Câu 1 RORO CÓ NGHĨA LÀ GÌ?
Roll-on/roll-off hay RORO, ro-ro là một thuật ngữ trong ngành vận tải ngoại thương dùng
cho các loại hàng tự vận hành lên tàu được (xe hơi, xe tải, xe moóc kéo, xe đầu kéo...), khác
với phương thức thông thường là lo-lo hay LOLO (tức lift-on/lift off) đối với hàng công-ten-
nơ (phải sử dụng cần cẩu để đưa hàng lên tàu).
Câu 2 PHÂN LOẠI TÀU DẦU THEO HÌNH THỨC NÀO?
Tàu dầu thường được phân loại theo tuyến hoạt động và trọng tải như sau:
– Product Tanker, trọng tải từ 10.000 đến dưới 25.000 dwt
– Panamax Tanker, trọng tải từ 25.000 đến dưới 45.000 dwt
– Aframax Tanker, trọng tải từ 45.000 đến dưới 80.000 dwt
– Suezmax Tanket, trọng tải từ 80.000 đến dưới 160.000 dwt
– VLCC (very large crude oil carrier), trọng tải từ 160.000 đến dưới 320.000 dwt
– ULCC (ustra large crude oil carrier), trọng tải từ 320.000 dwt trở lên.
Câu 3: Lai dắt tàu biển là gì? Tại sao lai dắt tàu biển lại đóng vai trò đặc biệt quan
trọng trong hoạt động hàng hải?
Lai dắt tàu biển là việc lai, kéo, đẩy hoặc túc trực bên cạnh tàu biển, các phương tiện nổi
khác trên biển và trong vùng nước cảng biển bằng tàu lai. Lai dắt tàu biển bao gồm lai dắt
trên biển và lai dắt hỗ trợ trong vùng nước cảng biển.
Lai dắt tàu biển là vô cùng cần thiết trong những trường hợp chẳng hạn như lối vào cảng hẹp,
tàu có trọng tải quá lớn, mắc cạn nhẹ trên một cồn cát ngầm, thiếu nhiên liệu, acqui hỏng,
hoặc các vấn đề cơ khí khác, trong điều kiện thời tiết bình thường, không có nguy hiểm cho
phương tiện và thuyền viên.
Câu 4 Những loại hàng hóa có thể được container? Nói chung và về mặt lý thuyết, bất cứ
thứ gì phù hợp trong một container đều có thể được vận chuyển qua container. Có một loạt
các tùy chọn cho phép vận chuyển hàng hóa có tính chất rất khác nhau – ngay cả chất lỏng.
Đối với những thứ này, có những thùng chứa hoặc một thùng chứa tiêu chuẩn có thể được
trang bị một thứ gọi là Flexitank. Ví dụ vận chuyển hàng rời có thể được vận chuyển trong
một container hoặc có thể được nhét trong các “ túi lớn”. Điều này đơn giản hóa các quá trình
tải và xếp dỡ của container. Nhưng đây là những trường hợp đặc biệt.
Một kịch bản phổ biến là hàng hóa, được vận chuyển qua container, được đóng gói trong
hộp hoặc thùng và xếp vào pallets.
Câu 5 Tàu cái, tàu đực là gì? Tàu đực và tàu cái là một thuật ngữ rất phổ biến đối với ngư
dân. Đây là một loại hình của tàu cào đôi. Tàu đực thường có 4 người : tài công (lái tàu), tài
cải (thợ máy) và 2 bạn đi biển (nhân công có tay nghề) làm nhiệm vụ phụ kéo một đầu lưới);
tàu cái có nhiệm vụ chở nước đá, nhiên liệu, sản phẩm khai thác được… nói cách khác tàu cái
phục vụ công tác hầu cần thì cần khoảng 11 người đi biển, tài công và tài cải.
Dây kim loại (còn gọi là dây cáp) sử dụng trên tàu được chế tạo từ sợi thép giàu Cacbon và
có rất nhiều loại, nhiều kích cỡ khác nhau. Sợi thép dùng để chế tạo dây thường có d = 0,2
mm - 5mm, phần lớn được tráng kẽm hoặc nhôm để chống rỉ.
Dây kim loại trên tàu có thể phân chia thành các nhóm sau:
- Nhóm cáp buộc (Seizing wire);
- Nhóm cáp giằng (Standing wire);
- Nhóm cáp động (Moving wire): Được chia thành 3 loại theo độ mềm dẻo của dây, bao gồm:
+ Cáp cứng: Thường có kết cấu gồm 6 tao bện trên một lõi sợi mềm. Các sợi trong từng tao
có cỡ lớn và số sợi ít, thường là 12, 19 sợi/tao. Loại cáp này thường dùng làm dây tĩnh
palăng, dây buộc tàu, dây lai dắt v.v.
+ Cáp thường: Có kết cấu giống như cáp cứng nhưng số sợi trong từng tao lớn hơn nên cáp
mềm và dẻo hơn, khoảng 24, 36 sợi/tao. Loại cáp này thường dùng làm dây cáp tời, dây nâng
cần trong hệ thống cẩu, dây chằng buộc hàng v.v.
+ Cáp mềm: Là loại cáp được chế tạo đặc biệt với rất nhiều dạng khác nhau và rất mềm dẻo,
bề mặt trơn nhẵn hơn các loại cáp khác. Dây loại này có thể có kết cấu 6 tao với số sợi trong
từng tao là 37, 41, 61 sợi/tao, trong mỗi tao, các sợi còn có thể được bện trên lõi sợi thực vật,
giúp cho dây mềm hơn. Một loại dây kết cấu khác, số lượng tao trong dây rất lớn như loại 12,
17, 18 tao với số sợi trong từng tao là 7, 12 sợi/tao. Một dạng khác, dây chỉ có một lõi thực
vật trong tâm, các tao dây kim loại được bện thành nhiều lớp quanh lõi tạo thành dây. Loại
cáp mềm được sử dụng làm dây cẩu hàng trong hệ thống cẩu, dây nâng hạ trong hệ thống
xuồng cứu sinh, dây động của palăng v.v.
1.3. Dây hỗn hợp (Mixed wire and fibre rope): Dây hỗn hợp được chế tạo bằng cách kết
hợp cả hai loại dây sợi và kim loại, nó tránh được nhược điểm của dây kim loại như không
dẻo, không đàn hồi, trơn trượt và dễ gỉ.
1.4. Dây lỉn (Chain)
Lỉn (dây xích) là một loại dây đặc biệt sử dụng trên tàu biển. Lỉn được chế tạo bằng thép,
kích cỡ rất đa dạng. Các loại lỉn nhỏ nhất như các dây giữ các nắp ổ điện hoặc rất lớn như lỉn
neo.
Có hai loại lỉn thường được sử dụng trên tàu là lỉn có ngáng và không có ngáng. Người ta
phân loại lỉn theo mục đích sử dụng như sau:
- Lỉn đa dụng (General using chain): Loại lỉn này được sử dụng với rất nhiều mục đích như:
dây treo xuồng cứu sinh, lan can tạm, chằng buộc hàng có tải trọng cao, dây bốt cho dây buộc
tàu kim loại, lỉn neo các thuyền nhỏ .v.v. Các loại lỉn này thường là loại lỉn không ngáng.
- Lỉn cho hệ thống làm hàng (Cargo handling chain): Loại lỉn này thường được sử dụng cho
hệ thống làm hàng như: dây bìa cần cẩu, dây cố định đầu cần, dây truyền động máy lái trên
tàu nhỏ, Palăng xích.v.v. Các loại lỉn này được chế tạo cả loại có ngáng và không ngáng.
- Lỉn neo (Chain cable): Được chế tạo với mục đích chính làm lỉn neo. Kích thước đa dạng,
có cỡ từ 28 - 87mm. Loại lỉn này thường là loại có ngáng.
Lỉn sử dụng trên tàu còn được chia thành 3 hạng theo chất liệu thép sử dụng để chế tạo:
- Loại 1 (Grade 1): Được chế tạo bằng loại thép thông thường (Mild Steel).
- Loại 2 (Grade 2): Được chế tạo bằng thép chất lượng cao (Special Steel).
- Loại 3 (Grade 3): Được chế tạo bằng thép đặc biệt có độ bền cao (Extra Special Steel).
Sự khác biệt giữa các hạng này là khả năng chịu lực của mỗi loại. Lỉn được cấp xuống tàu
thường có kích cỡ chuẩn. Các thông số như kích thước mắt, trọng lượng, độ bền thử nghiệm,
sức kéo làm việc được cho theo hồ sơ.v.v
2. Các thông số của dây
2.1. Bước xoắn của dây (Pitch)
Bước (hay bước xoắn) của dây là độ dài một vòng xoắn của một tao (pitch of Lay), hay
khoảng cách được tính từ một điểm của tao trên bề mặt dây tới điểm kế tiếp thuộc tao đó theo
chiều dài dây
2.2. Kích thước dây (Size of rope)
Dây có rất nhiều cách tính cỡ và người sử dụng phải biết rõ điều này khi tính toán, đặt hàng,
mua dây. Cách tính cỡ dây phụ thuộc vào loại và độ lớn của dây. Tuy nhiên, việc xác định cỡ
dây theo loại hầu như đã được chuẩn hóa và áp dụng rộng rãi. Có một số cách tính như sau:
- Với các loại dây sợi thực vật rất nhỏ, đơn vị tính của chúng được tính bằng số sợi có trong
dây (loại dây không dảnh), hoặc bằng số (dây số 1,2,3..), hoặc theo trọng lượng của cuộn dây
cấp lên tàu.
- Với các loại dây sợi tổng hợp nhỏ nhất được tính bằng số. - Các loại dây được sử
dụng làm thang dây hay các công việc có liên quan đến an toàn sinh mạng đôi khi được tính
bằng số sợi có trong các tao dây và thường có các số 9,12,15,18 và 21.
- Các loại dây kim loại được sử dụng với mục đích làm dây thép buộc được tính theo cỡ từ 18
đến 26 và được cấp lên tàu với cuộn có trọng lượng thông thường là 1.5Kg. Một cách tính cỡ
dây thông dụng áp dụng cho các loại dây có kết cấu hoàn chỉnh (dây tạo thành từ các tao) là
tính bằng cỡ đường kính (Ø hay d) hay chu vi (C).
- C (Circumference): Chu vi tiết diện ngang của dây với đơn vị là Inches, được xác định bằng
chu vi đường tròn ngoại tiếp của mặt cắt ngang thân dây.
- Ø hay d (Diagram): Đường kính tiết diện ngang của dây với đơn vị là Milimet, được xác
bằng đường kính đường tròn ngoại tiếp của mặt cắt ngang thân dây. Cỡ của dây lỉn được tính
bằng đường kính của thép làm thân lỉn (d) với đơn vị là milimet
2.3. Trọng lượng dây
Trọng lượng dây được tính dựa trên cỡ dây tính bằng đường kính d(mm) cho một cuộn dây
tiêu chuẩn (200m).
Với dây manila: Q = d2 x 0,15(Kg)
Với dây kim loại: Q = d2 x 0,7(Kg)
Như vậy trọng lượng 1 mét dây sẽ được tính bằng Q/200.
3. Các đặc tính của dây
3.1. Sức bền của dây (Strength) Sức bền của dây được thể hiện ở 2 thông số là sức kéo đứt
và sức kéo làm việc. Để biết được các thông số này, có thể tra cứu từ hồ sơ (Manufacturer’s
Table) do nhà sản xuất cung cấp kèm theo dây.
Trong các trường hợp khác có thể tính toán sơ bộ bằng công thức. Sức kéo đứt (R): Là lực
kéo nhỏ nhất làm cho dây bị đứt. Sức kéo đứt có thể được tính toán sơ bộ theo các công thức:
- Dây Manila: R = (d/8)2 x 0,4 = C2 x 0,4 (MT)
- Dây kim loại: R = (d/8)2 x k = C2 x k (MT)
Trong đó: k = 2/2,5 tùy theo từng loại dây.
- Dây lỉn:
Loại 1 (Grade 1): R = 20 x d2 /600 (MT)
Loại 2 (Grade 2): R = 30 x d2 /600 (MT)
Loại 3 (Grade 3): R = 43 x d2 /600 (MT)
* Trong các công thức trên: d(mm) và C(Inch).
* Với dây kim loại, tuỳ theo kết cấu và loại dây mà cho các giá trị nhân từ 2 đến 2,5.
* Các loại dây tổng hợp được tính toán dựa trên cơ sở tỷ lệ lực so với dây Manila được cho
trong bảng 1.1 (cột “Sức bền”). Sức kéo làm việc (P): Là lực kéo lớn nhất mà dây chịu đựng
trong suốt quá trình làm việc lâu dài mà không bị đứt, không bị biến dạng và chất lượng dây
không thay đổi. Sức kéo làm việc của dây được chia thành 2 trường hợp:
- Đối với các công việc chịu lực thông thường có thể tính sơ bộ theo công thức: P = R/6 (MT)
- Đối với các công việc có liên quan tới an toàn sinh mạng như đưa người lên cao hay ra mạn
tàu làm việc: P = R/10 (MT)
3.2. Tính dẻo (Lexibility) Là khả năng uốn cong của dây mà không làm cho dây bị biến
dạng, không bị hư hỏng cấu trúc và không làm thay đổi chất lượng dây. Tính dẻo phụ thuộc
vào loại dây, độ xoắn của kết cấu bện hay bước xoắn của dây.
3.3. Tính đàn hồi (Elasticity) Là khả năng giãn dài của dây khi có lực tác động và trở về
trạng thái ban đầu mà không bị hư hỏng, thay đổi cấu trúc hay thay đổi chất lượng của dây.
Tính dẻo phụ thuộc vào loại dây, độ xoắn của kết cấu bện hay bước xoắn của dây.
4. Phương pháp sử dụng dây và một số lưu ý khi sử dụng
4.1. Kiểm tra dây khi nhận
Dây mới khi cấp cho tàu thường được đóng thành cuộn hoặc quấn trên khung quấn dây bằng
gỗ và cần thiết phải được kiểm tra khi nhận lên tàu. Trước hết phải xem nhãn của dây để biết
được chủng loại dây, hãng chế tạo, cỡ dây, chiều dài cả cuộn, tổng trọng lượng, ngày tháng
xuất xưởng, dấu hiệu riêng và các nội dung khác nói lên đặc điểm của dây.
Tài liệu thứ hai cần kiểm tra là hồ sơ chất lượng dây bao gồm các thông số như dạng kết cấu
bện, số tao, sức kéo đứt, sức kéo làm việc và nhiều thông số khác.
Sau khi đã xem các taì liệu trên nhãn thì gỡ bỏ bao bì và kiểm tra trực tiếp dây theo các thông
số ghi trên nhãn để xem có sai khác hay không và sơ bộ đánh giá chất lượng thực tế theo hồ
sơ dây.
- Đối với dây sợi, phải kiểm tra xem dây có bị ẩm mốc hay không bằng cách quan sát sự đồng
nhất của màu sắc trên dây. Dây tốt luôn có màu đồng nhất như đã được ghi trên nhãn, không
có vết ố, đốm, ngã màu, không có mùi mốc,…
- Dây kim loại phải bóng sáng, thớ bện phải đều, tiết diện ngang phải tròn đều và không bị
hẹp, dây không bị gỉ, các sợi bện phảo nằm sát bên nhau, không bị chồng chéo lên nhau và
không có sợi đứt.
4.2. Tháo dây mới đưa vào sử dụng
Dây mới đưa ra sử dụng trước hết phải tháo ra khỏi cuộn ban đầu và cuộn lại thành cuộn khác
với độ dài tùy ý hoặc cả cuộn và được gọi là cuộn sử dụng.
a.Với các loại dây cuốn trên trống và dây gỡ từ ngoài vào trong
Nếu dây được quấn trên trống, cách tốt nhất là đặt cả trống lên một bệ dỡ và kéo đầu dây để
tháo ra khỏi cuộn. Nếu không có bệ đỡ, có thể lăn cuộn dây trên sàn boong để dây tự nhả ra
khỏi cuộn và trải trên sàn boong
Với các loại dây cùng loại, nhưng không có trống gỗ, có thể làm bàn xoay bằng gỗ hoặc kim
loại. Cách đơn giản nhất là dùng 2 tấm gỗ đặt thành hình chữ thập, một dây treo được bắt vào
tâm chữ thập này và treo lên một móc xoay. Cuộn dây được lòng vào bàn xoay để gỡ dây.
a. Đặt trống dây trên bệ đỡ b. Lăn trống dây trên sàn boong
b.Với các cuộn dây tháo từ phía trong
Cách đánh dây tại nhà máy mà khi tháo dây phải bắt đầu từ phía ngoài cuộn thường chỉ áp
dụng với dây kim loại và dây buộc tàu loại lớn. Các loại dây khác thường được đánh thành
cuộn, không có lõi. Khi tháo dây, người sử dụng rút dây từ bên trong cuộn.
Tuyệt đối không được kéo dây ra từ đầu cuộn bên kia để tránh rối, xoắn và hư hỏng kết cấu
dây.
a. Tháo dây bằng bàn xoay b. Tháo dây từ trong lõi
c.Đánh thành cuộn sử dụng
Dây được cấp lên tàu dù dưới dạng cuộn như thế nào thì sau khi tháo đều phải đánh thành
cuộn để sử dụng. Cách đánh cuộn phải theo nguyên tắc:
- Dây chiều phải khi đánh thành cuộn sử dụng phải theo chiều kim đồng hồ.
- Dây chiều trái khi đánh thành cuộn sử dụng phải ngược chiều kim đồng hồ.
- Với các dây đánh thành cuộn gỡ từ trong ra, để đơn giản khi phân biệt, phải đánh dây ngược
chiều với chiều tháo dây từ cuộn mới.
- Dây kim loại và dây buộc tàu sau khi gỡ khỏi cuộn mới, tốt nhất là quấn lên trống quấn dây
để lưu giữ và sử dụng.
4.3. Lưu ý khi sử dụng dây
a.Tháo xoắn
Một cuộn day bị xổ hay gỡ không đúng cách sẽ có thể bị xoắn và số vòng xoắn trên dây có
thể rất nhiều. Nếu tác động lực để kéo thẳng dây có thể làm phá vỡ kết cấu bện dây.
Với dây sợi loại 3 và 4 tao. Trong các trường hợp xoắn khác nhau sẽ dẫn đến các hư hỏng
khác nhau tùy theo chiều xoắn và trạng thái dây khi xoắn. Các trường hợp hỏng kết cấu dây
do xoắn có thể là gấp tao, bó tao, tụt tao.
Đối với dây kim loại, một đặc điểm cần lưu ý là chất liệu chế tạo dây là các sợi kim loại.
a. Gấp tao (Kink) b. Bó tao (Twist) c. Tụt tao (Looseness)
Tất cả các loại dây cần loại bỏ các vòng xoắn trước khi sử dụng hay cuộn lại.
b. Kéo dây bằng tời và quấn dây lên trống
Khi kéo dây bằng tời, phải chạy tời đúng chiều để chiều quay của tời phù hợp với chiều dây.
Dây đưa lên tời để thu cũng phải đặt đúng chiều (Theo chiều kim đồng hồ nếu là dây chiều
phải, ngược chiều kim đồng hồ nếu là dây chiều trái
c. Dây đi qua con lăn, ròng rọc, các kết cấu trên tàu
Dây sử dụng trên tàu thường phải chạy qua các con lăn, sử dụng với các ròng rọc, tỳ vào các
kết cấu.v.v.
Một số điểm cần lưu ý trong các trường hợp này để đảm bảo an toàn sử dụng về sức bền và
tránh hư hỏng dây như sau:
- Không để dây tỳ vào các kết cấu sắc cạnh. Với dây kim loại khi tỳ vào các kết cấu góc cạnh
phải có góc mở tối thiểu 1200 với sức kéo làm việc đạt 70% sức kéo làm việc và trên 1500
với sức kéo bình thường.
- Dây kim loại nếu làm việc với 100% sức kéo làm việc phải đi qua các con lăn hay các ròng
rọc có đường kính tối thiểu bằng 16 lần đường kính dây.
- Dây sợi nếu làm việc với 100% sức kéo làm việc phải đi qua các con lăn hay các ròng rọc
có đường kính tối thiểu bằng 6 lần đường kính dây.
- Dây lỉn không được phép tỳ vào các kết cấu góc cạnh có độ mở nhỏ hơn 1500, lỉn sẽ bị gẫy
mắt, cong, vênh hoặc biến dạng. Khi tỳ lên các con lăn tròn, đường kính con lăn phải bằng tối
thiểu 2,5 lần chiều dài mắt lỉn.
d. Sức bền của dây
Không sử dụng các dây nếu không kiểm tra kỹ toàn bộ dây.
Dây kim loại cần phải được thay thế nếu trên độ dài một bước xoắn (pitch) có hơn 10% số sợi
bị đứt, hoặc đường kính dây bị mòn quá 10%.
Đối với dây lỉn, nếu các mắt lỉn có độ ăn mòn vượt quá 10% phải thay thế ngay.
Trước khi sử dụng dây làm dây treo ca bản, dây dùng đưa người lên cao làm việc, dây bảo
hiểm thì phải thử trước với trọng lực bằng ít nhất bốn lần trọng lượng mà dây phải nâng trong
thời gian không ít hơn 20 phút.
e. Một số lưu ý khác
Không nên kéo lê dây trên sàn boong vì bụi và sạn bẩn trên boong sẽ bám vào dây, lọt qua kẽ
dây.
Dây sợi và dây kim loại nên được cách ly, cố gắng không để dây sợi và dây kim loại quấn
trên cùng một bích hay chạy qua cùng một lỗ xỏ dây hay để dây kim loại chạy qua dây sợi.
Tất cả các lỗ xỏ dây, bệ tì, tấm đỡ, cọc bích phải được thường xuyên tẩy sạch gỉ. Trống tời
quấn dây, trống tời đứng phải trơn và không có gỉ. Tất cả các con lăn, tấm đỡ xoay phải được
tra dầu mỡ đầy đủ và phù hợp.
5. Bảo quản dây
- Dây không dùng nếu để trên mặt boong phải phủ kín bằng bạt nhựa thích hợp để tránh các
hư hỏng do thời tiết, do ánh nắng mặt trời.
- Không được để cho đầu dây bị xổ, nên bọc các đầu dây.
- Không để dây sợi phơi trần dưới ánh mặt trời.
- Không cất giữ dây tại khu vực có ảnh hưởng của hoá chất, khói, nhiệt độ cao, tia lửa điện.
- Cần phải lưu ý không để dây tiếp xúc với cồn, chất tẩy rỉ sắt, sơn ướt, nhựa đường,
Xylene...và các chất tương tự.
- Không nên cất giữ dây gần các đường ống của nồi hơi. Dây sợi phải được cuộn theo đúng
chiều và đặt trên giá gỗ hay treo trong kho có điều kiện thông gió tốt và khô ráo.
a. Với dây thực vật
- Cất giữ dây nơi khô ráo, không nên lưu giữ ở nơi có thể có nguy cơ nhiễm nấm mốc.
- Ít nhất 3 tháng một lần, dây phải được mang ra kiểm tra và phơi khô. Trước khi cuộn dây
đem cất phải rửa bằng nước ngọt sau đó phơi khô.
- Trong điều kiện hàng hải gần cực (vùng lạnh) dây cần được bảo vệ tránh mưa, bụi nước,
tuyết, sương lạnh, băng, tránh hiện tượng dây bị giòn, gẫy và thoái hoá.
b. Với dây tổng hợp
Tiến hành khử tĩnh điện cho dây theo định kỳ. Để khử tĩnh điện, cứ 2 tháng tiến hành thả dây
ra ngâm ngoài mạn tàu ngâm trong vòng 24 giờ với độ mặn nước biển lớn hơn hoặc bằng 2%
sau đó rửa lại nước ngọt rồi phơi khô.
- Dây tổng hợp có tính trơn trượt cao nên khi cô dây trên bích, quấn dây trên trống tời, phải
tăng số vòng quấn.
c. Với dây kim loại
Nên cởi bỏ bạt che để hơi nước bên trong bay đi, tránh hơi nước đọng làm cho dây bị gỉ.
- Luôn giữ chế độ dầu mỡ bảo dưỡng ở điều kiện tốt để tránh dây tiếp xúc với hơi nước và
giảm ma sát của dây khi làm việc.. Dây đang sử dụng phải chải gỉ và bôi mỡ mới ít nhất 3
tháng một lần. Nếu dây bị ngâm nước mặn phải rửa sạch bằng nước ngọt sau đó phơi khô rồi
lau chùi thật sạch và bôi mỡ. Dây lưu kho phải được kiểm tra hàng năm và bôi mỡ bảo quản.
d. Với dây lỉn
- Lỉn đang sử dụng không được bao hoặc bọc ngoài bằng vải, bạt, bọc quấn bằng dây để tránh
đọng nước và khó kiểm soát độ ăn mòn và hư hỏng.
- Các đoạn lỉn được nối hỗn hợp với cáp trên dây cẩu hàng, dây nâng cần trong hệ thống cẩu
phải tính toán độ dài phù hợp và phải có con chặn tại vị trí kết nối để tránh không cho lỉn
chạy qua ròng rọc, con lăn.
2.2 CÁC DỤNG CỤ LÀM CHUNG VỚI DÂY
1. Ròng rọc
a. Kết cấu:
Vỏ: Vỏ là phần chính của một ròng rọc, nó bao quanh phần động của ròng rọc. Vỏ cũng là
thân của ròng rọc, là nơi gá đỡ tất cả các phần khác của một ròng rọc.
Đai: Đai là phần gia cố cho thân ròng rọc, thường làm bằng thép. Đối với các loại ròng rọc vỏ
thép, thường không có đai vì bản thân vỏ là kết cấu chịu lực chính cho toàn bộ ròng rọc. Đối
với các ròng rọc vỏ gỗ và nhựa tổng hợp, đai chạy suốt thân ròng rọc.
Quai treo: Quai thường làm bằng thép với công dụng để bắt hoặc treo ròng rọc cố định vào
các kết cấu trên tàu. Quai bắt phía đầu ròng rọc, ở vị trí trên cùng của mỗi ròng rọc. Quai có
kết cấu đơn giản bắt cố định vào đầu ròng rọc hay có các khớp xoay một cấp hoặc hai cấp
(xem giải thích ở hình vẽ). Quai treo có thể dạng khuyên, dạng móc.v.v.
Con lăn: Con lăn được làm bằng thép, đồng, nhựa tổng hợp hoặc gỗ tùy theo loại ròng rọc.
Con lăn là điểm tựa cho dây chạy qua. Mỗi một con lăn của bất kỳ loại ròng rọc nào cũng có
rãnh đỡ dây. Độ lớn của con lăn quyết định cỡ dây sử dụng cho ròng rọc.
Trục: Trục con lăn còn gọi là “ắc”, thường được làm bằng thép có chất lượng cao. Trục được
bắt chặt vào vỏ con lăn. Đối với các ròng rọc có đai, trục được đỡ chịu lực trên đai. Trên thân
trục có xẻ rãnh và ống dẫn mỡ bôi trơn. Trục và con lăn tạo thành kết cấu động của ròng rọc.
Con lăn quay trên trục, hay nói cách khác trục là kết cấu đỡ trực tiếp con lăn.
b. Phân loại:
- Theo dây sử dụng:
+ Ròng rọc sử dụng cho dây sợi: Thường có kết cấu vỏ bằng gỗ hoặc nhựa tổng hợp. Con lăn
có thể được làm bằng gỗ, nhựa tổng hợp, đồng hoặc thép. Với loại ròng rọc này, trục thường
trực tiếp đỡ con lăn hoặc sử dụng bạc bằng đồng hoặc gỗ phít.
+ Ròng rọc sử dụng cho dây kim loại: thường có kết cấu vỏ và con lăn bằng thép. Các ròng
rọc loại này thường sử dụng bạc đỡ bằng hợp kim đồng hoặc sử dụng vòng bi để đỡ con lăn.
- Theo trạng thái làm việc:
+ Ròng rọc cố định: Thường được treo cố định vào các kết cấu khác trên tàu như các giá, sàn,
cột, đầu cần cẩu v.v. Loại ròng rọc này luôn có vị trí cố định so với các kết cấu mà nó được
bắt vào trong quá trình hoạt động.
+ Ròng rọc động: Không được treo cố định vào bất cứ kết cấu nào trên tàu. Nó luôn di động
trong quá trình làm việc và được treo trên dây sử dụng với ròng rọc.
- Theo số lượng con lăn:
Tùy theo số lượng con lăn có trong mỗi chiếc ròng rọc mà có thể phân chia thành ròng rọc
một hoặc nhiều con lăn.
c. Công dụng:
+ Thay đổi hướng lực kéo: Khi muốn đưa một vật nặng lên cao thay vì đứng tại vị trí cao
nhất để kéo vật nặng lên bằng dây, ta có thể sử dụng một ròng rọc chuyển hướng dây xuống
phía dưới để kéo.
+ Thay đổi hướng chạy của dây: Trong các trường hợp các đường dây kéo đi qua các kết cấu,
các vật cản hay do kết cấu của thiết bị đòi hỏi hướng dây phải thay đổi để phù hợp, có thể sử
dụng các ròng rọc để thay đổi hướng chạy của dây mà không làm thay đổi lực tác động hay
hiệu quả công tác của dây.
+ Thay đổi lực kéo: Nhiều ròng rọc kết hợp với nhau tạo thành hệ Palăng có thể làm giảm lực
kéo.
2. Móc (Hook)
Móc được đúc bằng thép có độ bền cao. Trên tàu thường sử dụng rất nhiều loại móc khác
nhau với nhiều chức năng khác nhau. Tuy nhiên tác dụng của móc thường dùng để móc treo
đồ vật, móc giữ các đầu dây, móc hàng hóa khi cẩu hàng.v.v.
a. Kết cấu:
Một chiếc móc thông thường bao gồm các phần như: Quai dùng để kết nối móc với dây hoặc
các vật dụng, các kết cấu có sử dụng móc. Thân và mỏ dùng để móc vào các kết cấu, các kiện
hàng.v.v.
b. Các loại móc sử dụng trên tàu:
• Móc đơn giản (Ordinary Hook): Loại móc này có kết cấu quai treo liền với thân móc.
Đây là loại móc thông dụng nhất với rất nhiều công dụng. Kích cỡ của loại móc này cũng rất
đa dạng.
• Móc xoay một khớp và hai khớp (Swivel and Clevis Hooks): Các loại móc này có
quai treo có khớp có thể xoay 3600 theo phương ngang so với thân móc hoặc có thể xoay
1800 theo chiều thẳng đứng so với thân móc (loại móc xoay một khớp) hoặc đồng thời có thể
xoay đồng thời theo cả hai phương trên (loại móc xoay hai khớp). Tác dụng của các khớp
xoay làm cho móc linh động hơn và tiện lợi hơn khi sử dụng.
• Móc an toàn (Safety Hook): Loại móc này ngoài các phần như quai treo, thân, mỏ còn
có thêm khóa để khi đưa các dây treo vào trong thân móc thì bản thân dây treo được giữ trong
thân móc mà không bị bật ra ngoài khi bị chùng. Khi dùng để treo hay cố định một đầu dây
bằng móc, nếu móc vào một kết cấu như xà, khuyên thì móc luôn được giữ chặt không rơi
khỏi vị trí được móc.
• Móc cẩu hàng (Cargo Hook): Loại móc này được chế tạo đặc biệt sử dụng cho các
cần cẩu làm hàng trên tàu. Mỏ của móc được làm hướng vào trong thân, phía trên mỏ có lưỡi
bao ra ngoài mỏ. Kết cấu đặc biệt của móc có tác dụng chống cho móc không bị móc vào các
dây, miệng hầm hàng, các kết cấu trên boong khi kéo móc lên.
• Móc tự mở (Self-release Hook): Loại móc này được chế tạo đặc biệt có thể tự nhả dây
nằm trong thân ra ngoài hoặc tự tháo khỏi vị trí mà nó móc vào bằng cách xoay mỏ ra ngoài.
Với loại móc này, điều kiện tự mở được thực hiện khi móc không chịu lực để đảm bảo an
toàn. Người điều khiển cẩu có thể tự mở móc tại vị trí điều khiển bằng tay gạt nối cơ học
bằng dây tới móc.
• Móc mỏ vịt (Pelican Hook): Đây là loại móc có kết cấu đặc biệt kết hợp với lỉn, mỏ
được hãm bằng vòng hãm vào thân lỉn. Điểm đặc biệt là ngay khi đang chịu lực ta vẫn có thể
giải phóng dây treo khỏi thân móc. Móc mỏ vịt được sử dụng để treo xuồng cứu sinh, phao
bè, làm dây chằng buộc các thiết bị đòi hỏi khả năng giải phóng nhanh.
3. Ma ní (Shackle)
a. Kết cấu
- Thân: Là phần chính của một ma ní. Thân có các hình dạng như hình chữ “D”, vuông, bán
nguyệt, vành xuyến v.v. Thân ma ní luôn có dạng cân đối qua một trục và trên thân có hai lỗ
xỏ chốt (ắc). Tùy theo loại ma ní, hai lỗ xỏ chốt có thể giống như nhau hoặc có một lỗ có tiện
ren để trực tiếp bắt chốt vào thân.
- Chốt: Còn gọi là “ắc”. Chốt được xỏ vào thân ma ní. Một đầu chốt được tiện ren, đầu kia có
tai hoặc lục lăng để vặn. Chốt có thể vặn ren trực tiếp vào thân ma ní hoặc bắt bulon vào đầu
ren.
b. Công dụng:
Ma ní được chế tạo bằng thép có độ bền cao và được sử dụng trên tàu với tác dụng để kết nối
tạm thời giữa các khuyết dây, đầu lỉn với nhau hoặc sử dụng để nối chúng với các khuyên,
vòng hay các kết cấu trên tàu.
4. Tăng đơ (Turnbuckle):
a. Kết cấu
Thân: Được chế tạo dạng hình trụ kín hoặc dạng khung hở. Hai đầu thân có tiện ren trong
trái chiều nhau để bắt trục vít. Một số loại tăng đơ chỉ có một trục vít và đầu bắt trục vít được
tiện ren thuận, đầu kia bắt chốt xoay.
Trục vít: Trục vít có dạng hình trụ, tiện ren để bắt vào thân. Đầu trục vít có móc hoặc khuyên
để móc hoặc bắt dây. Tăng đơ hai trục vít thì ren tiện trên hai trục vít trái chiều nhau để phù
hợp khi bắt vào vỏ.
b. Công dụng:
Tác dụng chính của tăng đơ là làm căng dây trong quá trình sử dụng. Khi muốn làm căng dây
đã được cố định một đầu, ta nối đầu khuyết dây còn lại vào một đầu tăng đơ. Đầu còn lại của
tăng đơ nối với một kết cấu trên tàu hoặc với một đầu khuyết dây khác đã được cố định một
đầu. Xoay vỏ tăng đơ, trục vít sẽ bị rút vào trong thân làm cho khoảng cách giữa hai đầu trục
vít thu ngắn và làm cho dây căng ra. Tăng đơ được ứng dụng rộng rãi trong công việc chằng
buộc hàng, chằng buộc các thiết bị trên tàu, giằng giữ các kết cấu đứng trên boong, điều
chỉnh độ dài các hệ thống treo, hệ thống truyền động.v.v.
c. Phân loại:
Tùy theo kết cấu có thể phân chia tăng đơ thành loại vỏ kín và vỏ hở hoặc loại một trục vít và
hai trục vít. Ngoài ra còn có các tăng đơ có cấu tạo đặc biệt thường sử dụng cho các hệ thống
truyền động.
5. Cọc bích (Bitt, Bollard)
Cọc bích (bích) có dạng hình trụ được làm bằng tôn cuốn có dạng hình trụ, bên trong có
xương gia cường. Các loại bích nhỏ thường được đúc bằng gang thành khối trụ. Một số bích
chính giữa thân có làm thêm các ngáng được gọi là bích có ngáng.
Cọc bích được sử dụng để cố định hay buộc dây buộc tàu. Bích thường được bố trí tập trung
tại mũi và lái tàu, ngoài ra để phục vụ cho tàu lai, tàu cập mạn hay các mục đích khác thì một
số lượng bích sẽ được bố trí đối xứng hai bên mạn tàu trên sàn boong dọc từ mũi đến lái.
Cọc bích được sử dụng trên tàu bao gồm các loại: Bích đơn (Ballard), bích đôi (Bitt), bích có
ngáng và không có ngáng.
Độ lớn của cọc bích trên tàu thường được lắp đặt phù hợp với độ lớn của tàu để đảm bảo lực
giữ dây cũng như cỡ dây sử dụng. Khả năng chịu lực của bích bố trí trên tàu tương đương 16
lần sức bền của dây sử dụng cho nó.
Công tác bảo dưỡng cọc bít phải được tiến hành thường xuyên như: kiểm tra các vết hàn
xuống boong, bề dày của bít, gỏ gỉ sạch, sơn phết để tránh cho dây khỏi bị đứt do gỉ sét.
6. Thiết bị tời dây (Winch, windlass)
Tời dây được sử dụng trên tàu với mục đích để kéo dây buộc tàu khi tàu ra vào cầu hoặc kéo
dây với các mục đích khác.
Tời dây trên tàu có 2 loại là tời trống đứng và tời ngang. Các tời được bố trí tại vị trí mũi và
lái tàu để phục vụ công tác làm dây (Tời dây bố trí tại mũi tàu thường kết hợp sử dụng cho
neo). Ngoài ra một số tời được bố trí tại các vị trí khác để phục vụ các công việc khác trên tàu
như đóng mở nắp hầm, nâng hạ thang v.v.
Việc sử dụng tời đòi hỏi phải có chuyên môn và chuyên trách để đảm bảo an toàn. Các quy
tắc an toàn khi sử dụng tời phải được áp dụng khi vận hành.
Mỗi lần vận hành, tời phải được thử tải, kiểm tra động lực. Các tời dây phải được định kỳ
kiểm tra tổng thể để phát hiện các hư hỏng. Công tác bảo quản, bảo dưỡng phải được tiến
hành thường xuyên đối với tất cả các bộ phận của tời. Thường xuyên tra dầu mỡ vào các bộ
phận chuyển động như trục bánh xe quấn lên, bộ li hợp, tay quay của phanh và tay gạt đảo
chiều.
7. Các thiết bị, dụng cụ khác
Chân chó (Crosby clip): Chân chó là dụng cụ được sử dụng để tạo khuyết cáp nhanh, nhất là
khi sử dụng khuyên đầu dây
Khuyên (Ring): Khuyên là các vòng thép được hàn cố định trên mặt boong, vách hầm, sàn
hầm, thân các kết cấu trên boong với mục đích làm điểm chằng buộc dây.
Mấu (Bolt): Là các kết cấu thép nhô ra ngoài kết cấu của thân vỏ tàu, các thiết bị trên boong
và có công dụng như khuyên.
Sừng bò (Cleat): Là kết cấu thép có dạng sừng bò, hàn trên be mạn hoặc trên các kết cấu trên
boong với mục đích cô chặt các đầu dây hoặc móc các khuyết đầu dây để cố định đầu dây.
Khuyên đầu dây (Thimble): Khuyên đầu dây được sử dụng để lót vào trong các khuyết dây
kim loại và dây sợi.
Các loại tấm tì dây (Chock or Rope fair-leader): Khi dây thay đổi hướng chạy theo yêu cầu
công việc, do kết cấu tàu, để tránh cho dây không tỳ lên các kết cấu có cạnh sắc và tránh cho
góc chuyển hướng quá lớn làm cho dây gấp quá nhiều làm hư hỏng kết cấu dây, người ta sử
dụng các tấm tì. Tùy theo yêu cầu và tính chất công việc của dây thay đổi qua vị trí sẽ trượt
trên tấm tì nhiều hay ít, góc gấp của dây lớn hay nhỏ mà người ta sử dụng các tấm tì dây khác
nhau.
Phải thường xuyên kiểm để đảm bảo các các thiết bị, dụng cụ sử dụng chung với dây để phát
hiện các hư hỏng, gỉ sét và có biện pháp xử lý kịp thời.
8. Các dụng cụ phục vụ làm dây, đấu dây
Búa: Búa được sử dụng khi làm việc với dây kim loại nhất là khi đấu dây. Búa có thể dùng để
vỗ dây vào khuyết, vỗ tròn mối đấu, đóng dùi vào thân dây.
Vồ: Vồ thường được làm bằng gỗ và sử dụng cho dây sợi. Vồ cũng được sử dụng nhiều trong
công tác đấu dây với mục đích chính là vỗ mối đấu.
Dùi sắt: Dùi sắt được sử dụng cho dây kim loại với mục đích tạo lỗ xuyên qua các tao dây
trong quá trình đấu dây. Trên thân dùi dọc theo thân thường khoét rãnh để tạo khe cho các tao
dây.
Dùi gỗ: Dùi gỗ được sử dụng cho dây sợi với mục đích tạo lỗ xuyên qua các tao dây trong
quá trình đấu dây.
Kìm, đục, máy cắt cáp: Kìm, đục và máy cắt cáp được sử dụng để cắt dây kim loại. Đục
được sử dụng để chặt dây kim loại cùng với búa. Một cách cắt cáp khác nhanh chóng và hiệu
quả hơn là máy cắt cáp. Máy cắt cáp được sử dụng để cắt nguyên cả tao hoặc cả dây bằng dao
piston thủy lực. Kìm cắt thường chỉ đủ khả năng cắt các sợi cáp nhỏ, các tao dây cỡ nhỏ và
chỉ cắt được các sợi kim loại chế tạo dây đối với các dây lớn.
Bàn kẹp: Bàn kẹp được sử dụng để cố định khuyết dây trong quá trình đấu khuyết dây kim
loại có sử dụng khuyên đầu dây.
Các dụng cụ làm dây, đấu dây cần được vệ sinh mỗi lần sử dụng để đảm bảo không có bụi
hay chất bẩn nào bám vào Cũng có thể sử dụng dầu bôi trơn chuyên dụng để bảo vệ, việc này
cần thiết nếu dụng cụ không được sử dụng thường xuyên, hoặc trước khi lưu kho. Để nơi khô
ráo thoáng mát, độ ẩm thấp, che chắn bụi bẩn để tránh gỉ sét.
2.3 THANG HOA TIÊU
- Thang dây hoa tiêu có tên thường gọi là thang hoa tiêu hoặc thang dây.
- Nguồn gốc tên gọi: được sử dụng cho hoa tiêu lên dẫn tàu rời cảng và xuống xuồng đón trên
biển để quay vào bờ.
- Thang dùng để lên xuống tàu hoặc kết cấu dạng tàu, dàn khoan.
* Các quy định:
- Trong việc đưa, đón Hoa tiêu phải được tuân thủ theo các quy định, tuy vậy một số tai nạn
vẫn xảy ra.
- Công ước IMO, SOLAS liên tục được sửa đổi, bổ sung nhằm an toàn tàu, các yêu cầu cần
thiết để duy trì môi trường làm việc an toàn cho hoa tiêu trong các hoạt động lên, xuống tàu,
tránh mọi rủi ro cho tính mạng của họ.
- Theo Solas Chapter V – Regulation 23: ”3.3.1 Cầu thang hoa tiêu yêu cầu leo lên không
dưới 1,5 m và không cao hơn 9 mét so với mặt nước, đảm bảo rằng: không có bất kỳ sự xả
thải nào từ con tàu. Cầu thang nằm càng xa càng tốt, trong phạm vi nửa chiều dài của con
tàu".
- Lần sửa đổi gần đây nhất đối với SOLAS đã có hiệu lực vào tháng 7 năm 2015, yêu cầu bố
trí thêm cầu thang kết hợp được gắn vào thân tàu đối với các tàu có mạn khô (freeboard) từ 9
mét trở lên. Sơn cờ Hoa tiêu màu trắng trên mạn tàu, ranh giới giữa các màu là đánh dấu 9
mét của mạn khô, nếu có màu sơn đỏ, mạn khô quá 9 mét phải sử dụng thang kết hợp.
- Thuyền viên tham gia công tác hạ và thu cầu thang Hoa tiêu, phải ra ngoài mạn tàu làm việc
như tháo các thiết bị trên cầu thang hỗ trợ (gangway) hoặc sau khi lắp đặt cầu thang, dùng
trọng lượng cơ thể đứng lên, nhún để kiểm tra mức độ chắc chắn. Những thuyền viên này bắt
buộc phải mặc áo phao cá nhân (Life jacket) để đảm bảo an toàn.
* Thang được thiết kế theo tiêu chuẩn sử dụng trong hàng hải, dầu khí. cụ thể quy định tại
SOLAS 74. Các loại cơ bản như bảng dưới đây:
1. Khoảng cách bậc, quy cách bậc gỗ thông hoặc các loại gỗ có độ bền cao khi chịu thời tiết
khắc nghiệt và nước biển: 330 ± 20mm
2. Số bậc chống lật (theo bảng trên), bằng gỗ Thông hoặc các loại gỗ có độ bền cao khi chịu
thời tiết khắc nghiệt và nước biển (bậc dài).
Quy cách: Chiều dài 1.800mm; Bề rộng 115mm; Độ dày bậc: 30mm
3. Số bậc chống trượt -bằng cao su có rãnh: Theo bảng trên
Quy cách: Dài 525mm; Bản rộng 115mm; Độ dày bậc: 30mm
4. Quy cách bậc gỗ: Dài 525mm; Bản rộng 115mm; Độ dày bậc: 30mm
5. Chiều dài tổng cộng thang hoa tiêu dựa theo bảng trên.
6. Dây Manila đường kính 20mm hoặc 22mm được sử dụng để kết nối các bậc với nhau, dây
manila được kết nối đôi trên một đường. Mặt trên và mặt dưới bậc gỗ được cố định dây bằng
chốt nhựa cứng chắc để tránh dây bị cứa đứt trong quá trình sử dụng. Dây manila là loại đây
được sản xuất từ xơ dừa, chịu được thời tiết khắc nghiệt, chịu được nước biển, tuổi thọ sử
dụng lâu, không bị mối mọt.
Câu hỏi 1: Nêu các phương pháp bảo quản dây?
- Dây không dùng nếu để trên mặt boong phải phủ kín bằng bạt nhựa thích hợp để tránh các
hư hỏng do thời tiết, do ánh nắng mặt trời.
- Không được để cho đầu dây bị xổ, nên bọc các đầu dây.
- Không để dây sợi phơi trần dưới ánh mặt trời.
- Không cất giữ dây tại khu vực có ảnh hưởng của hoá chất, khói, nhiệt độ cao, tia lửa điệ
- Cần phải lưu ý không để dây tiếp xúc với cồn, chất tẩy rỉ sắt, sơn ướt, nhựa đường,
Xylene...và các chất tương tự.
- Không nên cất giữ dây gần các đường ống của nồi hơi. Dây sợi phải được cuộn theo đúng
chiều và đặt trên giá gỗ hay treo trong kho có điều kiện thông gió tốt và khô ráo.
Câu hỏi 2: Hãy nêu cách kiểm tra ròng rọc trước khi sử dụng?
Khi nhận ròng rọc mới hoặc đưa ròng rọc vào sử dụng phải kiểm tra các thông số của ròng
rọc để sử dụng có hiệu quả và an toàn. Các thông số phải kiểm tra bao gồm:
Tải trọng: Tải trọng được ghi trong giấy chứng nhận đi kèm với ròng rọc và được ghi trên
ròng rọc. Việc kiểm tra tải trọng có thể xác định tải trọng làm việc an toàn của ròng rọc.
Kích thước ròng rọc: Kích thước ròng rọc được cho trong hồ sơ đính kèm hoặc kiểm tra trực
tiếp. Với các ròng rọc khi đưa vào sử dụng phải lưu ý kiểm tra để đảm bảo rằng loại và cỡ
dây sử dụng phù hợp với ròng rọc. Độ lớn của ròng rọc quyết định cỡ dây sử dụng phù hợp,
đảm bảo độ bền và an toàn khi làm việc cho cả ròng rọc và cả cho dây được sử dụng. Đối với
ròng rọc vỏ gỗ hoặc chất dẻo, độ lớn được tính bằng chiều dài vỏ (L). Với ròng rọc vỏ thép,
biểu thị bằng đường kính con lăn (D). Từ độ lớn ròng rọc có thể tính được cỡ dây sử dụng
tương ứng cho ròng rọc như sau:
Với ròng rọc vỏ gỗ, cỡ dây tính bằng chu vi dây (C), được tính bằng công thức:
C ≤ 1,8L
Với ròng rọc vỏ thép dùng cho dây kim loại, cỡ dây tính bằng đường kính d, nếu hoạt động
với cường độ thấp hoặc ít hoạt động:
d ≤ 7,5D
Với ròng rọc hoạt động liên tục:
d ≤ 13D
Ngoài ra khi đưa ròng rọc vào sử dụng phải kiểm tra toàn bộ thân vỏ, đai, quai treo, chốt giữ
dây, móc treo trọng vật.v.v.
Câu hỏi 3: Khi sử dụng thang hoa tiêu thì đâu là những điều cần lưu ý?
• Thang dây hoa tiêu phải đủ độ dài từ nơi thả thang cho đến mặt nước. Độ cao trên mặt nước
thực hiện theo yêu cầu của cảng vu địa phương hoặc của bản thân hoa tiêu tùy theo chiều cao
của tàu hoa tiêu..
• Các bậc thang phải sạch sẽ, các bậc thang chống quay phải đủ dài. Tại thang hoa tiêu phải
bố trí một phao tròn cứu sinh có đèn tự kích sáng và một dây ném.
• Phía trên boong, đầu của thang hoa tiêu phải được buộc vào một điểm chắc chắn của tàu tại
vị trí ở trong khoảng song song của hai mạn tàu, tốt nhất là ở gần giữa tàu.
• Tất cả các bậc của thang hoa tiêu phải tựa sát vào mạn tàu. Trên một vài tàu có những kết
cầu đặc biệt như đệm va gây trở ngại cho thang hoa tiêu, thì phải có cách bố trí sao cho hoa
tiêu lên xuống đảm bảo an toàn.
• Trường hợp mạn tàu cao lớn hơn 9 mét thì ngoài thang hoa tiêu phải sử dụng thêm cầu
thang phối hợp. Cầu thang phối hợp dùng để kết nối thang hoa tiêu và cầu thang sinh hoạt sử
dụng cho tàu có mạn khô cao.
• Chất lượng dây thừng của thang hoa tiêu phải được thường xuyên kiểm tra, đặc biệt là các
đầu bện bậc thang. Không được sơn các bước bậc thang và phải giữ sạch sẽ, không để dính
dầu mỡ.
• Đảm bảo các bậc thang phải song song theo chiều ngang và khoảng cách giữa các bậc phải
cùng kích thước. Các bậc bị lỗi phải được thay thế...
Câu hỏi 4: Tấm tì dây có cần thiết cho tàu hay không? Tại sao có/ tại sao không?
Cần sử dụng các tấm tì dây vì khi dây thay đổi hướng chạy theo yêu cầu công việc, do kết cấu
tàu, để tránh cho dây không tỳ lên các kết cấu có cạnh sắc và tránh cho góc chuyển hướng
quá lớn làm cho dây gấp quá nhiều làm hư hỏng kết cấu dây, người ta phải sử dụng các tấm
tì. Tùy theo yêu cầu và tính chất công việc của dây thay đổi qua vị trí sẽ trượt trên tấm tì
nhiều hay ít, góc gấp của dây lớn hay nhỏ mà người ta sử dụng các tấm tì dây khác nhau.
Nắp hầm hàng dạng thép cuộn trên boong tàu (side – rolling hatch covers):
nắp hầm hàng này được sử dụng phổ biến trên các tàu hàng rời lớn, chẳng hạn như Panamax
và các loại tàu Capesize. Chúng bao gồm hai tấm trên mỗi hầm hàng, với mỗi cuộn đi ngang
trên một cặp dốc ngang. Điều này giảm thiểu các chướng ngại vật gây khó khăn cho cần cẩu
bờ hoặc nhà điều hành thiết bị xếp dỡ hàng khi trong quá trình xếp dỡ
Nắp hầm hàng dạng trược (Sliding hatch cover): Nắp hầm hàng dạng trượt là loại
nắp hầm thường thấy ở phần boong dưới (tween deck) của tàu chở hàng đông lạnh, tàu
chở hàng khô (conventional general cargo ship) và tàu chở container. Loại nắp hầm này
bao gồm một số tấm bằng kim loại (gọi là pa-nen) được trượt và xếp chồng lên nhau.
Với nh ng miệng hầm rộng, có thể có 2 bộ pa-nen trượt về hai phía của miệng hầm khi
mở nắp hầm.
Nắp hầm hàng dạng rời: Nắp hầm hàng dạng rời thường được sử dụng trên các tàu
container và tàu đa năng để tạo điều kiện cho các hoạt động xử lý hàng hóa nhanh chóng và
linh hoạt. Tấm nâng, được xử lý với một máy rải bằng cách sử dụng cần cẩu container
Shoreside hoặc cần cẩu của tàu. Những tấm nắp hầm hàng có thể được xếp chồng lên nhau
trên cầu tàu hoặc trên boong tàu.
3.4.5 Hệ thống hầm hàng:
3.4.5.1 Hệ thống thoát nước trong hầm hàng.
Hệ thống thoát nước là một trong nh ng biện pháp quan trọng để ngăn nước xâm nhập
vào hầm hàng. Nước sẽ chảy vào các kênh, rãnh và được tống ra ngoài thông qua ống thoát
nước. Kiểm tra thường xuyên và bảo trì các kênh và đường ống thoát nước là cần thiết để
chúng có thể hoạt động hiệu quả.
Trong giai đoạn thiết kế cần xem xét công suất của các kênh thoát nước và thiệt hại
cho coaming và mối nối chéo các kênh thoát nước cần được sửa chữa. Bảo trì thích hợp nên
bao gồm việc làm sạch thường xuyên các kênh thoát nước (cũng như các lỗ thoát nước, ống
thoát nước và van thoát nước), đặc biệt là sau khi hoàn thành các hoạt động vận chuyển hàng
hóa khi hàng hóa rơi vãi có thể đã t ch tụ trong các kênh thoát nước và đường ống thoát
nước.
Để ngăn chặn các đường ống thoát nước và van từ bị tắc nghẽn bởi các mảnh vụn
hàng hóa trong quá trình tải hoặc dỡ hàng, một số phi hành đoàn đặt nút chốt trong lỗ thoát
nước ở coaming, và các nút được rút ra khi các hoạt xếp dỡ hoàng thành và trước khi đi biển.
Cuối cùng, để giữ khí chữa cháy (CO2) ở trong hoặc ngăn không cho không khí bên ngoài
xâm nhập trong trường hợp cháy hầm hàng, van xả phải được lắp với cái gọi là “nắp chống
cháy”, cho phép đóng các cống thoát nước. Ngoài ra, trong trường hợp khử trùng, nh ng nắp
này phải được lắp để bịt kín khoang hàng hóa.
3.4.5.2 Hệ thống phòng cháy chữa cháy hầm hàng.
Hầm hàng khô: Kho chứa hàng hóa thông thường, đã được bảo vệ chống cháy bằng
các hệ thống lắp đặt cố định cung cấp khí trơ từ máy phát khí trơ dựa trên quá trình đốt cháy
nhiên liệu (tương tự như hệ thống có sẵn cho tàu chở dầu trơ) và hệ thống halon. Hệ thống
chữa cháy chính bằng nước biển cũng được thiết kế để sử dụng trong những không gian như
vậy nếu cần thiết. Các đầu phát hiện cháy như mô tả cho phòng máy cũng đã được sử
dụng. Tuy nhiên, kiểu cài đặt được mô tả bên dưới thường được sử dụng. Nó cung cấp khả
năng phát hiện và các phương tiện để dập tắt đám cháy.
Hệ thống dập tắt đám cháy bằng khí CO2 và phát hiện khói
Việc lắp đặt chữa cháy CO2 cho các hầm hàng thường kết hợp hệ thống lấy mẫu khói để đám
cháy có thể được phát hiện ở giai đoạn đầu tại trong hệ thống phát hiện khói, được đặt trong
khoang lái. Mỗi khoang hàng được kết nối riêng với hệ thống phát hiện khói bằng một ống
khoan nhỏ, qua đó một mẫu không khí liên tục trong mỗi khoang hàng được quạt của máy
phát hiện khói hút liên tục.
Một chiếc van ba ngã được lắp trên mỗi đường ống bên dưới hệ thống báo khói. Điều
này thường được đặt để đường ống giữa không gian chứa hàng khô và hệ thống phát hiện
khói được mở. Khi phát hiện có khói, van cho không gian cụ thể được vận hành để cách ly hệ
thống phát hiện khói với không gian đó và mở đường ống dẫn đến bình ắc quy xylanh CO2,
sẵn sàng xả khí vào khoang chứa hàng đang cháy. Hệ thống ống phát hiện khói cũng được sử
dụng để dập lửa.
CO2 được lưu trữ ở dạng hóa lỏng trong các bình thép rắn 45 kg dưới áp suất, hoặc ở
nhiệt độ thấp và áp suất vừa phải trong các bồn chứa số lượng lớn. Trong các hệ thống được
thiết kế cho hầm hàng và bảo vệ không gian máy móc, các xi lanh sẽ được bố trí để xả toàn
bộ theo nhóm vào không gian máy móc và xả giới hạn của một hoặc nhiều xi lanh (thường
bằng cách nhả thủ công) vào các hầm hàng riêng lẻ, tùy thuộc vào mức độ của từng khoảng
trống. Hướng dẫn về số lượng xi lanh sẽ được giải phóng cho mỗi khoang chứa hàng sẽ được
hiển thị tại trạm kiểm soát.
3.5 HỆ THỐNG THÔNG GIÓ
3.5.1 VAI TRÒ VÀ CÁC DẠNG THÔNG GIÓ
MỤC ĐÍCH VÀ VAI TRÒ
Hệ thống thông gió dùng để thải nhiệt dư thừa, hơi ẩm và các khí có hại khỏi các khoang của
tàu bằng cách đẩy không khí tươi ở bên ngoài vào và thải khi bẩn ra ngoài.
Hệ thống thông gió trên tàu đảm bảo cho không khí trong buồng máy cũng như các khoang
khác của tàu được sạch sẽ, nhiệt độ luôn ở mức ổn định, các khoang luôn thoáng khí đảm
bảo tốt cho sinh hoạt và sức khỏe của các thuyền viên.
3.5.2 PHƯƠNG PHÁP THÔNG GIÓ
Theo nguyên tắc hoạt động hệ thống thông gió bao gồm: thông gió tự nhiên và thông gió
cưỡng bức (nhân tạo). Trong các khoang riêng biệt có thể sử dụng đồng thời thông gió tự
nhiên và nhân tạo, được gọi là thông gió hỗn hợp.
Ở thông gió tự nhiên sự thay đổi không khí trong buồng được thực hiện bằng cách tự nhiên
do chênh lệch trọng lượng riêng của không khí nóng và lạnh hoặc do năng lượng động học
của dòng không khí bao quanh con tàu, còn ở thông gió nhân tạo - nhờ các quạt gió.
Vì các quạt gió khi làm việc gây ổn, nên chúng không được đặt ở các phòng ở và phục vụ.
Khi đặt chúng ở các hành lang người ta thiết kế các rào cách âm đặc biệt. Các quạt gió
thường được đặt trên các giảm xóc và nổi với các đường dẫn bằng các vòng bít mềm.
NHIỆM VỤ
Thông gió cho các khoang ở trên tàu, nơi có các thiết bị hoạt động và con người làm việc và
sinh hoạt.
Đặc biệt đối với buồng máy thì phải:
+ Thông gió cho khu vực điều khiển các trang thiết bị động lực.
+ Thông gió cho khu vực đặt các trạm phát điện, bảng phân phối điện.
+ Thông gió cho khu vực nồi hơi.
3.5.3 CÁC KIỂU THÔNG GIÓ
Không phụ thuộc vào nguyên tắc hoạt động, thông gió tự nhiên hay cưỡng bức, thông gió có
3 kiểu: thổi vào, hút ra và thổi vào - hút ra (hỗn hợp).
- Nhờ có thông gió thổi vào, không khí tươi được đưa vào buồng và tạo ra cột áp nào đó, nhờ
nó mà không khí đã bị bẩn đi ra khỏi phòng
- Ở thông gió hút ra, diễn ra quá trình ngược lại không khí bị bẩn được hút ra nhờ hệ thống
thông gió và ở trong buồng tạo ra sự loãng không khí, nhờ nó mà không khí sạch vào buồng
Thông gió thổi vào - hút ra (hỗn hợp) là kết hợp của hai loại trên. Nó được sử dụng ở nhiều
buồng trên tàu với mục đích tạo ra sự thay đổi không khí mạnh hơn
Trong thông gió tự nhiên, để thực hiện nạp vào, người ta dùng chụp quay nạp vào cỏ ba mặt
(hình 8.1, a), còn để hút ra - sử dụng chụp quay hình tròn XA- GI (hình 8.1, b). Sự làm việc
của các chụp quay này không phụ thuộc vào hướng gió. Ngoài ra, trong thông gió tự nhiên
còn dùng mặt khỉ hứng gió - để hút gió vào và ống gió đẩy na-val - để hút gió ra cũng như
các cửa sổ, cửa trần, vv.
Để cho các đầu của các chụp quay tự do thoát gió (cho gió chảy qua tự do), chúng được đặt ở
độ cao 0,6 = 0,8 m cao hơn các kiến trúc bên cạnh của thượng tầng
3.5.4 CÁC NHÓM THÔNG GIÓ TRÊN TÀU
Hệ thống thông gió, tuỳ thuộc vào buồng mà nó phục vụ, có thể được phân thành các nhóm
sau.
Thông gió chung toàn tàu, phục vụ các buồng ở nhà bếp, nhà tắm, giặt, v.v.
Thông gió buồng máy
Thông gió các buồng máy lạnh
Thông gió buồng bơm của tàu dầu
Thông gió buồng ác qui
Hệ thống thông gió được thực hiện theo nguyên tắc độc lập hoặc phân nhóm Nguyên tắc
phân nhóm được dùng cho các buông có cùng các thông số của không khi và đặc điểm sự toả
(phát tán) các chất độc hại. Nguyên tắc độc lập được dùng để thông gió các buồng thể tích
lớn (các hầm hàng buồng máy, các buồng sản xuất, phòng chiếu phim vv.) cũng như các
phòng như ắc qui hút thuốc, buồng các bơm hàng trên tàu dầu, phòng cách ly, y tế v.v.
3.5.5 CÁC THIẾT BỊ THÔNG GIÓ
-Các hệ thống ống: dẫn không khí đến và ra các phòng, buồng, khoang…
-Chụp quay nạp vào có 3 mặt
-Chụp quang hình tròn XA-GI
-Mặt khỉ hứng gió - để hút gió vào
-Mặt khỉ hứng gió - để hút gió ra
3.5.6 THÔNG GIÓ CHUNG CHO TÀU
Sơ đồ nguyên lý của hệ thống thông gió toàn tàu
Thông gió chung toàn tàu được trang bị cho các phòng ở, buồng phục vụ và sinh hoạt. Thông
gió các buồng trên tàu thường thực hiện theo sơ đồ sau cấp không khí vào buồng lối ra của nó
qua các lưới cửa vào các hành lang từ hành lang qua các lưới cửa vào các hệ thống vệ sinh và
buồng tăm, từ buồng tắm và hệ thống vệ sinh ra ngoài (thông gió nhân tạo).
Không khí vào các buồng được phục vụ theo các kênh, chúng kết thúc bằng thiết bị phân phối
khí bảo đảm việc phân tán đòng và cho phép thay đổi hướng chuyền động của nó. Thiết bị
phân phối không khí, điều chính hướng và cường độ dòng không khí Sự lắp đặt chúng trong
các phòng được cho phép ở trên trần cũng như trên các vách ngang trên các giường ở đầu
giường hay ở dưới chân. Để thai các khi ra khỏi các buông có các lưới ở các cửa và trên
tường
Chỗ để hút khí nạp được người ta chọn ở vùng nó bị bẩn ít nhất do các sản vật thông gió và
sản xuất ở xung quanh (ống khói các chụp quay ở ống khhói v.v.). Trong trường hợp hút
không khí từ vùng bị bẩn (ví dụ bụi khi xếp dỡ hàng hoá khí và mùi khi bơm chuyển hàng là
các sản phẩm dầu), trong hệ thống người ta lắp phin lọc vệ sinh chống bụi và phim hấp thụ
các khí có hại.
3.5.7 THÔNG GIÓ BUỒNG MÁY
SƠ ĐỒ NGUYÊN LÝ THÔNG GIÓ TỰ NHIÊN BUỒNG MÁY
Sơ đồ thông gió tự nhiên buồng máy
1: các màng chắn xẻ lỗ để làm lối ra cho không khí
2: lỗ ánh sáng -3: bình phong( tấm chắn)
Trong buồng máy, người ta thiết kế hệ thống thông gió có tổ chức cho toàn thể tích của nó.
Gió nạp vào thường được thực hiện cưỡng bức, còn hút ra - tự nhiên. Trên các tàu nhỏ, không
phải trực thường xuyên trong buồng máy, có thể thông gió kiểu nạp vào - hút ra tự nhiên có
tổ chức, hơn nữa thiết bị nạp chủ yếu trong trường hợp này là của lấy ánh sáng, còn thiết bị
bổ sung - các chụp quay nạp vào.
Khi thông gió tự nhiên buồng máy không khí sạch đi vào trong nó qua cửa lấy ánh sáng.
Không khí không phải chi phí cho quá trình cháy thải ra qua vỏ của các đường ống thai có
tấm chắn xe lỗ. Như thấy trên hình vẽ nồi hơi khí thải được che bằng bình phong (tấm chắn,
nhờ nó mà giảm lượng nhiệt cho nó tỏa ra vào buồng máy. Nếu nồi hơi được đặt trực tiếp
trong vỏ ống (thông gió) hút, thì sự cần thiết của bình phong mất tác dụng. Hưởng chuyển
động của không khi thông gió trong buồng máy trên hình vẽ được chỉ bằng mũi tên.
SƠ ĐỒ THÔNG GIÓ HỔN HỢP CHO BUỒNG MÁY
1: kênh nộp vào ngăn máy phát diessel; 2 và 3: các quạt gió
4: lỗ thông gió trên ống khói giả; 5: quạt ly tâm thổi vào ; 6: lưới thông gió nạp vào
-Theo sơ đồ hỗn hợp người ta thực hiện thông gió buồng máy của tàu. Sự chảy vào của không
khí vào trong nó được bảo đảm nhờ lưới thông gió và quạt ly tâm thổi vào. Sự hút không khí
ra khỏi buồng máy diễn ra nhờ quạt hướng trục và bằng cách tự nhiên qua ống khói giả có
các lỗ thông gió. Các máy phát diessell được đặt ở ngăn riêng mà không khí vào đó qua các
đường dẫn nạp. Để hút không khí ra khỏi khoang máy phát diessell có quạt gió hướng trục.
-Cấp phát không khí nạp vào, đã được cấp nhờ thông gió nhân tạo (cơ khi), được thực hiện
nhờ các thiết bị phân chia không khí quay, cho phép thay đổi hướng của dòng khí, đi đến khu
vực làm việc ở giai đoạn nóng để thổi gió và tránh nó đi ở thời kỳ lạnh của quá trình hành
hai. Kết cấu của thiết bị phân chia khí rất khác nhau
-Không khí không phải chi phí cho sự cháy, được thải từ buồng máy ra một cách tập trung
qua ống thông gió của đường ống xả và vỏ (ống khói giả). Khi không có khả năng, vì lý do vẻ
kết cấu, bảo đảm trong ống và vỏ thiết diện thông gió cần thiết, vì mục đích trên người ta đặt
quạt gió hút.
3.6 HỆ THỐNG ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ
MỤC ĐÍCH, VAI TRÒ
Điều hòa không khí là xử lý lại không khí, bao gồm lọc sạch bụi và các khí có hại,
đưa nhiệt độ và độ ẩm tới trị số xác định cho trước trong khi vẫn bảo đảm tốc độ chuyển động
yêu cầu trong các buồng được nó phục vụ.
NHIỆM VỤ
Điều hòa không khí cho các buồng, các khoang của tàu, đặc biệt là những khu vực
con người làm việc và sinh hoạt.
Các thiết bị điều hòa vào những tháng hành hải nóng thì làm mát và làm khô không
khí, còn những tháng lạnh thì sưởi và làm ẩm cho nó.
PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ
Dùng các máy móc và các thiết bị điều hòa không khí như: phin lọc, thiệt bị làm lạnh không
khí, thiết bị sấy không khí, thiết bị làm ẩm và thiết bị khử.
PHÂN LOẠI CÁC HỆ THỐNG ĐIỀU HÒA KHÔNG KHÍ
+ Theo chức năng – gồm hệ thống điều hòa tiện nghi và kỹ thuật. Điều hòa tiện nghi dùng
cho các buồng ở và buồng phục vụ. Điều hòa kỹ thuật dùng trên tàu để chống ngưng tụ hơi
nước trên hành lang khi thông gió hầm hàng bằng không khí nóng và ẩm. Ngưng tụ hơi nước
đặc biệt hay gặp ở các điều kiện hoạt động, khi tàu di chuyển từ vùng biển lạnh đến vùng
biển ấm.
+ Theo vai trò thực hiện – gồm các hệ thống mùa hè, mùa đông và quanh năm. Các hệ thống
mùa hè làm mát và làm khô không khí, mùa đông thì sưởi ấm và làm ẩm nó. Các hệ thống
quanh năm bảo đảm điều hòa cả mùa hè và mùa đông.
+ Theo vị trí tạo ra nóng(lạnh) và xử lý không khí – gồm các hệ thống tập trung, hỗn hợp(tại
chỗ-tập trung) và độc lập.
+ Theo số lượng ống không khí có trong mỗi buồng được làm lạnh – chia thành các hệ thống
một và hai đường ống.
+ Theo tốc độ chuyển động của các không khí trong các đường ống – gồm hệ thống tốc độ
thấp, tốc độ trung bình và tốc độ cao.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Việc giám định hầm hàng có cần thiết hay không? Tại sao?
Giám định hầm hàng là 1 hành động vô cùng cần thiết.
Hàng hoá, sản phẩm vận tải từ nơi này đến nơi khác phải được bảo vệ tránh nhiểm
bẩn từ những nguồn khác nhau. Một số hàng hoá khô rất nhạy cảm với độ ẩm, một số hàng
hoá bị tấn công từ sâu bọ, côn trùng và một số rủi ro từ phân huỷ nếu thiết bị chứa không đủ
điều kiện.
Hầu hết hàng hoá ở trạng thái lỏng dễ bị nhiểm bẩn từ tác động bên ngoài, nhiệt độ
không phù hợp và sự cố phản ứng của hoá chất độc hại giữa các hàng hoá với nhau hoặc với
vật chất khác. Vì vậy, việc giám định giúp phòng ngừa và tránh những nguy cơ tiềm ẩn phát
sinh tránh tổn thất và mất mát trong quá trình làm hàng.
2. Trình bày vai trò của hệ thống thông gió? Từ đó hãy nêu ra các phương pháp
thông gió trên tàu?
Hệ thống thông gió dùng để thải nhiệt dư thừa, hơi ẩm và các khí có hại khỏi các
khoang của tàu bằng cách đẩy không khí tươi ở bên ngoài vào và thải khi bẩn ra ngoài.
Hệ thống thông gió trên tàu đảm bảo cho không khí trong buồng máy cũng như các
khoang khác của tàu được sạch sẽ, nhiệt độ luôn ở mức ổn định, các khoang luôn thoáng khí
đảm bảo tốt cho sinh hoạt và sức khỏe của các thuyền viên.
Theo nguyên tắc hoạt động hệ thống thông gió bao gồm: thông gió tự nhiên và thông
gió cưỡng bức (nhân tạo). Trong các khoang riêng biệt có thể sử dụng đồng thời thông gió tự
nhiên và nhân tạo, được gọi là thông gió hỗn hợp.
3. Người ta thường sẽ thông gió cho hầm hàng để tránh ẩm thấp gây ảnh hưởng
xấu tới hàng hóa. Trình bày những qui tắc được áp dụng trong việc thông gió
cho hầm hàng là gì?
Qui tắc Nhiệt Độ Điểm Sương:
Thông gió khi nhiệt độ điểm sương trong hầm hàng cao hơn nhiệt độ điểm sương
ngoài hầm hàng
Không thông gió khi nhiệt độ điểm sương trong hầm hàng thấp hơn nhiệt độ điểm
sương ngoài hầm hàng
Qui tắc 3 độ C:
Trường hợp không thể xác định chính xác nhiệt độ điểm sương hầm hàng, người ta dựa vào
nhiệt độ trung bình của hầm hàng ở thời điểm xếp hàng và áp dụng qui tắc 3 độ C như sau:
Thông gió khi nhiệt độ không khí bên ngoài hầm hàng thấp hơn nhiệt độ trung bình
của hầm hàng khi xếp hàng, tối thiểu là 3 độ C
Không thông gió hầm hàng khi nhiệt độ bên ngoài hầm không thấp hơn nhiệt độ trung
bình của hầm hàng khi xếp hàng, tối thiểu 3 độ C
4. Hãy phân loại các hệ thống điều hòa không khí có thể có trên tàu?
Theo chức năng – gồm hệ thống điều hòa tiện nghi và kỹ thuật. Điều hòa tiện nghi
dùng cho các buồng ở và buồng phục vụ. Điều hòa kỹ thuật dùng trên tàu để chống ngưng tụ
hơi nước trên hành lang khi thông gió hầm hàng bằng không khí nóng và ẩm. Ngưng tụ hơi
nước đặc biệt hay gặp ở các điều kiện hoạt động, khi tàu di chuyển từ vùng biển lạnh đến
vùng biển ấm.
Theo vai trò thực hiện – gồm các hệ thống mùa hè, mùa đông và quanh năm. Các hệ
thống mùa hè làm mát và làm khô không khí, mùa đông thì sưởi ấm và làm ẩm nó. Các hệ
thống quanh năm bảo đảm điều hòa cả mùa hè và mùa đông.
Theo vị trí tạo ra nóng(lạnh) và xử lý không khí – gồm các hệ thống tập trung, hỗn
hợp(tại chỗ-tập trung) và độc lập.
Theo số lượng ống không khí có trong mỗi buồng được làm lạnh – chia thành các hệ
thống một và hai đường ống.
Theo tốc độ chuyển động của các không khí trong các đường ống – gồm hệ thống tốc
độ thấp, tốc độ trung bình và tốc độ cao.
5. Nguyên lý của hệ thống thông gió toàn tàu?
Thông gió các buồng trên tàu thường thực hiện theo sơ đồ sau cấp không khí vào
buồng lối ra của nó qua các lưới cửa vào các hành lang từ hành lang qua các lưới cửa vào các
hệ thống vệ sinh và buồng tăm, từ buồng tắm và hệ thống vệ sinh ra ngoài (thông gió nhân
tạo).
Không khí vào các buồng được phục vụ theo các kênh, chúng kết thúc bằng thiết bị
phân phối khí bảo đảm việc phân tán và cho phép thay đổi hướng chuyền động của nó bằng
thiết bị phân phối không khí, điều chính hướng và cường độ dòng không khí. Chúng được lắp
đặt trong các phòng ở trên trần cũng như trên các vách ngăn, trên các giường ở đầu giường
hay ở dưới chân.
ón cẩu để nâng và hạ hàng.
Thiết bị phát đáp Radar tìm kiếm cứu nạn hoạt động trên dải tần của Radar là 9GHz, hoạt
động đúng nếu được khởi động bằng Radar của một tàu khác có khoảng cách ít nhất 5 hải lý.
Trong trường hợp thu được tín hiệu phát đi từ Radar của tàu, nó sẽ tự động phát đáp để tạo
thành chỉ báo đặc biệt trên màn hình Radar giúp cho tàu biết và tìm được người bị nạn dễ
dàng. Khi thu được tín hiệu từ SART, Radar của phương tiện cứu nạn sẽ hiển thị 12 chấm
nhỏ trên màn hình radar, hướng từ vị trí của SART dọc theo phương vị radar. Khi tàu đến gần
SART cách khoảng 1 hải lý thì các chấm trở thành các cung tròn và trở thành các vòng tròn
đồng tâm khi tàu cứu hộ đến gần hơn.
1.5 Thiết bị AIS (Automatic Identification System - Hệ thống nhận dạng tự động)
Là một hế thống thông tin liên lạc trợ giúp hàng hải, cho phép các tàu trao đổi những thông
tin về nhận dạng vị trí, hướng, tốc độ với nhau hoặc trao đổi với các trạm trên bờ. Những
thông tin này giúp các phương tiện khi hành hải tránh bị va chạm với nhau, ngoài ra có thể
trao đổi các thông tin như trợ giúp khi có sự cố, thông tin thời tiết,....
Máy lái thủy lực (kiểu tay) là loại máy lái “sự cố”, cấu tạo của nó chia làm hai phần chính:
Phần cơ khí Phần thủy lực
+ Bộ đế xi lanh lái + 2 xylanh lái tàu
+ Bộ đế bơm lái + 1 bơm lái
+ Vô lăng lái thủy lực + Van an toàn
+ Chốt + Bộ chỉnh áp lái
+ Thùng dầu chứa dầu thủy lực + Lọc dầu
+ Bộ bọc pót lái + Đồng hồ đo áp suất thủy lực
+ Secto + Pót lái
+ Hộp điều khiển + Ống dẫn dầu
+ Bộ bọc đồng hồ đo góc lái + Dầu thủy lực
-Ngoài ra còn có phần điện tử với các thiết bị: đồng hồ đo góc lái, sensoir góc lái.
-Nguyên lý làm việc hệ thống lái trợ lực thủy lực hoạt động đơn giản và ổn định. Khi thùng
chứa dầu đủ sẽ cung cấp lượng dầu cần thiết cho máy bơm hoạt động và bơm lái sẽ kết nối với
van phân phối thông qua các đường ống cấp dầu áp suất cao và được lắp đặt để kết nối được với
các động cơ cơ cấu lái. Nếu vô lăng lái được quay sẽ làm quay cơ cấu lái.
-Tiếp theo, van xả dòng dầu hoạt động có áp suất cao để đẩy piston trong xilanh lái truyền
động đến chân vịt theo yêu cầu của người lái. Do đó, khi muốn đổi hướng di chuyển thì người lái
tàu chỉ cần tác đông lực nhỏ có thể làm tàu thuyền hoạt động theo ý muốn. Trong hệ thống lái tàu
biển hiện đại thì người lái tàu có thể lái theo 5 chế độ bao gồm lái tay đơn giản, lái tay tự động,
lái tay lắp lại, lái tay vượt cấp và chế độ lái sự cố.
Đối với các khẩu lệnh bẻ lái như 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7 sau khi nhận lệnh phải thực hiện như sau:
- Nhắc lại mệnh lệnh.
- Quan sát đồng hồ chỉ báo góc bẻ lái phía trên tay lái và bẻ lái tới giá trị góc bẻ như mệnh
lệnh.
- Quan sát đồng hồ chỉ báo góc bẻ bánh lái, khi thấy kim chỉ thị chỉ đúng giá trị như trên
đồng hồ chỉ báo góc bẻ lái thì báo cáo.
Đối với các khẩu lệnh về hướng như 8, 9, 10 sau khi nhận lệnh phải thực hiện như sau:
- Nhắc lại mệnh lệnh.
- Bẻ lái và quan sát chỉ số trên mặt la bàn sao cho vạch dấu mũi tàu trùng với giá trị vạch
chia độ theo mệnh lệnh, giữ cho tàu ổn định trên hướng đó rồi mới báo cáo.
Như vậy, người lái cần phân biệt rõ ràng giữa các hình thức lái và giữa các lệnh lái. Với các lệnh
lái liên quan đến hướng, việc bẻ lái là không giới hạn, mục đích đạt được là đặt mũi tàu trên một
hướng nào đó đã định. Ngược lại, với các khẩu lệnh bẻ lái, người lái không được quan tâm tới
hướng la bàn mà phải quan tâm thực hiện chính xác lệnh lái, tuyệt đối không được can thiệp, tự ý
bẻ lái trái với lệnh đã nhận được.
2. PHƯƠNG PHÁP LÁI THEO LA BÀN:
Lái theo la bàn là hình thức điều khiển bánh lái giữ cho tàu chuyển động theo một hướng nhất
định. Để thực hiện tốt công tác lái theo la bàn, thuỷ thủ lái phải nắm vững một số yếu tố sau:
- Cấu tạo mặt la bàn, vạch chia độ, cách thức chia độ trên mặt số la bàn, vạch dấu mũi tàu,
các hướng cơ bản…
- Trên thực tế, mặt la bàn đứng yên, khi mũi tàu quay sang mạn nào thì vạch dấu mũi tàu
cũng quay sang mạn đó.
- Hướng bẻ lái, hướng quay của bánh lái và hướng quay của mũi tàu luôn giống nhau.
- Thời gian trễ (thời gian từ khi hoàn thành bẻ lái cho tới khi mũi tàu bắt đầu quay) và tốc
độ quay của mũi tàu phụ thuộc vào độ lớn của góc bẻ lái và tốc độ tàu. Khi góc bẻ lái và tốc độ
tàu càng lớn, tải trọng của tàu càng nhỏ thì thời gian trễ càng nhỏ và tốc độ quay của mũi tàu
càng lớn.
- Quán tính quay của tàu (thời gian từ khi hoàn thành trả lái về 0 ⁰ cho tới khi mũi tàu dừng
quay) phụ thuộc vào tốc độ quay ban đầu, tốc độ tàu và trọng tải của tàu. Khi tốc độ quay ban
đầu và tải trọng tàu càng lớn, tốc độ tàu càng nhỏ thì quán tính quay của mũi càng lớn.
Các yếu tố trên là cơ sở để cho thủy thủ lái bẻ lái điều khiển con tàu. Khi lái theo la bàn tức là
thủy thủ lái phải tự mình quyết định đưa ra phương thức bẻ lái thích hợp sao cho hướng mũi tàu
nằm trên hướng đã định hay nói cách khác là giữ cho dấu mũi tàu luôn nằm trên vạch chia độ đã
định. Như vậy, lái theo la bàn thì cơ sở chính để người thủy thủ lái chính là chỉ số la bàn, trong
suốt quá trình bẻ lái thủy thủ lái phải luôn quan sát và dựa vào chỉ số la bàn để bẻ lái.
Trong quá trình điều khiển do ảnh hưởng của ngoại cảnh (gió, nước, hiệu ứng chân vịt,…) rất
khó có thể giữ cho mũi tàu cố định trên một hướng cho trước mà luôn bị lệch ra ngoài. Nhiệm vụ
của thủy thủ lái là làm sao giữ cho mũi tàu gần với hướng đã cho nhất. Có nghĩa là mỗi khi mũi
tàu bị lệch ra khỏi hướng đã định về một mạn, thủy thủ lái phải bẻ lái theo hướng ngược lại để
mũi tàu trở về hướng cũ. Góc bẻ lái lớn hay nhỏ phụ thuộc vào góc lệch của mũi tàu và dựa vào
các yếu tố nói trên. Hành động này được gọi là hành động giữ hướng.
Trong khi lái theo la bàn, đè lái cũng thường được sử dụng:
- Khi chuyển hướng tàu tới một hướng mới hay khi bẻ lái giữ hướng khi tàu bị lệch. Trong
trường hợp này, khi tàu quay gần tới hướng đã định mà tốc độ quay còn lớn thì thủy thủ lái sẽ bẻ
lái ngược lại với hướng quay của mũi tàu để phá bỏ quán tính quay sao cho mũi tàu không quay
quá giá trị hướng đã định. Giá trị góc đè lái phụ thuộc vào tốc độ quay của tàu và dựa vào các
yếu tố nói trên.
- Trường hợp khi lái theo la bàn, do ảnh hưởng của ngoại cảnh mà mũi tàu có xu hướng
lệch khỏi hướng đã định, thủy thủ lái bẻ lái sáng phía mạn đối diện một góc nào đó sao cho lực
quay do bánh lái tạo ra tương đương với lực tác động do ảnh hưởng ngoại cảnh gây ra.
Như vậy, lái theo la bàn đòi hỏi thủy thủ lái phải có kinh nghiệm thông qua thực tế làm việc.
3. PHƯƠNG PHÁP LÁI THEO MỤC TIÊU CỐ ĐỊNH:
Đôi khi thuỷ thủ lái được yêu cầu lái theo một mục tiêu hay một chập tiêu nào đó có thể quan sát
bằng mắt thường.
Lái theo hải đăng
Khi được yêu cầu lái theo hải đăng, thuỷ thủ lái không cần quan tâm đến hướng la bàn mà chỉ cần
quan tâm đến hướng mũi tàu tới hải đăng. Có nghĩa là mũi tàu phải luôn luôn hướng vào hải
đăng đã định, còn trong quá trình tàu di chuyển hướng la bàn có thể thay đổi.
Theo lý thuyết, trong điều kiện lý tưởng, không có ảnh hưởng của gió, nước, hiệu ứng chân vịt,
… tàu sẽ dịch chuyển theo một đường thẳng từ vị trí bắt đầu thực hiện lái đến hải đăng đó.
Trong thực tế, tàu không chuyển động theo đường thẳng như vậy mà sẽ đi theo một đường cong
và như vậy hướng la bàn sẽ liên tục thay đổi. Ở hình thức này, thủy thủ lái phải thực hiện bẻ lái
để sao cho mũi tàu luôn hướng vào hải đăng.
Lái theo chập tiêu
Chập tiêu được tạo bởi hai mục tiêu tự nhiên hoặc nhân tạo. Mỗi chập tiêu đều có một hướng cụ
thể là hướng của đường thẳng nối 2 mục tiêu đó. Lái theo chập tiêu là giữ cho tàu chuyển động
theo hướng của đường thẳng nối 2 mục tiêu đó. Với lệnh này thuỷ thủ lái phải bẻ lái sao cho tàu
luôn luôn nhìn thấy hai mục tiêu của chập tiêu trùng nhau.
Trong điều kiện có ảnh hưởng ngoại cảnh, hướng mũi tàu có thể không trùng với hướng chập
tiêu, vì vậy, thủy thủ lái phải lưu ý bẻ lái với một mục đích duy nhất là giữ cho hai mục tiêu của
chập luôn trùng nhau mà không quan tâm tới hướng mũi tàu.
4. KIỂM SOÁT KHI TÀU Ở CHẾ ĐỘ LÁI TỰ ĐỘNG:
Lái tự động được sử dụng khi tàu hành trình trong khu vực có ít chướng ngại vật hàng hải.
Chế độ lái tự động
Đặc điểm của chế độ này là tốc độ bẻ bánh lái và góc bẻ bánh lái hoàn toàn phụ thuộc vào tốc độ
và góc lệch hướng.
- Sử dụng núm đặt hướng đi Course Seting Knob: ấn xuống, chuyển kim chỉ thị về hướng
đi cho trước.
- Sử dụng vô lăng lái tàu về gần với hướng lái tự động (thường sai số không quá 5 ⁰ và
chuyển công tắc chức năng Operation Selector Sw về vị trí Auto.
- Để đảm bảo máy lái hoạt động ở chế độ này được tốt ta cần điều chỉnh các núm sau:
• Weather: tuỳ thuộc vào điều kiện sóng gió, số vạch trên núm tỉ lệ thuận với điều kiện
sóng gió, điều chỉnh núm này sao cho tàu vẫn giữ hướng đi theo mong muốn mà số lần bẻ bánh
lái không lớn, không gây quá tải cho máy lái
• Rate adj: núm này được điều chỉnh phụ thuộc vào tốc độ đảo hướng mũi tàu, khi điều
chính núm này thì tốc độ góc lệch hướng mũi của tàu sẽ thay đổi.
• Rudder adj: điều chỉnh góc bẻ bánh lái, núm này phụ thuộc vào tải trọng của tàu. Khi
điều chỉnh núm này góc bẻ lái sẽ thay đổi và ta điều chỉnh sao cho góc bẻ bánh lái đủ đưa tàu về
hướng đi cũ không làm cho tàu lệch hướng đi quá lớn và quá giới hạn cho phép của máy lái trong
chế độ lái tự động.
• Pilot watch.
• Rudder angle.
7.3: PHƯƠNG PHÁP LÁI TÀU TRONG CÁC HOÀN CẢNH ĐẶC BIỆT
1. LÁI TRONG LUỒNG HẸP, NÔNG CẠN:
Lái trong luồng hẹp
Khi tàu biển đang hành trình trong luồng hẹp, để khắc phục những sự cố cũng như đảm bảo an
toàn tàu biển:
- Tàu thuyền đi trong luồng hẹp hay kênh đào, nếu điều kiện thực tế cho phép và đảm bảo
an toàn, phải bám sát mép bên phải của luồng hay kênh.
- Tàu thuyền có chiều dài nhỏ hơn 20 mét hoặc tàu thuyền buồm không được gây trở ngại
cho tàu thuyền chỉ có thể hành trình an toàn trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp.
- Tàu thuyền đang đánh cá không được gây trở ngại cho những tàu thuyền khác đang hành
trình trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp.
- Tàu thuyền không được cắt ngang qua luồng hẹp, nếu việc đó gây trở ngại cho tàu thuyền
chỉ có thể hành trình an toàn trong phạm vi giới hạn của luồng hẹp đó. Tàu thuyền bị cắt hướng
có thể sử dụng âm hiệu nếu nghi ngờ tàu thuyền kia có ý định chạy cắt ngang qua hướng tàu
mình.
- Tàu thuyền vượt trong luồng hay luồng hẹp: trong luồng hay luồng hẹp chỉ được phép
vượt khi tàu thuyền bị vượt đã điều động để cho phép vượt an toàn, tàu thuyền có ý định vượt
phải báo bằng âm hiệu thích hợp với ý định. Tàu thuyền bị vượt nếu đồng ý phải phát âm hiệu
thích hợp và phải điều động để cho tàu thuyền kia vượt qua an toàn.
- Tàu thuyền đi đến gần khúc ngoặt hoặc đi đến gần đoạn luồng hẹp tương tự mà tàu
thuyền khác có thể không nhìn thấy do chướng ngại vật che khuất, thì phải hành trình đặc biệt
thận trọng và tăng cường cảnh giới, đồng thời phải phát âm hiệu thích hợp.
Lái trong luồng nông cạn:
- Các yêu cầu cơ bản của kế hoạch hành trình và thực hiện một cách an toàn phải được tất
cả các sĩ quan hàng hải trên buồng lái hiểu rõ và thực hiện đầy đủ.
- Hoa tiêu phải giám sát bằng radar hoặc ECDIS và nhận thức tình huống khi tàu rời khỏi
luồng.
- Phải xem xét để giảm tốc độ và từ từ vượt qua tàu khác khi quyết định thay đổi hướng đi
để chạy qua một phao đánh dấu luồng.
- Giám sát vị trí của tàu bằng cách đồ giải để cảnh báo cho thuyền trưởng và hoa tiêu rằng
tàu đã đi xa hơn ra khỏi luồng theo nhận định của họ.
- Hoa tiêu phải được huấn luyện để biết các phao trong khu vực. Khi chạy vào một luồng
có phao dánh dấu bãi cạn phải có kế hoạch chu đáo và cẩn thận làm chủ việc điều động tàu.
2. LÁI TRONG ĐIỀU KIỆN THỜI TIẾT XẤU:
Thuyền trưởng và sĩ quan trực ca khi điều khiển tàu hành trình trong thời tiết xấu phải thường
xuyên tính toán đến tác động của thời tiết đối với con tàu và cần xem xét đến việc thay đổi
hướng đi cũng như việc giảm tốc độ để giảm ảnh hưởng của sóng biển đối với thân vỏ tàu. Điều
chỉnh tốc độ, khi sóng lớn với chân sóng dài và cao sẽ nhiều lúc lái tàu bị nâng lên, chân vịt có
thể bị nổi một phần lên khỏi mặt nước làm cho vòng tua chân vịt tăng lên đột ngột dẫn đến tình
trạng máy bị quá tải, do vậy cần giảm vòng tua chân vịt (giảm tốc độ) phù hợp .
Khi dự tính hoặc gặp phải thời tiết xấu thuyền trưởng phải cố gắng phòng tránh nó, để làm được
điều đó cần phải chú ý các vấn đề sau:
- Lựa chọn đường chạy tàu phù hợp và neo tránh: khi tàu hành trình gần bờ hay tại vùng
nước và thuận lợi cho việc neo trú thì việc lựa chọn một khu vứt neo trú phù hợp là điều cần phải
nghiên cứu đến.
- Điều chỉnh thời gian chạy tàu: khi tàu đang nằm ở cảng mà nhận được dự báo về tình
hình thời tiết xấu mà tàu sẽ gặp phải trên đường hành trình thì cần tính toán đến điều kiện an
toàn của tàu chẳng hạn như có thể xem xét điều chỉnh thời gian khởi hành tàu hoặc chạy tàu đến
vùng neo an toàn lân cận.
- Tăng cường cảnh giới: Khi sử dụng Radar trong thời tiết xấu, thì cần điều chỉnh Radar
thật phù hợp với điều kiện sóng biển và thời tiết hiện tại, bằng cách điều chỉnh nút khuếch đại
Gain, nút khử nhiễu biển Sea Clutter và nút khử nhiễu mưa Rain Clutter. Cần nhớ rằng các
thuyền nhỏ và các mục tiêu nhỏ khác trở nên rất khó phát hiện do việc khử nhiễu biển. Khi sử
dụng ARPAR cần lưu ý rằng các mục tiêu thường có thể bị mờ nhạt hoặc mất đi do sự dịch
chuyển của tàu và do việc khử nhiễu biển.
- Quan trắc và báo cáo: Sĩ quan và thuỷ thủ trực ca buồng lái phải quan trắc và ghi chép sự
thay đổi hàng giờ của khí áp, nhiệt độ, hướng và tốc độ gió, độ cao và hướng sóng. Khi nhận
thấy có sự thay đổi bất thường của các yếu tố thời tiết đó thì phải báo cáo ngay cho Thuyền
trưởng biết. Khi tàu gặp bão hoặc gió mạnh bất thường đạt đến cấp 10 hoặc trên cấp 10 bôpho,
thì Thuyền trưởng phải báo cáo những hiện tượng bất thường đó cho trạm khí tượng gần nhất, trừ
khi Thuyền trưởng đã nhận được các dự báo hoặc cảnh báo về các tình trạng thời tiết như vậy từ
một trạm bờ.
- Sóng biển và tác động của nó đối với thân tàu: Thuyền trưởng và sĩ quan trực ca khi điều
khiển tàu hành trình trong thời tiết xấu phải thường xuyên tính toán đến tác động của thời tiết đối
với con tàu và cần xem xét đến việc thay đổi hướng đi cũng như việc giảm tốc độ để giảm ảnh
hưởng của sóng biển đối với thân vỏ tàu. Điều chỉnh tốc độ. khi sóng lớn với chân sóng dài và
cao sẽ nhiều lúc lái tàu bị nâng lên, chân vịt có thể bị nổi một phần lên khỏi mặt nước làm cho
vòng tua chân vịt tăng lên đột ngột dẫn đến tình trạng máy bị quá tải, do vậy cần giảm vòng tua
chân vịt (giảm tốc độ) phù hợp .
- Lái tàu: Cần phải chuyển từ chế độ lái tự động sang chế độ lái tay để điều khiển tàu trong
thời tiết xấu. Việc giữ vững hướng đi trong thời tiết xấu là khá khó khăn, một góc bẻ lái lớn có
thể dẫn đến tình trạng nguy hiểm, do vậy khi cần thay đổi một hướng đi lớn nên thay đổi ít một
và từ từ với góc bé lại nhỏ, không nên bẻ lái góc lớn, đột ngột. Tuy nhiên cũng cần nhớ rằng tác
động của bánh lái trong điều kiện thời tiết xấu là kém hơn bình thường do vậy cũng có những lúc
cần phải sử dụng góc lái lớn để giữ hướng đi hoặc thay đổi hướng, nhưng phải hết sức thận
trọng.
CÂU HỎI THẢO LUẬN
Câu 1: Thủy thủ lái khi lái theo la bàn cần lưu ý những gì?
Khi lái theo la bàn tức là thủy thủ lái phải tự mình quyết định đưa ra phương thức bẻ lái thích
hợp sao cho hướng mũi tàu nằm trên hướng đã định hay nói cách khác là giữ cho dấu mũi tàu
luôn nằm trên vạch chia độ đã định. Như vậy, lái theo la bàn thì cơ sở chính để người thủy thủ lái
chính là chỉ số la bàn, trong suốt quá trình bẻ lái thủy thủ lái phải luôn quan sát và dựa vào chỉ số
la bàn để bẻ lái.
Trong quá trình điều khiển do ảnh hưởng của ngoại cảnh (gió, nước, hiệu ứng chân vịt,…) rất
khó có thể giữ cho mũi tàu cố định trên một hướng cho trước mà luôn bị lệch ra ngoài. Nhiệm vụ
của thủy thủ lái là làm sao giữ cho mũi tàu gần với hướng đã cho nhất. Có nghĩa là mỗi khi mũi
tàu bị lệch ra khỏi hướng đã định về một mạn, thủy thủ lái phải bẻ lái theo hướng ngược lại để
mũi tàu trở về hướng cũ. Góc bẻ lái lớn hay nhỏ phụ thuộc vào góc lệch của mũi tàu và dựa vào
các yếu tố nói trên.
Câu 2: Khi tàu hoạt động trong vùng có thời tiết xấu thì sẽ phải điều động chuyển hướng như thế
nào trong lúc sóng to, gió lớn?
Đang chạy ngược sóng chuyển về xuôi sóng: Chú ý quan sát mặt biển, chờ đợt phẳng lặng của
mặt biển sắp tới thì ta bắt đầu tiến hành chuyển hướng. Lúc đầu bẻ góc lái nhỏ để tàu từ từ quay,
khi mặt phẳng lặng tới tàu thì lúc này tàu đã ngang sóng, ngay lập tức ta tăng góc bẻ lái và cần
thiết có thể thông báo buồng máy tăng máy cưỡng bức, mục đích là tạo điều kiện cho con tàu
quay trở thật nhanh khỏi tình trạng ngang sóng.
Đang chạy xuôi sóng chuyển về ngược sóng: Trước hết ta cho tàu giảm tốc độ chờ thời cơ. Khi
ngọn sóng bắt đầu tới lái tàu thì ta bẻ lái, góc lái ban đầu nên để nhỏ. Tính toán để khi con tàu đã
nằm gần như ngang sóng thì toàn bộ con tàu rơi vào đợt phẳng lặng của mặt biển. Ngay lập tức
ta tăng góc bẻ lái và cần thiết có thể báo buồng máy tăng máy cưỡng bức, mục đích là tạo điều
kiện cho con tàu quay trở thật nhanh khỏi tình trạng ngang sóng.
Câu 3: Nêu phương pháp lái theo hải đăng?
Khi được yêu cầu lái theo hải đăng, thuỷ thủ lái không cần quan tâm đến hướng la bàn mà chỉ cần
quan tâm đến hướng mũi tàu tới hải đăng. Có nghĩa là mũi tàu phải luôn luôn hướng vào hải
đăng đã định, còn trong quá trình tàu di chuyển hướng la bàn có thể thay đổi.
Theo lý thuyết, trong điều kiện lý tưởng, không có ảnh hưởng của gió, nước, hiệu ứng chân vịt,
… tàu sẽ dịch chuyển theo một đường thẳng từ vị trí bắt đầu thực hiện lái đến hải đăng đó.
Trong thực tế, tàu không chuyển động theo đường thẳng như vậy mà sẽ đi theo một đường cong
và như vậy hướng la bàn sẽ liên tục thay đổi. Ở hình thức này, thủy thủ lái phải thực hiện bẻ lái
để sao cho mũi tàu luôn hướng vào hải đăng.
Câu 4: Nêu phương pháp lái theo chập tiêu?
Chập tiêu được tạo bởi hai mục tiêu tự nhiên hoặc nhân tạo. Mỗi chập tiêu đều có một hướng cụ
thể là hướng của đường thẳng nối 2 mục tiêu đó. Lái theo chập tiêu là giữ cho tàu chuyển động
theo hướng của đường thẳng nối 2 mục tiêu đó. Với lệnh này thuỷ thủ lái phải bẻ lái sao cho tàu
luôn luôn nhìn thấy hai mục tiêu của chập tiêu trùng nhau.
Trong điều kiện có ảnh hưởng ngoại cảnh, hướng mũi tàu có thể không trùng với hướng chập
tiêu, vì vậy, thủy thủ lái phải lưu ý bẻ lái với một mục địch duy nhất là giữ cho hai mục tiêu của
chập luôn trùng nhau mà không quan tâm tới hướng mũi tàu.